MS: LVVH-LLVH020
SỐ TRANG: 125
NGÀNH: VĂN HỌC
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC
TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM
NĂM: 2010
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Văn hóa Việt Nam nói chung và văn học Việt Nam nói riêng, trong tiến trình lịch sử
của mình đã có những cuộc tiếp xúc, ảnh hưởng lớn, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp với văn
hóa, văn học nước ngoài. Trong quá trình tiếp xúc ấy, văn hóa - văn học Việt Nam đã tiếp
thu, chắt lọc tinh hoa của nhân loại để tự làm phong phú và tạo nên bản sắc riêng của dân
tộc.
Trong suốt hành trình dài hơn mười thế kỷ phát triển của văn hóa – văn học Việt Nam,
phải kể đến hai cuộc tiếp xúc lớn, với những ảnh hưởng vô cùng quan trọng:
- Một của văn hóa phương Đông, mà chủ yếu là văn hóa Trung Hoa, từ thế kỷ XIX trở
về trước.
- Và một của văn hóa phương Tây, mà chủ yếu là của văn hóa Pháp từ nửa cuối thế kỷ
XIX đến những năm đầu thế kỷ XX.
Đặc biệt, cuộc tiếp xúc sau đã tạo nên một sự chuyển biến mạnh mẽ, đưa nền văn hóa
– văn học Việt Nam chuyển mình từ một một nền văn hóa – văn học thuộc phạm trù văn hóa
phương Đông cổ truyền, sang một nền văn hóa – văn học hiện đại chịu sự ảnh hưởng của tư
tưởng văn hóa phương Tây.
Trong công cuộc tiếp thu những kinh nghiệm và thành tựu của văn hóa – văn học
phương Tây để hiện đại hóa nền văn hóa – văn học Việt Nam ở chặng đường những năm
cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, công đầu thuộc về những tên tuổi lớn như Pétrus Trương
Vĩnh Ký, Paulus Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục,
Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn Đó là người thuộc lớp trí thức Tây học đầu tiên của Việt
Nam, với tinh thần cầu thị, với tư tưởng tiến bộ và đặc biệt là với nhiệt tình yêu nước và ý
thức dân tộc, đã tự nguyện làm người đi tiên phong trong công cuộc tiếp thu, truyền bá
những tư tưởng văn hóa – văn học tiên tiến của phương Tây, góp phần không ít vào công
cuộc chấn hưng, hiện đại hóa văn hóa – văn học dân tộc.
Một trong những nhân vật xứng đáng được lịch sử văn học Việt Nam ghi công đầu
trong công cuộc chấn hưng, hiện đại nói trên đó là nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn, nhà giáo,
học giả Phạm Quỳnh. Trần Văn Chánh, trong Lời giới thiệu Phạm Quỳnh và Thượng Chi văn
tập vào tháng 7 năm 2005, đã viết về trường hợp Phạm Quỳnh như sau: “Trong lịch sử văn học Việt Nam thời kỳ cận – hiện đại, Phạm Quỳnh có lẽ là một
trong những nhân vật nổi bật nhưng lại có vẻ gây nên nhiều cuộc tranh luận với
những ý kiến đánh giá khác nhau nhất. Nói như vậy, dù tán thành hay phản đối,
hoặc giữ thái độ chiết trung, mặc nhiên mọi người đã thừa nhận vai trò không thể
xem thường của của nhân vật này trong bối cảnh lịch sử văn hóa cụ thể nhất định”
[3, 9].
Bằng tài năng và sở học uyên bác, bằng sự kiên trì và cẩn trọng trong khoa học và đặc
biệt là bằng tình yêu tha thiết với văn hóa, văn học nước nhà, Phạm Quỳnh đã đóng góp một
sự nghiệp trước tác khá đồ sộ. Tạp chí Nam Phong, trong mười bảy năm tồn tại, ấn hành
được 210 số, riêng Phạm Quỳnh đã đóng góp có tới chục ngàn trang viết, trải rộng ra trên
hầu khắp mọi lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế, văn hóa, triết học, giáo dục đến văn chương,
ngôn ngữ, Với sự đóng góp lớn lao ấy, Phạm Quỳnh xứng đáng được thừa nhận là một
trong những người có công lớn trong thời kỳ đầu xây dựng và phát triển của nền báo chí và
văn học quốc ngữ nước nhà. Đặc biệt, với tư cách là một nhà văn, một nhà biên khảo, Phạm
Quỳnh là người đầu tiên cung cấp cho người đọc những khái niệm bước đầu về mỹ học nói
chung cũng như về thơ, về tiểu thuyết nói riêng.
Ngay trước năm 1945, tên tuổi của Phạm Quỳnh đã được nhắc đến một cách trang
trọng trong một số công trình nghiên cứu có giá trị như Phê bình và cảo luận của Thiếu Sơn,
Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan Ở
miền Nam trước năm 1975, trong một số sách văn học sử tiêu biểu của các tác giả như Thanh
Lãng, Phạm Thế Ngũ Phạm Quỳnh và tạp chí Nam Phong cũng được giới thiệu khá chi tiết
qua hàng trăm trang sách với tất cả mọi khía cạnh phức tạp của vấn đề. Năm 1963, cũng ở
miền Nam, diễn ra cuộc tranh luận với tên gọi Vụ án truyện Kiều hết sức kịch liệt và kéo dài,
mà giáo sư Nguyễn Văn Trung đã tập hợp lại thành một “hồ sơ”.
Tuy nhiên trong suốt một thời gian khá dài, vì những lý do khác nhau, vấn đề Phạm
Quỳnh vẫn chưa thật sự được tìm hiểu, nghiên cứu một cách đầy đủ, đúng mức, xứng tầm
với sự đóng góp của ông đối với nền văn học nước nhà. Thời gian gần đây, tư tưởng đổi mới
tư duy do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhận thức và
đánh giá lại một cách khách quan hơn đối với một số vấn đề trong lịch sử văn hóa - văn học
nước nhà. Phạm Quỳnh và sự nghiệp của ông đã được đặt ra và đánh giá lại trong tình hình
chung ấy. Trong điều kiện như vậy, việc nghiên cứu để có cái nhìn toàn diện, khách quan và
khoa học về sự nghiệp văn hóa – văn học của Phạm Quỳnh cũng như những đóng góp của
ông đối với văn hóa – văn học Việt Nam là điều hết sức cần thiết. Đó cũng là lý do mà chúng
tôi chọn đề tài: KHẢO SÁT TƯ TƯỞNG MỸ HỌC VÀ VĂN HỌC CỦA PHẠM QUỲNH
làm đối tượng nghiên cứu khoa học để thực hiện luận văn.
Nghiên cứu về Phạm Quỳnh và sự nghiệp của ông là một vấn đề hết sức khó khăn và
phức tạp. Bởi lẽ như trên đã nói, sự nghiệp văn hóa - văn học của Phạm Quỳnh khá đồ sộ,
trải rộng ra trên hầu khắp mọi lĩnh vực. Dẫu có nhiều tham vọng, nhưng vì nhiều lý do,
người viết chỉ có thể tiến hành nghiên cứu một khía cạnh nhỏ trong sự nghiệp của Phạm
Quỳnh như đã xác định ở trên, với mong muốn góp thêm tiếng nói vào việc nghiên cứu sự
nghiệp của học giả này.
2. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được thực hiện với mục đích khảo sát tư tưởng mỹ học và văn học của Phạm
Quỳnh nhằm tìm hiểu một cách có hệ thống các quan niệm về mỹ học cũng như văn học
được thể hiện trong các tác phẩm của ông. Trên cơ sở đó, đánh giá một cách đúng đắn và
khách quan những đóng góp về tư tưởng mỹ học và văn học của Phạm Quỳnh.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Sự nghiệp khoa học của Phạm Quỳnh, như đã giới thiệu một cách khái quát ở trên, rất
đồ sộ, trải rộng ra trên nhiều lĩnh vực. Trong khuôn khổ của luận văn này, chúng tôi chỉ giới
hạn qua việc tập trung khảo sát tư tưởng mỹ học và văn học của Phạm Quỳnh thể hiện qua
các bài viết, công trình mà tác giả đã công bố. Khi khảo sát tư tưởng mỹ học và văn học của
Phạm Quỳnh, luận văn chủ yếu tập trung tìm hiểu những quan niệm về mũ học và văn học
của ông.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là khảo sát tư tưởng mỹ học và văn học của học giả –
nhà văn Phạm Quỳnh, với tư cách là một trong số những người đi tiên phong trong giai đoạn
đầu của quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả luận
văn sẽ nêu ý kiến đánh giá về những đóng góp của Phạm Quỳnh đối với văn hóa – văn học
nước nhà, chủ yều ở giai đoạn những năm đầu thế kỷ XX.
Trong quá trình nghiên cứu và xử lý các yêu cầu khoa học do đề tài đặt ra, chúng tôi
chủ yếu sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê, là phương pháp vay mượn từ một ngành khoa học chuyên
biệt của toán học – ngành thống kê học, được chúng tôi sử dụng như một công cụ hỗ trợ
cho việc thu thập, tổ chức và phân tích các tài liệu, ý kiến có liên quan đến việc tìm hiểu các
quan niệm về mỹ học và văn học của học giả Phạm Quỳnh được thể hiện một cách khá rải
rác và tản mạn trên các số báo của tạp chí Nam Phong. Qua đó, chúng tôi mong có thể rút ra
những kết luận khách quan về tư tưởng mỹ học và văn học của học giả này.
- Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ những nét tương đồng cũng như dị biệt
về nội dung và hình thức giữa văn học Trung đại và hiện đại; làm rõ được sự khác biệt của
tình hình báo chí trước và từ khi Nam Phong tạp chí ra đời để làm rõ được vai trò của Phạm
Quỳnh và Nam Phong đối với tiến trình phát triển của văn học và báo chí trong thời kỳ đầu.
Mặt khác, nó cũng được sử dụng để nghiên cứu tác giả Phạm Quỳnh trong mối tương quan
với các tác giả cùng thời để qua đó có đánh giá một cách đúng đắn, khách quan về những
đóng góp của Phạm Quỳnh đối với mỹ học và văn học của dân tộc.
- Phương pháp hệ thống được dùng để hệ thống hóa các công trình trước tác của Phạm
Quỳnh, từ đó có những đánh giá, kết luận về đóng góp của Phạm Quỳnh trong một bối cảnh
đặc biệt của lịch sử văn hóa dân tộc.
Ngoài ra chúng tôi đồng thời sử dụng các thao tác quen thuộc như liệt kê, phân tích,
tổng hợp v.v
4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI.
4.1. Ý nghĩa khoa học.
Đề tài góp một số ý kiến đánh giá về tư tưởng mỹ học và văn học của học giả – nhà
văn Phạm Quỳnh, bao gồm cả ưu điểm cũng như hạn chế. Những ý kiến mà tác giả thực hiện
đề tài đề xuất, nếu được thẩm định là khách quan và có giá trị, thì sẽ là một đóng góp vào nỗ lực chung nghiên cứu sự nghiệp khoa học của Phạm Quỳnh, ghi nhận vai trò của học giả –
nhà văn này đối với giai đoạn phát triển đặc biệt của văn hóa – văn học Việt Nam những
năm cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn.
Kết quả nghiên cứu sẽ đóng góp thêm một cái nhìn hệ thống về tư tưởng mỹ học và
văn học của Phạm Quỳnh; những đóng góp cũng như hạn chế của ông trong các lĩnh vực
này. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu này cũng có thể được sử dụng ở cấp học trung học phổ
thông và đại học như một tài liệu tham khảo bổ ích, phục vụ cho giảng dạy và học tập văn
học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX.
5. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ.
Vấn đề Phạm Quỳnh và sự nghiệp của ông đã được các nhà nghiên cứu quan tâm ngay
từ khi ông còn sống.
Trong tác phẩm Phê bình và cảo luận, xuất bản năm 1933, tác phẩm được xem như
một trong những công trình lý luận phê bình hiện đại đầu tiên của văn học Việt Nam, Thiếu
Sơn đã có những nhận định hết sức xác đáng và toàn diện cả về tư tưởng chính trị cũng như
về sự nghiệp văn hóa của Phạm Quỳnh. Đánh giá những đóng góp của Phạm Quỳnh về văn
hóa, ở phần thứ nhất, mục Phê bình nhân vật của tác phẩm này, Thiếu Sơn viết:
“ những công trình về văn học, triết học của Âu châu và nhất là của nước Pháp,
ông diễn dịch ra quốc văn rất nhiều, mà dịch thật đúng, thật hay, vừa biết tôn
trọng cái nguyên ý của tác giả lại vừa lựa theo cái giọng điệu của quốc văn.
Bởi mưu cái công cuộc mới mẻ đó, mà cái tiếng nói bản quốc còn nghèo nàn túng
thiếu quá, nên ông lại phải lo tài bồi cho quốc văn, mượn những danh từ triết học
khoa học của tiếng Tàu, tiếng Nhật cho nhập tịch vào quốc ngữ để có thể diễn
thuật được những cái mà tiếng Nôm ta không đủ để gọi ra ( )
Cái công phu trứ tác của ông, ích cho quốc dân không phải là nhỏ mà ảnh hưởng
đối với nhân chúng cũng thiệt là sâu. ( )
Cái cây bút quốc văn của ông Phạm Quỳnh nó đã ảnh hưởng đến thế mà cái cây
bút Pháp văn của ông nó cũng danh giá lắm thay (. )
Mà đọc văn ông, tất cũng có thể biết thêm được cái tinh thần bổn sắc của nước
Việt Nam nó cũng không đến nỗi hèn kém gì.” [18, 59; 60]. Theo đánh giá của Thiếu Sơn trên đây, thì đóng góp của Phạm Quỳnh đối với văn hóa
nước nhà quả là không nhỏ. Sự đóng góp ấy trải rộng ra trên nhiều lĩnh vực: Ngôn ngữ, trước
tác, học thuật
Về sự nghiệp chính trị của Phạm Quỳnh, ông Thiếu Sơn cũng có những nhận xét khá
khách quan và xác đáng. Theo ông, việc Phạm Quỳnh tham gia làm chính trị, nhằm thực hiện
cái ước muốn về chủ trương lập hiến của mình, cho dù “Cái chương trình lập hiến của ông
nó cũng có giá trị lắm chớ!” [19, 61], là không phù hợp với hoàn cảnh của đất nước lúc bấy
giờ. Đây là điều đáng tiếc, nếu không nói là sai lầm. Bản thân Phạm Quỳnh cũng chịu không
ít hệ lụy từ hành động chính trị đó của mình. Tuy nhiên, động cơ, mục đích của hành động ấy
cũng không ngoài tấm lòng thiết tha với đất nước, với dân tộc. Chiêu tuyết cho Phạm Quỳnh,
Thiếu Sơn viết: “Căn cứ vào cái quan niệm riêng của ông, ông khởi thảo ra một cái chương
trình Lập hiến mà cho rằng nếu thiệt hành ra thì sẽ thỏa mãn được cái tư tưởng quốc gia của
dân tộc An Nam và định yên được thời cục” [18, 61].
Năm 1941, trong Việt Nam văn học sử yếu, phần chương trình dành cho Năm thứ ba,
ban Trung học Việt Nam, Dương Quảng Hàm đã viết hẳn một chương về Phạm Quỳnh với
kết luận rất xác đáng về những đóng góp của học giả – nhà văn này đối với nền quốc văn
như sau:
“Ông Vĩnh có công diễn dịch những tiểu thuyết và kịch bản của Âu Tây và phát
biểu những cái hay trong tiếng Nam ra; Ông Quỳnh thì có công dịch thuật các học
thuyết tư tưởng của Thái Tây và luyện cho tiếng Nam có thể diễn đạt được các ý
tưởng mới. Đối với nền văn hóa cũ của nước ta thì ông Vĩnh hay khảo cứu những
phong tục tín ngưỡng của dân chúng, mà ông Quỳnh thường nghiên cứu đến chế
độ, văn chương của tiền nhân. Văn ông Vĩnh có tính cách giản dị của một nhà văn
bình dân, văn ông Quỳnh có tính cách trang nghiêm của một học giả. Tuy văn
nghiệp của mỗi người có tính cách riêng, nhưng hai ông đều có công với việc
thành lập quốc văn vậy.” [8, 403].
Năm 1942, khi xuất bản bộ sách Nhà văn hiện đại, ở phần Các nhà văn đi tiên phong,
nhà nghiên cứu phê bình văn học Vũ Ngọc Phan đã dành hơn ba mươi trang sách viết về
Phạm Quỳnh cùng những đánh giá khá trọng thị đối với các công trình khảo cứu, dịch thuật,
du ký và bình luận của ông:
“Ông là người viết nhiều nhất trong tạp chí Nam Phong( ) [16, 73]. Nhưng một
điều mà người đọc nhận thấy trước nhất trong những bài biên tập và trước thuật của ông là ông không cẩu thả( ) [16, 75]. Phạm Quỳnh là một nhà văn có thể bàn
luận một cách vững vàng và sáng suốt bất cứ về một vấn đề gì, từ thơ văn cho đến
triết lý, đạo giáo cho đến chính trị, xã hội, không một vấn đề nào là ông không
tham khảo tường tận trước khi đem bàn trên mặt giấy. Trong lịch sử văn học hiện
đại, người ta sẽ không thể nào quên được tạp chí Nam Phong, vì nếu ai đọc toàn
bộ tập tạp chí này, cũng phải nhận là rất đầy đủ, có thể giúp cho người học giả
một phần to tát trong việc soạn một bộ bách khoa toàn thư bằng quốc văn” [16,
109].
Ở miền Nam, trước năm 1975, tên tuổi và sự nghiệp của Phạm Quỳnh cũng đã được
nhiều nhà khoa học quan tâm tìm hiểu. Kết quả nghiên cứu về Phạm Quỳnh được công bố
qua một số công trình tiêu biểu như: các bộ sách văn học sử của các tác giả Thanh Lãng,
Phạm Thế Ngũ ; như: Văn học Việt Nam dẫn luận (Introduction à la litérature
Vietnamiene) của Maurice Durant và Nguyễn Trần Huân (Maison neulve et la rose, Paris,
1969); như: Bài học Phạm Quỳnh của Thiếu Sơn, Chủ đích Nam Phong, Trường hợp Phạm
Quỳnh, Vụ án truyện Kiều của Nguyễn Văn Trung
Đặc biệt, trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập III, phần văn học hiện đại),
tác giả Phạm Thế Ngũ đã dành hẳn một chương (Chương III) với hơn một trăm hai mươi
trang sách để nghiên cứu một cách hết sức tỉ mỉ, nghiêm túc, khách quan về cuộc đời, sự
nghiệp cũng như những đóng góp của Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí đối với văn hóa,
văn học dân tộc, mà ta có thể tách ra như một công trình khoa học độc lập.
Trong mục bàn về Tư tưởng bảo thủ của Phạm Quỳnh, tác giả nêu nhận định:
“Như vậy, việc ý thức cái cốt cách, cái cá tính, cái bản ngã của mình để mà bảo
vệ, mà tài bồi thật là tối cần. Nó chỉ có thể có với dân tộc nào hoặc với những ai
quay về mình còn thấy cái gì cho là đáng quý đáng yêu, nghĩa là còn có tinh thần
bảo thủ. Không có nó, người ta sẽ trôi dạt đến chỗ bơ vơ mất gốc. Có nó, người ta
có thể chống chọi lại mọi mưu mô quyến rũ từ ngoài, mọi mặc cảm tự ti từ mình.
Vấn đề đặt ra cho cả dân tộc cũng như cho mỗi cá nhân [14, 145].
Tuy bàn về “tư tưởng bảo thủ” của Phạm Quỳnh nhưng cách viết như trên của Phạm
Thế Ngũ chính là đã công tâm nhận ra cái ưu điểm của Phạm Quỳnh trong việc tiếp thụ và
vận dụng kinh nghiệm văn hóa Thái Tây vào việc xây dựng văn hóa nước nhà.
Kết thúc mục nghiên cứu về Chủ nghĩa quốc gia của Phạm Quỳnh, tác giả cũng có
những ý kiến hết sức khách quan và công tâm: “Ngày nay chúng ta có nghiên cứu Phạm Quỳnh là nghiên cứu nhà báo và nhà
văn của tạp chí Nam Phong, con người cùng tư tưởng trước 1932, con người tốt
đẹp đã đóng một vai trò tương đối tiến bộ trong một giai đoạn lịch sử chánh trị và
nhất là đã dày công xây đắp cho nền học và nền văn mới” [14, 170].
Ở miền Bắc, từ sau năm 1945 đến năm 1975, vấn đề Phạm Quỳnh là một vấn đề hết
sức nhạy cảm. Trong suốt thời gian này, hầu như không có một công trình nào nghiên cứu
một cách đầy đủ, khách quan về Phạm Quỳnh cũng như những đóng góp của ông đối với văn
hóa và văn học nước nhà.
Học giả Đặng Thai Mai, một người có uy vọng lớn trong giới nghiên cứu văn học ở
miền Bắc lúc bấy giờ, trong sách Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX (xuất bản năm
1961), thủy chung vẫn đánh giá Phạm Quỳnh chỉ là một tên tay sai, bồi bút phục vụ cho mưu
đồ xâm lăng, đồng hóa của thực dân Pháp đối với dân tộc ta. Ông cả quyết khẳng định:
“Phạm Quỳnh đã đọc khá nhiều sách, đã viết về rất nhiều vấn đề. Nhưng y chưa
hề nghiên cứu về một vấn đề gì. Và về mọi mặt, chỗ “độc đáo” của y là điểm lạc
hậu của bọn học giả phản động Pháp! Cảm tưởng cuối cùng của người đọc Nam
Phong, nếu họ chịu khó suy nghĩ, thì Phạm Quỳnh là một người đã đọc khá nhiều
sách và đã đem học thức ra bán rẻ cho bọn thống trị; là một nhà “học giả” có đủ
chữ Hán và tiếng Việt để bịp người Tây; và cũng có đủ chữ Tây để lòe người An
Nam” [10, 124].
Sau những nhận định có tính chất phán quyết chung thẩm của Đặng Thai Mai thì vấn
đề Phạm Quỳnh hầu như không có ai bàn đến hoặc có thì cũng chẳng nói khác hơn (ngoại trừ
duy nhất ý kiến của nhà văn Nguyễn Công Hoan trong Đời viết văn của tôi, NXB Văn học.
Hà Nội 1971). Đây có lẽ cũng là hiện tượng có thể giải thích được trong một giai đoạn đặc
biệt của lịch sử!
Cho đến gần đây, trong không khí đổi mới và dân chủ của đời sống văn hóa tư tưởng,
với sự nhận thức trầm tĩnh, khách quan hơn về các vấn đề thuộc quá khứ lịch sử, Phạm
Quỳnh và văn nghiệp của ông mới được nhiều học giả, nhiều nhà nghiên cứu phê bình văn
học quan tâm trở lại.
Năm 2000, tên của Phạm Quỳnh chính thức được nêu lên thành mục trong quyển Từ
điển nhân vật lịch sử Việt Nam của Nhà xuất bản giáo dục.
Năm 2004, Từ điển văn học, bộ mới (Nhà xuất bản Thế giới, tháng 10/ 2004) đã bổ
sung mục Phạm Quỳnh, do Nguyễn Huệ Chi viết, dài đến ba trang. Trong đó, công lao của
ông đối với văn học nước nhà đã được đánh giá một cách khách quan và thừa nhận một cách
trang trọng. Kết luận về Phạm Quỳnh, tác giả Nguyễn Huệ Chi có đoạn viết: “Là người biên
khảo, lần đầu tiên Phạm Quỳnh cung cấp cho người đọc những khái niệm bước đầu về mỹ
học nói chung cũng như về thơ, về tiểu thuyết nói riêng” [9, 1366].
Ngoài những công trình có tính chất quy mô như trên, từ những năm 2000 đến nay tạp
chí Nghiên cứu văn học lần lượt đăng tải nhiều bài nghiên cứu sâu sắc và nghiêm túc về
Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí: “Báo chí và văn chương qua một trường hợp: Nam
Phong tạp chí” (Nguyễn Đình Chú, Trịnh Vĩnh Long – Số 2, 2005), “ Về thuật ngữ tiểu
thuyết trên tạp chí Nam Phong” (Nguyễn Đức Thuận – Số 2, 2005), “Vai trò của trí thức
trong quá trình tiếp nhận văn hóa phương Tây ở Việt Nam đầu thế kỷ XX” (Vương Trí Nhàn
– Số 7, 2005), “Tình hình nghiên cứu phần văn trên Nam Phong tạp chí (1917 – 1934) từ
1975 đến nay” (Nguyễn Đức Thuận – Số 5, 2006), “Thượng Chi bàn về tiểu thuyết trên tạp
chí Nam Phong” (Nguyễn Đình Chú – Số 4, 2007), “Thể tài du ký trên tạp chí Nam Phong”
(Nguyễn Hữu Sơn – Số 4, 2007)
Ý thức sâu sắc về giá trị di sản tinh thần quý báu của cha ông và với niềm kính trọng
một bậc thức giả, chúng tôi đã dành nhiều thời gian tìm hiểu về vấn đề Phạm Quỳnh. Chúng
tôi lấy làm băn khoăn khi nhận thấy rằng, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào
nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về tư tưởng mỹ học và văn học của Phạm Quỳnh
cũng như những đóng góp và hạn chế của những tư tưởng đó đối với văn hóa – văn học Việt
Nam trong một giai đoạn đặc biệt của lịch sử văn hóa – văn học của dân tộc. Thảng hoặc,
những vấn đề này cũng được nhắc đến trong một số công trình nghiên cứu của nhiều nhà
nghiên cứu uy tín nhưng để có một sự xem xét, nghiên cứu một cách hệ thống, kỹ lưỡng thì,
như đã nói ở trên, cho đến nay vẫn còn là vấn đề bỏ ngõ. Đề tài Khảo sát tư tưởng mỹ học và văn học của Phạm Quỳnh có lẽ là một vấn đề vẫn
mang tính nhạy cảm. Trở ngại không nhỏ đối với người thực hiện luận văn là nguồn tài liệu
tham khảo có giá trị điểm tựa hết sức hạn chế, chúng tôi hầu như phải tự mình giải quyết tất
cả các nội dung khoa học mà không được kế thừa nhiều thành quả của những nhà nghiên cứu
đi trước.
6.CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN.
Ngoài mở đầu và kết luận, luận văn gòm ba chương:
Chương 1: Vai trò của Phạm Quỳnh đối với báo chí và văn học những năm đầu thế kỷ XX.
Chương 2: Quan niệm về mỹ học của Phạm Quỳnh.
Chương 3: Quan niệm về văn học của Phạm Quỳnh.
125 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1641 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Khảo sát tư tưởng mỹ học và văn học của Phạm Quỳnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỳ, khi so
sánh về tính cách của hai cuộc du lịch ở Huế và Nam Kỳ, tác giả viết:
“Lần trước là đi vãn cảnh một nơi đất cũ, còn đầy những dấu tích đời xưa, mỗi
bước như động đến tấm lòng hoài cổ, chạnh những nông nỗi cố hương; nghe tiếng
chim kêu trên bãi cát mà nỗi thương nước nhớ nhà không thể cầm được, ngắm bức
phong cảnh chốn tôn lăng mà lòng cảm hoài về lịch sử như chan như chứa; bao
nhiêu những giọng ngậm ngùi ai oán thủa bình sinh không ngờ mà lâm li trên tờ
giấy, khiến người đọc cũng phải lạnh lẽo trong lòng.(…) Lần này thì thật khác:
cái khí vị lạnh lẽo kia đã đổi ra cái khí vị nồng nàn rồi. Nam Kỳ là một nơi đất
mới, mới đủ đường: địa chất, lịch sử, văn hóa đều là mới cả; người ta đương hăm
hở về đường tiến thủ, muốn bước cho chóng, lên cho mau, chưa từng bận lòng đến
những nỗi thương cũ tiếc xưa, phiền xa buồn muộn. Đất cũng không từng có
những dấu vết cũ, như tòa thành cổ, góc miếu xưa, đủ nhắc cho người ta tấm lòng
nhớ cũ, mà chỉ mênh mang những đồng rộng không cùng, sức người mở mang
không xuể. Lại thêm Tạo vật đãi người quá hậu, cho cái đất kia phì nhiêu có một,
cách làm ăn không khó nhọc mà đường sinh hoạt được thảnh thơi; tiền bạc đã
nhiều, tiêu dùng càng lắm, đời người như lấy sự khoái lạc làm cái mục đích không
hai. Khoái lạc lại khoái lạc mà suốt năm như bữa tiệc một ngày! Cho nên cái cảm
giác của người mới bước chân tới đây là cái cảm giác vui, vui mà tin cậy ở cái
tương lai, chớ không phải buồn mà thương tiếc cho sự ký vãng.
Ấy hai cuộc du lịch khác nhau như thế, lời kỹ thuật tất cũng không in một giọng”
[5, số 17].
Tóm lại là về truyện ngắn cũng như ký, quan niệm của Phạm Quỳnh còn có phần đơn
giản. Ông coi chúng là những dạng sơ thảo, bước đầu của tiểu thuyết. Sáng tác truyện ngắn
và ký là nhằm luyện tập câu văn quốc ngữ và là bước đầu để tiến đến xây dựng tiểu thuyết.
3.2. Quan niệm về thơ.
Thơ là hình thức sáng tác văn học, phản ánh đời sống bằng tâm trạng, cảm xúc thông
qua ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhịp điệu.
Tuy không phải là một nhà thơ nhưng quan niệm của Phạm Quỳnh về thể loại văn học
này được thể hiện khá rõ ràng qua những bài khảo cứu hết sức tỉ mỉ và có giá trị như: Thơ
Baudelaire, Thơ ta thơ Tây, Thơ là gì? Đăng lần lượt trên tạp chí Nam Phong. Quan niệm
của Phạm Quỳnh về thơ thể hiện qua một số nội dung chủ yếu sau đây:
3.2.1. Sự khác nhau trong quan niệm về thơ giữa phương Đông và phương Tây.
Thơ ta thơ Tây là bài khảo luận thể hiện tập trung nhất kiến giải của Phạm Quỳnh về sự
khác nhau giữa thơ phương Đông và thơ phương Tây.
So sánh sự khác nhau trong quan niệm về thơ giữa phương Đông và phương Tây, Phạm
Quỳnh cho rằng với phương Đông, mà cụ thể là Trung Hoa và Việt Nam, thơ là một thú chơi
tao nhã, là sự thể hiện những tình cảm, ý tưởng cao cả bằng những ngôn từ đẹp đẽ, có âm
hưởng, tiết tấu nhằm tạo nên những khoái cảm thẩm mỹ cho người thưởng thức. Quan niệm
về thơ của người Trung Hoa và Việt Nam được ông nhận xét như sau: “Ta coi thơ tức là vẽ,
mà vẽ tức là thơ; thơ là vẽ bằng lời, bằng thanh âm, vẽ là thơ bằng hình, bằng màu sắc. Nên
bức tranh sơn thủy tức là bài thơ tả cảnh hiển hiện ra cho mắt ta trông; mà bài thơ tả cảnh
tức là bức tranh sơn thuỷ cất tiếng lên cho tai ta nghe vậy [3, 50].
Với quan niệm thơ là “vô hình họa”, “hữu thanh họa”, nên trong thơ Trung Hoa và thơ
của ta thời Trung đại, mà nhất là lối thơ Đường luật, đòi hỏi phải tuân theo qui tắc nghệ thuật
hết sức chặt chẽ, chú trọng làm thế nào chỉ với một khuôn khổ câu chữ tối thiểu nhưng
truyền thần được cái hồn của cảnh, cái tình của người một cách tối đa. Thơ là tiếng nói tự
nhiên của tâm hồn con người, “là tiếng kêu tự nhiên của con tâm” [4, 50]. Người Trung Hoa
định luật nghiêm cho thơ là muốn gia công cho tiếng kêu ấy hay hơn, nhưng cũng chính vì
vậy mà nhiều khi làm cho thơ mất đi cái vẻ tự nhiên đáng ra phải có.
Thơ, đối với người phương Tây là nghệ thuật lại cũng vừa là triết lý, đề cao hình thức
nhưng càng coi trọng nội dung, bởi thế mà hình thức của thơ cốt làm sao thể hiện nội dung
cảm xúc, nội dung triết lý cho hết sức tự do, phóng khoáng. Cùng một đối tượng phản ánh,
một đề tài thể hiện, thơ Trung Hoa, thơ ta sẽ có những nét bút phong nhã, thanh tao, rất khéo
nhưng kém sinh động, thiếu tự nhiên vì nặng về phần gia công gọt dũa. Trong khi đó, thơ
phương Tây tuy có thể không được khéo bằng nhưng lại có nét bút đậm đà, lời lẽ thắm thiết,
hùng hồn, sinh động.
Nhằm củng cố luận giải của mình và cũng giúp độc giả có tư liệu để thấy rõ hơn sự khác
nhau giữa hai lối thơ, Phạm Quỳnh đã công phu phân tích bài thơ Qua đèo Ngang của Bà
huyện Thanh Quan và Buổi chiều chơi núi (Soir en montagne) của Léonce Depont. Qua sự
phân tích của ông, người đọc thấy hiện lên rõ ràng bức tranh trong Qua đèo Ngang là một
tuyệt bút, đủ cả đất trời, mây nước, núi non, cây cỏ, đá hoa, chim kêu vượn hú…lại thêm
chút tình của kẻ lữ thứ một mình đối diện với trời cao đất rộng trong cảnh chiều tà. Tất cả
được thể hiện bằng một lối ngôn từ chải chuốt, giọng điệu êm ái trong khuôn khổ nghiêm
ngặt của thể thơ Đường luật gồm tám câu thơ với 56 chữ. Nhưng theo ông, đó là bức tranh
gia công trong các lọ sứ Tàu. Ngược lại, bức tranh trong bài thơ Soir en montagne không có
được cái gọt dũa, chải chuốt, gọn ghẽ nhưng tình cảm dồi dào, tư tưởng siêu việt hơn hẳn.
Kết luận về sự khác nhau trong quan niệm, thể thức của “thơ ta” và “thơ Tây”, Phạm
Quỳnh nói một cách đầy hình ảnh như sau:
“Cứ so sánh hai lối thơ ấy thì biết hai cái tinh thần khác nhau là dường nào. Một
bên thì vụ bề nhân công, một bên thì chuộng về thiên phú. Vụ bề nhân công thì chủ
lấy cực kỳ tinh xảo, làm bài thơ như trạm một hòn ngọc, uốn một cái cây, sửa cái
vườn cảnh, thế nào cho trong cái giới hạn nhất định, thêu nên bức gấm trăm hoa.
Chuộng vẻ thiên phú thì nhà thơ tự coi mình như cái phong cầm, tùy gió thổi mà
nên tiếng:
Tiếng trong như hạc bay qua
Tiếng đục như suối mới sa nửa vời
Lời thơ phải tùy theo lớp sóng trong lòng là khi dài khi ngắn, khi thấp khi cao,
không thể cầm giữ trong phạm vi nhất định” [3, 56].
3.2.2. Vấn đề tiếp thu và đổi mới của thơ Việt Nam.
Bàn về vấn đề này, Phạm Quỳnh cho rằng thơ Việt Nam đang đứng giữa nơi giao thoa
của hai tinh thần phương Đông và phương Tây, nếu ta khéo điều hòa được cái hay của cả hai
bên thì thơ ta mới có thể phát triển được.
Về mặt hình thức, thơ thì phải có âm điệu, mà âm điệu là do ngôn ngữ tạo thành; ngôn
ngữ khác nhau thì âm điệu cũng khác nhau. Do vậy, ta không thể bắt chước tiếng của nước
khác mà phải dựa vào ngôn ngữ của dân tộc để dần dần phá vỡ cái khuôn mẫu chật hẹp của
thơ cũ. Trong giai đoạn đầu, thơ ta chưa cần phải sửa lại âm điệu vội. Cái quan trọng cần
phải tiếp thu, đổi mới, mà Phạm Quỳnh nhiều lần nhấn mạnh, là cảm hứng, là nội dung cảm
xúc của thơ. Bởi vì đã có cảm hứng, có cảm xúc ắt sẽ tìm được âm điệu xứng đáng, nếu
không thì âm điệu dẫu hay cũng chưa phải là thơ thực sự. Nói về sự khiếm khuyết của thơ ta,
ông viết:
“Nhưng đến tình tứ của thơ Nôm ta thì có lẽ không được dồi dào lắm, cảm hứng
không được phong phú bằng thơ các nước; tuy không phải là không có cái thú
thanh tao, cái giọng thâm trầm, nhưng dường như “ngắn hơi”, không hô hấp
mạnh lên được, đọc lên có cảm giác như con chim con chưa bay lên đã mỏi cánh,
mong sao mà vượt bể lên ngàn được?” [3, 163; 164].
Nguyên nhân của khiếm khuyết trên, theo Phạm Quỳnh là do từ xưa đến nay thơ ta
chịu ảnh hưởng quá lâu và quá sâu thơ Trung Hoa, đến nỗi làm mất đi cả cái đặc sắc của
mình, biến mình trở thành bản sao của thơ Trung Hoa. Ông cho rằng cảm hứng của thơ
phương Tây thật mới lạ, tuyệt thú mà xưa nay chưa từng gặp trong thơ ta. Người phương
Tây dùng lời thơ mà diễn tả được hết mọi sự vật, cảm xúc. Thơ ta cần phải tiếp thu học hỏi
cách diễn đạt những cảm hứng mới mẽ ấy thay cho những khuôn sáo xưa cũ thì mới phát
triển được.
3.2.3. Ý nghĩa của thơ.
Phạm Quỳnh cho rằng thơ bao giờ cũng gồm hai phần: âm điệu và tình tứ. Âm điệu là
phần hình thức, tình tứ chính là nội dung, là tinh thần của thơ. Hình thức là cần nhưng tinh
thần mới là cái cốt lõi của thơ. Trong bài Thơ là gì? lược dịch bài diễn thuyết của Paul
Géraldy, Phạm Quỳnh đã giới thiệu một cách cặn kẽ cho độc giả Việt Nam về ý nghĩa của
thơ.
Thơ vốn dĩ có hình thức riêng, đó là có vần, có điệu. Tuy nhiên cái hình thức là cái dễ
bắt chước, ai cũng có thể làm được, nếu có sự dụng công. Thể hiện được cái tinh thần của
thơ mới là khó. Cho nên cần phải phân biệt hình thức thơ với thơ thực sự, không nên cho
rằng cái gì không được viết bằng hình thức thơ thì không phải là thơ. Bởi “thơ mà mặc áo
tản văn không phải là không được, và có nhiều bài văn có thi vị hơn là lắm bài thơ nhiều…”
[4, 951]. Thơ phải luôn là sự tìm tòi, đổi mới, vượt ra khỏi những giới hạn vốn có, như cuộc
sống hồn nhiên và luôn phát triển của đứa trẻ, “thơ là vượt ra ngoài thói quen, mà bước vào
một cõi mới lạ, có hứng thú hơn” [4, 953]. Cái instinct poétique, mà Phạm Quỳnh dịch là cái
“hồn thơ”, chính là sức mạnh đưa con người vượt ra khỏi cái giới hạn bình thường, nhàm cũ
vốn có trong cuộc sống của mỗi người để khám phá khoảng không vô tận quanh mình. Muốn
có thơ, muốn cho cái hồn thơ đến với mình thì con người cần phải có sự đổi mới, không chỉ
bằng hình thức sinh hoạt bề ngoài mà đổi mới chính tâm hồn mình. Theo cái luật lười phấn
đấu (La loi du moindre effort), con người ít khi chịu khó mà thường hành động theo thói
quen, do vậy hồn thơ tuy có đó mà diễn ra không được.
Chính vì thơ có sự kén chọn khắt khe như vậy nên nhiệm vụ, thiên chức của nhà thơ là
phải khai phá và hướng đạo cho người đọc, phải chỉ cho người ta “cái mô phạm tương lai”
(type d’avenir). Nhà thơ vĩ đại là người biết tạo ra “cái mô phạm tương lai” toàn vẹn, đẹp đẽ
và phù hợp với con người nhất. Thơ bất tử là thơ phải thể hiện một cách đẹp đẽ và phù hợp
“cái mô phạm tương lai” ấy. Nói tóm lại, “thơ bao giờ cũng là một cuộc thám hiểm về
tương lai” (une exploration dans le domaine de l’avenir) [3, 960], “là sự hình dung tưởng
tượng ra một cái kiểu làm người về tương lai” [3, 960].
Với ý nghĩa như vậy, nhà làm thơ có hai cách diễn tả khác nhau:
- Không rõ ràng, cụ thể, chỉ gợi lên cảm giác mơ màng, phảng phất. Lối diễn đạt này
thường sử dụng nhiều yếu tố nhạc điệu của ngôn ngữ;
- Diễn đạt một cách rõ ràng, trực tiếp. Lối diễn đạt này thuộc về triết lý hơn là âm
nhạc.
Tóm lại là thơ xuất phát ở âm nhạc mà mục đích là ở triết lý sáng sủa. “Âm nhạc là
thơ còn đục, triết lý là thơ đã sáng trong” [3, 961]. Mỗi thời đại, thơ có sự diễn đạt, thể hiện
khác nhau, nhưng tựu trung, đích thực là thơ chân chính thì nó phải làm cho đời sống con
người được phong phú, góp phần hoàn thiện và phát triển nhân cách, góp phần xây dựng
cuộc đời.
Về thơ ca, tuy không đưa ra một hệ thống lý thuyết tương đối đầy đủ như ở thể loại
tiểu thuyết và kịch, nhưng Phạm Quỳnh cũng đã thể hiện rõ quan niệm của mình về việc tiếp
thu, cải tiến và phát triển thơ ca dân tộc. Quan trọng hơn nữa là tác giả đã thể hiện một quan
niệm hết sức tích cực về vai trò, ý nghĩa của thơ đối với cuộc sống con người. Đây là một
quan niệm hết sức hiện đại, thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa việc kế thừa những tinh hoa của
văn học dân tộc với việc tiếp thu những yếu tố tiến bộ của văn học thế giới. Nó có ảnh hưởng
rất lớn đến sự hình thành phát triển của nền thơ hiện đại còn non trẻ của Việt Nam trong giai
đoạn đầu.
3.3. Quan niệm về kịch.
Kịch là một loại hình nghệ thuật vừa thuộc sân khấu vừa thuộc văn học. Đây là một
loại hình nghệ thuật còn hết sức mới mẻ đối với văn học Việt Nam trong những năm đầu thế
kỷ XX. Do vậy việc viết bài biên khảo để giới thiệu những kiến thức mang tính lý luận về
kịch là điều hết sức cần thiết. Phạm Quỳnh đã nói rõ điều này trong phần mở đầu công trình
Khảo về diễn kịch của mình:
“Từ ngày hội Khai trí tiến đức khai diễn bài Bệnh tưởng là một bài hí kịch trong
cổ bản nước Pháp, quốc dân đã thấy khuynh hướng về lối kịch mới, người xem
kịch đã nhiều và người soạn kịch cũng có. Sự nhiệt thành ấy là hay, nhưng mà lệ
thường ở nước ta, những người bắt chước có ý thức thời ít, những kẻ bắt chước để
a dua thời nhiều; cho nên thấy nhiều người cổ võ về tân kịch, vị tất đủ chứng rằng
nhiều người đã hiểu hết tinh thần của kịch mới vậy [3, 1004].
Với tư cách là người hướng đạo cho sự hình thành và phát triển một loại hình văn học
mới, trong bài khảo cứu của mình, Phạm Quỳnh đã cung cấp cho người đọc một hệ thống lý
thuyết cơ bản và tương đối đầy đủ về kịch: khái niệm, đặc trưng, đặc điểm nội dung hình
thức, phân loại kịch…
3.3.1. Khái niệm về kịch.
Khái niệm “Kịch” (tiếng Pháp: Drame), hay thể loại kịch (Genre dramatique) xuất
phát từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “hoạt động”. Theo đó, Phạm Quỳnh đưa ra khái niệm về
kịch như sau: “Diễn kịch là một lối văn chương bày diễn ra một việc gì hoặc có thực, hoặc
đặt ra, bằng những vai người hành động và nói năng hiển nhiên như thực. Diễn kịch có ba
lối chính: một là bi kịch (tragédie), hai là hí kịch (comédie), ba là nhạc kịch (opéra)” [3,
1004].
Trong khái niệm của mình, Phạm Quỳnh đã đưa ra được những dấu hiệu cơ bản về
loại thể. Đó là :
- Loại hình vừa thuộc sân khấu vừa thuộc văn học: “Lối văn chương bày diễn”;
- Nội dung là những việc có thực hoặc hư cấu: “Việc gì hoặc có thực hoặc đặt ra”;
- Nhân vật kịch nói năng, hành động như ngoài đời thực: “Vai người hành động và nói
năng hiển nhiên như thực”.
Phạm Quỳnh gọi kịch là nghệ thuật “bày diễn” vì khác tất cả các thể loại văn học
khác, mọi mặt nội dung, ý nghĩa của một tác phẩm kịch không phải được thể hiện qua lời
trần thuật của tác giả mà qua lời thoại và hành động của nhân vật. Diễn kịch chính là mô
phỏng cuộc sống, sự mô phỏng ấy càng giống với thực tế bao nhiêu thì càng gây hứng thú
cho người xem bấy nhiêu. Do vậy nhân vật trong kịch phải nói năng, hành động như thực là
điều đặc biệt quan trọng. Nội dung của kịch là việc có thực hoặc có thể là hư cấu, miễn là
việc hư cấu ấy có thể xảy ra. Người soạn kịch muốn thuyết phục người thưởng thức bằng
những điều hư cấu thì cần phải chú ý xem điều mà mình hư cấu có khả năng xảy ra không?
Có hợp với qui luật vận động của cuộc sống không? Đồng thời phải biết khéo sắp xếp các sự
việc trong kịch theo một trình tự hợp lý. Tuy nhiên, theo ông, phần lớn những vở kịch xưa
của châu Âu đều dựa vào những sự việc có thật trong lịch sử, hoặc trong truyền kỳ, cổ tích
để sắp xếp lại. Ngược lại, trong thời kỳ hiện đại thì phần lớn nội dung trong các vở kịch là
hư cấu. Nói về đặc điểm hư cấu trong nội dung của kịch, tác giả chưa chỉ rõ rằng kịch bản
cũng là một loại hình văn học, mà một trong những đặc trưng của văn học là hư cấu.
Về nguồn gốc của kịch (phương Tây), Phạm Quỳnh chỉ rõ kịch xuất phát từ Hy Lạp,
bắt nguồn từ nghi lễ tế thần rượu Bacchus. Người đầu tiên nghĩ ra việc diễn về sự tích của
thần là Epigènes. Về sau Thespis, Eschyle, Sophocle và Euripide tiếp tục cải tiến mà thành
lối bi kịch. Thể loại hài kịch cũng bắt nguồn từ sự reo hò nhảy múa, pha trò để gây cười của
những người đi theo lễ rước thần rượu, khi đám rước diễu hành qua các làng xóm.
Như vậy ban đầu kịch gồm có hai loại: Bi kịch và hài kịch. Mục đích của nó là tái hiện
lại công đức, sự nghiệp của những bậc anh hùng, thần linh hoặc phơi bày những thói hư tật
xấu để chế diễu nhằm giáo dục con người. Về sau này xuất hiện thêm những loại mới, như:
Nhạc kịch (opéra), ca kịch (vaudeville), tạp kịch (mélodrame)….
3.3.2. Đặc trưng của kịch.
Phạm Quỳnh cho rằng cũng giống như tiểu thuyết, soạn kịch cũng cần ba yếu tố cơ
bản sau:
3.3.2.1. Sáng ý (invention).
Thuật ngữ “sáng ý” được Phạm Quỳnh dịch từ chữ invention trong tiếng Pháp, có
nghĩa là sự phát minh, sự bịa đặt, sự hư cấu. Sáng ý là đặt chuyện, là nghĩ ra người và việc
cho tác phẩm kịch, nhưng phải khéo léo và sinh động hơn so với tiểu thuyết, vì tiểu thuyết là
tự sự còn kịch là hành động.
Nhân vật trong kịch bao giờ cũng được phân thành một vai chính, các vai phụ còn lại
có nhiệm vụ làm nổi bật vai chính. Tính cách của vai chính phải được thể hiện rõ ràng, và
diễn biến của kịch chính là sự phát triển tính cách của vai chính. Trong kịch, tính cách của
các nhân vật không được trùng lặp mà thường mâu thuẫn, đối lập nhau. Để tạo nên cảm giác
chân thực ở người xem thì sự phối hợp khéo léo, thống nhất giữa nhà soạn kịch và diễn viên
là điều hết sức cần thiết mà lý luận kịch gọi là “machine dramatique” (Phạm Quỳnh dịch là
“dùng máy”).
Kịch cổ châu Âu rất chú trọng đến luật “tam duy nhất” (règle des trois unités): duy
nhất về hành động (unité d’action), duy nhất về nơi chốn, địa điểm (unité de lieu) và duy
nhất về thời gian (unité de temps). Duy nhất về hành động nghĩa là mọi hoạt động, diễn biến
từ lúc mở đầu cho đến kết thúc đều phải tập trung vào sự kiện chủ yếu, then chốt có ảnh
hưởng đến nhân vật chính trong kịch. Duy nhất về nơi chốn thể hiện ở chỗ mọi sự kiện trong
kịch phải được diễn ra tại một nơi nhất định. Duy nhất về thời gian tức là mọi sự kiện trong
kịch phải được thể hiện trong một khoảng thời gian nhất định, thường là không quá một
ngày.
Phạm Quỳnh cho rằng luật “tam duy nhất” quá nghiêm ngặt do vậy mà từ xưa đến
nay, các nhà soạn kịch, nhất là những nhà soạn kịch mới, không tuân thủ đúng theo qui định
của nó. Trong kịch hiện đại thường có sự châm chước, mở rộng, đặc biệt là đối với hai yêu
cầu duy nhất về thời gian và nơi chốn. Riêng yêu cầu duy nhất về hành động, ngay đến
những người theo trường phái lãng mạn (les romantiques) vẫn chấp nhận và tuân thủ.
Về cốt truyện, Phạm Quỳnh cho rằng có hai cách xây dựng: cách dựng chuyện đơn
giản (fables simple) và cách dựng chuyện phức tạp (fables complexe). Cốt truyện đơn giản là
cách dựng chuyện tuần tự theo đường thẳng từ đầu đến cuối, không có những trắc trở, những
biến động bất ngờ. Cách dựng chuyện theo kiểu này dễ vì ít sự kiện nhưng lại khó vì phải
khéo mới lột tả được tâm trạng của nhân vật. Cốt truyện phức tạp là cách dựng chuyện gồm
nhiều sự kiện với những trắc trở, đột biến bất ngờ. Cách dựng chuyện theo kiểu này thường
chú trọng nhiều ở sự việc, ngoại cảnh hơn là ở tâm trạng, cảm xúc.
Mục đích của kịch bao giờ cũng gắn liền với việc giáo dục luân lý, đạo đức. Do vậy
mà lý luận kịch xưa đặt ra bốn yêu cầu sau:
1/ Trong vở kịch không nên diễn tả cái xấu, cái ác từ đầu đến cuối mà phải có sự đối
trọng với cái thiện, cái tốt;
2/ Khi thể hiện các nhân vật thiện và ác, cần phải làm nổi bật được nhân vật thiện;
3/ Tả về chuyện tình cảm, không nên dùng ngôn từ và hành động có tính khơi gợi
những ý nghĩ tà dâm ở người xem;
4/ Dù diễn biến của kịch thế nào nhưng kết thúc phải thể hiện được cái ngụ ý giáo dục
đối với người xem.
Tóm lại, theo Phạm Quỳnh, tôn chỉ của kịch trong thời kỳ đầu là thực hiện chức năng
giáo dục đạo đức, bảo vệ luân lý. Trong văn học hiện đại, tiểu thuyết và kịch thường không
thiên về nội dung đạo đức, luân lý mà chỉ chú trọng về mặt nghệ thuật. Nước ta bấy giờ còn
kém châu Âu về mọi mặt, nhất là về văn học. Do vậy tiếp thu các thể loại kịch và tiểu thuyết
của châu Âu, ta nên bắt chước những thành quả của mấy trăm năm trước, không nên mô
phỏng lối tiểu thuyết và kịch hiện thời để khỏi hại đến luân lý, đạo đức.
3.3.2.2. Bố cục
Qua bài biên khảo của Phạm Quỳnh, về bố cục của kịch, ta thấy có những điểm chủ
yếu như sau:
Mỗi vở kịch đều phải chia ra từng hồi (actes), mỗi hồi lại gồm nhiều kịch (scènes:
cảnh, lớp). Hồi là một đoạn lớn trong vở kịch; kịch (hay là “cảnh”, “lớp”) được thể hiện
bằng sự xuất hiện hay rút lui của một vai nào đó. Sau mỗi hồi có khoảng thời gian nghỉ, gọi
là entracte (nghỉ chuyển hồi); trong giờ nghỉ có dàn nhạc hay bông lơn thì gọi là intermède
(màn xen vào).
Cấu trúc của kịch theo Horace, mỗi vở kịch phải có năm hồi, nhưng các nhà soạn kịch
nhiều khi chỉ viết hai, ba hoặc bốn hồi. Trong hồi lại phân ra cảnh. Cảnh trong mỗi hồi thì
không có qui định cụ thể. Riêng trong bố cục của lối kịch cổ, ngay ở cảnh thứ nhất phải có
một đoạn “giải đề” (protaste) do một vai quan trọng nói rõ đại ý của vở kịch bằng lời lẽ
trang nghiêm. Đầu mỗi vở kịch cổ cũng có một đoạn “khai mào” (prologue) do tác giả đọc ở
sân khấu trước khi diễn kịch. Nội dung của đoạn này thường là tóm lược nội dung, xuất xứ
câu chuyện trong kịch, hoặc là lời cảm ơn, lời than vãn hay tán dương công đức…
Cốt yếu nhất trong kịch là “thắt nút” (noeud dramatique), tức là việc giấu tất cả những
khó khăn, trở ngại vào một chỗ rồi gỡ ra dần dần. Thắt nút cần phải chặt để khi gỡ mới tạo
được sự thú vị, nhưng cũng không nên quá rắc rối. “Gỡ nút” (dénouement) cần phải tự
nhiên, bất ngờ và có ngụ ý. Gỡ nút có nhiều cách: “gỡ bằng lối nhận ra nhau” (dénouement
par reconnais-sance), là cách mà lúc thắt nút, các nhân vật chưa nhận ra nhau thì đến khi gỡ
nút các nhân vật đã nhận được nhau; “gỡ bằng sự biến cách” (dénouement par révolution) là
cách gỡ nút mà nhân vật chính gặp một sự kiện bất ngờ, làm thay đổi cả cục diện. Nếu sự đột
biến là điều hay thì gọi là “hảo biến” (Péripétie), là điều không hay thì gọi là “tai biến”
(catastrophe).
3.3.2.3. Lập từ, hay cách diễn đạt (élocution).
Ngôn ngữ chủ yếu trong kịch là ngôn ngữ đối thoại (dialogue) và độc thoại
(monologue). Đối thoại là lời đối đáp giữa các nhân vật. Lời đối thoại phải tự nhiên, liên tục,
sinh động và không quá dài dòng, rườm rà. Khi nhân vật nói một mình nhằm bộc lộ tâm tư,
suy nghĩ thì đó là độc thoại; thường thì lời độc thoại cần ngắn gọn, trừ khi cần thể hiện tâm
tư trong trạng thái bối rối, xung đột dữ dội. Lời văn trong kịch phải tự nhiên như lời nói
chuyện nhưng phải có ý nghĩa. Giọng điệu phải phải phù hợp với tính cách của từng nhân
vật. Khác với tiểu thuyết, tác giả hoàn toàn không xuất hiện trong kịch.
Lối văn trong hài kịch có thể viết là văn vần hoặc văn xuôi, nhưng thường là văn xuôi.
Còn bi kịch buộc phải viết bằng văn vần, vì chỉ có văn vần mới có thể bày tỏ được cái vẻ
trang nghiêm trịnh trọng của những tình cảm bi tráng. Tuy nhiên trong thời hiện đại, kịch
thường có sự kết hợp của cả hai lối bi kịch và hài kịch gọi là “bi hí kịch” (tragi-comédie)
hay “kịch” (drame). Lối kịch mới này thường viết bằng văn xuôi hơn là văn vần.
3.3.2.4. Bi kịch và hài kịch.
Trước khi bàn về bi kịch và hài kịch, Phạm Quỳnh tiến hành phân biệt cái bi với cái
hài trên các phương diện mục đích, phạm vi và tác dụng của chúng. Theo ông, mục đích của
cái bi là khiến cho người ta ngưỡng mộ, cảm phục trước những cái cao cả đồng thời ghê sợ,
căm ghét những cái xấu xa, độc ác. Mục đích của cái hài là nhằm sửa chữa những thói hư, tật
xấu trong xã hội. Phạm vi phản ánh của bi là những cái cao cả hoặc những tội ác, tai nạn lớn
thường chỉ có trong lịch sử, truyền thuyết. Phạm vi phản ánh của cái hài là những cái xấu xa,
đáng cười trong đời sống xã hội. Cái bi làm cho người ta khiếp sợ hoặc cảm phục; cái hài
khiến người ta buồn cười mà xấu hổ. Căn cứ trên việc lựa chọn cái bi hay cái hài làm đối
tượng phản ánh mà chia ra thành bi kịch hay hài kịch.
Bi kịch là thể loại kịch diễn tả cái gì lớn lao, ghê gớm khiến người ta khiếp sợ hoặc
cảm phục. Muốn tạo ra cái cảm giác bi tráng trong bi kịch không nhất thiết dùng cái chết mà
cốt yếu phải đặt nhân vật chính vào những cảnh ngộ nguy hiểm cho sinh mệnh hay danh dự.
Tức là tình huống xung đột, mâu thuẫn dữ dội giữa sự sống và cái chết, giữa danh dự và thấp
hèn.
Hài kịch là thể loại kịch diễn tả những cái đáng buồn cười trong đời sống, như những
khiếm khuyết về đạo đức, những sai lệch về hành vi, thái độ, những cử chỉ trái với lẽ tự
nhiên v.v…nhằm thông qua tiếng cười mà sửa chữa, cải tạo. Để tạo ra tiếng cười, cái đáng
cười cần phải được phóng đại và đặt trong sự đối lập, mâu thuẫn giữa các đối tượng. Ví dụ
kẻ keo kiệt đối với người hoang phí, kẻ dối trá đối với người thật thà… Cái cười rất đa dạng,
các sách phương Tây chia cái cười làm ba loại: Thượng lưu hí (“comique noble” ou “haut
comique”) là cái cười đối với những cái xấu xa của kẻ giàu sang, quyền quý; cách châm
biếm thường kín đáo, giọng cười cũng thanh tao. Trung lưu hí (comique bourgeois) là cái
cười đối với thói hợm hĩnh, tham lam, giả dối của tầng lớp trung lưu trong xã hội. Hạ lưu hí
(bas comique) là cái cười đối với những thói tục tằn, hủ lậu của giới bình dân. Chi tiết hơn,
người ta còn chia hài kịch ra năm tiểu loại:
- Hí kịch bày việc (comédie d’intrigue) là hài kịch sắp đặt những cái đáng cười một
cách hỗn loạn, khiến người xem không thể nhận ra, tiếng cười chỉ bật ra khi gỡ nút;
- Hí kịch tả người (comédie de caratère) là cách đặt nhân vật chính vào vào một thói
xấu nào đó rồi diễn cho lộ cái xấu ấy ra để gây cười;
- Hí kịch tạp (comédie mixte) là vừa bày việc vừa bày người, đem đối lập người này
với người kia, việc này với việc khác, qua đó tạo nên tiếng cười;
- Hí kịch có múa (comédie ballet) là loại hài kịch sau mỗi hồi lại có múa hát;
- Hí kịch pha trò (farce) là lối pha trò cho người không có học, thường diễn nơi chợ
búa ở nhà quê.
Đối với loại hình kịch, tuy không có nhiều bài biên khảo hoặc biên dịch như đối với
những thể loại văn học khác, nhưng Phạm Quỳnh là người đầu tiên cung cấp một cách có hệ
thống những kiến thức mang tính lý luận hết sức chặt chẽ về một loại hình nghệ thuật hoàn
toàn mới mẻ đối với Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX. Vào thời điểm Phạm Quỳnh
viết bài Khảo về diễn kịch, lý luận và sáng tác kịch hiện đại đã rất phát triển ở phương Tây
nhưng với nước ta nó vẫn còn là một loại hình văn học hết sức mới lạ, chỉ mới được tiếp thu
và thể nghiệm. Những lý thuyết về thể loại kịch mà Phạm Quỳnh giới thiệu là kết quả mà
ông tiếp thu từ thành tựu lý luận và sáng tác của phương Tây, mà chủ yếu là của Pháp. Trong
hệ thống lý luận ấy có những điểm chưa hợp lý, hoặc không còn phù hợp với lý luận kịch
hiện đại. Chẳng hạn như về cách phân loại kịch, tác giả chưa đưa ra những tiêu chí phân loại
một cách cụ thể. Về đặc trưng của kịch, hệ thống lý thuyết mà Phạm Quỳnh cung cấp chưa
làm rõ được sự khác nhau giữa kịch và tự sự. Cả hai loại hình nghệ thuật này đều phản ánh
cuộc sống thông qua những sự kiện và nhân vật, nhưng kịch tính là đặc điểm nổi bật của
kịch: “Kịch tính là trạng thái căng thẳng đặc biệt của mâu thuẫn, xung đột được tạo ra bởi
những hành động thể hiện các khuynh hướng tính cách và ý chí tự do của con người” [45,
333]. Cách trình bày của Phạm Quỳnh về cốt truyện kịch vẫn còn mang tính chất giản lược,
chưa thực sự giúp người đọc phân biệt sự khác nhau giữa cốt truyện của tự sự với cốt truyện
kịch. Tự sự, đặc biệt là tiểu thuyết, cho phép xây dựng những cốt truyện phân tầng, đa tuyến,
gồm nhiều truyện nhỏ trong một truyện lớn. Trong khi đó, cốt truyện của kịch thường đơn
tuyến, thể hiện tính tập trung cao độ. Về ngôn ngữ kịch, tác giả chưa chỉ ra chức năng của
nó, cũng như chưa làm rõ ngoài đối thoại và độc thoại, ngôn ngữ kịch còn một hình thức lời
thoại nữa là bàng thoại – lời nhân vật nói với khán giả – cũng thường được sử dụng. Cùng
với hành động, lời thoại cũng là phương tiện chủ yếu thể hiện tính cách của nhân vật trong
kịch. Về mặt chức năng của kịch, cũng như đối với văn học, Phạm Quỳnh luôn nhất quán với
quan niệm nghệ thuật phải gắn với đạo đức. Chức năng giáo dục là tiêu chí hàng đầu trong
việc tiếp thu, thẩm định văn học của tác giả. Có lẽ vì vậy, khảo về thể loại này tác giả chỉ chú
ý cung cấp những kiến thức của lý luận kịch cổ điển và đã lưu ý các nhà soạn kịch trong
nước:
“Nước ta ngày nay, nhất thiết mọi đường, còn kém châu Âu xa lắm; như về đường
văn học, ta còn đương ở về thời kỳ văn chương còn phải phụ thuộc với luân lý,
chưa đến thời kỳ văn chương đã khuynh hướng về mỹ thuật, ta có muốn bắt chước
Âu châu là còn phải bắt chước Âu châu vào mấy trăm năm trước, nếu đã vội vàng
vượt trình độ mà mô phỏng ngay những lối tiểu thuyết cùng diễn kịch tối tân bây
giờ, thời không khéo ra đến sai lầm hết cả, và không khỏi mang tiếng là làm những
văn chương tổn hại đạo đức, bại hoại phong tục vậy” [3, 1012; 1013].
Mặc dù biên khảo của Phạm Quỳnh về kịch có một số hạn chế như đã trình bày ở trên
nhưng vẫn có thể khẳng định: Đối với thể loại kịch, Phạm Quỳnh là người có đóng góp bước
đầu hết sức quan trọng về mặt lý luận, giúp cho sự tiếp thu, vận dụng và phát triển một loại
hình nghệ thuật mới, làm phong phú cho nền nghệ thuật Việt Nam hiện đại nói chung, cho
văn học Việt Nam hiện đại, nói riêng.
3.4. Quan niệm về lý luận phê bình văn học.
Trong cấu trúc của đời sống văn học, lý luận phê bình đóng vai trò hướng đạo cho các
hoạt động sáng tác và tiếp nhận. Ở phương diện này, trong giai đoạn giao thời của văn học
Việt Nam, Phạm Quỳnh được xem là “một đạo sư văn nghệ mới”1.
1 Chữ dùng của Phạm Thế Ngũ.
Phạm Quỳnh là một trong những người sớm ý thức một cách sâu sắc vai trò của lý
luận phê bình đối với sự phát triển của văn học. Chính vì vậy mà lý luận phê bình, chiếm
một bộ phận lớn trong hoạt động văn học của ông. Phạm Thế Ngũ, trong Việt Nam văn học
sử giản ước tân biên, đã chia tác phẩm lý luận phê bình văn học của Phạm Quỳnh ra làm ba
loại:
- Phê bình các tác phẩm văn học cổ của dân tộc;
- Giới thiệu, phê bình các tác phẩm mới xuất bản của các tác giả trong nước;
- Dịch và giới thiệu các tác phẩm tiêu biểu của các tác giả phương Tây.
Còn một hoạt động nữa, rất quan trọng trong lĩnh vực lý luận phê bình văn học của
Phạm Quỳnh mà Phạm Thế Ngũ chưa đề cập đến đó là việc ông giới thiệu, cung cấp những
lý thuyết, khái niệm, thuật ngữ văn học hết sức mới mẻ từ văn học – khoa học phương Tây,
giúp cho các nhà văn và học giả nước nhà có được một số vốn thuật ngữ công cụ thiết yếu
trong lĩnh vực lý luận – phê bình.
Khảo sát các công trình lý luận, phê bình văn học của Phạm Quỳnh, trước hết chúng
ta nhận thấy tác giả đã có những quan niệm đúng đắn và nhất quán về vai trò chức năng cũng
như ảnh hưởng của hoạt động lý luận phê bình đối với văn học. Xuất phát từ mục đích xây
dựng và phát triển nền văn mới trên cơ sở tiếp thu những tri thức văn học hiện đại của
phương Tây, đồng thời bảo tồn, kế thừa những thành tựu xuất sắc của văn học dân tộc, Phạm
Quỳnh chủ trương lý luận phê bình phải làm nhiệm vụ đánh giá, sửa chữa, uốn nắn, khuyến
khích và hướng đạo cho văn học.
Không bằng lòng với lối phê bình văn học theo kiểu tán dương, “điểm nhãn” của lý
luận phê bình cũ, Phạm Quỳnh chủ trương cần phải dùng phương pháp phê bình khảo cứu
của văn học phương Tây mới có thể tìm hiểu và đánh giá được những giá trị đặc sắc của tác
phẩm văn học. Trong nhận thức của ông, nhiệm vụ của lý luận phê bình trước hết là nghiên
cứu, tìm hiểu, đánh giá một cách đầy đủ và đúng đắn những giá trị đặc sắc của tác phẩm văn
học. Điều ấy chỉ có thể thực hiện được với phương pháp của lý luận phê bình Phương Tây.
Với nhận thức như vậy nên ông đi tiên phong vận dụng phương pháp nghiên cứu văn học
của phương Tây vào việc phê bình các tác phẩm văn học cổ Việt Nam. Trong bài nghiên cứu
về Truyện Kiều, năm 1919, Phạm Quỳnh nói rõ là “không thể lấy cái tỉ lệ thường của văn
chương Nôm mà xét được. Phải dùng phép phê bình khảo cứu của văn học Thái Tây mới
mong phát biểu được cái đặc sắc, bày tỏ được cái giá trị của một nền tuyệt tác trong quốc
văn Việt Nam ta” [3, 551]. Nghiên cứu về Tục ngữ ca dao, Phạm Quỳnh cũng áp dụng triệt
để phương pháp nghiên cứu phê bình của văn học phương Tây như vậy.
Đối với các tác phẩm văn học mới trong nước, quan điểm của Phạm Quỳnh là đánh
giá một cách đúng mức những tiến bộ, những thành tựu ban đầu của các tác giả nhằm
khuyến khích, đồng thời chỉ ra những hạn chế nhằm uốn nắn sửa chữa. Với quan niệm như
vậy nên trong tất cả các bài phê bình của Phạm Quỳnh ta luôn bắt gặp một thái độ chừng
mực, lịch sự. Chỗ khen, ông khen một cách nhiệt tình, sôi nổi; chỗ chê, ông chê một cách
nhẹ nhàng, lịch sự. Chẳng hạn như đối với các tác phẩm Khối tình con, Giấc mộng con của
Tản Đà, Một tấm lòng của Đoàn Như Khuê, Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn…
Không chỉ làm nhiệm vụ nghiên cứu, đánh giá, sửa chữa, uốn nắn, khuyến khích cho
văn học phát triển, Phạm Quỳnh còn rất chú trọng đến nhiệm vụ của lý luận phê bình phải
cung cấp cho văn học những “cái thuật”, tức hệ thống lý thuyết, bao gồm những thuật ngữ,
khái niệm thể loại, phương pháp sáng tác,… tức hướng đạo cho hoạt động sáng tác văn học.
Phạm Quỳnh là người đã giới thiệu và cung cấp cho văn học Việt Nam những lý thuyết và khái
niệm cơ bản về nhiều thể loại văn học. Trong các bài biên khảo về các thể loại kịch, tiểu
thuyết, tác giả không chỉ giới thiệu nguồn gốc ra đời, vai trò xã hội, chức năng nghệ thuật của
các thể loại mà còn đi sâu vào những vấn đề “kỹ thuật” thuộc về đặc trưng thể loại. Chẳng hạn
khi bàn về diễn kịch, bên cạnh việc trình bày về nguồn gốc, ý nghĩa của kịch, Phạm Quỳnh giới
thiệu khá kỹ lưỡng những yếu tố cốt yếu của việc soạn kịch:
- Sáng ý (invention) với các khái niệm về “vai chính” (rôle principal), “vai phụ” (rôle
secondaire); về “luật tam duy nhất” (règle des trois unités) với những gia giảm của luật này
trong lịch sử diễn kịch.
- Bố cục (disposition) với các khái niệm về “hồi” (actes) và “cảnh” (scènes); về những
yêu cầu trong từng phần “giải đề” (protaste) – “thắt nút” (noeud dramatique) – “cởi nút”
(dénouement); về “đối thoại” (dialogue), “độc thoại” (monologue)…
- Lập từ (elocution): viết bằng thơ hay văn xuôi.
Đối với thể loại tiểu thuyết, cũng thực hiện theo cách như vậy, Phạm Quỳnh đi sâu giới
thiệu về kết cấu, cách phô diễn, lối kể và tả v.v…trong tiểu thuyết.
Ở phương diện lý luận văn học, Phạm Quỳnh cũng thường đề cập đến chức năng cũng
như tính khuynh hướng của sáng tác văn học. Một trong những chức năng văn học mà Phạm
Quỳnh luôn đề cao là văn học phải gắn liền với việc giáo dục phong hóa, đạo đức. Lý luận về
chức năng giáo dục của văn học mà Phạm Quỳnh đề cao đã ảnh hưởng rất sâu sắc đến các nhà
văn cùng thời. Trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Phạm Thế Ngũ đã nói đến ảnh
hưởng này qua hai trường hợp tiêu biểu là Hoàng Ngọc Phách với tiểu thuyết Tố Tâm và
Nguyễn Trọng Thuật với tiểu thuyết Quả dưa đỏ.
Khuynh hướng sáng tác mà Phạm Quỳnh luôn nhấn mạnh là tôn trọng cái thực. Thực
trong văn xuôi nghệ thuật, đó là sự miêu tả cụ thể, sinh động những chi tiết nhằm tái hiện sự vật
như nó vốn có trong đời sống, khác với lối tả công thức, phác họa trong văn học truyền thống.
Với thơ, thực là sự tự do thể hiện cảm xúc, không bị hạn chế, gò bó bởi những qui định nghiêm
ngặt của niêm luật, công thức. Trong kịch, thực ấy “là phải mô phỏng cho hệt như sự thực ở
đời. Người ta xem diễn kịch sở dĩ có hứng thú là thấy việc bày ra hiển nhiên như thực; như vậy
thời việc phải cho hợp với lẽ thường ở đời” [3, 1005].
Tóm lại, ở địa hạt này, có thể nói Phạm Quỳnh là một nhà lý luận phê bình xuất sắc của
văn học Việt Nam trong buổi giao thời. Với những quan niệm tích cực về vai trò, chức năng của
lý luận phê bình như đã phân tích ở trên, Phạm Quỳnh đã có những đóng góp giá trị cho lý luận
và thực tiễn sáng tác cũng như tiếp nhận thưởng thức văn học trong thời kỳ đầu.
Tiểu kết.
Với tư cách là một nhà văn, Phạm Quỳnh đã thể hiện một quan niệm khá toàn diện,
nhất quán và tiến bộ về văn học nghệ thuật.
Điểm bao quát nhất trong quan niệm về văn học của Phạm Quỳnh mà ta rất dễ dàng
nhận thấy là thâu thái những tiến bộ của phương Tây đem dung hòa với tinh hoa của dân tộc
để tạo ra một nền văn học mới cho đất nước. Trên tinh thần tiến bộ đó, tác giả thực sự đã có
nhiều đóng góp cho văn học dân tộc. Trước hết là bằng hoạt động nghiên cứu, dịch thuật,
biên khảo, tác giả đã cung cấp cho văn học Việt Nam những tri thức mang tính lý luận hết
sức quí giá về thể loại văn học, đặc biệt là những thể loại còn hết sức mới mẻ đối với văn
học hiện đại Việt Nam trong buổi đầu hình thành và phát triển. Với tư cách một nhà phê bình
lý luận văn học, Phạm Quỳnh là người đầu tiên áp dụng thành tựu lý luận phê bình văn học
phương Tây hiện đại vào nghiên cứu các tác phẩm văn học dân tộc. Với quan điểm xây dựng
và phát triển nền văn mới, hoạt động phê bình của Phạm Quỳnh chủ yếu là nhằm uốn nắn,
sửa chữa, khuyến khích và hướng đạo cho văn học, đặc biệt là đối với các sáng tác mới,
mang tính thể nghiệm của các tác giả trong nước. Không chỉ nghiên cứu, dịch thuật và biên
khảo, Phạm Quỳnh còn tham gia hoạt động sáng tác. Với những thiên du ký đăng trên Nam
Phong tạp chí, Phạm Quỳnh đã mở đường cho một thể tài văn học mới, cũng như khơi nguồn
cho một phong trào viết du ký khá rầm rộ thời bấy giờ.
Điểm hạn chế của Phạm Quỳnh trong quan niệm về văn học là luôn gắn chức năng
giáo dục với văn học, quá coi trọng nội dung, tư tưởng của văn học hơn là hình thức nghệ
thuật của nó. Mặc dù vậy, với văn học Việt Nam trong giai đoạn đầu của tiến trình hiện đại
hóa, công lao của Phạm Quỳnh là đáng được trân trọng ghi nhận
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh đặc biệt của lịch sử văn hóa, chính trị Việt Nam những năm đầu thế kỷ
XX, với vai trò là một nhà báo, một nhà văn trong lớp người đi tiên phong, bằng tài năng, sở
học và nhiệt huyết của mình Phạm Quỳnh đã có những đóng góp đáng kể, nếu không nói là
rất lớn, đối sự hình thành và phát triển của nền báo chí, văn học và mỹ học Việt Nam hiện
đại.
Ở lĩnh vực báo chí, với vai trò là một nhà báo, một chủ bút của một tờ tạp chí lớn, có
uy tín, Phạm Quỳnh với sự cộng tác đắc lực của những cây bút tên tuổi, đã có những đóng
góp quan trọng cả về mặt hoạt động thực tiễn lẫn về phương diện lý luận, góp phần hoàn
thiện và phát triển nền báo chí ở Việt Nam cả về số lượng và chất lượng. Lợi dụng sự đỡ đầu
của chính quyền thực dân, Phạm Quỳnh và các cộng sự của ông đã biến tờ báo thành cơ quan
truyền bá những tư tưởng học thuật của phương Tây trong nỗ lực xây dựng, chấn hưng văn
hóa nước nhà và sự thực đã góp phần tạo nên một diện mạo mới cho văn hóa Việt Nam
những năm đầu thế kỷ XX.
Về mục đích của báo chí, thông qua việc chủ trương tờ báo của mình, Phạm Quỳnh đã
xác định những đặc trưng cơ bản, mang tính lý luận cho báo chí, đó là chức năng thông tin,
tuyên truyền và giáo dục. Về nội dung của báo chí, chính sự phong phú, đa dạng của các
mục, các bài trên Nam Phong, Phạm Quỳnh đã góp phần vô cùng to lớn trong việc hoàn
thiện và phát triển báo chí Việt Nam từ hình thức sơ khai, đơn giản lên trình độ hiện đại,
đúng với đặc trưng về nội dung của thể loại này. Một đóng góp quan trọng nữa của Phạm
Quỳnh và báo Nam Phong đối với báo chí Việt Nam đó là về mặt ngôn ngữ báo chí và cách
thức biên tập, đưa tin. Tiếp nối sự nghiệp truyền bá chữ quốc ngữ của thế hệ trí thức đi trước,
Phạm Quỳnh và báo Nam Phong đã kiên trì nghiên cứu, cải tạo câu văn quốc ngữ, khiến nó
có khả năng diễn đạt một cách trong sáng, rõ ràng mọi khái niệm thâm thúy của tư tưởng
triết học kim cổ đông tây thông qua việc tổ chức biên dịch, giới thiệu các tư tưởng ấy trên
mặt báo. Những cố gắng ấy của Phạm Quỳnh và Nam Phong, đã góp phần không nhỏ trong
việc phát triển ngôn ngữ tiếng Việt , nói chung và ngôn ngữ báo chí, nói riêng. Qua những
bài viết được biên tập kỹ càng, với nội dung phong phú, cùng với những cuộc tranh luận
công khai về văn học, văn hóa trên mặt báo, thu hút sự quan tâm của công chúng độc giả,
Phạm Quỳnh và Nam Phong đã góp phần tạo nên không khí sôi nổi cho đời sống ngôn luận
thời bấy giờ cũng như phát triển lực lượng độc giả cho báo chí Việt Nam. Về phương diện lý
luận, chính Phạm Quỳnh là người đầu tiên cung cấp cho khoa lý luận báo chí Việt Nam
những ý kiến quí giá về ý nghĩa của báo chí, cũng như vai trò, nhiệm vụ của người làm báo.
Ở lĩnh vực văn học, công lao lớn nhất của Phạm Quỳnh cần được lịch sử ghi nhận là
nỗ lực xây dựng và phát triển nền văn mới. Trên báo Nam Phong của mình, ông đã mở nhiều
chuyên mục văn học, tạo điều kiện bảo tồn và phục hồi những giá trị văn học cũ; tiếp thu cái
hay, cái đẹp về nội dung tư tưởng và nghệ thuật của các tác phẩm văn học nước ngoài cũng
như khuyến khích phát triển các thể loại văn học mới.
Bằng thực tiễn hoạt động lý luận phê bình của mình cũng như thông qua những cuộc
tranh luận văn học với các học giả khác trên báo chí, Phạm Quỳnh chính là người mở đường
cho ngành lý luận phê bình phát triển. Quan niệm về mục đích và phương pháp lý luận phê
bình văn học của Phạm Quỳnh là một quan niệm hết sức tiến bộ, có ảnh hưởng sâu sắc
không chỉ đối với các nhà nghiên cứu lý luận phê bình văn học đương thời mà cả với nền
nghiên cứu lý luận phê bình hiện nay của Việt Nam. Trong giai đoạn đầu của quá trình hiện
đại hóa văn học, với quan niệm tiến bộ và thực tiễn lý luận phê bình của mình, Phạm Quỳnh
đã có nhiều đóng góp cho việc phục hồi, đánh giá đúng đắn những giá trị của văn học cổ
truyền cũng như định hướng và khuyến khích sự phát triển của văn học mới.
Ở lĩnh vực dịch thuật, cùng với Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh là một dịch giả lớn
của giai đoạn văn học giao thời. Với quan điểm thâu thái tư tưởng học thuật tiến bộ của văn
minh Đông – Tây bồi bổ cho nền học nước nhà và phát triển ngôn ngữ dân tộc, Phạm Quỳnh
đã có nhiều công trình dịch thuật giá trị. Và qua hoạt động dịch thuật ấy, ông đã đóng góp
cho nền dịch thuật Việt Nam những kinh nghiệm và mẫu mực về phương pháp dịch thuật
cũng như phát động nên một phong trào dịch thuật sôi nổi và rầm rộ trong văn học nước nhà
những năm đầu thế kỷ XX.
Đối với sự bồi bổ, phát triển hoàn thiện chữ quốc ngữ và câu văn quốc ngữ, Phạm
Quỳnh là một trong những người ghi công đầu. Chính ông, bằng nỗ lực hô hào, kêu gọi, đề
ra những biện pháp cụ thể và trực tiếp tham gia cải tiến câu văn quốc ngữ thông qua các bài
diễn thuyết, dịch thuật, biên khảo của mình, đã đưa chữ quốc ngữ từ giai đoạn ấu trĩ sang giai
đoạn trưởng thành. Câu văn quốc ngữ đến thời Phạm Quỳnh đã đạt đến sự hoàn thiện, đủ sức
diễn đạt một cách trong sáng, rõ ràng mọi khái niệm thâm thúy của các tư tưởng triết học
kim cổ đông tây cũng như biểu hiện một cách tinh tế và sâu sắc những tư tưởng, tình cảm
sâu kín của con người.
Về mặt thể loại, bằng hoạt động dịch thuật, khảo cứu và sáng tác, Phạm Quỳnh là
người mở đường cho thể tài du ký và là người đầu tiên cung cấp những tri thức mang tính lý
luận về các thể loại văn học mới như tiểu thuyết, thơ, kịch, góp phần hình thành và phát triển
các thể loại này.
Kế thừa quan niệm “Văn dĩ tải đạo” của văn học truyền thống trên cơ sở tiếp thu
những tư tưởng tiến bộ của văn học phương Tây, Phạm Quỳnh đặc biệt coi trong nội dung tư
tưởng của văn học, với sự nhấn mạnh chức năng giáo dục của nó. Nhưng mặt khác ông cũng
tha thiết kêu gọi sự phá vỡ những khuôn mẫu, qui phạm cứng nhắc của văn học cổ truyền;
đổi mới, cách tân về hình thức nghệ thuật.
Đối với khoa mỹ học, Phạm Quỳnh là người đã đề xuất những quan niệm mới mẻ, tiến
bộ về nghệ thuật, về cái đẹp, đồng thời cung cấp, xây dụng những khái niệm, thuật ngữ công
cụ cơ bản cho lĩnh vực khoa học này của nước nhà trong buổi đầu chập chững. Về tư tưởng,
qua những luận giải của Phạm Quỳnh, ta thấy rằng quan niệm thẩm mỹ của ông chịu sự ảnh
hưởng rất sâu sắc của tư tưởng thẩm mỹ phương Đông, đó là nghệ thuật phải gắn với đạo
đức, cái đẹp phải gắn với cái thiện.
Đối với cái đẹp – một phạm trù cơ bản của mỹ học – Phạm Quỳnh chủ yếu bàn luận
dưới góc nhìn bản thể, tức chỉ xem xét cái đẹp ở phương diện khách quan của nó, mà dường
như chưa chú ý đến cái đẹp trong sự tồn tại của quan hệ khách thể – chủ thể. Và cũng vì vậy
mà ta thấy ông chưa chú trọng bàn luận đến cái đẹp trong nghệ thuật.
Tuy nhiên, với tình hình văn hóa, văn học Việt Nam trong giai đoạn đầu thế kỷ XX,
như đã phân tích ở trên, gạt qua những hạn chế tất yếu về tư tưởng, cái công của Phạm
Quỳnh đối với văn hóa, văn học nước nhà là rất lớn, cần phải được ghi nhận một cách công
bằng và xứng đáng.
Vấn đề về Phạm Quỳnh là một vấn đề phức tạp. Tiềm năng nghiên cứu vẫn còn rất
phong phú. Những gì mà luận văn chúng tôi thực hiện chỉ là kết quả khiêm tốn bước đầu.
Bởi cho dù với tham vọng muốn tìm hiểu một cách đầy đủ hơn, nhưng do nhiều nguyên
nhân, bước đầu chúng tôi chỉ có thể tiến hành nghiên cứu một vài khía cạnh nhỏ trong sự
nghiệp đồ sộ của bậc trí giả này. Mong rằng kết quả nghiên cứu của luận văn, về mặt khoa
học, ít nhiều cũng góp một tiếng vào nỗ lực chung nghiên cứu về hiện tượng Phạm Quỳnh -
một trong những con người đặc biệt trong bối cảnh của lịch sử văn hóa, văn học Việt Nam
giai đoạn giao thời nửa đầu thế kỷ XX.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tác phẩm của Phạm Quỳnh và báo Nam Phong.
1. Phạm Quỳnh (2003), Luận giải văn học và triết học, Nxb. Văn hóa thông tin và Trung
tâm văn hóa Đông Tây, Hà Nội.
2. Phạm Quỳnh (2004), Pháp du hành trình nhật ký, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội.
3. Phạm Quỳnh (2006), Thượng Chi văn tập, Nxb. Văn học, Hà Nội.
4. Phạm Quỳnh (2007), Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian từ
năm 1922 đến năm 1933, Nxb. Tri thức và Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây,
Hà Nội.
5. Tạp chí Nam Phong.
B. Tài liệu nghiên cứu về Phạm Quỳnh và báo Nam Phong.
6. Nguyễn Đình Chú, Trịnh Vĩnh Long (2005), “Báo chí và văn chương
qua một trường hợp: Nam Phong tạp chí”, Tạp chí Nghiên cứu văn học
(Số2).
7. Nguyễn Đình Chú (2007), “Thượng Chi bàn về tiểu thuyết trên tạp chí
Nam Phong”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 4).
8. Dương Quảng Hàm, (1943), Việt Nam văn học sử yếu, Bộ quốc gia giáo dục tái bản
1956, Nxb. Trung Việt, Sài Gòn.
9. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (2004),
Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb. Thế giới, Hà Nội.
10. Đặng Thai Mai (1974), Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, (bản in lần thứ
ba), Hà Nội.
11. Maurice Durant và Nguyễn Trần Huân (1969), Văn học Việt Nam dẫn
luận (Introduction à la litératureVietnamienne), Maison neulve et la rose, Paris.
12. Nguyên Ngọc (2008), “Sự công bằng lịch sử được trả lại”, Bằng đôi chân trần, Nxb.
Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh.
13. Nguyên Ngọc (2008), “Cách đây một thế kỷ, những người khổng lồ”, Bằng đôi chân
trần, Nxb. Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh.
14. Phạm Thế Ngũ, (1965) Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (T3), Nxb. Quốc học
tùng thư, Sài Gòn.
15. Vương Trí Nhàn (2005), “Vai trò của trí thức trong quá trình tiếp nhận văn hoá
phương Tây ở VN đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (Số 7).
16. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại (tập 1), Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội.
17. Nguyễn Hữu Sơn (2007), “Thể tài du ký trên tạp chí Nam Phong”, Tạp chí Ngiên cứu
văn học (Số 4).
18. Thiếu Sơn (1933), Phê bình và Cảo luận: Phê bình nhân vật, Hà Nội.
19. Thiếu Sơn (trước 1973), Bài học Phạm Quỳnh, Tiểu luận.
20. Nguyễn Ngọc Thiện (2005), “Thăng trầm trong thức nhận văn nghiệp học giả Phạm
Quỳnh”, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam.
21. Nguyễn Đức Thuận (2005), “Về thuật ngữ tiểu thuyết trên Nam Phong tạp chí”, Tạp
chí Nghiên cứu văn học (Số 2).
22. Nguyễn Đức Thuận (2006), “Tình hình nghiên cứu phần văn trên Nam Phong tạp chí
(1917 – 1934) từ 1975 đến nay”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (Số 5).
23. Đỗ Lai Thúy (2006), “Đọc lại tạp chí Nam Phong và Phạm Quỳnh”, Tạp chí Tia sáng
(Số 12).
24. Trần Văn Toàn (2008), “Báo chí - nhà báo và sự hình thành tầng lớp trí thức hiện đại
đầu thế kỷ XX”,
25. Trần Văn Toàn (2008), Lý luận phê bình văn học của Phạm Quỳnh,
26. Nguyễn Văn Trung, (1975), Chủ đích Nam Phong, Nxb. Nam Sơn, Sài Gòn.
27. Nguyễn Văn Trung (1973 - 1975), Trường hợp Phạm Quỳnh, Nxb. Nam Sơn, Sài
Gòn.
28. Nguyễn Văn Trung (1973 - 1975), Vụ án Truyện Kiều, Nxb. Nam Sơn, Sài Gòn.
C. Các tài liệu khác .
29. Aristote (2007), Nghệ thuật thi ca, Nxb. Lao động.
30. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn, dịch),
Trường viết văn Nguyễn Du, Hà nội.
31. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học – Lý luận và ứng dụng, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
32. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội.
33. Đại học khoa học xã hội và nhân văn (2004), Giáo trình mỹ học đại
cương, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lý luận văn học – Vấn đề và suy nghĩ,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
35. Hégel (2005), Mỹ học, Nxb. Văn học, Hà Nội.
36. Đào Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lý thuyết hiện đại, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
37. Đỗ Quang Hưng (2001), Lịch sử báo chí Việt Nam 1865 – 1945, Nxb. Đại học quốc
gia, Hà Nội.
38. Denis huisman (2004), Mỹ học, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
39. Immanuel Kant (2007), Phê phán năng lực phán đoán, Nxb. Tri thức, Hà Nội.
40. Mã Giang Lân (2005), Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam, Nxb. Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
41. Phương Lựu (1997), Tiếp nhận văn học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
42. Phương Lựu (2005), Lý luận văn học cổ điển phương Đông (Tuyển tập, tập 1), Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
43. Phương Lựu (2005), Lý luận văn học hiện đại phương Tây, (Tuyển tập, tập 2), Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
44. Phương Lựu (2005), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Đại học sư phạm,
Hà Nội.
45. Phương Lựu, Trần Đình Sử (2008), Giáo trình Lý luận văn học (tập 2), Nxb. Đại học
sư phạm, Hà Nội.
46. M. F. Ốp-xi-an-nhi-cốp (2001), Mỹ học cơ bản và nâng cao, Nxb. Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
47. Nguyễn Hữu Sơn (2000), Điểm tựa phê bình văn học, Nxb Lao động, Hà Nội.
48. Chu Quang Tiềm (1991), Tâm lý mỹ học hiện đại, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh.
49. Chu Quang Tiềm (2005), Tâm lý văn nghệ, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.
50. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương thẩm mỹ và văn hóa, Nxb. Giáo dục tại Tp. Hồ Chí
Minh.
51. Trang Tử (1965), Nam hoa kinh, Nxb. Tân Việt, Sài Gòn.
52. Huỳnh Vân (1990), Văn học và hiện thực, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVHLLVH020.pdf