MS: LVVH-VHVN066
SỐ TRANG: 122
NGÀNH: VĂN HỌC
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM
NĂM: 2010
CẤU TRÚC LUẬN VĂN
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
2.Lịch sử vấn đề
3.Mục tiêu nghiên cứu
4.Đối tượng nghiên cứu
5.Phương pháp nghiên cứu:
6.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
7.Giới thiệu sơ lược cấu trúc của luận văn
Chương 1: Vương Trí Nhàn, quá trình hoạt động và quan niệm văn học
1.1.Vương Trí Nhàn, quá trình hoạt động văn học
1.1.1.Đôi nét về tiểu sử
1.1.2.Hơn 40 năm làm phê bình văn học
1.1.3.Qua tiếp nhận của đồng nghiệp
1.2.Quan niệm về văn học và phê bình văn học
1.2.1.Quan niệm về văn học
1.2.2.Quan niệm về phê bình văn học
Chương 2: Vương Trí Nhàn với văn chương Việt Nam và thế giới
2.1.Tìm lại những mùa quá khứ
2.1.1.Những giá trị cổ điển
2.1.2. Những giá trị của buổi giao thời
2.2.Đứng giữa dòng
2.2.1.Dòng thơ ca
2.2.2.Dòng văn xuôi
2.3.Nhìn ra thế giới
2.3.1.Phê bình văn học Nga- Xô viết
2.3.2. Phê bình văn học phương Tây
Chương 3: Vương Trí Nhàn, phương pháp và phong cách phê bình văn học
3.1.Một sự dung hợp nhiều phương pháp
3.1.1.Phác họa những chân dung văn học
3.1.2.Bình và giảng
3.1.3.Cái nhìn đa chiều
3.2.Phong cách phê bình nghệ thuật hay phong cách phê bình báo chí
3.2.1.Những trang văn giàu tính nghệ thuật
3.2.2.Những trang viết giàu chất thông tin
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
PHỎNG VẤN VƯƠNG TRÍ NHÀN CON ĐƯỜNG NGHỀ NGHIỆP
122 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1853 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Khảo sát sự nghiệp phê bình văn học của Vương Trí Nhàn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
IX- Tonxtoi, Tsekhop, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
91. Đái Xuân Ninh, Nguyễn Trác (1989), Về Tự lực văn đoàn, Nxb TP.HCM.
92. Ngô Thế Oanh (1994), “Sự tận tâm nghề nghiệp”,
93. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại, tập (1), Nxb Khoa học xã hội, TP.HCM.
94. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại, tập (2), Nxb Khoa học xã hội, TP.HCM.
95. Vũ Ngọc Phan (1969), "Mấy ý kiến về phê bình văn học", Tạp chí Văn học, (3), tr.39-42.
96. Lâm Quế Phong (1999), Tủ sách văn học trong nhà trường- Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Hồ
Dzếnh, Vũ Bằng, Nxb Văn nghệ, TP.HCM.
97. Phan Diễm Phương, Hà Công Tài (2002), Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
98. Vũ Dương Quỹ (2002), Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường-Chu Mạnh Trinh, Trần Tế
Xương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
99. Vũ Tiến Quỳnh (1999), Phê bình bình luận văn học- Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo,
Thạch Lam, Nxb Văn nghệ, TP.HCM.
100. Xuân Sách (1999), “Đọc Cánh bướm và đóa hướng dương”,
101. Chu Văn Sơn (1995), "Phác họa Vương Trí Nhàn từ "Những kiếp hoa dại",
Tạp chí Văn học, (7), tr.49-52.
102. Nguyễn Hữu Sơn (2000), Điểm tựa phê bình văn học, Nxb Lao động, Hà Nội.
103. Nguyễn Hữu Sơn (2000), “Buồn vui của người trong cuộc”,
104. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
105. Trần Hữu Tá (2002), Văn học trong nhà trường- Vũ Trọng Phụng nhà văn
hiện thực xuất sắc, Nxb Trẻ, TP.HCM.
106. Vũ Mạnh Tần (1993), “Có một cách nhìn trong giọng bình văn”,
107. Nguyễn Minh Tấn (1981), Từ trong di sản, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
108. Nguyễn Văn Thành (1993), “Từ người đến văn”,
109. Nguyễn Văn Thành (1999), “Cánh bướm và đóa hướng dương”,
110. Nguyễn Ngọc Thiện (1999), "Phác họa vài nét về phê bình, lý luận và
nghiên cứu văn học năm 1998, Tạp chí Văn học, (1), tr.55-58.
111. Lưu Khánh Thơ (1999), “Cánh bướm và đóa hướng dương”,
112. Lưu Khánh Thơ (2001), Lưu Quang Vũ, tài năng và lao động nghệ thuật,
Nxb văn hóa thông tin, Hà Nội.
113. Lưu Khánh Thơ (2000), "Xuân Diệu và phê bình văn chương", Tạp chí Văn
học, (1), tr.57-63.
114. Lưu Khánh Thơ (2000), Xuân Diệu về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
115. Lý Hoài Thu (2005), Đồng cảm và sáng tạo, Nxb Văn học, Hà Nội.
116. Phan Ngọc Thu (2002), Đóng góp của nhà thơ Xuân Diệu trong lĩnh vực phê bình nghiên cứu
văn học,Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm, Hà Nội.
117. Đỗ Lai Thúy (2000), "Phê bình văn học: Chòng chành mà tiến tới", Tạp chí Văn học, (6),
tr.52-58.
118. Trần Mạnh Tiến (1996), Lý luận phê bình văn học Việt Nam 30 năm đầu thế kỉ XX, Luận
án phó tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm, Hà Nội.
119. Đinh Quang Tốn (1997), Tản mạn và chính kiến văn chương, Nxb Văn học, Hà Nội.
120. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương, thẩm mỹ và văn hóa, Nxb Giáo dục, TP.HCM.
121. Hoàng Trinh (1972), "Bước đầu phương pháp chủ nghĩa cấu trúc trong phê bình văn học",
Tạp chí Văn học, (3), tr.105-129.
122. Đinh Gia Trinh (1996), Hoài vọng của lý trí (Phê bình văn học và tùy bút), Nxb Văn học,
Hà Nội.
123. Nguyên Trường, “Vương Trí Nhàn và những nỗ lực bền bĩ”,
124. Lê Dục Tú (2001), "Hành trình của nghiên cứu- phê bình văn học Việt Nam thế kỉ XX, Tạp
chí Văn học, (7), tr.66-74.
125. Nguyễn Thị Thanh Xuân (1999), "Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam", Tạp chí Văn học,
(7), tr.49-54.
126. Nguyễn Thị Thanh Xuân (1994), Phê bình văn học Việt Nam giai đoạn 1930- 1945, Luận
án tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Tổng hợp, TP.HCM.
127. Xtâylin (1967) , Lao động nhà văn, tập (1), NXB Văn học, Hà Nội.
PHỤ LỤC
PHỎNG VẤN VƯƠNG TRÍ NHÀN
CON ĐƯỜNG NGHỀ NGHIỆP
Trả lời câu hỏi của Lê Thị Thúy Hằng
1/ Vì sao ông quan tâm đến văn chương?
Vì sao tôi đến với văn chương? Thỉnh thoảng chính tôi cũng thử đặt ra cho mình câu hỏi này. Và
câu trả lời được tôi tìm thấy trong cuộc đời lúc thơ ấu khá buồn bã của mình.
Mẹ tôi mất sớm, năm tôi mới bốn tuổi.
Cả thời thơ ấu tôi lớn lên trong đơn độc, bố tôi và mẹ kế chỉ lo kiếm ăn, người chị hơn tôi sáu
tuổi cũng phải sớm chạy chợ để lo thêm sinh kế cho gia đình.
Những cuốn sách phổ thông lúc đó mực đen, giấy xấu. Song tôi vẫn chỉ có chúng làm bè bạn.
Sách an ủi tôi. Tôi cảm thấy qua văn chương hiểu thêm cuộc đời chung quanh. Tôi tin mọi chuyện
được kể lại trong sách là thực và hay lấy tình tiết trong truyện để vận vào mình.
Nhiều lần tôi khóc sau khi đọc truyện Phạm Công Cúc Hoa và Tống Trân Cúc Hoa. Ở một
trong hai truyện này (lâu ngày đọc cũng không nhớ chính xác) có đoạn kể, người mẹ mất sớm, bố
lấy dì ghẻ, hai anh em đi tìm mẹ. Người mẹ cảm lòng con, đêm đêm hiện về trò chuyện với các con.
Gần sáng mẹ phải trở về cõi âm. Mẹ mới bảo các con quay lưng lại đây mẹ bắt chấy cho. Các con
quay lưng lại, thì nhân đó mẹ biến mất.
Sau này đọc Tắt đèn, đến đoạn chị Dậu phải bán cái Tý thường tôi cũng khóc hết nước mắt.
Qua văn chương tôi cảm thấy nó -- sự đơn độc-- có mặt ở nhiều cuộc đời khác. Nhờ vậy tôi
như giải tỏa được ít nhiều nỗi đau trong khi vẫn là mình, yên tâm với nỗi cô độc không sao dứt bỏ
nổi trong mình.
Đọc thêm sách vở, tôi hiểu chỉ với nó, con người ta mới cảm thấy cuộc sống một cách đầy đủ
nhất.
Vào những ngày đầu năm Canh Dần 2010, khi được hỏi về Lễ hội thơ, tôi có trả lời tuần báo
Pháp luật TP HCM rằng tôi không tin lắm thứ thơ mang ra đọc trước công chúng, tôi chỉ phân biệt
được thơ hay hay dở khi một mình một bóng, tiếp xúc với văn bản. Không phải là tôi cố ý muốn
làm ra vẻ độc đáo, mà sự thực kinh nghiệm của tôi với văn chương là vậy.
Nhiều lần tôi được các đồng nghiệp và cả các bạn bè làm nghề khác khuyên răn là đừng có đọc
sách nhiều, phải đi vào thực tế, chứ sách vở không cho người ta biết cuộc đời là thế nào đâu. Tôi
cảm ơn những lời khuyên đó, nhưng trong bụng nghĩ ngược lại và kiên trì theo con đường ngược
lại. Là tin ở sách, dùng sách vở để kéo dài kinh nghiệm trong thực tế.
Sau hơn bốn chục năm sống với văn chương nay nghĩ lại tôi thấy những trang sách tôi đọc
không phải chỉ là cần thiết cho sự hành nghề của tôi, mà còn giúp cho tôi sống nữa.
Khi viết các bài phiếm luận về các vấn đề văn hóa xã hội, tôi đã vận dụng nhiều hiểu biết mà
tôi tiếp nhận được từ các sáng tác văn thơ đã đọc khi viết phê bình.
Càng già tôi càng tin rằng việc tôi quan tâm đến văn chương là một quyết định đúng lúc trẻ.
Tôi rất muốn một dịp nào đó sẽ viết một thứ hồi ký theo chủ đề “văn chương trong đời tôi.”
Có lần tôi đã liều mạng … định nghĩa văn học. Đây là một câu in nghiêng trích từ một bài viết
về Vũ Trọng Phụng” Văn học là tiếng kêu khắc khoải của con người, trước một thực tế đời sống
không bao giờ họ cảm thấy bằng lòng và sự thật là không bao giờ hiểu hết” ( xem Nhà văn tiền
chiến và quá trình hiện đại hóa trong văn học Việt Nam – H. Nxb Đại học quốc gia Hà Nội 2006, tr
174). Mặc dầu hình như chả ai để ý tới ý tưởng này bao giờ , nhưng tôi vẫn tha thiết với nó. Bởi nó
làm chứng cái lý do tôi đến với văn chương mà tôi vừa nói với bạn ở trên.
2/Vì sao ông chọn con đường phê bình văn học? và
3/Có khi nào ông thử sáng tác không?
Hồi học cấp III Chu Văn An (1958-61), tôi đã thử viết ca dao cho Sở Văn hóa HN trên những tờ
bướm gọi là Tiếng hát quê ta, Tiếng máy. Và ca dao của tôi thường được đăng bên cạnh ca dao của
các anh Văn Tuế, Bùi Kim,Võ Văn Trực, Ngô Văn Phú, Trần Nhật Lam … Ngoài ra tôi đã thử làm
thơ, thử viết ký và cái mà bọn tôi “tưởng là truyện ngắn”. Đến các thể này thì tôi thất bại.
Do thử làm thơ, tôi làm quen với một số bạn bè, và trước tiên đọc họ. Bài phê bình đầu tiên tôi
viết là bài về tập thơ Sức mới. Đó là một tập thơ của các bạn lúc đó còn trẻ như tôi. Tôi đã đọc
không chỉ các bài các anh in trong Sức mới mà còn đọc nhiều bài khác các anh đã cho in trên báo.
Đọc để học cách làm thơ. Bây giờ tôi chỉ cần nối các ý tưởng ấy lại là hình thành nên bài phê bình
nói trên.
Từ một đơn vị quân đội trên Bắc Giang, tôi gửi bài về Văn Nghệ. Bài được in gần một trang
trên một số báo ra trong tháng 3-1965.
Mối quan hệ của tôi với giới cầm bút bắt đầu từ đấy. Một đặc điểm trong cách làm nghề mấy
năm đầu của tôi là lo đánh bạn với cánh sáng tác trẻ nhiều hơn, trò chuyện về nghề với các bậc đàn
anh như Nguyễn Khải Nguyễn Minh Châu nhiều hơn, trong khi chỉ quan hệ với các cây bút phê
bình ở các báo …như các đồng nghiệp.
Tôi vẫn chưa quên sáng tác ngay cả khi về Văn Nghệ Quân Đội, dù là chỉ ở dạng đơn sơ là viết
ký. Có bài tạm được, nhưng đại đa số … không ra gì. Một người bạn tôi làm giáo viên nhận xét
chính ông Nhàn viết phê bình rất tự do, mà viết ký lại gò bó. Tôi thấy đúng và nghĩ tội gì không
chọn chỗ mình cảm thấy tự do mà làm. Thế là viết phê bình đều đều.
Như vậy không có gì sai nếu nói lúc đầu tôi viết phê bình vì sáng tác không nên thân. Đó là một
điều nhiều bạn bè tôi hồi ấy đều biết cả, tôi có giấu cũng không được.
Tôi chỉ không đồng tình với suy diễn của một số người, họ cho rằng đã không sáng tác được thì
là phê bình cũng vứt đi.
Bên Pháp có trường hợp nhà nghiên cứu gốc Bungary là J.Kritseva, mọi cuốn lịch sử phê bình
thế kỷ XX phải nhắc đến tên bà. Có lần tôi đọc tiểu sử thấy người ta nói bà còn là tác giả một cuốn
tiểu thuyết mà bà viết lúc đã thành danh và hình như … chẳng ai nhắc nhở bao giờ. Chắc bà viết để
hiểu thêm về sự sáng tác tôi nghĩ, và thấy phục một người dám sống như vậy.
Cho đến nay mối quan hệ phê bình sáng tác vẫn rất lủng củng. Cách nghĩ coi trọng sáng tác hơn
phê bình đã thành nếp cố hữu ở một số đầu óc. Và nhiều người công khai nhắc lại cái câu khái quát
hàm hồ “Một nhà văn học ba ngày thành nhà phê bình chứ nhà phê bình học ba năm không thành
nhà sáng tác được”. Hoặc độc địa hơn, người ta dẫn lại một câu từ miệng một nhà văn nước ngoài :
-- Khi không viết được văn chương thì người ta đi viết phê bình. Cũng như khi không làm chiến sĩ
thì người ta làm mật thám.
Tôi, lúc ấy còn trẻ, nghe mà chết điếng trong lòng. Nhưng chỉ buồn một dạo rồi thôi. Lúc tỉnh táo,
tôi tự nhủ: Đó là họ quá ghét phê bình nên nói cho sướng miệng. Maiakovski có viết một câu thơ đại
ý, nếu một vì sao đang phát sáng vì nó đang cần cho ai đó. Mặc bao lời bỉ bác, phê bình vẫn tồn tại.
Người ta coi thường những người phê bình viết dở như coi thường mọi người cầm bút kém cỏi nói
chung. Và việc đó không khiến người ta từ bỏ việc khao khát tìm đọc những nhà phê bình có tài,
những nhà phê bình chân chính.
Liên hệ bản thân, tôi nghĩ:
--Nếu không viết phê bình, mình sẽ không hiểu được nghề văn cặn kẽ như hiện nay. Loanh quanh
với những quan niệm cũ, thì có sáng tác được mình cũng không ra cái gì.
--Với việc viết phê bình, minh nói được nhiều điều mình muốn nói, chẳng những thế, có những
lúc trở nên có ích cho một số bạn đọc—thế là được rồi.
Chung quanh mối quan hệ giữa phê bình với sáng tác cho phép tôi nói thêm một điểm nữa:
Khi muốn nhấn mạnh rằng mình là “ nhà phê bình đích thực”, “nhà phê bình rất có tài” … có
những đồng nghiệp của tôi – kể cả khi đã cao tuổi đã thành danh trong nghề -- hay hí hửng khoe:
mình được các nhà văn nhà thơ vì nể, họ coi trọng mình, cho là mình mới hiểu giới sáng tác.
Tôi thấy khoe thế hơi… ấu trĩ. Gần năm chục năm sống trong nghề, tôi nhận ra rằng đa số các
nhà văn cũng có cái tâm lý như người thường, ai khen mình thì quý thì cho là có tài, ai chê thì ghét
bỏ. Nghề viết văn ở VN còn ở tình trạng nghiệp dư, mối quan hệ giữa những người làm nghề nhiều
khi mang tính cách cánh hẩu và vụ lợi.
Trong hoàn cảnh ấy, sự phổ biến của cái tâm lý nói trên không có gì lạ.
Đúng là được các nhà văn mà mình kính trọng khen, ai không thấy sướng.
Song nên nhớ sự tỉnh táo cần cho nghề viết văn nói chung, càng cần cho nghề phê bình nói
riêng. Khi được người sáng tác khen, anh cần tự xét lời khen chê kia là thực bụng, hơn nữa là chính
xác, hay chỉ là lối nói lấy lòng nhau. Khi bị chê, cũng cần yên tâm tiếp nhận và tiếp tục suy nghĩ về
nghề. Ta viết vì nền văn học, vì bạn đọc nói chung chứ không phải vì riêng một ai. Ta là thế nào, ở
trình độ nào, thiên hạ trước sau sẽ biết đánh giá đúng. Ý kiến của mấy nhà sáng tác chỉ là những
gợi ý ban đầu, chứ đâu phải tiếng nói cuối cùng.
Một thời gian dài tôi cũng có lối sùng bái vô điều kiện sáng tác và tự miệt thị phê bình. Song
càng sống tôi càng thấy không nên nghĩ như vậy. Những tự tin những năm trưởng thành giúp tôi
tìm thấy và khai thác tốt hơn phần sức lực mà tôi vốn có.
4/ Được biết ông sống ăn lương từ nghề biên tập ở nhà xuất bản. Ông có hài lòng với công
việc này? Những thuận lợi và khó khăn trong quan hệ giữa công việc biên tập và công việc phê
bình, từ kinh nghiệm của ông?
Dân viết phê bình thường là thầy giáo ở các trường đại học, hoặc các nhà báo. Số người ăn
lương ở nghề xuất bản mà làm phê bình như tôi hơi ít. Nhưng tôi cho là tôi đã chọn đúng nghề.
Tôi hiểu bạn muốn hỏi công việc biên tập giúp gì cho hoạt động của nhà phê bình? Giúp nhiều
chứ. Tôi đọc kỹ tác phẩm hơn. Tôi vào trong bếp núc của sự sáng tác. Tôi có dịp trò chuyện với tác
giả. Nói chung là tôi hiểu thêm văn học.
Có nhiều kỷ niệm trong cuộc đời làm biên tập, đây tôi chỉ kể hai trường hợp. Một có liên quan
đến cuốn Chuyện nghề của Nguyễn Tuân. Năm ấy, khoảng 1984, cụ Nguyễn vay tiền của Nhà xuất
bản Tác phẩm mới của tôi quá nhiều. Ông Mãi, phó giám đốc nhà xuất bản hỏi tôi có cách nào in
cho Nguyễn một quyển sách để trừ nợ không. Tôi bảo thế thì làm lấy một tập bài Nguyễn Tuân viết
về nghề văn. Tự tôi đi tìm tài liệu. Khi nhờ sự giúp đỡ cô Hà thư viện Hội, đã có một bản thảo tàm
tạm, tôi mới mang trình Nguyễn Tuân, xem sắp xếp các bài ra sao, đặt tên sách ra sao. Chuyện nghề
của Nguyễn Tuân ra đời là thế.
Trường hợp thứ hai, khoảng sau 1990, sau khi đọc một bài báo của Bùi Ngọc Tấn viết về
Nguyên Hồng, tôi đã đề nghị ông viết hẳn một cuốn sách về tác giả Bỉ vỏ. Kết quả là ông viết được
cuốn Một thời để mất. Bạn đọc có thể đọc thêm quá trình trao đổi công việc giữa tôi và anh Tấn qua
những lá thư mà tác giả đã công bố như một phụ lục Một thời để mất, in trong cuốn Bùi Ngọc Tấn
Viết về bè bạn( nxb Hải Phòng, 2003).
Qua hai trường hợp ấy và một vài trường hợp tương tự, tôi thấy giữa việc làm nghề phê bình mà
tôi đã chọn, với nghề nghề làm công ăn lương là nghề biên tập, có sự hỗ trợ bổ sung cho nhau.
Gần đây do quan niệm phê bình gần với tiếp thị nên mới có hiện tượng một người biên tập xong
một tập sách lại đứng ra viết giới thiệu tập sách đó trên sách báo. Thời tôi vào nghề, người biên tập
phải nhường việc đó cho người khác, để tôn trọng công luận. Tích lũy được gì qua việc biên tập anh
sẽ viết sau.
Tôi coi tiếp thị không phải là phê bình văn học.
Càng làm biên tập tôi càng thấy người biên tập đóng vai trò không thể thiếu trong sự ra đời
của tác phẩm. Người bạn đường. Người tư vấn. Đôi khi đó gần như là người truyền ban cho người
khác sút. Theo chỗ tôi biết ở bên Tầu cũng vậy bên Tây cũng vậy. Chỉ trừ ở ta. Ở ta, các nhà văn chỉ
coi người biên tập là một loại nhân viên soát vé. Lao động nghề văn chỉ được hiểu là lao động đơn
độc của chính người viết. Không có sự cộng tác. Điều đó làm cho nhiều tác phẩm đáng lẽ có thể
hoàn thiện hơn thì dừng lại như chúng ta đã thấy. Nhưng chả ai thấy buồn vì chuyện này cả. Chỉ có
bạn đọc là thiệt.
5/ Không khí xã hội có ảnh hưởng nhiều đến tâm thế viết của ông? Rồi cả không khí trong giới
cầm bút ?
Có chứ, những diễn biến trong hoàn cảnh ảnh hưởng đến tôi, cũng tương tự như thiên nhiên,
khí hậu cuộc sống gia đình, thông tin tiếp nhận được… cũng đã ảnh hưởng đến tôi.
Bệnh của nhiều người viết ở VN là đua nhau chạy theo những nóng lạnh có tính thời sự. Tôi
cũng có lúc đã mắc căn bệnh đó, đại khái là không có gì theo đuổi lâu dài chỉ hong hóng để ý xem
dư luận đang bàn về cái gì thì cũng ghé gẩm nói vào. Nhưng tôi chóng chán. Tự thấy so với nhiều
người trong giới, tôi không cuồng nhiệt bằng.
Vả chăng mỗi tuổi mỗi khác. Thuở mới ba mươi bốn mươi còn thích đi nghe ngóng mọi người
làm ăn viết lách ra sao. Từ 2007, sau khi về hưu ở tuổi 65, tôi cố để hạn chế những ảnh hưởng từ
không khí chung mà lo quay về sống với bản thân mình là chính. Không khí xã hội lúc này được
hiểu là những vấn đề lớn của cả giai đoạn lịch sử lâu dài, chứ không phải những chuyện thời sự “
nhạy cảm” theo cách người ta hay nói.
Một người phê bình tôi quen thấy có tác phẩm nào có vẻ nổi, là lo “ xí chỗ’ ở một tờ báo nào đó
xin viết, để chứng tỏ là mình nhanh ta nhanh mắt và sớm có mặt. Một thời tôi cũng bị cuốn theo lối
làm việc ấy. Sau tôi nghĩ lại, cứ để cho mọi người nói trước đã. Vấn đề là mình có được những ý
tưởng mà người khác không có . Một nhà phê bình chân chính phải biết đọc trong cái thời sự
những gì thuộc về vĩnh viễn, khi đó thời sự qua đi người ta vẫn tìm tới văn mình. Đó chính là nội
dung của hai chữ “ một nhà phê bình sâu sắc “ mà tôi đặt ra như một mơ ước, dù không bao giờ đạt
tới.
Trong lý luận về tiểu thuyết của M.Bakhtin có một khái niệm là thời gian lớn, một điều mà
Bakhtin đòi hỏi là nhà văn phải có đối thoại với cái thời gian lớn này, có thế mới thu hút được sự
quan tâm của lịch sử văn học. Theo tôi, đó cũng là đòi hỏi với các nhà phê bình.
6/ Nhà phê bình nào gợi cho ông nhiều cảm hứng nhất?
Như tôi đã viết ở đâu đó, khoảng mấy năm 1965-70, tôi chỉ ước mình viết được như Lê Đình
Kỵ ( Vũ Ngọc Phan và Hoài Thanh thì cao xa quá, không dám mơ). Rồi sau tôi học mỗi người một
tí và không nghĩ rằng mình viết giống ai cả, nên cũng chẳng bị chi phối bởi cảm hứng về ai cả.
Đấy là xét trên phạm vi hẹp. Còn nhìn rộng ra suốt cả những gì tôi đọc từ văn học nước
ngoài, và xét phê bình theo nghĩa một cách giải thích về văn học, thì người tôi cho đáng mặt một
nhà phê bình nhất chính là người tôi vừa kể: M.M. Bakhtin. Trong cuốn Những vấn đề thi pháp
Dostoievski ( mà bản tiếng Việt tôi có tham gia dịch một chương) cùng một lúc ông làm được hai
việc 1/ gọi rõ thế giới của ông Đốt, cho ta thấy bộ mặt riêng của cuộc đời mà Đốt miêu tả 2/ trình
bày được quan niệm của mình ( Bakhtin) về thế giới. Ông Đốt của Bakhtin không thể gọi là chân
dung duy nhất của Đốt, nhưng rõ ràng là rất gần với Đốt thật, và đó là một trong vài ba bức chân
dung sắc nét, đúng hơn là một trong những cách giải thích có lý nhất về Đốt. Nhưng đọc vào cuốn
sách trên, người ta đồng thời lại bị thu hút vào suy nghĩ của Bakhtin và đọc xong người ta cũng bị
ám ảnh bởi ông, như đã bị ám ảnh bởi Đốt. Đây là ví dụ rõ rệt nhất của câu châm ngôn “ Hiểu biết
tức là sánh ngang” – dịch nôm na là lời tự khẳng định lý do tồn tại của nhà phê bình bên cạnh nhà
sáng tác: với sự hiểu biết thấu đáo về anh, tôi có quyền nói rằng đã sánh ngang với anh.
7/ Liệu có thể nói rằng ông có một quan niệm riêng về nghề phê bình? Đâu là chỗ khác của
ông với mọi đồng nghiệp khác ? Ông đã đi tới quan niệm này như thế nào? Và đâu là bí quyết
thành công của ông trong nghề?
Mấy nhà phê bình hàn lâm bảo đại ý là tôi viết như dân sáng tác thường viết. Tôi cũng thấy
vậy, nhưng không cho là lạc sân như họ chê. Tôi không tách lao động của mình khỏi lao động văn
học nói chung. Tức không nghĩ sáng tác chỉ thu gọn lại thơ truyện. Phê bình cũng là một thứ sáng
tác chứ. Phê bình của tôi có tư tưởng và ngôn ngữ riêng của tôi. Đó chẳng phải là phẩm chất thiết
yếu của sáng tác hay sao?
Không chỉ có sở thích khác, mà có vẻ như quan niệm về phê bình của tôi cũng ít nhiều có
những phần khác so với các đồng nghiệp.
Một khía cạnh thấy rõ nhất của quan niệm đã chi phối tôi có thể tóm tắt như sau: dù viết theo
kiểu dân sáng tác vẫn viết hay theo kiểu hàn lâm, giá trị một bài phê bình không chỉ ở chỗ nó nói
đúng về một tập thơ hay cuốn truyện hoặc gọi ra phong cách một tác giả nào đó. Mà nó phải gợi ra
những suy nghĩ về toàn bộ nền văn học. Hơn nữa, phê bình cũng là một cách nói về đời sống.
Phê bình không phải là một thứ bậc thang để người ta đi tới những giá trị văn học khác , do đó
là một thứ dây leo sống nhờ . Mà tự nó bài phê bình viết hay đã là một giá trị.
Tôi không dám nói là tôi đã đạt được cái chuẩn này. Nhưng tôi hướng tới nó.
Nếu đôi khi người ta có nói tới sự thành công, tôi hiểu đó là vì tôi cũng có được một số người
đọc; có những bài viết của tôi viết từ năm mười năm trước, đọc lại người ta vẫn thấy nó có liên quan
tới ngày hôm nay.
Sau khi đọc bài viết của tôi về Xuân Diệu ( in trong Cây bút đời người ), một độc giả cao tuổi
nói với tôi” Khối quan chức cỡ kha khá sống như kiểu Xuân Diệu mà cậu mô tả”. Những lời khen
loại này làm tôi sung sướng vô kể.
Bí quyết của tôi ư? Tôi cho rằng đó là nhờ tôi biết đặt văn học ta nói chung phê bình ta nói
riêng trong cái mạch của văn chương nói chung theo cả hai trục là trục dọc lịch sử và trục ngang
thờì đại.
Văn học ta cũng đã và đang phát triển theo những quy luật chi phối sự phát triển các nền văn
học khác. Hiện nay ở ta phê bình chỉ là một thứ phụ tùng tô điểm cho sáng tác, nhưng ở các nền văn
học hiện đại, phê bình là một thứ tự ý thức của văn học. Vậy ta phải học cách viết của họ -- xin tạm
tóm tắt nhận thức chi phối tôi là vậy.
Lúc bắt đầu về làm báo và coi hoạt động là nghề chính của mình, cũng là lúc tôi để hết sức lực
học ngoại ngữ ( dù chỉ để đọc sách ). Ngay khi chưa nắm chắc tiếng Nga tôi đã tìm đọc không chỉ
tiểu thuyết, thơ mà cả báo chí xô viết và các bài phê bình in trên các tờ Văn học, Thế giới mới,
Những vấn đề văn học …
Tôi coi việc tìm hiểu văn học nước ngoài là yếu tố sống còn có tác động sâu sắc tới việc nghiên
cứu văn học VN của mình.
Kết quả cụ thể là tôi thường loay hoay tìm cách viết một thứ phê bình không phải như ở chung
quanh tôi, các đồng nghiệp đang viết. Mà có hơi hướng thứ phê bình tôi đọc được ở nước Nga xô
viết hồi ấy. Trong chừng mực nào đó, còn có thể nói ở đây bóng dáng của thứ phê bình ở các nước
phương Tây mà các nhà phê bình nghiên cứu Nga giới thiệu cho độc giả nước họ.
Xin nhắc lại là không phải cái gì tôi muốn là đã tự khắc làm được; trên con đường mà tôi xác
định phải đi, tôi chỉ bước được một khoảng ngắn; nhưng tôi có thể yên tâm mà nói là đã đi tìm và có
vẻ như đã bước được vào con đường đúng.
Vậy thì bài học tôi rút ra cho mình là người làm phê bình nói riêng người làm văn học nói chung
không dễ dãi trông chung quanh, không lấy việc bắt chước những bậc đàn anh làm mục đích. Mà
phải nhìn rộng ra các nền văn học khác. Trong điều kiện thời tôi trẻ, khi xã hội VN tách mình ra
khỏi thế giới, tôi vẫn tìm cách để hội nhập với thế giới. Nay thuận lợi hơn, các bạn trẻ nên khai thác
ưu thế này triệt để.
8/ Những kiến thức ở đại học có giúp ông ít nhiều? Khi viết phê bình, ông có thường tham
cứu lý luận văn học?
Việc học đại học là rất cần, nhưng chỉ là cơ sở. Tôi cho rằng người sinh viên sau khi ra trường
phải học thêm nhiều, phải vượt lên, phải phủ định ( theo nghĩa triết học) những gì đã học. Nếu quan
niệm có sự giúp của mấy năm đại học thì là giúp ở vai trò kích thích đó.
Còn tham cứu lý luận ư, tham cứu nhiều chứ. Nhưng tôi làm theo cách của tôi là tìm cách
đọc bản gốc, hoặc bản đã dịch ra tiếng nước ngoài khác, chứ không qua môi giới là các “nhà lý
luận” VN. Trong một bài viết có in lại trong tập Phê bình & tiểu luận mới đây (2009), tôi đã nhắc
lại nhận xét của các học giả đi trước là ở ta có cây bút nghiên cứu lý luận nào đâu, ông cha ta không
có truyền thống làm lý luận và đến thời nay cũng vậy. Nhìn mấy nhà tự xưng là thạo về lý luận,
thấy thực ra họ chỉ làm việc chuyển tải kiến thức nước ngoài, ai giỏi thì học được cái hay, ai thô
thiển dung tục thì khuân về một đống lù lù đấy, rồi hô lên là mình mới là người đi tiên phong trong
việc mang các lý luận này vào VN. Để làm bằng cấp rồi đi dạy kiếm sống thì thôi cũng vui lòng ủng
hộ nhau, chứ đâu đã gọi là nghiên cứu với lý luận theo đúng nghĩa.
Tại sao đã khá nhiều người thử áp dụng các thứ lý luận mới nhất vào việc nghiên cứu văn học
VN, mà không mấy ai thành công ? Trong nhiều lý do, có lý do sau: tầm của chúng ta thường thấp,
khả năng bao quát hạn chế.
Cần nhớ rằng phải mọi lý luận đều xuất phát từ một cái nền văn học sử nào đó. Người ta không
thể hiểu lý luận về tiểu thuyết phương Tây, nếu không đọc qua để bao quát mọi chặng đường tiểu
thuyết và có cách cảm thụ riêng với những cuốn tiểu thuyết cơ bản từ Don Kihote, Đỏ và đen tới Đi
tìm thời gian đã mất, Ông già và biển cả...
Về phần mình khi nghiên cứu về truyện ngắn, tôi đọc kỹ hai loại sách 1/ bản thân tác phẩm của
các bậc thầy truyện ngắn từ G. Maupassant, A. Tchekhov, tới A. Moravia, S. Maugham. 2/ các
công trình nghiên cứu khảo về truyện ngắn của các bậc thầy này. Thú thực là nhiều khi tôi lại hiểu
một vấn đề lý luận toát ra từ các công trình văn học sử rõ hơn là khi đọc lý luận chay.
Với quan niệm như vậy, thì việc tham cứu lý luận là bắt buộc với mọi người viết phê bình. Tôi
thường vẫn tiếc là chưa đọc được nhiều.
Chưa áp dụng thành công thì phải học thêm chứ không phải quay về bình tán hoặc khoe mẽ với
nhau, như bây giờ nhiều người yên tâm làm.
Tôi cũng từng được nghe mấy nhà phê bình “ cây da cây đề” tuyên bố là chỉ cần cảm thụ. Đó
là quyền của các vị ấy, và ai thích theo là quyền của họ. Tôi theo con đường khác. Dù tôi khi viết
không dẫn ra, nhưng trong đầu, các kiến thức về phương pháp xu hướng vẫn đứng đó như những
điểm đối chiếu, và trong thực tế là tôi học theo những gì tôi tin tưởng. Việc tìm hiểu lý thuyết không
hại mà còn kích thích thêm sự cảm thụ của tôi.
Trong số những cuốn sách gây ấn tượng nhất cho tôi trong mấy năm gần đây ( tính từ 2000 )
có cuốn Dẫn giải ý tưởng văn chương của tác giả Henri Benac, Nguyễn Thế Công dịch NXB Giáo
dục 2008.
Đây là một thứ từ điển phổ thông trình bày các khái niệm văn học được sử dụng ở phương Tây.
Giá kể được biết nó từ sớm có lẽ hồi trẻ, tôi đã có thể làm việc tốt hơn.
Sau hết, tôi muốn nói thêm hai điều : một là phải học tập lý luận văn học đồng thời với tìm
hiểu học hỏi các môn khoa học xã hội khác như lịch sử, triết học, xã hội học, tâm lý học, văn hóa
học và cả khoa học tự nhiên như vật lý học, sinh học… nữa. Nếu không đọc rộng ra, thì người ta sẽ
không bao giờ hiểu được lý luận văn học. Hai là xét ở trình độ phát triển thì cái mà chúng ta cần
học hỏi cho nhuần nhuyễn là các thứ lý luận đã thành cổ điển. Chứ còn những thứ thật mới thật tân
thời chỉ đúng cho những nền văn học đã phát triển hoàn chỉnh, cố mang về gán ghép cho văn học ta
chỉ là làm trò nhận vơ học đòi, không bao giờ giúp cho ta hiểu về ta được.
9/ Ông có quan tâm đến kỹ thuật viết?
Quan tâm nhiều chứ. Từ kỹ thuật viết câu dùng chữ đến kỹ thuật theo đuổi một bài viết dài.
So với kỹ thuật viết truyện viết bút ký ký sự, thì kỹ thuật trong việc viết phê bình có những điểm
chung lại có những điểm riêng. Đó là loại kỹ thuật phối hợp cả thể tùy bút (essai ) lẫn thể tiểu luận (
etude).
Có một thứ thuộc loại quan trọng nhất với người viết phê bình là kỹ thuật viết văn xuôi. Tôi
học những kỹ thuật này qua việc đọc các công trình của các bậc thầy phê bình.
Ở trên tôi đã dẫn ra nhận xét là cách viết phê bình của tôi gần với cách viết loại bài của các
nhà sáng tác. Thật ra thì đấy không phải ngẫu nhiên mà là một việc tôi làm có ý thức.
Chẳng hạn với tôi, Xuân Diệu không chỉ là nhà thơ mà còn là nhà văn xuôi độc đáo, bao gồm
cả hai thể bút ký và tiểu luận tôi nói ở trên. Một vài phương diện văn xuôi tiếng Việt được ông khai
thác đến cùng. Bài Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ ( đọc tập thơ Từ ấy của Tố Hữu) viết 1961 là mẫu
mực của việc tiếp cận tác phẩm, đặt tác phẩm trong văn mạch thời đại.
Còn bài Đọc lại Nguyễn Du trong Thi hào dân tộc Nguyễn Du thì lại là một mẫu mực của việc
thay đổi cách viết đã quá quen để sử dụng một hình thức rất tự do. Đầu đuôi là như thế này. Chung
quanh Nguyễn Du trước sau Xuân Diệu viết nhiều bài khác nhau. Nhưng còn nhiều tài liệu ông đã
chuẩn bị mà không biết dùng vào đâu. Thế là ông chọn hình thức “nghĩ gì viết nấy”. Tự ông thú
nhận “ Bài viết này tôi phải chia làm các đoạn nhỏ với những tên đoạn chỉ vì không viết cho liền
được một mạch bài có bố cục lô-gích đầu cuối giữa hẳn hoi đành mượn lối viết của nhà văn
Nguyễn Tuân : Tản mạn chung quanh một áng Kiều” ( Xem Xuân Diệu. Thi hào dân tộc Nguyễn
Du, Nxb Văn học 1966, tr 120) . Sinh thời, khi nghe tôi thán phục cách viết của bài Đọc lại Nguyễn
Du này, Xuân Diệu bảo “ Cậu cũng biết thế cơ à?! Tinh đấy.”
Chúng ta đang nói về kỹ thuật dựng bài, tìm thể loại và giọng điệu cho bài. Tôi cho là cách tổ
chức nên bài phê bình người ta dạy trong các trường đại học và các lớp viết văn ở ta quá đơn điệu
và tẻ nhạt. Tôi không muốn đi theo lối mòn đó.
Với những bài mà tôi cho là mẫu mực, tôi để công tìm hiểu cả cái cách mà tác giả khai phá cho
mình cốt tìm ra cái hình thức ấy.
Tôi rất thích cái cách Gorki viết từng đoạn về L.N. Tolssoi trong phần chân dung Tolsoi của
ông.
Tôi đã học chính cách viết của Xuân Diệu trong hai cảm nhận về cái chết của Tản Đà để viết
nên bài Khả năng tỏa sáng viết khi chính Xuân Diệu qua đời. Bản thân ý niệm ánh sáng, tỏa sáng
cũng là thấm vào tôi từ Xuân Diệu.
Tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần bài ông tường thuật Đại hội Văn nghệ lần thứ nhất ở Việt Bắc
1948 ( có in lại trong Mài sắt nên kim,1977), để cố hiểu làm thế nào mà một bài báo thời sự mang
tính chất tường thuật có thể có giá trị lâu dài.
Trong khi rèn cho mình kỹ thuật viết văn xuôi tiếng Việt, tôi học ở Xuân Diệu từ cách tạo
những giọng khác nhau trong một văn bản, tới cách dùng dấu chấm phẩy. Trong những trường hợp
thành công, văn xuôi Xuân Diệu đầy nhạc điệu mà lại không rơi vào biền ngẫu. Nếu chỉ lấy một ví
dụ thôi, tôi sẽ kể bài Tố Hữu với chúng tôi ( cũng lại về Tố Hữu) viết tháng giêng 1975 và có in
trong Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy. Đôi khi bốc lên một chút, tôi muốn bảo bài này
đáng xếp vào những áng văn xuôi tiếng Việt hay nhất mà tôi biết.
Toàn tập Xuân Diệu do NXB Văn học làm năm 2001 gồm sáu tập, thì thơ chỉ chiếm một còn
năm tập kia là văn xuôi. Rất nhiều bài trong đó như được ông kéo dài ra làm nôm na đi để thích
hợp với đại chúng trong nước, nên đọc rất mệt. Nhưng một bài như bài Tố Hữu với chúng tôi được
viết cho độc giả phương Tây thì đạt đến cái trình độ cô đọng mà chúng ta quen với văn xuôi Xuân
Diệu trước 1945.
10/ Có tác phẩm/ tác giả/ vấn đề văn học nào mà ông chú ý, nhưng chưa viết được?
Tôi là loại khổ vì quá nhiều ý định mà lại không có khả năng thực hiện. Ấy là không kể với tất
cả những gì đã viết ra, về sau đọc lại, tôi luôn luôn cảm thấy có thể viết tiếp và viết khác.
Ví dụ vào những ngày này (3-2010 ), tôi thấy những cách tân trong thơ Trần Dần đang được bàn
đến một cách nghiêm túc, tôi cũng có một số ý muốn viết. Tôi đã từng theo dõi các vấn đề này và từ
1995, trong một cuộc hội thảo đã có tham luận mang tên Số phận những tìm tòi hình thức trong thơ
Việt Nam từ sau 1945 ( trường hợp Nguyễn Đình Thi.) Nay có viết về Trần Dần là có sẵn sự chuẩn
bị chứ không phải thấy mọi người chú ý thì nhẩy bổ vào.
Song, lại có nhiều việc cần kíp hơn thu hút, nên đành chịu.
Chưa kịp viết một hai vấn đề tâm đắc, nhưng tôi có một niềm tin, những gì mình đã nghĩ kỹ,
không nói lần này thì nói lần khác. Phê bình không chỉ là thứ hàng tươi sống mà còn là thứ hàng
khô. Các ý tưởng sâu sắc mãi mãi sống động. Không việc gì phải vội công bố những suy nghĩ dang
dở.
11/ Thời gian trung bình dành cho một bài viết của ông là bao lâu?
Cũng tùy, tôi chỉ có niềm tin, cái gì mà mình viết nhanh, đó là những cái mình đã chuẩn bị kỹ.
Bởi vậy, khi nào thấy viết khó là tôi bỏ luôn, quay ra nghĩ lại và tìm thêm tài liệu đã, rồi tới lúc thấy
rằng “không chừng bài này có thể viết nhanh” thì mới vào cuộc thật sự. Bài nào mà càng viết càng
thấy hào hứng tôi mới tin là được.
Có một kinh nghiệm tôi rút ra cho mình như sau. Thường tôi khổ tâm vì thấy mình đọc được ít
quá, viết chậm quá, so với các đồng nghiệp nước ngoài thì chẳng những về chất mà về lượng mình
cũng kém xa. Nóng ruột, hay đúng hơn là lúc điên lên, tôi tự thả cho ngòi bút của mình viết liều viết
vội. Chết một nỗi là sau đọc lại thấy tất cả những thứ viết nhanh ấy đều đáng vứt đi. Hóa ra tạng
của mình là viết ít và viết từ từ, chứ không thể viết nhanh như mọi người được, nên quay trở về theo
lối cũ, thôi số phận đã vậy.
12/ Ông thích nhất tác phẩm nào của mình? Tại sao? Có tác phẩm nào ông muốn quên đi?
Khi Cây bút đời người được in ra và có dư luận, tôi nghĩ thế là mình có thể chết được rồi. Còn
các cuốn khác, nếu bảo thích thì tôi vẫn thích, vẫn ao ước có ai in lại cho mình… nhưng không cuốn
nào gợi cảm giác như sau Cây bút đời người.
Tại sao tôi nói thế. Vì, như một bạn đọc của tôi phát hiện, trong cuốn sách này tôi không chỉ
phác họa chân dung người khác mà còn cho thấy chính mình. Tức là một thứ chân dung tự họa. Ôi
ai mà chả mong như thế.
Còn tác phẩm muốn quên đi ? Đó là cuốn Bước đầu đến với văn học in ra năm 1986. Tập sách
chỉ là một tập hợp rời rạc các bài tôi viết trong những năm từ 1967 đến 1985. Không phải chỉ riêng
các bài tôi in trong Bước đầu đến với văn học mà tất cả những gì tôi viết trong thời gian từ 1965 –
khi tôi viết về tập Sức mới—đến trước 1986 đều mang lại cho tôi một cảm giác dang dở, bỏ thì
thương vương thì tội. Hai chục năm ấy là thời gian tôi học việc thì đúng hơn. Tôi chưa định hình nổi
một quan niệm về văn học cũng như chưa có nổi một tiếng nói riêng. Lúc dựng cuốn đó tôi còn quá
non nớt trong nghề soạn sách và chưa hình dung được bản thân mình.
13/ Những kỷ niệm vui và buồn trong đời phê bình của ông? Nghề phê bình dễ tạo ra
những va chạm. Ông có e ngại khi viết không?
Viết phê bình là có quan hệ ngay tới các đồng nghiệp. Nên vui có buồn có. Không chỉ ở VN
mà ở thế giới đều thế, bản thân tôi như trên đã nói tới giờ phút này có thể viết hẳn một cuốn sách
mang tên đại lọai Đời tôi trong phê bình văn học, hoặc Hồi ký phê bình. Nhưng chắc là chả bao giờ
tôi có thời giờ để viết nó. Vậy xin tạm kể một ít kỷ niệm sâu sắc nhất và thường trở đi trở lại trong
tâm trí.
Kỷ niệm vui thì như thế này. Cuối 1967, đầu 1968( tôi quên ngày ), Đại hội văn nghệ toàn quốc
( chung cả các hội văn, họa nhạc, kịch) được tổ chức. Tôi nhớ lúc ấy Hà Nội đang còn trong tầm uy
hiếp của bom đạn, nhưng không hiểu sao, hình như là đúng là vào dịp Tết ngừng bắn, nên vẫn làm
đàng hoàng lắm. Khai mạc bế mạc ở Nhà hát lớn, và chiêu đãi ở nhà hàng Phú Gia.
Tôi lúc đó mới viết, trên giấy tờ là quân số ở một đơn vị pháo binh , chưa về VNQĐ, nhưng có
may mắn được Phòng văn nghệ quân đội của nhà thơ Chính Hữu cử đi, coi là một đại biểu chính
thức dự đại hội. Hôm chiêu đãi tôi ngồi cùng bàn với họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung và nhà thơ Tế Hanh.
Lần đầu gặp Tế Hanh, tôi được nghe tác giả Nhớ con sông quê hương hỏi rất chân tình, bằng lối
nói thủ thỉ thường có ở ông:
-- Vương Trí Nhàn này, ông làm phê bình, vậy ông thử cắt nghĩa xem tại sao có những tập thơ mình
bỏ công làm vài năm mà vẫn không xong, chính mình không hài lòng, lại có những tập chỉ làm có
vài tuần lại đứng được. Thuộc trường hợp thứ nhất là tập Tiếng sóng. Còn thuộc trường hợp thứ hai
là hai tâp Nghẹn ngào trước 1945 và Gửi miền Bắc 1957. Mình cũng không cắt nghĩa được!
Tôi nhớ mãi câu chuyện này cả Tế Hanh. Qua ông, tôi hiểu thế nào là một nghệ sĩ chân chính.
Đó là những người luôn luôn băn khoăn về chính mình, luôn luôn mang mình ra đặt câu hỏi.
Về quan hệ cá nhân, tôi có cảm tưởng như vậy là tôi được tin cậy, mà lại một nhà thơ tiền
chiến tin cậy, tôi phải cố cho xứng. Nhưng đáng nói hơn là qua đây tôi hiểu một khía cạnh nghề
nghiệp của người làm phê bình văn học: đó là người bạn đường của sáng tác cùng với người sáng
tác cắt nghĩa mọi vấn đề đặt ra trong hành nghề.
Thế còn những kỷ niệm buồn? Một dịp khác tôi sẽ nói cụ thể, ở đây chỉ nói cảm giác chung.
Như trên đã nhấn mạnh, tôi viết phê bình xuất phát từ nhu cầu bản thân. Do muốn hiểu thêm
sáng tác của người đương thời mà viết. Đúng hơn, do muốn qua các hiện tượng cụ thể đi tới chỗ
hiểu thêm văn học mà viết. Nghĩa là tôi viết vì bản thân chứ không phải vì người khác. Bởi vậy, tôi
chỉ chọn viết về những tác phẩm theo tôi là có vấn đề với nghĩa nó có những khía cạnh mà tôi quan
tâm. Tôi không bao giờ viết về những tác phẩm dở, càng không bao giờ viết về những tác giả nhạt
nhẽo. Thành ra không có va chạm vặt.
Nhưng sự tình là thế này: thường ngay trong một tác giả mà tôi cho là đáng viết cũng có mặt
hay chen lẫn mặt dở, và đôi khi tính theo thời gian thì tác phẩm trước hay mà tác phẩm sau dở. Tôi
buộc phải viết theo sự thay đổi trong cách hiểu của mình. Thế là sinh ra va chạm.
Tôi nhớ có một họa sĩ đã tâm sự thế này ” Mỗi lần vẽ được một chân dung tạm gọi là thành
công tôi đều mất bạn”.
Đối với những sự va chạm do người ta cố ý không hiểu mình, thì tôi lắng nghe và chờ đợi chứ
không tranh luận lại ngay. Kinh nghiệm của tôi là một thời gian sau, những cái đúng của mình thì
người ta cũng hiểu ra.
Nhưng dẫu sao sau sự va chạm, tình cảm hồn nhiên ban đầu không còn. Đây là tình hình đã
xẩy ra với cả hai người thầy và người bạn có tác động lớn đến cuộc đời làm nghề của tôi là Nguyễn
Khải và Nguyễn Minh Châu. Chỗ chung của mối quan hệ tôi với hai nhà văn này là ban đầu các ông
rất quý tôi chia sẻ với tôi nhiều điều, về sau thì ngán tôi và không còn trò chuyện tâm sự với tôi như
những năm mới quen nữa.
Mỗi lần nghĩ tới tôi đều chạnh buồn. Nhưng sự phát triển của tôi hình như không phải do tôi
muốn mà do cuộc đời này xui khiến, tôi sống mãi trong cái bóng của các bậc thầy cũ sao tiện!
14/ Tác phẩm văn học nào gợi cho ông nhiều hứng thú nhất?
Cái gì hay tôi đều thích, thành thử với tôi không có cái nào là nhất. Tôi tự thấy phần lớn
những gì mà thiên hạ thích thì mình cũng thích, chỉ có điều phải cố để viết về tác phẩm đó một cách
nào đó, như là một cách phát hiện mới về tác phẩm đó.
15/ Nhà văn nào tạo được ấn tượng lớn nhất đối với ông?
Cũng tùy từng thời kỳ mà nói ai để lại ấn tượng nhiều nhất hoặc nói cách khác ai có mặt trong suy
nghĩ của tôi nhiều nhất.
Khi mới vào nghề, tức lúc tôi ở Văn Nghệ quân đội thì Nguyễn Khải Nguyễn Minh Châu là
chân trời của tôi hình mẫu văn học lý tưởng mà tôi lúc đó quan niệm được. Lúc sang Hội nhà văn
thì vai trò đó thuộc về Tô Hoài. Ông là cuốn từ điển về văn học là điểm đối chiếu để tôi nhìn rộng
ra những người khác.
So với ba ông nói trên, tôi đứng cách Xuân Diệu một khoảng xa hơn và cũng không bao giờ có
thể nói chuyện với tác giả Thơ thơ một cách thân tình. Tuy vậy, một vài năm gần đây khi tôi tìm
cách tính xem ai đã ảnh hưởng đến cách viết cách học hỏi và quan niệm văn chương của mình thì ,
như trong đoạn trả lời cho một câu hỏi ở trên, tôi luôn luôn trở về với Xuân Diệu. Xuân Diệu là
một trong số ít nhà văn VN viết có lý luận vừa viết vừa tìm cách khai phá ý nghĩa lý luận trong
sáng tác của mình cũng như của các đồng nghiệp. Tôi còn muốn viết tiếp về ông, với dụng ý từ ông
thấy cả văn học VN thế kỷ XX.
Đấy, khi cần nói tới người tôi chịu ơn, người thường xuyên trở lại trong đầu óc tôi, lúc này đây
tôi đang nghĩ như vậy. Tuy nhiên với một đời làm nghề khá tạp như tôi thì lại có thể nói là người để
lại ấn tượng nhiều lắm, cả người sống lẫn người chết, cả người tôi đã gặp lẫn người tôi chưa gặp bao
giờ. Có người ấn tượng về tác phẩm, có người ấn tượng về con người và cách sống. Các ghi chép có
tính chất chân dung của tôi đánh dấu những phút ấn tượng trong tôi hiện hình.
Ở ta hay có lối coi Xuân Diệu là của nhà phê bình này, Nguyễn Minh Châu là của nhà phê bình
kia, và Nguyễn Huy Thiệp là của một người khác nữa. Tôi không phản đối. Nhưng tôi cho rằng vẫn
có một Xuân Diệu, Nguyễn Minh Châu Nguyễn Huy Thiệp và suốt cả từ Vũ Trọng Phụng, Thạch
Lam, Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Khải …của riêng tôi. Với mỗi nhà phê bình thực thụ, các nhà văn
lớn luôn hiện ra với khuôn mặt mới. Các khuôn mặt này các chân dung này không loại trừ nhau, mà
cùng làm giàu cho sự hiểu biết và yêu mến của bạn đọc .
Sau hết có một ghi chú tôi muốn nói thêm. Thường thì chất lượng sáng tác của nhà văn tỷ lệ
thuận với sự hấp dẫn của mà con người của nhà văn đó để lại trong tôi. Nhưng nên nhớ là có những
người sống rất thú vị mà không tự ý thức được hết, không mang hết được từng trải vào tác phẩm.
Họ là những kẻ thất bại rất đáng kính trọng. Mặt khác, trong đời sống cũng vậy mà trong văn
chương cũng vậy, cái gây hứng thú cho ta, nhiều khi không phải là cái tuyệt với chói sáng mà nhiều
khi lại là một cái gì mờ mờ tôi tối trắng lẫn với đen, hay lẫn với dở. Theo nghĩa này, tôi đã quan tâm
theo đuổi phân tích cuộc đời cách sống của ba nhà văn Nhị Ca, Xuân Sách và Nghiêm Đa Văn và có
được mấy phác họa chân dung mà tôi ưng ý.
16/ Trong tập Cây bút- đời người, khi khắc họa về các nhà văn, ông đã miêu tả một số thói
xấu của họ. Cách làm này sẽ khiến người đọc thấy nhà văn cũng là những con người bình
thường, có mặt tốt, mặt xấu nhưng mặt khác cũng làm cho người đọc cảm thấy thất vọng về
những tác giả nổi tiếng mà họ rất ngưỡng mộ. Ông nghĩ sao về việc này?
Tôi cho rằng thời mà độc giả coi nhà văn nhà thơ như ông thần ông thánh ban phát dạy bảo họ
đã qua rồi. Nếu là những độc giả có trình độ thì ngay khi đọc tác phẩm và tiểu sử tác giả, họ đã có
những thất vọng về nhiều nhà văn nhà thơ mà họ đọc, chứ đâu phải nhờ tôi gợi ý rồi họ mới thất
vọng.
Nhưng thất vọng về một người đâu có nghĩa là sẽ không quan hệ với người đó nữa. Ngoài đời
là vậy mà trong văn chương cũng vậy.
Tôi có cảm tưởng sau khi đọc một số bài tôi viết về một nhà văn ( chỉ kể những trường hợp
tôi viết thành công ), bạn đọc sẽ yêu thêm nhà văn nhà thơ đó, yêu những mặt tốt và xót xa thông
cảm với những hạn chế của tác giả, từ đó có thể suy nghĩ sâu sắc thêm về cuộc đời này. Đấy cũng
chính là mục đích tôi hướng tới.
Sau đây là một ví dụ: Khi bài viết về Xuân Diệu ( sau in vào Cây bút đời người) in ra, có
nhiều người coi tôi là lật đổ thần tượng, láo, đả Xuân Diệu quá mạnh, thậm chí có người còn bảo tôi
tàn nhẫn, người ta đã chết còn lật quan tài người ta lên mà nói. Nhưng cũng có người hiểu khác.
Đây là một đoạn nhà báo Minh Thi viết trên báo Lao động 20-6-2002
Những trang sách của Vương Trí Nhàn về một số nhà văn ngùi lên những sự thương xót, những quý
mến cùng sự chân thành bộc lộ suy nghĩ của mình. Tác giả đặt họ vào đời thường, đặt họ trong
dòng chảy hiện thực và văn chương mà vẽ lại chân dung tính cách của họ. Thấu đáo, nhưng không
tọc mạch; cách nói sâu tuy còn vẫn hơi đi vòng, cách nhìn của Vương Trí Nhàn đối với một số
gương mặt tiêu biểu của văn học đương đại không xét nét, bắt bẻ, mà là một sự đánh giá khe khắt
và đòi hỏi ở một mức cho phép. Có lẽ như thế đã là thú vị rồi.
Tôi biết ơn những sự chia sẻ như vậy. Đọc xong, tôi tự nhủ: cứ chân thành mà viết rồi dư luận sẽ
hiểu ra cho mình.
17/ Khi nghiên cứu về các tác giả cổ điển, ông chỉ tìm hiểu các tác giả Nguyễn Gia Thiều, Tú
Xương, Hồ Xuân Hương, Tản Đà, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ. Lý do ông chọn các tác giả
này? Vì sao ông không tìm hiểu thêm về các tác giả như Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu…?
Người ta hay nói khi phê bình cần khách quan. Tôi lại cho rằng phê bình mang đậm chất chủ
quan của người viết. Nhà phê bình không phải là cái cân, mang ra cân tác giả tác phẩm nào cũng
cho kết quả chính xác. Mà chúng tôi cũng có quyền có thiên kiến, có sở thích riêng. Không phải tất
cả những cái gì tôi thích mới hay, mà tôi không thích tức là dở. Không… Không phải thế. Cái tôi
không thích và không viết vẫn có thể rất hay, và đã có những nhà phê bình khác viết về nó. Tôi chỉ
thích và viết những cái mà bên cạnh việc giới thiệu cái hay của chính đối tượng, tác giả và tác phẩm
đó còn giúp tôi bộc lộ được suy nghĩ hiểu biết của chính tôi. Với văn học hiện đại cũng vậy mà văn
học cổ điển cũng vậy. Sở dĩ tôi viết về Nguyễn Gia Thiều vì bắt gặp ở Cung oán ngâm khúc một
chất ba-rốc rất lạ, ít thấy ở văn học VN. Trong khi những người khác lưu ý chất dân gian của
Nguyễn Du thì tôi đặc biệt thích ở ông cái chất của một ngòi bút trí thức: đơn độc, đau đớn vì
những vấn đề siêu hình và cảm giác bất lực. Với Nguyễn Công Trứ, tôi bắt gặp tính chất phân thân
đầy mâu thuẫn của con người hiện đại, trong ông tôi nhận cả hình ảnh một con người trò chơi mà
giá kể có điều kiện tôi còn phải quay lại nữa. Đấy đại khái là thế. Trên nét lớn có thể nói tôi thường
quan tâm tới khía cạnh nhân văn trong con người cũng như sáng tác của một tác giả cả đương thời
lẫn cổ điển.
18/ Khi phê bình về các nhà thơ, ông dành nhiều trang viết của mình cho các nhà thơ của
phong trào Thơ mới. Nhận xét của ông về phong trào này và ý nghĩa của nó trong đời sống văn
học hiện nay?
Nói gọn lại một câu là đến nay chúng ta chưa ra thoát khỏi Thơ mới, chưa đi xa hơn thành tựu của
các bậc thầy Thơ mới bao nhiêu.
Nhưng để chứng minh cho nhận xét cảm tính này, còn phải làm việc nhiều, tôi hiện không đủ sức.
19/ Với Xuân Diệu, ông chỉ chú ý về phần phê bình.Tại sao?
Không đúng đâu. Cuối năm 2007, tại cuộc hội thảo nhân 90 năm sinh Xuân Diệu, tôi đã có một
tham luận nhìn nhận chung đóng góp của tác giả với Thơ mới. Trước đó, tôi có một bài viết về thơ
tình về con người riêng tư trong thơ XD sau 1945.
20/ Trong 3 giai đoạn văn học: 1900-1945, 1945-1985, 1985-nay, ông nghĩ là giai đoạn nào,
văn học, nói chung, và phê bình văn học, nói riêng, phát triển thuận lợi nhất?
Xin được miễn trả lời đầy đủ câu hỏi này vì đặt ra một vấn đề quá lớn. Tôi chỉ muốn nói ở
giai đoạn phát triển như hiện nay văn học VN đang rất cần phê bình. Tại sao?
Vì đến nay –đầu thế kỷ XXI, văn học ta vẫn còn là một nền văn học tự phát mà chưa tự ý
thức được chính xác về mình—cái phần tự ý thức đó chính là do phê bình đảm nhiệm.
Ở những nền văn học hiện đại, giữa phê bình và sáng tác có một sự cân đối trên mọi
phương diện: trên số lượng tác giả; trên số lượng tác phẩm đã in ra; trong sự quan tâm và kính trọng
của độc giả cũng như sự quan tâm và kính trọng lẫn nhau của hai lớp người đó. Lưu ý là tôi nói sự
cân đối trong tương quan, chứ không phải một sự ngang bằng số học. Nhưng, một cách tuyệt đối,
tôi vẫn tin là ở những nền văn học phát triẻn đúng chuẩn mực, phê bình được chú ý hơn ở ta, thu hút
được nhiều tài năng hơn do đó có đóng góp vào việc xây dựng văn học ngày một tích cực hơn.
Bớt số lượng người sáng tác kém cỏi đi, thêm người tự nguyện đi vào phê bình – tức là tăng
cường chất nghiên cứu cho một nền văn học. Làm thế, các nhà sáng tác còn lại sẽ có điều kiện để
sáng tác tốt hơn.
Người ta hay nói sáng tác hiện nay chỉ có nền mà không có đỉnh. Bởi nay là lúc bản năng đã bị
khai thác cạn kiệt và cái cứu vãn chúng ta là lý trí là hiểu biết – với từng người cũng vậy mà với cả
nền văn học cũng vậy -- nên có thể nói đầu tư cho phê bình là phương sách duy nhất để đưa một
nền văn học tới những đỉnh cao mới.
Có một lý do khiến cho điều này khó thực hiện: khi ấy một số người yêu văn học phải chấp
nhận hy sinh cái riêng vì cái chung, có thể đi làm những việc nào đó như biên tập biên sọan, dịch
sách và viết phê bình, để đưa trình độ cả nền văn học tiến lên. Còn nhà sáng tác phải hiểu rằng trong
thành tựu của mình có phần đóng góp của người khác. Cả công chúng cũng cần phải học để biết trân
trọng những người sống trong bóng tối.
Còn lâu lắm, ở ta mới hình thành một sự phân công khôn ngoan và những mối quan hệ hợp lý
như vậy.
21/ Hiện nay có rất ít bài phê bình viết về các tác phẩm của các nhà văn trẻ đương thời. Vậy
phê bình phải làm thế nào để góp phần vào sự phát triển của văn học trẻ hiện nay?
Dở dĩ tôi không bị thu hút bởi sáng tác của các bạn trẻ hiện nay, lý do vì bản thân đã quá bận
không có thời gian để tìm hiểu các sáng tác đó. Tự thấy ở độ tuổi của mình, cách tốt nhất là lo làm
nốt một ít việc đang làm dở.
Cũng nên nói thêm là sở dĩ từ mươi mười lăm năm nay, tôi sớm chọn con đường trên, một
phần là vì thấy nhiều nhà văn trẻ có lối nghĩ rất lạ. Họ hiểu phê bình chỉ là nói đến từng người trong
họ. Những vấn đề chung của văn học bị họ xem thường. Họ không muốn hiểu những gì ngoài họ,
không muốn hiểu quá khứ. Nhiều người quá thực dụng.
Có vẻ như họ hay nghĩ thế hệ trước chẳng ra gì và hết thời rồi, nay đến lượt họ. Vâng tôi
cũng nhận là nhiều người đi trước bọn tôi “chẳng là cái đinh gì”, do gặp thời mà có tên có tuổi.
Nhưng sao các bạn trẻ không nghĩ tới những mục tiêu to lớn hơn so với những nhân vật kỳ vĩ hơn.
Thời đại bây giờ mở ra rộng rãi lắm mà cũng yêu cầu cao lắm.
Tôi trông chờ ở những người trẻ có khát vọng lớn. Đó mới là cái đích của sự phát triển văn học
trẻ.
Thật là nhầm khi nghĩ rằng chỉ những ai có viết về văn học trẻ mới là người quan tâm đến họ.
Chính là khi viết về sáng tác của các thế hệ trước, các nhà phê bình lớp tuổi cao niên cũng đang tìm
cách đóng góp cho lớp trẻ đấy chứ! Cũng như khi tôi viết một số bài về văn học nước ngoài ( trong
một số bài giới thiệu đặt ở đầu những cuốn sách dịch), đâu tôi có nghĩ là có lúc nó đến tay nhà văn
nước ngoài -- đối tượng mà tôi “ phê bình”, mà chính ra tôi xuất phát từ văn học VN mà viết, đối
tượng chinh phục của tôi là các nhà văn trong nước.
22/ Theo ông, độc giả hiện nay có vai trò như thế nào đối với nhà phê bình? Và trách nhiệm
của nhà phê bình hiện nay đối với độc giả?
Khi viết cố nhiên tôi cũng nghĩ đến độc giả. Đó là một loại độc giả lý tưởng. Họ có những
quan tâm tương tự như những quan tâm của chính tôi. Họ rất hiểu biết nên rất khó tính. Tôi chỉ
chinh phục được họ nếu viết thật tốt.
Loại độc giả này hiện nay rất ít. Nhưng những mầm mống của họ thì bao giờ cũng còn. Thành
thử tôi cho rằng công việc của nhà phê bình lại bao gồm cả việc đánh thức cái phần thường bị quên
lãng đó trong lòng độc giả thông thường.
(Thực hiện tháng 3/2010)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVHVHVN066.pdf