Luận văn Không gian lữ thứ trong thơ Đường

MS: LVVH-VHNN015 SỐ TRANG: 135 NGÀNH: VĂN HỌC CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM NĂM: 2009 CẤU TRÚC LUẬN VĂN LỜI CẢM ƠN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Lịch sử vấn đề 3. Phương pháp nghiên cứu 4. Kết cấu của luận văn CHƯƠNG 1: KHÔNG GIAN LỮ THỨ TỪ NHỮNG GÓC NHÌN 1.1. Góc nhìn loại hình, thi pháp 1.2. Góc nhìn chủ thể sáng tạo - nhân vật trữ tình 1.3. Góc nhìn văn hóa CHƯƠNG 2: NHẬN CHÂN NHỮNG NÉT ĐẶC BIỆT CỦA KHÔNG GIAN LỮ THỨ 2.1. Không gian quy tụ và xuyên thấu 2.2. Không gian đa biến 2.3. Không gian giãn nở 2.4. Không gian du hiệp - du lãm CHƯƠNG 3 : VẺ ĐẸP VÀ NHỮNG SẮC ĐỘ CỦA KHÔNG GIAN LỮ THỨ 3.1. Vẻ đẹp của không gian lữ thứ 3.2. Không gian tiễn biệt 3.3. Không gian trải nghiệm và tìm về bản ngã đích thực 3.4. Không gian quá vãng KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC CÁC BÀI THƠ ĐƯỜNG TRÍCH DẪN TRONG LUẬN VĂN & HÌNH ẢNH MINH HỌA

pdf135 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2829 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Không gian lữ thứ trong thơ Đường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đều trải qua binh biến An-Sử, đều viễn xứ tha hương, thậm chí ngay cả sự tồn tại của chính mình họ cũng không thể nhận thức, không thể tự quyết, vì thế thơ “kí tình sơn thủy” sẽ có diện mạo buồn hắt hiu rất chung, thấm đẫm tâm trạng: Truy tiễn đồng chu nhật, Thƣơng xuân nhất thuỷ gian. Phiêu linh vi khách cửu, Suy lão tiển quân hoàn. Hoa tạp trùng trùng thụ, Vân khinh xứ xứ san. Thiên nhai cố nhân thiểu, Cánh ích mấn mao ban Cuộc đưa tiễn thuyền cùng một buổi Lòng thương xuân theo với nước xuân sầu Kiếp lênh đênh thân khách đã bao lâu Cảnh suy lão lại mừng nhau về chốn cũ Cây từng lớp màu hoa xen sặc sỡ Khắp ngàn non tua tủa đám mây đưa Bên giời người cũ lơ thơ Buồn thêm mái tóc phất phơ điểm màu (Đỗ Phủ, Bồi giang phiếm chu tống Vi Ban quy kinh) Không gian lữ thứ còn là không gian để kiểm chứng những lý tưởng mà thi nhân theo đuổi cả cuộc đời. Tính chất tự sự thấm đẫm trong những dòng thơ của Đỗ Phủ ít nhiều cũng bắt đầu từ khát vọng giúp vua vƣợt Nghiêu Thuấn / lại cho phong tục thuần của ông. Con người nhà nho ẩn kín bên trong con người nhà thơ Đỗ Phủ mang lại cho ông một thế đứng độc lập để quan sát, để ghi lại những điều mình sở kiến bằng những dòng thơ. Tam lại, tam biệt hay câu thơ đã hình thành một bức tranh đối lập: chu môn tửu nhục xú / Lộ hữu đống tử cốt là sự cụ thể hóa đầy thuyết phục cho cái nhìn độc lập đó của nhà thơ. Nhìn cuộc sống của nhân dân, cụ thể là của nông dân, từ góc độ đánh giá chính sự triều đại phong kiến là một nét đặc trƣng chi phối toàn bộ thơ văn nhà nho viết về mảng đề tài này [9]. Con đường ông đi, lý tưởng chính trị ông tôn thờ theo quỹ đạo và phạm trù tư tưởng của Nho gia. Trước sau Đỗ Phủ vẫn tự xưng là “nho sinh”, “lão nho”: 81 Hoàn khố bất ngã tử Nho quan đa ngộ thân (Đỗ Phủ, Phụng tặng Vi tả thừa trượng nhị thập nhị vận) Về già, khi cảm thấy sự bất lực trước sự đổi thay của cuộc đời, ông vẫn tự gọi mình là “hủ nho”: Giang Hán quy tƣ khách Càn khôn nhất hủ nho (Đỗ Phủ, Giang Hán) Nhưng cũng có lúc ông phê phán những nhà sáng lập đạo Nho: Nho thuật hà hữu ƣ ngã tai! Khổng Khâu, Đạo Chích câu trần ai (Đỗ Phủ, Túy thì ca) Có lẽ chỉ là người trải sự đời, đi nhiều, biết nhiều, lưu lạc xa xứ, Đỗ Phủ mới có những trăn trở, day dứt như thế về con đường mình đã chọn. Và nếu Đỗ Phủ bắt ta đi sâu vào tình đời cay đắng thì Lí Bạch lại bày tỏ niềm thương cảm số phận con người trước sự chia lìa, mất mát khôn cùng qua sự đối lập xưa-nay, tình-cảnh. Thân phận Vương Chiêu Quân qua đất Hồ với một sứ mệnh lịch sử nhưng khác nào là sự đày ải, là sự trớ trêu của con tạo xoay vần. Một khi bước chân Vương Tường ra đi là không thể ngoái đầu lại khi mà cõi Tần, trăng đất Hán/ Dõi bóng chiếu Minh Phi/ Ải Ngọc một phen tới /Chân trời muôn thuở đi (Lí Bạch, Vương Chiêu Quân kỳ 1), để rồi: Chiêu Quân phất ngọc an, Thƣợng mã đề hồng giáp. Kim nhật Hán cung nhân Minh triêu Hồ địa thiếp Tay tiên nhẹ phủi yên cương Chiêu Quân lên ngựa lệ vương má hồng Hôm nay là Hán cung nhân Ngày mai làm thiếp đem thân xứ Hồ (Lí Bạch, Vương Chiêu Quân kỳ 2) 82 Sự hình thành giọng điệu dẫn đến những phong cách riêng của các nhà thơ, các phái thơ biên tái-lãng mạn- hiện thực- sơn thủy điền viên. Và trên hết nó góp phần khu biệt những đỉnh cao rực rỡ của văn chương Trung Quốc khi mà Kinh Thi phản ánh hiện thực nhƣ nó có (miêu tả để nhận thức) trong khi đó Đường thi lại phản ánh hiện thực nhƣ con ngƣời muốn (tái tạo để nhận thức). Sự từng trải đã đem lại những cảm nhận mới mẻ, khác lạ trong nhân sinh quan và thế giới quan của các nhà thơ, tạo lập nên sắc diện riêng biệt cho thơ Đường như có nhà nghiên cứu đã nhận xét: chỉ có thời Đƣờng là thời kì mà cái tình của con ngƣời lên ngôi. Có thể nói, tiệm ngộ - đốn ngộ và trải nghiệm là những người bạn đồng hành thân thiết của thi nhân. Ở đây, “khoảnh khắc bừng tỉnh” là cái “mã” đặc thù của tư duy nghệ thuật thơ trữ tình đời Đường khi mà cô độc cũng là một “sở thích”, một “thú”, tức là một quan niệm mĩ học của các thi nhân lãng mạn nói chung. Qua cảm giác cô độc, nhà thơ một mình đối diện với thiên nhiên (bầu trời và thiên nhiên là cái nền của thơ Đường) để tìm về bản ngã của chính mình, phát hiện ra những trạng thái tình cảm mà xưa nay giữa đời thường bị che lấp, khuất mờ. Phát hiện ra cái mới, nhìn thấy “hình tướng” của vạn vật bằng “tuệ nhãn” của một “nguyên tâm” trong sáng là một điểm sáng đẹp, trong trẻo và nên thơ nhưng không kém phần tươi sáng của không gian du lãm. Thông qua không gian du lãm, một thông điệp nghệ thuật đã được gửi đến độc giả: nghệ sĩ trước hết là “sự tự biết thưởng thức” đời sống và cuộc sống xung quanh mình, của chính bản thân mình. Thơ vì thế có nhiều chỗ “lặng”, cái lặng của thơ tràn ngập cảm xúc và tƣ duy [25,tr.15]. Và những khoảng lặng trong thơ ca ấy đều hướng thi nhân và người đọc đến trạng thái tiêu dao trong miền tâm tưởng như một sự cân bằng, hài hòa, như một sự ra đi rồi trở về. 83 3.4. Không gian quá vãng Bên cạnh những bài thơ tống biệt viết về tình bạn, những bài thơ viết về nỗi nhớ quê hương cũng có một sức sống mãnh liệt trong lòng những bạn đọc Việt Nam. Đâu đó là một sự tương đồng về tâm tưởng, tương đồng về không gian cảm xúc, về tâm trạng thương nhớ quê nhà. Nó gợi lên niềm quằn quại trong nỗi đau, nhớ đến buốt trái tim trong câu ca dao xưa: Chiều chiều ra đứng ngõ sau Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều Chiều chiều là một khoảng thời gian u hoài, gợi cảm. Những khoảnh khắc ánh mặt trời dần khuất sau rặng núi, để lại một màu chiều ảm đạm, thu lại thế giới quan mỗi người khiến quê mẹ chìm trong thăm thẳm cõi hồn cô liêu. Cái ngõ sau ấy che dấu nỗi niềm cô quạnh, u uẩn của phận người ly hương xa xứ cũng là ngõ hướng vào nội tâm để được ngó về quê mẹ một cách âm thầm trong nỗi rối bời ruột gan. Và chợt nhớ những mùa xuân lữ thứ của thi hào Nguyễn Du, một đời phiêu bạt đất khách quê người, tâm mòn, chí cụt đã làm giọng thơ của ông chất ngất một nỗi muộn phiền bởi khó nghèo, bệnh tật: Cỏ biếc, lòng đau, trời Nam phố. Mai vàng chi nữa Chúa xuân ơi! (Nguyễn Du, Xuân nhật ngẫu hứng) mới thấy hết cái chênh vênh, mất phương hướng khi phải li quê, mới cảm nhận một cách thấm thía nỗi niềm hoài cổ u hoài luôn ẩn hiện thường trực trong con người Á Đông vốn sống hướng nội. Tuổi xế chiều trong cảnh hoàng hôn, khi đã ngán quan trƣờng, ngán tu đạo, quá khứ một đi không trở lại, cuộc đời mờ mịt nhƣ khói nƣớc trên sông, chợt nhận ra quê hƣơng là lý tƣởng, là nỗi mơ ƣớc, lại là nơi con ngƣời không bao giờ tới đƣợc, lòng nhà thơ mới dâng lên một nỗi buồn sầu đƣợm, nỗi buồn ấy mới dâng đƣợc vào 84 vạn cổ. có phải con ngƣời mới sinh ra đã mang trong mình một tha hƣơng [10,tr.51]: Mộc lạc nhạn nam độ Bắc phong giao thƣợng hàn Ngã gia Tƣơng thủy khúc, Dao cách sở vân đoan Hƣơng lệ khách trung tận Cô phàm thiên tế khan Mê tân dục hữu vấn Bình hải tịch man man. Lá rơi cánh nhạn bay về Gió trên sông thổi lạnh tê buốt lòng Nhà ta khuất bến sông Tương Cách xa đất sở mấy đường mây trôi Nhớ quê mắt lệ dần vơi Cánh buồm cô độc góc trời tha phương Mịt mùng dọ lối hồi hương Mênh mông biển tối thê lương lặng nhìn (Mạnh Hạo Nhiên, Tảo hàn giang thượng hữu hoài) Bài thơ là chuỗi tâm tư trầm lắng và ý vị giữa dòng đời trôi nổi, trên bước đường phiêu bạt, khi nỗi nhớ quê dằng dặc trước cảnh trời đông lạnh, tuyết trắng vây quanh. Hồn thơ trắc ẩn như cánh nhạn xa bầy, cô đơn, u uẩn, bay về một khung trời hoài vọng xa xăm. Những tiếng kêu ly hương thảng thốt, những tiếng gọi chia lìa thống thiết, những tiếng nấc trầm luân khô lệ… như vẫn còn quanh quất đâu đây… phải chăng người thơ đã muốn quay về cõi an nhiên tự tại, nơi quá khứ êm đềm để muốn tìm quên những nghiệt ngã xót xa khi lê thân lưu đày nơi đất khách quê người? Thi nhân cố gắng bảo lưu, gìn giữ bóng hình quê hương bằng mọi cách, cái sự xa cách nghìn trùng ấy chỉ càng làm tăng thêm sự trơ trọi, khác biệt, cô đơn, bơ vơ của người con nơi đất khách. Và thi nhân cũng di chuyển sự cô đơn chơi vơi ấy qua vạn vật: Xứ lạ nhìn hoa, hoa lặng lẽ. Quê ngƣời nghe nhạc, nhạc chơi vơi (Vi Trang, Tư quy). Cái ám ảnh xa quê ấy được Đỗ Phủ thể hiện qua cách nói đầy hoài nghi như một sự lảng tránh thực tại phũ phàng đang cố gắng tìm quên trong hơi rượu: 85 Vân vật bất thù hƣơng quốc dị Giao nhi thả phúc chƣởng trung bôi Cảnh này, thôn cũ khác chăng? Rượu nồng chuếnh choáng, ta rằng nhớ quê? (Đỗ Phủ, Đông cảnh) Trên bước đường lữ thứ, hình ảnh quê hương luôn là một điểm tựa ấm áp nhưng cũng là một nỗi ám ảnh day dứt khôn nguôi của các nhà thơ đời Đường. Vì thế, “cái Tôi” thường gặp hơn cả trong thơ nhà nho là hình tượng con người đang cô đơn, đang suy tư mông lung trong đêm khuya tĩnh mịch, nơi u cư hay nơi đất khách quê người: Hòe liễu tiêu sơ nhiễu quận thành Dạ thiêm sơn vũ tác giang thanh Thu phong nam mạch vô xa mã Độc thƣợng cao lâu cố quốc tình Liễu hòa xơ xác quanh thành, Đêm tuôn mưa núi dập dềnh tiếng sông Đường thu xe ngựa quạnh không Lầu cao thơ thẩn não lòng cố hương (Dương Sĩ Ngạc, Đăng lâu) Hồi Nhạc phong tiền sa tự tuyết Thụ Hàng thành ngoại nguyệt nhƣ sƣơng Bất tri hà xứ xuy lô quản Nhất dạ chinh nhân tận vọng hƣơng Cát in trước núi ngời như tuyết Trăng rọi bên thành trắng tựa sương Ai thổi sáo lau nghe văng vẳng Canh chầy chiến sĩ ngóng quê hương (Lý Ích, Dạ thướng Thụ Hàng thành văn địch) Thùy gia ngọc địch ám phi thanh Tán nhập xuân phong mãn Lạc thành Thử dạ khúc trung văn “Chiết liễu” Hà nhân bất khởi cố viên tình Nhà ai sáo ngọc tiếng mơ màng Theo gió xuân vào khắp Lạc Dương Văng vẳng đêm nay bài chiết liễu Ai người không chạnh nỗi tha hương ( Lí Bạch, Xuân dạ Lạc thành văn địch) Cảm giác nhớ quê là một cảm giác thường trực trong tâm khảm thi nhân. Nhưng với bản tính thâm trầm, kín đáo của người phương Đông, nỗi 86 niềm ấy được ẩn kín trong tâm khảm của nhà thơ. Nó chỉ bộc lộ, trỗi dậy mạnh mẽ trong những dịp xuân về, tết đến, những khoảnh khắc mà con người khát khao sự đoàn viên, sum vầy, ấm áp trong tình thân gia đình. Một khi cố quận quê hương ruột thịt thì mịt mùng xa cách, nỗi nhớ nhung nơi chôn rau cắt rốn trong cảnh đời lữ thứ tha hương… một nỗi buồn mênh mông sâu lắng và dằng dặc để Đỗ Phủ phải khắc khoải tự hỏi: “hôm nao mới được về nhà thăm quê?”. Bởi khi làm cánh chim viễn xứ, phải rời tổ ấm của quê cha đất tổ, thì cái nỗi buồn thấm thía và da diết, nẫu ruột thấu tận tâm can phải là nỗi buồn xa quê hương, khi năm tàn tháng tận, sức tàn lực kiệt, khi vào những ngày cuối năm mà phải lê thân nơi quán trọ chốn đất khách quê người, mà bóng hình quê hương thì xa vời vợi: Giang bích điểu du bạch Sơn thanh hoa dục nhiên. Kim xuân khan hựu quá Hà nhật thị quy niên? Sông xanh càng trắng chim trời Núi cao biếc thắm rạng ngời đỏ hoa Thấy rằng năm hết xuân qua Hôm nao mới được về nhà thăm quê? (Đỗ Phủ, Tuyệt cú nhị thủ kỳ 2) Hƣơng tâm tân tuế thiết Thiên bạn độc san nhiên Lĩnh viên đồng đán mộ Giang liễu công phong yên Dĩ tự Trƣờng Sa truyện Tòng kim hựu kỷ niên Lão chí cƣ nhân hạ Xuân quy tại khách tiên Năm mới quê càng nhớ Góc trời mắt lệ sa Già lê thân quán trọ Xuân đến người phương xa Sớm chiều cùng vượn núi Sông gió liễu thướt tha Khác chi câu chuyện cổ Còn lại bao năm qua? (Lưu Trường Khanh, Tân niên tác) Ý thức gia hương vì thế là truyền thống của người Trung Quốc. Do đó, nó trở thành nguồn thi hứng mãnh liệt của thơ Đường: 87 Quân tự cố hƣơng lai Ƣng tri cố hƣơng sự Lai nhật ỷ song tiền Hàn mai trứ hoa vị Anh từ quê nhà đến, Chắc rõ chuyện quê nhà Cây mai gầy trước sổ, Hôm đi chưa nở hoa ? (Vương Duy, Tạp thi) Cách điệp từ này hé lộ cái tình nồng nàn của kẻ xa quê lâu ngày. Cố hương cửu biệt, nhớ thương da diết, vì thế mà gặp một người ở trong quê ra, mừng rỡ khôn xiết, hỏi han dồn dập chuyện quê nhà. Cảm hoài về cố hương còn là nhà thơ phát hiện một tình cảm đặc biệt mà bình thường khó nhận thấy: sầu lữ thứ - sầu tƣ hƣơng. Hướng về quê hương, thi nhân dường như đã đồng quy hình ảnh của minh qua bóng dáng của chim Việt đậu cành nam, ngựa Hồ hí phương Bắc. Hình ảnh quê hương không chỉ hiện hữu qua những vật gợi nhớ, qua tiếng sáo khuya trong đêm thanh vắng mà ở đây, còn tồn tại một khát khao mong những người ở quê nhà vẫn bình an. Nỗi khát khao ấy hiện hữu, thấm đẫm trong từng cánh thƣ. Đó là một chút bối rối tự vấn không biết những lá thư có nói hết tâm trạng nhớ quê của mình : Lạc Dƣơng thành lý kiến thu phong Dục tác gia thƣ ý vạn trùng Phục khủng thông thông thuyết bất tận Hành nhân lâm phát hựu khai phong Thành Lạc gió thu chợt thổi qua Ngổn ngang trăm mối viết thư nhà Những e vội vã lời chưa hết Sắp gửi người đi lại bóc ra (Trương Tịch, Thu tứ) Là nỗi lo lắng không biết lá thư có về được cố hương trong cảnh binh đao loạn lạc: Thú cổ đoạn nhân hành Thu biên nhất nhạn thanh Lộ tòng kim dạ bạch Nguyệt thị cố hƣơng minh Trống dồn dứt vết chân đi; Nhạn thu một tiếng biên thùy bi ai Đêm nay sương trắng đã rơi, Quê xưa giờ vẫn sáng ngời bóng trăng. 88 Hữu đệ giai phân tán Vô gia vấn tử sinh Ký thƣ trƣờng bất đạt Huống nãi vị hƣu binh Có em đều đã chia tan; Không nhà mà đến hỏi thăm mất còn. Gửi thư chẳng biết tới không, Huống chi chinh chiến nay còn chưa thôi (Đỗ Phủ, Nguyệt dạ ức xá đệ) Và cũng có khi không cần những lá thư, tình quê vẫn chảy tràn mênh mang trong không gian xa xứ, lòng quê vẫn dạt dào những cảm xúc ban sơ như thuở mới cất bước ra đi: Cố viên đông vọng lộ man man Song tự long chung lệ bất can Mã thƣợng tƣơng phùng vô chỉ bút Bằng quân truyền ngữ báo bình an Quê nhà xa tít ngoái trông sang Áo thõng hai tay lệ chảy dàn Trên ngựa gặp nhau không giấy bút Nhờ anh nhắn hộ tớ bình an (Sầm Tham, Phùng nhập kinh sứ) Nhưng nỗi buồn xa xứ trong thơ cũng được chiết tỏa nếu nhà thơ gặp được người bạn tri kỉ trên đất lạ. Và có rất nhiều bài thơ viết về không gian lữ thứ đã vượt thoát khỏi nỗi buồn cố hữu để đón nhận những cảm xúc mới trong lòng thi nhân. Có những bài thơ trong không gian xa quê nhưng đã vượt thoát qua nỗi buồn lữ thứ, đã nhìn thấy ở vùng đất mới những tình cảm thân yêu mà khi xa nó, lòng người cũng bùi ngùi xa cách. Bởi chia tay với một mảnh đất cũng đồng nghĩa với việc chia tay với quá khứ của chính mình: Khách xá Tinh Châu dĩ thập sƣơng, Qui tâm nhật dạ ức Hàm Dƣơng Vô đoan cánh độ Tang Càn thủy, Khƣớc vọng Tinh Châu thị cố hƣơng Tinh Châu đất khách trải mươi hè Hôm sớm Hàm Dương bụng nhớ quê Qua bến Tang Càn, vô tích nữa Tinh Châu ngoảnh lại đã thành quê. (Giả Đảo, Độ Tang càng) Nỗi buồn xa xứ được chiết tỏa khi thi nhân có bầu bạn tri kỷ nơi đất khách quê người và cả khi nhà thơ nhìn cuộc đời đầy biến thiên nhưng lại 89 bằng đôi mắt chủ toàn, không phân biệt vật ngã, giữ cho mình sự thư thái trong tâm hồn để nhìn thấy đâu đâu cũng là quê hương, đâu đâu cũng là miền đi về của sự bình yên: Tâm thái thần ninh thị quy xứ Cố hƣơng hà độc tại Trƣờng An? Cõi lòng thư thái, tinh thần yên ổn là nơi minh trở về Cố hương đâu phải chỉ riêng Trường An) (Bạch Cư Dị, Ngẫu đề đông bích) Những bài thơ đề cập đến nỗi buồn xa xứ chiếm được rất nhiều tình cảm của độc giả Việt Nam. Điều đó không chỉ là sự tương đồng trong cảm thức hoài cổ, sống nội tâm, hay quay về với quá khứ. Các nhà thơ tả cảnh không phải nhằm mục đích tái hiện thiên nhiên thuần túy mà cốt khắc họa cụ thể một suy tư, một cảm xúc, một tâm trạng. Cho nên cũng là đường nét, cũng là màu sắc, cũng là âm thanh…nhưng chúng ở trong thơ không như chúng vốn có ở trong đời, tất cả đều biến dạng, bao phủ một lớp sương khói hồn người. Hơn nữa, nó còn là sự tương đồng trong cách cảm nhận văn chương như một thi pháp đặc trưng của văn học trung đại của các nước đồng văn: cảm xúc tha hƣơng, lữ thứ là một cảm xúc xuất hiện thƣờng xuyên trong thơ ca nhà nho. Văn chƣơng nhà nho viết về bản thân là viết về cái đạo sống, phƣơng thức sống, phƣơng thức làm ngƣời mà anh ta chủ trƣơng [9,tr.160]. Vẻ đẹp và những sắc độ của không gian lữ thứ vì thế dường như mênh mang hơn, sâu lắng hơn khi nó lưu giữ trong mình biết bao trầm tích của quá khứ để gửi đến hiện tại và tương lai những thông điệp đầy chất thơ về cuộc đời và về phận người. 90 KẾT LUẬN Đặc điểm chung của tư duy nghệ thuật thơ Đường là tƣ duy quan hệ, nói cách khác, nó theo đúng phép biện chứng nghệ thuật. Thơ Đường hướng tới cái cao siêu nhưng không hề viển vông, thực tế nhưng không sa vào sự dung tục tầm thường, hướng đến sự dung hòa trong những quan hệ thống nhất, tương giao để đạt được sự hòa điệu. Thơ Đường còn là hiện thân sự cấu tạo của cái đẹp khi ý và hình tượng trong thơ được trải qua một sự lựa chọn, cải tạo và phối trí một cách tinh tế. KHÔNG GIAN LỮ THỨ TRONG THƠ ĐƢỜNG được viết với mong muốn giữ lại và thể hiện tất cả những đặc điểm nghệ thuật như thế. Chương 1- Không gian lữ thứ từ những góc nhìn, cụ thể là ba góc nhìn chính: góc nhìn loại hình và thi pháp, góc nhìn chủ thể trữ tình và góc nhìn văn hóa, có thể chưa cấp được một cái nhìn tổng thể và toàn diện về không gian lữ thứ, một kiểu dạng không gian đặc biệt trong cảm quan của người xưa. Nhưng với vai trò là sự định hướng và khái quát về mặt khái niệm, sự nhìn nhận và tìm hiểu không gian lữ thứ dưới ba góc nhìn như thế không chỉ là sự thể hiện những phương pháp được lựa chọn của người viết để tìm hiểu về đối tượng nghiên cứu của luận văn. Qua từng góc nhìn cụ thể để tìm ra những lời giải đáp cho những câu hỏi riêng của mình: Không gian lữ thứ có thể được nhìn nhận theo những cách nào? Vì sao không gian lữ thứ lại là một không gian đặc biệt trong cảm quan của người xưa? Làm thế nào để khám phá ra vẻ đẹp đặc biệt của nó? Ở góc nhìn loại hình và thi pháp, không gian lữ thứ là một trong hai không gian lớn cơ bản chi phối đến sáng tác của thi nhân bên cạnh không gian 91 làng họ, hương tính. Nhìn nhận không gian sáng tác của thi nhân thành hai kiểu loại: không gian lữ thứ và không gian quê nhà (không gian làng họ, hương tính) để thấy rõ sự khu biệt về mặt loại hình nhằm phát hiện những thủ pháp nghệ thuật đặc trưng chi phối và cấu tạo của từng loại không gian nghệ thuật đó. Giữa hai kiểu dạng không gian này còn tồn tại một lằn ranh, một ranh giới với sự giao thoa, chấp nhận sự tương thông và tương hợp của hai kiểu không gian. Và qua góc nhìn thi pháp, không gian lữ thứ còn là cách thức để khám phá và nhìn thấu vẻ đẹp khác biệt của Đường thi so với thơ lục bát Việt Nam, hài cú Nhật Bản (song sự nghiên cứu so sánh như vậy chưa thể thực hiện trong luận văn này). Không gian lữ thứ là không gian gặp gỡ của không gian địa lý và không gian tâm lý, là không gian giao hòa của không gian sự kiện, không gian bối cảnh, không gian tâm lý và không gian kể chuyện. Ở góc nhìn của chủ thể sáng tạo-nhân vật trữ tình, không gian lữ thứ là một không gian đặc biệt vì nó tồn tại trong một thế giới nghệ thuật mà chủ thể sáng tạo của nó là những nhà thơ vốn độc đáo trong cá tính. Không gian ấy qua cách nhìn của từng tác giả lại có những sắc màu khác nhau, và chính sự giao thoa ấy tạo nên dấu ấn riêng trong thơ Đường. Có thể chia không gian lữ thứ qua cách nhìn của tác giả thành hai dạng: không gian lữ thứ thực và không gian lữ thứ ảo. Không gian lữ thứ thực là không gian mà tác giả “trực tiếp” thuộc về nó, sống và đắm chìm trong dạng thức ấy để từ đó, trực tiếp phát sinh ra những tình cảm sâu sắc nhưng đầy màu sắc cá nhân của từng tác giả. Và không gian lữ thứ ảo là không gian mà tác giả “hóa thân” vào người bạn của mình trong cuộc đưa tiễn để nhìn thấy trước mắt một không gian xa lạ. Sự phân thân ấy vừa thể hiện sự chia sẻ với người bạn trên bước đường bắt đầu một cuộc hành trình dấn thân vào chốn xa lạ, mù mịt không hẹn ngày tái ngộ đồng thời cũng bộc lộ những cảm quan của chính nhà thơ qua sự hình 92 dung về một không gian xa xôi ấy. Tình bạn, tình tri kỉ, nỗi lòng được kí thác, được gởi gắm và hóa thân qua hình ảnh của cành liễu lúc đưa tiễn, của những điệu nhạc chia xa …Ở đây, không gian lữ thứ trở thành người bạn vô hình chia sẻ những cảm xúc của người đi và kẻ ở. Ở góc nhìn văn hóa, không gian lữ thứ xuất hiện nhƣ một sự cân bằng, nhƣ một niềm an ủi, nhƣ một sự hoài cố về những gì đã qua. Lời thơ viết ra từ những “vọng động” trong tâm trạng của nhà thơ. Không gian lữ thứ là nơi bảo lưu yếu tố cân bằng cho thi nhân. Có thể nói, thông qua không gian lữ thứ tác giả thơ Đường hướng đến chữ HÒA trong triết học phương Đông: sự hòa mình giữa một tiểu vũ trụ với đại vũ trụ, sự cân bằng giữa nội tâm và ngoại giới…Không gian lữ thứ qua góc nhìn văn hóa còn thể hiện nhân sinh quan của người phương Đông khi nhìn nhận số phận con người là một hành trình đi và về con đường mà mỗi người phải trải qua, sống trên cõi đời cũng là một hành trình lữ thứ, cõi thế gian là cõi tạm “sinh ký tử quy”, “du tử quy lai”…Và không gian lữ thứ trong thơ còn cung cấp chìa khóa để giải mã những yếu tố văn hóa của một thời đại, trong đó có sự ảnh hưởng, giao thoa, và chi phối của tam giáo đồng nguyên đến phong cách của các nhà thơ, đến sắc màu Đường thi. Trong chương 2, Nhận chân những giá trị đặc biệt của không gian lữ thứ, thì không gian lữ thứ, một không gian nghệ thuật của văn học sẽ được nhìn nhận trong mối quan hệ với cách cảm nhận không gian của hội họa, âm nhạc và những ngành khoa học tưởng chừng như rất xa với văn chương như vật lý, toán học… để phát hiện ra những tính chất đặc biệt của không gian lữ thứ như tính quy tụ và xuyên thấu, tính đa biến, tính giãn nở, tính du lãm-du hiệp. Qua những phương diện, nét độc đáo của không gian lữ thứ tiệm cận đến sự tường minh và để có được những tính chất độc đáo ấy, thi nhân đã vận 93 dụng rất nhiều thủ pháp nghệ thuật mang tính đặc trưng của thời đại. Và đó cũng là dấu ấn thi pháp nghệ thuật của một thời đại văn học. Thơ Đƣờng là thơ của các mối quan hệ: quan hệ giữa tình-cảnh-ý, quan hệ của thi nhân với thiên nhiên, với xã hội và quan hệ chính với bản thân mình. Với cách nhìn nhận như vậy, trong tư duy nghệ thuật xuất hiện hàng loạt những phạm trù nói lên quan hệ giữa chủ thể và khách thể thẩm mĩ: xúc cảnh sinh tình, thác cảnh tỉ đức, ngụ chí vu cảnh, tá cảnh ngôn lý, tình cảnh giao dung, hƣ thực tƣơng sinh… Và do có sự xâm nhập của yếu tố hội họa trong thơ nên các tầng lớp không gian xâm nhập lẫn nhau tạo nên độ sâu cho bài thơ, các lớp không gian xuyên thấu và đồng hiện tạo nên sự phức hợp cho bức tranh lữ thứ. Trên bề mặt, thơ Đường thường tạo cho độc giả cảm giác bất biến về không gian trong thơ. Song, không gian lữ thứ vừa có tính chất bất biến nhưng cũng có tính chất biến đổi, thậm chí là sự biến đổi mang tính chất đối cực. Điều này được thể hiện qua những thủ pháp nghệ thuật, những bút pháp nghệ thuật mà các nhà thơ sử dụng: di bộ hoán hình (hình ảnh thơ thay đổi theo từng bước chân), so sánh đối chiếu (so sánh không gian trong quá khứ với không gian trong hiện tại không chỉ mở rộng trường liên tưởng mà còn là cách khắc phục tính đơn điệu, sức ỳ tâm lí trong cách cảm thụ không gian), luật viễn cận động (vốn được mượn từ hội họa cho phép sự tưởng tượng của độc giả được đẩy lên mức tối đa: đọc đến đâu ta bắt gặp đến đó một không gian mới, một thời gian mới) và cách nhìn ngƣỡng-phủ và vọng tứ phƣơng rất đặc trưng của cảm quan trung đại…Sự chuyển hóa của không gian lữ thứ cho phép người đọc nhận ra một nét đặc biệt trong tâm thức văn hóa của tác giả: sự chiếm ưu thế của trạng thái trung dung chấp nhận sự tồn tại của lƣỡng ngạn (hai bờ thực ảo của cuộc đời). 94 Không gian giãn nở trong thơ Đường là do sự tương tác không đều giữa không gian và tình huống, giữa không gian vật lý và không gian tâm lý. Màu sắc của không gian lữ thứ cũng chịu tác động của độ vênh này. Từ sự gặp gỡ của tình huống, của tâm trạng và không gian song chiếu theo những tỉ lệ chấp nhận sự sai biệt mà tính chất mờ ảo, các sắc độ của không gian lữ thứ cũng trở nên đa dạng hơn. Không gian lữ thứ vì thế ít nhiều mang tính cảm giác. Độ vênh giữa các lớp không gian thể hiện qua các bài thơ xa xứ và tiễn biệt: trước mắt người đi và kẻ ở đều có chung cảm nhận về một không gian lữ thứ xa xăm mù mịt đang chờ bước chân lữ khách ở phía trước; hay những cuộc chia tay trên đất khách càng ngậm ngùi hơn (Tỳ bà hành…), không gian lữ thứ ở đây vì thế là không gian lữ thứ gián cách. Ngoài những tính chất trên thì tính du hiệp- du lãm cũng là một đặc trưng mĩ cảm của thơ Đường, làm nên phong khí thơ Đường. Theo trường liên tưởng của ngữ nghĩa, lữ thứ ít nhiều có yếu tố du hiệp. Và sự dấn thân chu du, hành hiệp lại cho người đọc cảm giác về một không gian tráng lệ, hào hùng, không gian vũ trụ. Chính yếu tố này tăng thêm tính chất cổ kính của thơ Đường mà ta khó có thể bắt gặp trong những thời đại khác. Tính chất du hiệp ảnh hưởng từ Đạo giáo không chỉ gợi lên không khí thơ Đường (đặc biệt là Thịnh Đường) khác hoàn toàn với phong cách thơ Nam Bắc, Lục triều mà còn tác động đến việc hình thành những phong cách, những nét độc đáo trong các thi phẩm của Lí Bạch. Vẻ đẹp của không gian lữ thứ là vẻ đẹp“thi họa đồng lí” khi các nhà thơ phát triển cực độ phƣơng pháp ám thị, gợi ý trong nghệ thuật làm thơ là một luận điểm quan trong của chương 3- Vẻ đẹp và những sắc độ của không gian lữ thứ. Hội họa cũng như thơ ca Trung Hoa cổ có chung một nguyên tắc thẩm mĩ là tỉnh mục (mắt sáng rỡ, đột nhiên thấy rõ một điều gì) và hài hòa. 95 Cấu trúc của không gian trong thơ cổ điển khi mô tả về thiên nhiên bao giờ cũng được mô tả thành ba phần: trời – đất – để trống khoảng giữa (thiên – địa – thái hư). Và một điều được thừa nhận khi nghiên cứu về thơ Đường là “thi trung hữu họa, họa trung hữu thi”, ba yếu tố của phép tam viễn trong hội họa: cao viễn-thâm viễn-bình viễn đã in đậm dấu vết qua tác phẩm của thi nhân. Giữa thơ và họa có những nguyên tắc chung dẫn đến sự thâm nhập lẫn nhau một cách nhuần nhị giữa hai loại hình nghệ thuật này. Bức tranh trong thơ hiện lên với tất cả thần thái của nó dưới ngòi bút của những thi sĩ- họa gia. Qua cách nhìn của hội họa, những bức tranh trong thơ gợi lên cho người đọc cảm giác về không gian lữ thứ cũng có những màu sắc riêng của nó. Và bút pháp vẽ màu, nhuận sắc, nhập thần cho những bức tranh ấy có thể chia làm ba loại: những bài thơ sử dụng bút pháp vẽ tranh màu, những bài thơ sử dụng thủ pháp “đạm thái”(vẽ nhạt màu),và những bài thơ sử dụng bút pháp “bạch miêu”(vẽ không) của hội họa. Những nhà thơ Đường đã khéo léo kết hợp các giác quan (thiên về trực giác) để có thể cảm nhận sự vật một cách trọn vẹn, có thể nhìn thấu “bản tướng” của tạo vật. Màu sắc trong tranh sẽ quy định thần thái của bức tranh và vì thế sức ám gợi về một không gian trong bức tranh cũng có sự thay đổi, những cảm nhận vui buồn về bài thơ ít nhiều cũng xuất phát từ cái nhìn hội họa này. Vẻ đẹp của không gian lữ thứ không chỉ thể hiện qua sự biến hóa của màu sắc mà còn thể hiện qua sự cảm nhận ánh sáng và góc nhìn mĩ thuật của Trung Quốc. Mĩ học về không gian đã được áp dụng để thể hiện thần sắc của vạn vật. Khác với các quy tắc hội họa của phương Tây (mà đại biểu là Leonardo da Vinci đã đưa ra như xác định đường chân trời để đặt một điểm nhìn, do đó chỉ có một không gian duy nhất), trong quy tắc hội họa của phương Đông một bức tranh sẽ có vô số điểm nhìn, vì thế các tầng không gian 96 trong tác phẩm sẽ xuyên thấu lẫn nhau. Và điều này cũng ít nhiều thể hiện cái nhìn chủ toàn trong tư duy và tâm thức của người phương Đông. Sự xâm nhập của hội họa vào thơ ca đã tạo cho không gian thơ - đặc biệt là không gian lữ thứ - “chiều thứ năm hƣ ảo” bên cạnh bốn chiều có thực của nó. Thông qua cách nhìn hội họa, không gian lữ thứ đã được cảm nhận một cách trọn vẹn đã giúp cho nhà thơ trong mối liên hệ với độc giả “tìm thấy tự ngã của mình nơi ngoại vật”. Và vẻ đẹp của không gia lữ thứ trong thơ Đường còn giúp độc giả hình dung ra thiên nhiên như một bức tranh toàn cảnh và độc lập như một mĩ quan của Đường thi. Và nếu ở chương 2, không gian lữ thứ được gợi nhắc qua các tính chất thì ở chương 3 lại thiên về miêu tả “sự xuất hiện” của kiểu dạng không gian này. Không gian lữ thứ đã hóa thân qua không gian tiễn biệt, không gian trải nghiệm và tìm về bản ngã đích thực và không gian hoài cổ, quá vãng. Trong không gian tiễn biệt-không gian lữ thứ mang tính chất ảo, gián cách, gián tiếp. Dạng thức không gian này xuất hiện trong khung cảnh đưa tiễn, li biệt giữa những người bạn trong một khung cảnh “biệt dị hội nan”(chia tay dễ, gặp nhau khó). Khung cảnh thiên nhiên, khung cảnh chia li gợi lên cảm thức chia li. Không gian lữ thứ ở đây là một sự tồn tại nhưng cũng lại là một sự vắng mặt sâu xa: sự tồn tại của một tình bạn tri kỉ, không nói thành lời nhưng cũng là một sự vắng mặt, sự biến đổi để bằng hữu trở thành cố nhân, chỉ nhớ nhau qua hình bóng, qua tâm tưởng, “cảm bằng mắt, hiểu bằng tâm”. Không gian lữ thứ vì thế trở thành người bạn thứ ba đứng giữa chứng kiến cảnh biệt li, lưu giữ những khoảnh khắc của tha nhân, mở ra một khung trời mới: khung trời của kẻ tha hương trong con mắt của cả người đi và kẻ ở. Không gian lữ thứ ở đây có sự biến hóa vô cùng: có thể là không gian của trời đất bao la, có thể là không gian của một cánh buồm cô lẻ, dòng sông, miền 97 quan ải, đất trích, không gian của một cành liễu, không gian choán chỗ của một li rượu tiễn biệt,của một ngọn nến nhỏ lệ suốt năm canh, của một khúc hát, không gian gợi mở qua những điển tích về sự chia li: cánh nhạn, chiết liễu… vì thế không gian lữ thứ trong khung cảnh tiễn biệt là một sự đối lập nghiệt ngã càng làm nổi bật tình bằng hữu, là đầu mút của tâm trạng, là nơi giao thoa của các yếu tố quá khứ-tương lai, quê hương-xứ lạ, thực-ảo, hội ngộ-biệt ly, thường-biến… Không gian lữ thứ là không gian đẹp nhưng buồn, song cũng có những ngoại lệ khi nhà thơ vượt thoát lên tất cả những lẽ thông thường, đặc biệt là những bài thơ thấm đẫm màu sắc Phật giáo của các nhà sư. Và nỗi buồn ở đây cũng là một nỗi buồn nhẹ nhàng, man mác không mang màu sắc bi lụy, yếm thế. Chính sự có mặt của những bài thơ mang sắc màu Phật giáo mà không gian lữ thứ trở thành điểm gặp nhau nổi bật giữa “thiền” và “thơ”, cái mà Suzuki gọi là “tinh thần vĩnh tịch” của thiền. Nói các khác, đó là sự “hƣ” và “tĩnh” trong tâm thiền sƣ, không mê vọng, ảo tƣởng, định kiến hay xao động để có thể giác ngộ và giải thoát [6,tr.39]. Không gian trải nghiệm và tìm về bản ngã đích thực cũng là một điểm sáng của Đường thi. Sự trải nghiệm ở đây, không chỉ hiểu là sự thay đổi con người thi nhân để thích ứng với sự thay đổi của môi trường, hoàn cảnh mà còn là sự thay đổi của các hình thức nghệ thuật và tư tưởng trong thơ từ cấp độ từ loại, giọng điệu, thể loại và phong cách. Nếu Lí Bạch là đại diện tiêu biểu cho không gian du lãm, du hiệp; Vương Duy là hiện thân cho sự tạo lập và khắc họa vẻ đẹp của không gian qua nguyên tắc thi họa đồng lý, thì Đỗ Phủ lại là một đại biểu xứng đáng cho sự trải nghiệm trong thơ và qua thơ. Không gian của sự tìm về bản ngã đích thực còn là sự trải nghiệm tình cảm thiên về nỗi buồn nhưng qua không gian du lãm, một sắc thái trong trẻo lại 98 hiển thị. Ở đây, “khoảnh khắc bừng tỉnh” là cái “mã” đặc thù của tư duy nghệ thuật thơ trữ tình đời Đường. Và thông qua hành trình rong ruổi của lữ khách mà tất cả những tục lụy được tẩy bỏ. Ngoại giới được cảm nhận bằng con mắt “hồn toàn”-trở lại trạng thái hồn nhiên như trẻ thơ để nhận thức vũ trụ và nhìn thấy trong bản thể của vũ trụ sự thống nhất hoàn hảo giữa “vật” và “tâm” . Cô độc cũng là một “sở thích”, một “thú”, tức là một quan niệm mĩ học của các thi nhân lãng mạn nói chung. Qua cảm giác cô độc, nhà thơ một mình đối diện với thiên nhiên (bầu trời và thiên nhiên là cái nền của thơ Đường ) để tìm về bản ngã của chính mình, phát hiện ra những trạng thái tình cảm mà xưa nay giữa đời thường bị che lấp, khuất mờ. Phát hiện ra cái mới, nhìn thấy “hình tướng” của vạn vật bằng “tuệ nhãn” của một “nguyên tâm” trong sáng là một điểm sáng đẹp, trong trẻo và nên thơ nhưng không kém phần tươi sáng của không gian du lãm. Thông qua không gian du lãm, một thông điệp nghệ thuật đã được gửi đến độc giả: nghệ sĩ trước hết là “sự tự biết thưởng thức” đời sống và cuộc sống xung quanh mình, của chính bản thân mình. Trong đại đa số trường hợp, “cái tôi” của nhà nho thường hay xuất hiện trong bối cảnh thiên nhiên. Cuối cùng không gian quá vãng là không gian mà thi nhân nếm trải cảm giác làm khác nơi xứ lạ. Nhiều kiệt tác thơ Đường là những bài thơ viết về tâm trạng xa quê (Tĩnh dạ tứ, Phong Kiều dạ bạc, Hoàng hạc lâu, Tuyệt cú 12, Xuân vọng…). Không gian lữ thứ ở đây đã có sắc thái khác so với các kiểu dạng không gian trước. Tác giả trực tiếp trải nghiệm trong không gian lữ thứ; và đôi khi chính bầu không khí của tâm trạng chia hai ngả ấy đã giúp tứ thơ hình thành (Bạch Cư Dị chỉ làm thơ hay khi bị biếm trích ở Giang Châu, Đỗ Phủ với chùm thu hứng lay động lòng người cũng là khi ông ở xa quê…). 99 Không gian lữ thứ giúp nhà thơ phát hiện một tình cảm đặc biệt mà bình thường khó nhận thấy: sầu lữ thứ - sầu tư hương. Trên bước đường lữ thứ, hình ảnh quê hương luôn là một điểm tựa ấm áp nhưng cũng là một nỗi ám ảnh day dứt khôn nguôi của các nhà thơ đời Đường. Vì thế, “cái Tôi” thường gặp hơn cả trong thơ nhà nho là hình tượng con người đang cô đơn, đang suy tư mông lung trong đêm khuya tĩnh mịch, nơi u cư hay nơi đất khách quê người. Nhưng nỗi buồn xa xứ trong thơ cũng được chiết tỏa nếu nhà thơ gặp được người bạn tri kỉ trên đất lạ. Và có rất nhiều bài thơ viết về không gian lữ thứ đã vượt thoát khỏi nỗi buồn cố hữu để đón nhận những cảm xúc mới trong lòng thi nhân. Không gian lữ thứ trong thơ Đường vì thế đã kiến tạo nên một mùa cổ điển cho văn học nhân loại, đã làm cho sinh mệnh thơ có được sức sống trường tồn, vĩnh cửu trong đời sống tinh thần của những người yêu cái Đẹp./. 100 TÀI LIỆU THAM KHẢO TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT 1. A.JA.Gurevich (1998), Các phạm trù văn hóa Trung cổ, Hoàng Ngọc Hiến dịch, Nxb Giáo dục 2. Trịnh Ân Ba, Trịnh Thu Lôi (2002), Văn học Trung Quốc, Nxb Thế giới, Hà Nội 3. Đỗ Tùng Bách (2000), Thơ thiền Đƣờng Tống, Phước Đức dịch, Tấn Tài hiệu đính, Nxb Đồng Nai 4. Phan Kế Bính (1970), Việt Hán văn khảo, Mặc Lâm xuất bản, Sài Gòn 5. Nguyễn Phan Cảnh (2006), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn học 6. Lê Nguyên Cẩn(chủ biên) (2006), Tác gia tác phẩm văn học nƣớc ngoài trong nhà trường – Vương Duy, Nxb Đại học Sư phạm 7. Giản Chi (tuyển dịch) (1995), Vƣơng Duy thi tuyển, Nxb Văn học 8. Doãn Chính (chủ biên) (2002), Đại cƣơng triết học Trung Quốc, Nxb Thanh niên 9. Lê Chí Dũng (1986), Nguyên tắc phản ánh thực tại của văn học trung đại, Khoa Ngữ Văn- Đại học tổng hợp Hà Nội 10. Nguyễn Sĩ Đại (1996), Một số đặc trƣng nghệ thuật thơ tứ tuyệt đời Đƣờng, Nxb Văn học, Hà Nội 11. Trần Xuân Đề (2002), Lịch sử văn học Trung Quốc, Nxb Giáo dục 12. Trần Xuân Đề (1975), Thơ Đỗ Phủ, Nxb Giáo Dục 13. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học 101 14. Lâm Ngữ Đường (Nguyễn Hiến Lê dịch)(1970), Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa, Cadao 15. Đoàn Lê Giang (1998), “Sự ra đời của từ văn học và quan niệm mới về văn học ở các nước Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản ” , Tạp chí Văn học , (5), tr 66-70 16. N.I.Konrat (2007), Phƣơng Đông học, Trịnh Bá Đĩnh tuyển chọn, giới thiệu, Nxb Văn học 17. Nguyễn Thị Bích Hải (2006), Thi pháp thơ Đƣờng, Nxb Thuận Hóa 18. Nguyễn Tuyết Hạnh, Vấn đề dịch thơ Đƣờng ở Việt Nam, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Nxb Văn học 19. Phạm Thị Hảo (2008), Khái niệm và thuật ngữ lí luận Văn học Trung Quốc, Nxb Văn học 20. Heodore M.Ludwig (2000), Những con đƣờng tâm linh phƣơng Đông – phần 2 – Các tôn giáo Trung Hoa và Nhật Bản, Nxb Văn hóa – Thông tin 21. Lê Từ Hiển, Lưu Đức Trung biên soạn và tuyển chọn (2007), Hai- kƣ hoa thời gian, Nxb Giáo dục 22. Lưu Hiệp (2007), Văn tâm điêu long, Phan Ngọc giới thiệu, dịch và chú thích, Nxb Lao Động, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây 23. Hồ Sĩ Hiệp (1997), Hình thức thơ ca cổ điển Trung Quốc, Đại học Sư phạm Tp Hồ Chí Minh 24. Hồ Sĩ Hiệp biên soạn (2003), Bạch Cƣ Dị tỳ bà hành, Nxb Tổng hợp Đồng Nai 25. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội 102 26. Chương Bồi Hoàn, Lạc Ngọc Minh (2000), Văn học sử Trung Quốc, tập 2, Phạm Công Đạt dịch, Nxb Phụ Nữ 27. Cao Xuân Huy (1995), Tƣ tƣởng phƣơng Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu, Nxb Văn học 28. Đoàn Hương (2004), Văn luận, Nxb Văn học, Hà Nội 29. Trần Trung Hỷ (2007), Thơ sơn thủy cổ trung đại Trung Quốc, Nxb Giáo dục 30. Đỗ Văn Hỷ (1991), “Trong thơ có họa”, Tạp chí Văn học (1). 31. Đàm Gia Kiện (chủ biên)(1993), Lịch sử văn hóa Trung Quốc, Nxb Khoa học xã hội 32. Khoa Ngữ văn và Báo chí trường Đại học KHXH và Nhân văn, Cái nhìn mới về lí luận văn học cổ điển Trung Quốc, Tập báo cáo hội nghị khoa học, Tp Hồ Chí Minh 12.2006 33. Nguyễn Hiến Lê (1997), Đại cƣơng văn học sử Trung Quốc (trọn bộ), Nxb Trẻ,Tp Hồ Chí Minh 34. Lisevich.I.S (1993), Tƣ tƣởng văn học Trung Quốc cổ xƣa, Trần Đình Sử dịch, trường ĐHSP TP.HCM xuất bản 35. Lê Nguyễn Lưu (1997), Đƣờng thi tuyển dịch, Nxb Thuận Hóa 36. Phương Lựu (1989), Tinh hoa lí luận văn học cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo dục 37. Phương Lựu (1996), Văn hóa, văn học Trung Quốc cùng một số liên hệ ở Việt Nam, Nxb Hà Nội 38. Maylac B.S (1991), “Vấn đề nhịp điệu không gian và thời gian trong việc nghiên cứu sự sáng tạo”, Tạp chí Văn học (2) 39. Nhiều tác giả (1997), Lịch sử Văn học Trung Quốc, tập 1, Nxb Giáo dục 40. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới 103 41. Phan Ngọc (1990), Đỗ Phủ nhà thơ dân đen, Nxb Đà Nẵng 42. Nguyễn Văn Nam (bình chú) (1992), Làm quen với thơ Đƣờng, Nxb Văn học, Hà Nội 43. Phạm Thế Ngũ (1968), Khảo luận về thơ cũ Trung Hoa, Phạm Thế xuất bản 44. Lã Nguyên (1998), “Tiếp cận tác phẩm thơ từ góc độ văn hóa nghệ thuật”, Tạp chí Văn học 45. Ngô Văn Phú (dịch và giới thiệu) (2008), 300 bài thơ Đƣờng, Nxb Văn học 46. Ngô Văn Phú (biên soạn và tuyển chọn) (2001), Thơ Đƣờng ở Việt Nam, Nxb Hội Nhà văn 47. Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử (1998), Về thi pháp thơ Đƣờng, NXB Đà Nẵng 48. Trần Trọng San (1990) (biên dịch), Kim Thánh Thán phê bình thơ Đƣờng, Tủ sách đại học tổng hợp tp Hồ Chí Minh 49. Nguyễn Kim Sơn (2003), “Thần hóa, diệu ngộ - quan niệm của Đạo gia về quá trình sáng tạo nghệ thuật”, Tạp chí Văn học ,(10), tr 70-75 50. Nguyễn Kim Sơn (2003), “Góp bàn về lí tưởng thẩm mĩ của Đạo gia”, Tạp chí Văn học, (2), tr 65-70 51. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội 52. Trần Đình Sử (1995), “Thời Trung đại – cái tôi trong các học thuyết, trong đời sống và trong văn học”,Tạp chí Văn học, (7),tr 2-10 53. Trần Đình Sử (2003), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội 104 54. Khâu Chấn Thanh (1994), Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc , Mai Xuân Hải dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội 55. Vũ Thanh (tuyển chọn)(2006), Tuyển tập Nguyễn Khắc Phi, Nxb Giáo dục, Hà Nội 56. Cao Tự Thanh (1995), Giai thoại thơ Đƣờng, Nxb Phụ Nữ 57. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dƣới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 58. Lương Duy Thứ (2000), Bài giảng văn học Trung Quốc, Nxb Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh 59. Lương Duy Thứ (1996) “Thơ cổ Trung Quốc quá trình diễn tiến và thi pháp”, tạp chí Văn học (6 ) 60. Lương Duy Thứ (2005),Thi pháp thơ Đƣờng,Nxb Đại học Sư phạm 61. Chu Quang Tiềm (1991), Tâm lí văn nghệ, Khổng Đức, Đinh Tấn Dung dịch, Nxb Trẻ TP. Hồ Chí Minh 62. Đặng Tiến (1972), Vũ trụ thơ, Giao điểm xuất bản, Sài Gòn 63. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh 64. Tủ sách những vấn đề Ngữ Văn (2003), Thơ – nghiên cứu, lý luận, phê bình, Nxb Đại học quốc gia tp Hồ Chí Minh. 65. Đoàn Thu Vân (1998), “Khoảnh khắc quên trong thơ Thiền”, Tạp chí Văn học , (4), tr 90 – 94 66. Trần Ngọc Vương (1998), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung, Nxb Giáo dục 67. Will Durant (2004),Lịch sử văn minh Trung Hoa, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội 105 TÀI LIỆU MẠNG 68. Phạm Hải Anh, Tứ tuyệt Lí Bạch, luận án tiến sĩ Khoa học Ngữ văn - www.tanvien.net 69. Trần Lê Bảo, Giải mã văn hóa trong tác phẩm văn học – 70. Nguyễn Trần Bạt, Không gian tinh thần – 71. Edgar Morin, Cội nguồn thi ca (Khổng Đức dịch) – 72. Bùi Việt Phương, Không gian và tâm thức nghệ thuật (nguồn: Tạp chí tia sáng) - 73. Lý Toàn Thắng, Hai hình thức phản ánh và hai cách nhìn không gian trong ngôn ngữ - www.hcmussh.edu.vn 74. Nguyễn Khắc Mai (Tạp chí Xưa & Nay số 301+302 tháng 2/2008), Minh triết chữ Hòa – 75. Trần Văn Lương, Mùa thu trong thơ cổ điển Trung Hoa – www.vantuyen.net 76. www.vuonghaida.com 77. www.thivien.com.vn TÀI LIỆU TIẾNG NƢỚC NGOÀI 78. 王明居 (著)(2001), 句唐诗风格轮,安徽大学出版社。 Vương Minh Quân (soạn thảo) (2001), Đƣờng thi phong cách luận, An Huy đại học xuất bản xã 79. 袁行霈(主篇)(2005),中国文学史,第二版,高等教育出 版社. 106 Viên Hành Bái (chủ biên) (2005), Trung Quốc văn học sử (tập 2), Cao đẳng giáo dục xuất bản xã 80. 辞 海 编 辑 委 员 会 (1999), 辞 海词典,上海辞书出版社。 Từ Hải biên tập ủy viên hội (1999), Từ Hải từ điển, Thượng Hải từ thư xuất bản xã 81. Liu Wu Chi (1966), An introduction to Chinese literature, Bloomington, Indiana Univ Press. 82. John C.H.Wu, The Four seasons of T'ang poetry, Rutland 1972 107 PHỤ LỤC CÁC BÀI THƠ ĐƢỜNG TRÍCH DẪN TRONG LUẬN VĂN & HÌNH ẢNH MINH HỌA 1. Sầm Tham, Sơn phòng xuân sự 2. Trương Nhược Hư, Xuân giang hoa nguyệt dạ 3. Đỗ Phủ, Thanh giang 4. Vương Duy, Vị thành khúc 5. Thôi Hiệu, Hoàng Hạc lâu 6. Mạnh Hạo Nhiên, Điểu minh giản 7. Trương Kế, Phong Kiều dạ bạc 8. Tư Không Đồ, Ngoạn hoa dữ Vệ Tƣơng đồng túy 9. Vương Duy, Cửu nhật cửu nguyệt ức Đông Sơn huynh đệ 10. Lí Bạch, Tặng nội 11. Vi Trang, Đông Dƣơng tửu gia tặng biệt 12. Đỗ Phủ, Đào nạn 13. Vi Thừa Khánh, Nam hành biệt đệ 14. Bạch Cư Dị, Thu san 15. Đỗ Mục, Tặng biệt kỳ 2 16. Mạnh Hạo Nhiên, Tảo hàn giang thƣợng hữu hoài 17. Trịnh Cốc, Hoài thủy biệt hữu 18. Lí Bạch, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng 19. Bạch Cư Dị, Tỳ bà hành 20. Lí Bạch, Anh Vũ châu 108 21. Sầm Tham, Phùng nhập kinh sứ 22. Đỗ Phủ, Thu hứng bát thủ kỳ nhất 23. Vương Bột, Tƣ quy 24. Lạc Tân Vương, Tại ngục vịnh thiền 25. Đỗ Phủ, Thu hứng 26. Vương Duy, Thu dạ khúc 27. Vương Duy, Sơn cƣ thu minh 28. Vương Duy, Mộc Lan sài 29. Lí Bạch, Tĩnh dạ tứ 30. Lí Bạch, Bả tửu vấn nguyệt 31. Vương Chi Hoán, Đăng Quán Tƣớc lâu 32. Liễu Tông Nguyên- Dữ Hạo Sơ thƣợng nhân đồng khán sơn kí Kinh hoa thân cố 33. Tống Chi Vấn, Đăng Tiêu Dao lâu 34. Dương Sĩ Ngạc, Đăng lâu 35. Lí Bạch, Tô đài lãm cổ 36. Trương Kính Trung, Biên từ 37. Lí Bạch, Ức Đông Sơn kỳ 1 38. Vương Chi Hoán, Cửu nhật tống biệt 39. Lí Bạch, Vọng Lƣ sơn bộc bố 40. Đỗ Phủ , Vọng nhạc 41. Vương Duy, Hán Giang lâm thao 42. Vương Xương Linh, Phù Dung lâu tống Tân Tiệm kỳ 1 43. Vương Xương Linh, Phù Dung lâu tống Tân Tiệm kỳ 2 44. Hạ Tri Chương, Hồi hƣơng ngẫu thƣ 45. Đỗ Mục, Thanh minh 46. Lý Tần, Độ Hán giang 109 47. Vương Duy, Thiếu niên hành 48. Vương Xương Linh, Tòng quân hành 49. Lí Bạch, Tuyên Châu Tạ Diễu lâu tiễn biệt Hiệu thƣ Thúc Vân 50. Lí Bạch, Lƣ Sơn dao ký Lƣ thị ngự Hƣ Chu 51. Lí Bạch, Kim Hƣơng tống Vi Bát chi Tây Kinh 52. Lí Bạch, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng 53. Lí Bạch, Tặng Uông Luân 54. Lí Bạch, Hành lộ nan 1 55. Lí Bạch, Độ Kinh Môn tống biệt 56. Lí Bạch, Vọng Thiên Môn sơn 57. Đỗ Mục, Sơn hành 58. Vương Duy, Võng Xuyên biệt nghiệp 59. Vương Duy, Mộc Lan sài 60. Tống Chi Vấn, Đăng Tiêu Dao lâu 61. Vương Duy, Tống Vƣơng Tôn sƣ quy Trung sơn 62. Vương Duy, Lộc trại 63. Vương Duy, Sơn trung 64. Vương Duy, Thƣ sự 65. Lưu Trường Khanh, Thu nhật đăng Ngô Công Đài thƣợng tƣ viễn điếu 66. Vương Xương Linh, Tái hạ khúc 67. Vương Duy, Võng Xuyên nhàn cƣ kỳ nhất 68. Đới Thúc Luân, Đề Trĩ Châu sơn thủy 69. Lý Bạch, Vọng Thiên Môn sơn 70. Vương Duy, Điền viên lạc kỳ tứ 71. Lí Bạch, Kim Lăng tửu tứ lƣu biệt 110 72. Giả Chí, Tống Lý thị lang phó Thƣờng Châu 73. Bạch Cư Dị, Lâm giang tống Hạ Chiêm 74. Trương Bật, Ký nhân 75. Dương Cự Nguyên, Họa Luyện Tú tài Dƣơng Liễu 76. Vi Trang, Cù Châu biệt Lý tú tài 77. Ôn Đình Quân, Tặng thiếu niên 78. Trịnh Cốc, Hoài thƣợng biệt hữu nhân 79. Vi Trang, Đông Dƣơng tửu gia tặng biệt kỳ 1 80. Vương Duy, Tống Nguyên nhị sứ An Tây 81. Nguyên Chẩn, Quá Đông Đô biệt Lạc Thiên kỳ 2 82. Đỗ Phủ, Công An tống Vi nhị thiếu phủ Khuông Tán 83. Cao Thích, Biệt Đổng Đại kỳ 2 84. Vương Bột, Tống Đỗ thiếu phủ chi nhậm Thục Xuyên 85. Cao Thích, Dạ biệt Vi Tƣ sĩ 86. Cao Thích, Tống Sài tƣ hộ sung Lƣu khanh phán quan chi Lãnh Ngoại 87. Tư Không Thự, Vân Dƣơng quán dữ Hàn Thân túc biệt 88. Cao Thích,Tống Lý thiếu phủ biếm Giáp Trung, Vƣơng thiếu phủ biếm Trƣờng Sa 89. Pháp Chiếu, Tống Thiền sƣ quy Tân La 90. Kim Địa Tạng, Tống đồng tử hạ sơn 91. Lí Bạch, Tống hữu nhân 92. Đỗ Phủ, Đăng cao 93. Vương Bột, Ky xuân 94. Lư Chiếu Lân, Khúc trì hà 95. Đỗ Phủ, Bồi giang phiếm chu tống Vi Ban quy kinh 96. Đỗ Phủ, Phụng tặng Vi tả thừa trƣợng nhị thập nhị vận 111 97. Đỗ Phủ, Giang Hán 98. Đỗ Phủ, Túy thì ca 99. Lí Bạch, Vƣơng Chiêu Quân kỳ 1 100. Lí Bạch, Vƣơng Chiêu Quân kỳ 2 101. Mạnh Hạo Nhiên, Tảo hàn giang thƣợng hữu hoài 102. Vi Trang , Tƣ quy 103. Đỗ Phủ, Đông cảnh 104. Dương Sĩ Ngạc, Đăng lâu 105. Lý Ích, Dạ thƣớng Thụ Hàng thành văn địch 106. Lí Bạch, Xuân dạ Lạc thành văn địch 107. Đỗ Phủ, Tuyệt cú nhị thủ kỳ 2 108. Lưu Trường Khanh, Tân niên tác 109. Vương Duy, Tạp thi 110. Trương Tịch, Thu tứ 111. Đỗ Phủ, Nguyệt dạ ức xá đệ 112. Sầm Tham, Phùng nhập kinh sứ 113. Giả Đảo, Độ Tang càng 114. Bạch Cư Dị, Ngẫu đề đông bích 112 Phong Kiều dạ bạc-Trƣơng Kế Nguyệt lạc ô đề sƣơng mãn thiên, Giang phong ngƣ hỏa đối sầu miên. Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự, Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền. 113 Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn Đông huynh đệ - Vƣơng Duy Độc tại dị hƣơng vi dị khách, Mỗi phùng giai tiết bội tƣ thân. Dao tri huynh đệ đăng cao xứ, Biến sáp thù du thiểu nhất nhân. 114 Hồi Hƣơng Ngẫu Thƣ - Hạ Tri Chƣơng Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi Hƣơng âm vô cải mấn mao tồi Nhi đồng tƣơng kiến bất tƣơng thức Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai. 115 Sơn Hành - Đỗ Mục Viễn thƣợng hàn sơn thạch kính tà Bạch vân sinh xứ hữu nhân gia Đình xa tọa ái phong lâm vãn Sƣơng diệp hồng ƣ nhị nguyệt hoa 116 Thiếu Niên Hành - Vƣơng Duy Nhất thân năng tý lƣỡng điêu hồ, Lỗ kỵ thiên quần chích tự vô. Thiên tọa kim an điều bạch vũ, Phân phân xạ sát ngũ thiền vu. 117 Tặng Uông Luân - Lí Bạch Lí Bạch thừa chu tƣơng dục hành Hốt văn ngạn thƣợng đạp ca thanh Đào hoa đàm thuỷ thâm thiên xích Bất cập Uông Luân tống ngã tình. 118 Tòng Quân Hành - Vƣơng Xƣơng Linh Thanh hải trƣờng vân ám tuyết sơn Cô thành dao vọng Nhạn Môn quan Hoàng sa bách chiến xuyên kim giáp Bất phá Lâu Lan chung bất hoàn. 119 Hoàng Hạc Lâu TốngMạnh Hạo Nhiên Chi Quảng Lăng - Lí Bạch Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu Yên hoa tam nguyệt hạ Dƣơng Châu Cô phàm viễn ảnh bích không tận Duy kiến Trƣờng Giang thiên tuế lâu. 120 Đăng Quán Tƣớc Lâu - Vƣơng Chi Hoán Bạch nhật y sơn tận Hoàng hà nhập hải lƣu Dục cùng thiên lý mục Cánh thƣớng nhất tằng lâu 121 Tĩnh Dạ Tứ - Lí Bạch Sàng tiền minh nguyệt quang Nghi thị địa thƣợng sƣơng Cử đầu vọng minh nguyệt Đê đầu tƣ cố hƣơng. 122 Thanh Minh - Đỗ Mục Thanh minh thời tiết vũ phân phân Lộ thƣợng hành nhân giục đoạn hồn Tá vấn tửu gia hà xứ hữu Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa thôn. 123 Tảo Phát Bạch Đế Thành - Lí Bạch Triêu từ bạch đế thải vân gian Thiên lý Giang Lăng nhất nhựt hoàn Lƣỡng ngạn viên thanh đề bất tận Khinh chu dĩ quá vạn trùng san. 124 Nguyệt Dạ - Đỗ Phủ Kim dạ Phu Châu nguyệt, Khuê trung chỉ độc khan. Dao liên tiểu nhi nữ, Vị giải ức Trƣờng An. Hƣơng vụ vân hoàn thấp, Thanh huy ngọc tý hàn. Hà thời ỷ hƣ hoảng, Song chiếu lệ ngân can. 125 Tái Hạ Khúc Kỳ Nhị - Lƣ Luân Lâm ám thảo kinh phong Tƣớng quân dạ dẫn cung Bình minh tầm bạch vũ Một tại thạch lăng trung. 126 Túc Kiến Đức Giang - Mạnh Hạo Nhiên Di chu bạc yên chử Nhật mộ khách sầu tân Dã khoáng thiên đê thụ Giang thanh nguyệt cận nhân. 127 Vọng Nguyệt Hoài Viễn - Trƣơng Cửu Linh Hải thƣợng sinh minh nguyệt Thiên nhai cộng thử thì Tình nhân oán dao dạ Cánh tịch khởi tƣơng tƣ Diệt chúc lân quang mãn Phi y giác lộ ti Bất kham doanh thủ tặng, Hoàn tẩm mộng giai kỳ. 128 Dạ Túc Sơn Tự - Lí Bạch Nguy lâu cao bách xích Thủ khả trích tinh thần Bất cảm cao thanh ngữ Khủng kinh thiên thƣợng nhân 129 Giang Tuyết - Liễu Tông Nguyên Thiên sơn điểu phi tuyệt Vạn kính nhân tung diệt Cô chu thôi lạp ông Độc điếu hàn giang tuyết. 130 Phú Đắc Cổ Nguyên Thảo Tống Biệt - Bạch Cƣ Dị Ly ly nguyên thƣợng thảo Nhất tuế nhất khô vinh Dã hỏa thiêu bất tận Xuân phong xúy hựu sinh Viễn phƣơng xâm cổ đạo Tình thúy tiếp hoang thành Hựu tống Vƣơng Tôn khứ Thê thê mãn biệt 131 Trúc Lý Quán - Vƣơng Duy Độc tọa u hoàng lý Đàn cầm phục trƣờng khiếu Thâm lâm nhân bất tri Minh nguyệt lai tƣơng chiếu. 132 133

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHVHNN015.pdf
Tài liệu liên quan