PHẦN I: MỞ ĐẦU 
1. THẢO LUẬN VẤN ĐỀ 
“Chi phí đại diện” – cụm từ không mấy lạ lẫm với những người làm việc, 
giảng dạy và học tập trong các lĩnh vực liên quan đến tài chính, nhưng là rất mới mẻ 
trong các nghiên cứu về tài chính và doanh nghiệp ở Việt Nam. Trong thời gian học 
và tìm hiểu những vấn đề của Tài chính doanh nghiệp hiện đại do PGS.TS. Trần 
Ngọc Thơ trình bày, sinh viên lớp cao học đêm 3, khoá 13 chúng tôi đã rất hứng thú 
với vấn đề hoàn toàn mới tinh này, chúng tôi đã hỏi Phó giáo sư rất nhiều về “chi 
phí đại diện”. Những trình bày và giải đáp của Phó giáo sư đã gợi cho tôi ý tưởng 
cho đề tài tốt nghiệp cao học của mình, nghiên cứu về chi phí đại diện, những gì 
liên quan đến nó và cách thức định lượng chi phí này trong các công ty ở Việt Nam. 
Tuy nhiên, khi bắt tay vào thực hiện, tôi nhận thấy rằng thật khó để có thể tìm ra 
một mô hình định lượng loại chi phí này với khả năng hạn chế của mình. Với sự 
hướng dẫn và động viên của Tiến sĩ Hoàng Thị Thu Hồng, giảng viên hướng dẫn 
luận văn cao học của tôi, tôi đã quyết định chọn đề tài “KIỂM SOÁT VÀ QUẢN 
LÝ HIỆU QUẢ CHI PHÍ ĐẠI DIỆN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN”. 
Như Adam Smith đã viết trong cuốn “Của cải của các quốc gia”, xuất bản 
năm 1779, “Giám đốc của những công ty này (công ty cổ phần), là những nhà điều 
hành tài sản của người khác nhiều hơn là tài sản của chính họ, vì vậy không thể hy 
vọng rằng họ sẽ thực hiện việc điều hành với cùng một sự chú ý như những giám 
đốc của các công ty tư nhân. Như là quản gia của những người giàu có, họ có 
khuynh hướng không quan tâm đến những vấn đề nhỏ và rất dễ bỏ qua vì nghĩ rằng 
đó không phải là việc của mình. Sự lơ đễnh và hoang phí, vì vậy, luôn thắng thế, 
không ít thì nhiều, trong việc điều hành mọi việc của công ty dạng này”, ta thấy 
rằng luôn tồn tại mâu thuẫn lợi ích giữa một bên là người chủ công ty và một bên là 
những người được thuê điều hành công ty đó (khi người chủ vì một lý do nào đó, 
khách quan hay chủ quan, không thể trực tiếp điều hành công ty). Các ông chủ bỏ 
tiền ra thuê người đại diện cho mình điều hành công ty luôn muốn tối đa hoá lợi 
nhuận của công ty, cụ thể hơn là tối đa hoá phần lợi nhuận mà họ được nhận, tuy 
nhiên, lợi ích của những người đại diện đó lại không đồng nhất với việc tối đa hoá 
lợi nhuận của công ty, có thể mục tiêu của họ là nhận được những khoản tiền hoa 
hồng béo bở từ những hợp đồng cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho công ty; có thể họ 
sẽ ra một quyết định không nhằm mục đích lợi nhuận tối đa cho công ty; có thể họ 
sẽ trốn tránh trách nhiệm, sẽ “ngồi chơi xơi nước” vì dù họ có cố gắng nhiều hay ít 
thì mức lương tháng họ được nhận vẫn như nhau, không hề thay đổi; Các ông chủ 
phải tốn một khoản chi phí để giám sát người đại diện và hành động của họ, đảm 
bảo họ sẽ cố gắng hết sức và đưa ra những quyết định phục vụ cho mục đích của 
người chủ. Và khoản chi phí đó được gọi là “chi phí đại diện”. 
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 
Như đã trình bày ở phần thảo luận vấn đề, đối tượng nghiên cứu của bản luận 
văn này là “chi phí đại diện”. Khi lợi ích của người chủ và người đại diện – người 
được thuê điều hành công ty – không giống nhau, điều này hầu như là luôn luôn tồn 
tại, thì công ty sẽ phải gánh chịu các chi phí khác ngoài các chi phí sản xuất kinh 
doanh thông thường như: chi phí giám sát hành vi của người đại diện; chi phí cho 
việc đưa ra các ràng buộc cho hành động của người đại diện, việc ban thưởng cho 
họ (bao gồm quyền chọn cổ phần, tiền thưởng và những hình thức khuyến khích 
khác); những thiệt hại trong lợi nhuận do các nguyên tắc và hạn chế trong khâu điều 
hành và cả khâu quản lý của cổ đông. Ngoài ra còn có chi phí ký kết hợp đồng với 
người đại diện, chi phí cho những quyết định không tối ưu của họ. Tất cả các chi 
phí này gọi chung là chi phí đại diện. 
2.2. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 
Khi quyết định chọn nghiên cứu về chi phí đại diện trong các công ty cổ 
phần, tôi đã gặp khá nhiều khó khăn trong việc tìm tài liệu, ý định tìm ra công thức 
và mô hình để định lượng loại chi phí mới này thực sự vượt quá khả năng của tôi. 
Vì vậy trong bản luận văn này tôi chỉ xin trình bày những nghiên cứu mang tính 
chất định tính về chi phí đại diện trong lý thuyết doanh nghiệp hiện đại của thế giới; 
vấn đề đại diện và sự phát sinh chi phí đại diện trong các công ty cổ phần ở Việt 
nam hiện nay trong sự so sánh với một số quốc gia khác trong khu vực. 
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 
Khi học môn Tài chính doanh nghiệp hiện đại do PGS.TS. Trần Ngọc Thơ 
giảng dạy, tôi và các bạn rất lưu ý đến loại chi phí mới này, vì vậy, với những 
nghiên cứu định tính, trong đó nêu lên định nghĩa, các nguyên nhân và tác động của 
loại chi phí này đến hoạt động của công ty cổ phần, từ đó tìm ra các biện pháp để 
kiểm soát và hạn chế việc phát sinh chi phí đại diện, tôi mong rằng mình sẽ góp 
phần giúp mọi người hiểu rõ hơn về chi phí đại diện và những vấn đề xung quanh 
loại chi phí này, ở mức có thể, và mong rằng sẽ hữu ích cho các nghiên cứu định 
lượng sau này. 
4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 
Kể từ khi được nêu ra bởi Jensen và Meckling vào năm 1976, lý thuyết 
người đại diện là một phần không thể thiếu trong những nghiên cứu về doanh 
nghiệp cũng như lý thuyết doanh nghiệp hiện đại trên thế giới. Ở Việt Nam hiện 
nay, cụm từ chi phí đại diện xuất hiện rất khiêm tốn trong các tài liệu nghiên cứu về 
doanh nghiệp, trong khi đó, trên thế giới, các công trình nghiên cứu về chi phí đại 
diện cũng như các ứng dụng của lý thuyết đại diện trong quản lý doanh nghiệp đã 
rất đa dạng. Trong khi tìm kiếm tài liệu tham khảo để làm luận văn, tôi đã tìm được 
các nghiên cứu về chi phí đại diện trong mối liên hệ với quyết định đầu tư, quản trị 
tài chính doanh nghiệp, quản trị rủi ro tài chính, cấu trúc vốn và cấu trúc sở hữu 
trong công ty cổ phần, những nghiên cứu này không chỉ dừng lại ở lý thuyết mà còn 
đưa ra các mô hình định lượng mối quan hệ giữa chúng. Giáo sư Dennis Proffitt, 
trường Đại học Grand Canyon đã có nghiên cứu mở rộng lý thuyết đại diện, kết hợp 
với nền tảng đạo đức và đưa ra giải pháp hạn chế hành vi phi đạo đức trong các 
quyết định tài chính. Tôi không dám cho rằng những gì trình bày trong luận văn của 
mình sẽ có ích cho những nghiên cứu khoa học tiếp theo, nhưng tôi mong là luận 
văn sẽ cung cấp những thông tin bổ ích và cần thiết cho người đọc cũng như các 
công trình nghiên cứu khoa học sau này về chi phí đại diện. 
5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN 
Luận văn được chia thành 4 phần và 1 phụ lục. Bao gồm: 
- Phần I: Mở đầu 
Trình bày đối tượng, phạm vi, mục đích nghiên cứu, ý nghĩa khoa học và 
thực tiễn của đề tài. 
- Phần II: Tổng quan 
Trình bày tổng quan về chi phí đại diện, các nghiên cứu hiện có trên thế giới 
về chi phí này. 
- Phần III: Thực trạng tại Việt Nam 
Phân tích vấn đề đại diện và chi phí đại diện ở nước ta hiện nay, những đặc 
điểm văn hóa của người Việt ảnh hưởng đến vấn đề người đại diện, nguyên nhân, 
tác động và một số giải pháp kiểm soát và quản lý hiệu quả vấn đề đại diện. 
- Phần IV: Kết luận và kiến nghị 
Nội dung của phần cuối cùng là những kết luận rút ra từ những phân tích, 
nghiên cứu ở các phần trước và kiến nghị về những nghiên cứu tiếp theo.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
49 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2551 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Kiểm soát và quản lý hiệu quả chi phí đại diện trong công ty cổ phần, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, 1983). 
- Các hợp đồng đại diện với nhiều điều khoản khuyến khích được tạo ra nhằm 
mục đích tập trung nỗ lực của người quản lý vào lợi ích của cổ đông cũng là 
một cách kiểm soát chi phí đại diện trong công ty cổ phần (Jensen và 
Meckling, Fama). Thực tế, phổ biến nhất là hợp đồng khuyến khích dưới 
dạng sở hữu cổ phần và quyền chọn cổ phiếu. Các hợp đồng này cho phép 
người đại diện – các thành viên trong ban điều hành - được quyền sở hữu 
một số lượng cổ phần hay các quyền chọn khác liên quan đến cổ phiếu của 
công ty. Vấn đề ở đây là hợp đồng khuyến khích có thể tạo ra nhiều cơ hội 
kinh doanh vụ lợi cho nhà quản lý khi những điều kiện ràng buộc trong các 
hợp đồng này tỏ ra lỏng lẻo. Ví dụ, các giám đốc có thể lợi dụng các điều 
khoản khuyến khích này để sở hữu về mình một số lượng cố phiếu đáng kể, 
sau đó thì lơ là việc điều hành, thậm chí xin từ chức, lúc này thì vấn đề đại 
diện sẽ gây thiệt hại không nhỏ cho công ty cổ phần. 
- Theo Jensen và Ruback (1983), mối đe dọa công ty bị thâu tóm cũng có thể 
có tác dụng như một cơ chế kiểm soát chi phí đại diện. Thực tế ủng hộ cho 
nhận định này vì nếu để công ty bị thâu tóm, các nhà quản lý thường sẽ bị sa 
thải. Do đó, để duy trì vị trí điều hành của mình trong công ty, người đại diện 
phải đưa ra những quyết định điều hành hiệu quả, tránh bị thâu tóm bởi các 
công ty khác. Hạn chế của phương pháp này là rất tốn kém (vì nếu các nhà 
điều hành chấp nhận bị sa thải thì cái giá phải trả đối với các cổ đông của 
công ty là quá đắt). 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 22 
- Rozeff (1982) và Easterbrook (1984) cho rằng chính sách cổ tức có thể là 
công cụ làm giảm chi phí đại diện và cho rằng đây là biện pháp mang tính 
thiết thực nhất. Theo họ, việc chi trả cổ tức có thể làm tăng khả năng công ty 
sẽ phải huy động vốn mới thông qua kênh huy động vốn trên thị trường 
chứng khoán. Cổ phiếu mới được phát hành, hoạt động của công ty sẽ được 
nhiều thành phần tham gia trên thị trường giám sát và đánh giá, ví dụ như các 
ngân hàng đầu tư, các cơ quan luật định, và cả những cổ đông mới của công 
ty. Ngân hàng cùng những công ty kiểm toán thường phân tích chi tiết tình 
hình tài chính của công ty trước khi cho phép số vốn mới được huy động từ 
bên ngoài. Các ủy ban chứng khoán luôn yêu cầu cung cấp hồ sơ đầy đủ về 
tình hình hoạt động của công ty khi huy động thêm vốn cổ phần mới. Trong 
quá trình thực hiện chức năng của mình, hoạt động của các tổ chức này trở 
thành những công cụ giám sát rất tốt đối với hoạt động của các nhà quản lý. 
Các nhà đầu tư mới cũng quan sát hành vi quản lý trước khi bỏ tiền đầu tư. 
Do đó, những công ty thường xuyên có mặt trên thị trường chứng khoán sẽ 
được giám sát kỹ hơn. Kết quả là, người quản lý của những công ty này sẽ 
hành động sốt sắng hơn vì lợi ích của cổ đông và giảm chi phí đại diện bằng 
những nỗ lực thu được mức giá tốt nhất cho cổ phiếu huy động vốn mới của 
công ty. 
- Khi một công ty không chi trả cổ tức mà dùng khoản chi trả cổ tức đó cho 
mục đích tăng thêm vốn, tỉ suất đòn bẩy nợ giảm. Rủi ro phá sản của công ty 
theo đó cũng giảm. Kết quả là làm giảm chi phí đại diện của nợ ngay cả khi 
khoản trả cổ tức không đi kèm với việc huy động vốn mới. 
- Một số nghiên cứu cho thấy rằng những vấn đề của lựa chọn bất lợi và mối 
nguy đạo đức tồn tại trong việc điều hành các cửa hàng bán lẻ (Rubin, 1978; 
Mathewson và Winter, 1985; Brickley và Dark, 1987). Trưởng điều hành các 
đại lý có động cơ trốn tránh công việc và không làm đúng năng lực vì người 
chủ của công ty không thể dễ dàng phân biệt hiệu quả điều hành của người 
trưởng đại lý với hiệu quả từ những yếu tố bên ngoài (Carney and 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 23 
Gedajlovic, 1991). Những nghiên cứu về franchising cho rằng cách tốt nhất 
để tăng cường hiệu quả của các đại lý là cho họ hưởng thu nhập từ giá trị 
tăng thêm của hệ thống franchising (LaFontaine and Kauffman, 1994). 
- Việc thiết lập hợp đồng giữa người chủ và người đại diện rất khó khăn và 
phức tạp vì cả hai bên đều muốn tối đa hóa lợi ích của mình thông qua hợp 
đồng. Về phía người chủ, hợp đồng cần hạn chế những hoạt động không 
mang lợi ích cho họ của người đại diện và tối đa số lượng công việc mà 
người đại diện sẽ phải hoàn thành. Thiết lập một hợp đồng thích hợp là khó, 
thậm chí khi đã ký kết hợp đồng thì việc đảm bảo các điều khoản trong hợp 
đồng được thực thi cũng như đảm bảo là người đại diện sẽ thực hiện đúng 
hợp đồng cũng tốn nhiều chi phí. Do đó, nếu không có nỗ lực của mỗi cổ 
đông trong công ty, sự đoàn kết giữa các cổ đông để thay đổi, kiểm soát 
những quyết định quản lý không phù hợp thì sẽ dẫn đến việc thất thoát tài 
sản cổ đông. 
- Hiện nay, vấn đề đạo đức trong kinh doanh đã được đưa vào giảng dạy trong 
các trường cao đẳng, đại học ở nhiều nước trên thế giới. Đây được coi như là 
mấu chốt để hạn chế chi phí đại diện. Mâu thuẫn lợi ích luôn luôn tồn tại 
nhưng với những người điều hành có đạo đức thì vấn đề đại diện sẽ giảm 
thiểu rất nhiều về mức độ ảnh hưởng đối với lợi nhuận của công ty. 
- Mặt khác, chi phí đại diện sẽ trở nên quá mức nếu các cổ đông cố gắng đảm 
bảo rằng mỗi hành động của người đại diện cho mình đều vì lợi ích cổ đông. 
Vì vậy, trong mối quan hệ doanh thu – chi phí, các cổ đông cần phải gánh 
chịu một lượng chi phí đại diện tối ưu, có nghĩa là chi phí đại diện sẽ gia tăng 
miễn là mỗi đồng đôla chi phí tăng thêm mang lại ít nhất một đồng đôla tăng 
thêm trong tài sản của cổ đông. 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 24 
PHẦN III: THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG VẤN ĐỀ ĐẠI DIỆN 
VÀ CHI PHÍ ĐẠI DIỆN Ở VIỆT NAM 
1. THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG VẤN ĐỀ ĐẠI DIỆN 
VÀ CHI PHÍ ĐẠI DIỆN Ở MỘT SỐ QUỐC GIA 
Vấn đề đại diện sau khi được đề cập lần đầu vào những năm 1970 đã được 
nghiên cứu sâu rộng và ứng dụng vào nhiều lĩnh vực ở các nước như Anh, Mỹ, 
Thụy Điển, Israel, Nhật, Trung Quốc và một số nước khác. Những khía cạnh liên 
quan đến vấn đề đại diện đã được nghiên cứu và tổng hợp từ thực tiễn nền kinh tế 
các nước, tuy có nhiều quan điểm trái ngược nhưng tựu trung lại đều đã góp phần 
xây dựng một cơ sở lý thuyết đầy đủ về vấn đề này. Từ những phân tích cơ bản về 
mâu thuẫn lợi ích giữa cổ đông và người điều hành; giữa các chủ nợ và các cổ đông; 
những vấn đề trong hợp đồng đại diện; sự tư lợi, tính tự giác, động cơ của người đại 
diện; các loại chi phí đại diện và tính chất của chúng, đến những phân tích về sự 
liên hệ giữa vấn đề đại diện, chi phí đại diện đến các lĩnh vực trong quản trị doanh 
nghiệp như cấu trúc sở hữu, cấu trúc vốn, quản trị dòng tiền, quản trị rủi ro và sự 
thôn tính trong công ty cổ phần; sâu hơn nữa là sự xem xét vấn đề đại diện dưới góc 
độ đạo đức của hành vi quản trị. 
Các mô hình về các mối liên hệ trên cũng đã được nghiên cứu, phân tích và 
định lượng bằng các mô hình kinh tế, các công thức toán học và trên cơ sở dữ liệu 
thực nghiệm. Tôi chỉ xin nêu ra sau đây kết quả của một số công trình nghiên cứu 
liên quan đến chi phí đại diện của các nhà nghiên cứu trên thế giới. 
Yossi Spiegel - giảng viên khoa quản trị doanh nghiệp của trường Đại học 
Tel Aviv (Isarel) – đã nghiên cứu, phân tích về mối liên hệ giữa vấn đề đại diện và 
cấu trúc vốn của công ty, từ đó xem xét cơ sở ra quyết định đầu tư của người điều 
hành cho từng mô hình tài chính của công ty. 
Trong nghiên cứu về ảnh hưởng của vấn đề đại diện đến mức lương của 
người lao động4, với mẫu nghiên cứu gồm trên 2 triệu quan sát về mức lương của 
4 Henrik Cronqvist – The Ohio State University; Fredrik Heyman – Trade Union Insititute for Economic 
Research; Mattias Nilsson – Worcester Polytechnic Institute, Department of Management; Helena Svaleryd – 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 25 
người lao động trong các công ty, các nhà nghiên cứu Thụy Điển đã chứng minh 
bằng thực nghiệm rằng ở những công ty cổ phần mà các nhà điều hành nắm quyền 
kiểm soát cổ phiếu nhiều thì mức lương họ trả cho người lao động sẽ cao hơn so với 
các công ty cổ phần khác, mục đích là tạo ra môi trường làm việc thân thiện hơn 
giữa các ông chủ – người đại diện với người lao động. 
Kazuo Ogawa và Hirokuni Uchiyama thuộc Viện nghiên cứu Kinh tế xã hội 
Đại học Osaka (Nhật Bản) đã thực hiện một nghiên cứu thực nghiệm với chuỗi số 
liệu từ bảng cân đối kế toán và kết quả sản xuất kinh doanh của tất cả các công ty 
sản xuất và dịch vụ ở Nhật trong khoảng thời gian từ quý 1 năm 1976 đến quý 1 
năm 1998. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở các công ty cổ phần, đặc biệt là các công 
ty cổ phần với quy mô nhỏ5, các quyết định đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào chi phí 
đại diện, trong khi chi phí đại diện cao hay thấp hoàn toàn không phụ thuộc vào quy 
mô của công ty là lớn hay nhỏ. 
Có thể quan sát kết quả nghiên cứu của 2 ông qua các biểu đồ sau đây: 
Hình 1 và hình 2 mỗi hình gồm có 3 biểu đồ nhỏ biểu thị chi phí đại diện của 
tất cả các doanh nghiệp ở Nhật ở từng loại quy mô nhỏ, vừa, lớn trong giai đoạn từ 
quý 1 năm 1976 đến quý 1 năm 1998. Chi phí đại diện được giả định là 100 tại thời 
điểm quý 1 năm 1976. 
Hình 1: Chi phí đại diện của các công ty sản xuất (quý 1 năm 1976 là 100) 
The Research Institute of Industrial Economics; and Jonas Vlachos – The Research Institute of Industrial 
Economics, Do Agency Problems between Shareholders and Managers Affect Workers’ Pay?, 10/2005 
5 Trong nghiên cứu của mình, Kazuo Ogawa và Hirokuni Uchiyama quy định quy mô doanh nghiệp dựa vào 
quy mô nguồn vốn. Doanh nghiệp nhỏ có nguồn vốn kinh doanh dưới 100 triệu Yên, doanh nghiệp quy mô 
trung bình có nguồn vốn từ 100 triệu đến 1 tỉ Yên, doanh nghiệp quy mô lớn có nguồn vốn trên 1 tỉ Yên. 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 26 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 27 
Hình 2: Chi phí đại diện của các công ty dịch vụ (quý 1 năm 1976 là 100) 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 28 
Với kết quả có được, 2 ông khẳng định: ở Nhật Bản, chi phí đại diện của các 
công ty có xu hướng giảm vào cuối những năm 80 và tăng vào đầu những năm 90 
bất kể quy mô của doanh nghiệp là nhỏ, vừa hay lớn. 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 29 
Hình 3: Ảnh hưởng của chi phí đại diện đến tỉ lệ đầu tư (quý 1 năm 1976 là 0) 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 30 
Hình 3 biểu diễn sự ảnh hưởng của chi phí đại diện đến tỉ lệ đầu tư ở các 
công ty Nhật Bản trong thời kỳ từ quý 1 năm 1976 đến quý 1 năm 1998. Trong 
nghiên cứu của mình, Kazuo Ogawa và Hirokuni Uchiyama kết luận rằng sự giảm 
xuống của chi phí đại diện vào cuối những năm 80 liên quan đến sự tăng lên trong tỉ 
lệ đầu tư của các công ty Nhật; và sự gia tăng chi phí đại diện đầu những năm 90 đã 
làm giảm một cách mạnh mẽ tỉ lệ đầu tư trong các công ty Nhật thời gian này. 
2. VẤN ĐỀ ĐẠI DIỆN VÀ CHI PHÍ ĐẠI DIỆN Ở VIỆT NAM 
2.1. THỰC TRẠNG VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN VÀ CHI PHÍ ĐẠI DIỆN Ở 
VIỆT NAM 
Về phía doanh nghiệp, mâu thuẫn lợi ích giữa các cổ đông và người đại diện 
là rõ ràng nhất và ảnh hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp hơn cả, vì vậy, từ phần này 
trở về sau, tôi chỉ đề cập đến mâu thuẫn đại diện giữa các cổ đông và người đại diện 
là các thành viên trong ban điều hành công ty, vấn đề đại diện giữa các chủ nợ và 
các ông chủ của công ty được phân tích ở mục 2.2, phần II được xem như là một 
góc nhìn để bao quát toàn bộ vấn đề đại diện liên quan đến công ty mà thôi. 
Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, “Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty 
là người điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty, chịu sự giám sát 
của Hội đồng quản trị và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và trước pháp 
luật về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao.” 
Định nghĩa trên cho thấy rõ vai trò “người điều hành” của các giám đốc, 
tổng giám đốc công ty, họ đại diện cho các cổ đông – các ông chủ - để điều hành 
hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày và chịu sự giám sát của các ông chủ mà 
đại diện là Hội đồng quản trị. 
Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, “người điều hành” này thường là cổ đông 
lớn nhất của công ty, nghĩa là họ vừa là người chủ, vừa là người đại diện cho các cổ 
đông còn lại ra các quyết định quản trị và điều hành hoạt động của công ty. Mục 
tiêu lợi nhuận cao nhất cho công ty cũng chính là mục tiêu lợi nhuận cao nhất của 
“người điều hành” này, vì thế, về mặt hình thức thì vấn đề đại diện dường như 
không có lý do để phát sinh. Chúng ta thường thấy cụm từ giới thiệu “Ông A, chủ 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 31 
tịch Hội đồng quản trị kiêm giám đốc điều hành công ty B” xuất hiện rất nhiều khi 
nhắc đến các vị giám đốc, tổng giám đốc các công ty cổ phần ở Việt Nam. Điều này 
cho thấy rõ vai trò của người đại diện ở các công ty cổ phần Việt Nam còn rất mờ 
nhạt. Cần phân biệt rõ người đại diện - đối tượng đề cập tới trong luận văn này – 
với người thừa hành - những người đại diện cho “người đại diện” của chúng ta thực 
hiện các quyết định quản trị và điều hành công ty. Về hình thức, người đại diện này 
cũng là người đại diện cho các ông chủ, nhưng thực chất là đại diện cho các nhà 
điều hành – “người đại diện” – thi hành các các quyết định do “người đại diện” đưa 
ra mà thôi, vai trò của họ là đại diện cho người điều hành, chứ không phải là đại 
diện cho công ty, cho các ông chủ. 
Nói vậy không có nghĩa là hoàn toàn không có vấn đề đại diện trong các 
công ty cổ phần Việt Nam. Các ông chủ - người đại diện vẫn có những lợi ích cá 
nhân khác ngoài mục tiêu tối đa lợi nhuận cho công ty. Các thông tin nội bộ, vị thế 
người điều hành mang lại cho người đại diện của chúng ta nhiều lợi ích riêng biệt 
mà chỉ họ mới được hưởng, trong khi các cổ đông khác phải gánh chịu chi phí. Các 
chi phí này không thể hiện rõ bằng tiền hay các loại tài sản khác mà là chi phí ẩn, 
một dạng chi phí cơ hội, chi phí thông tin. Với vị trí giám đốc điều hành, các ông 
chủ - người đại diện này có được những thông tin mà chỉ riêng họ mới biết, những 
thông tin này có thể giúp họ có được các cơ hội kinh doanh hấp dẫn khác, hoặc 
hưởng các khoản hoa hồng từ những hợp đồng cung cấp hàng hóa dịch vụ cho công 
ty, hoặc đem lại cơ hội kinh doanh béo bở cho người thân trong gia đình, họ hàng 
của họ,… Những lợi ích gia tăng này đáng lẽ được chia đều cho tất cả các cổ đông 
trong công ty chứ không phải chỉ riêng các vị giám đốc - cổ đông này được hưởng. 
Thêm một thực tế là ở Việt Nam hiện nay, các công ty cổ phần có quy mô 
hoạt động lớn chủ yếu là các công ty nhà nước cổ phần hoá. Và các vụ việc liên 
quan đến các giám đốc, tổng giám đốc với tư cách là người đại diện này đang là vấn 
đề lớn và đáng báo động ở nước ta. 
Nếu phân loại chi phí đại diện thì có thể xem những lợi ích cá nhân mà các vị 
giám đốc, tổng giám đốc này có được là những mất mát phụ trội đối với công ty cổ 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 32 
phần. Những mất mát phụ trội này mặc dù không ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động 
sản xuất kinh doanh chính của công ty nhưng về mặt quản trị doanh nghiệp thì có 
thể xem như một loại chi phí cơ hội, chi phí cho sự rò rỉ thông tin của công ty cổ 
phần. Việc xác định những mất mát phụ trội này thực sự không dễ đối với các cổ 
đông. 
Và để hạn chế những mất mát phụ trội này, các cổ đông phải chấp nhận một 
khoản chi phí cho việc giám sát hoạt động của ban điều hành. Các cổ đông phải 
thường xuyên kiểm tra việc quyết định ký kết các hợp đồng của ban điều hành là có 
vì mục tiêu lợi nhuận cho các cổ đông hay vì một khoản hoa hồng được hưởng từ 
đối tác; kiểm tra xem những thông tin của công ty có được sử dụng một cách đúng 
đắn nhằm đem lại lợi nhuận cao nhất từ sự cạnh tranh công bằng giữa các đối tác 
hay chỉ được sử dụng cho các công ty gia đình do các thành viên ban điều hành 
thành lập hoặc có mối quan hệ gia đình, quen biết. 
Ngoài ra, để đảm bảo các cổ đông – người đại diện này thực hiện tốt nhất 
nhiệm vụ của mình thì các cổ đông còn lại cũng phải đưa ra các hợp đồng khuyến 
khích, hợp đồng ràng buộc. Thực hiện các hợp đồng này dẫn đến việc các cổ đông 
khác phải gánh chịu chi phí đại diện. 
2.2. VĂN HÓA VÀ NẾP NGHĨ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM 
Người Việt nam với truyền thống độc lập, tự chủ, thích tự mình làm chủ và 
tự mình điều hành mọi hoạt động liên quan đến cuộc sống của mình, do đó thường 
bắt đầu bằng việc thành lập các công ty tư nhân với quy mô nhỏ để có thể tự mình 
làm chủ, điều hành và giám sát mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Với 
tư cách người chủ - người điều hành, họ không phải lo lắng gì về “vấn đề đại diện”, 
về “chi phí đại diện”, mọi cố gắng của họ đều nhằm mục đích tối đa lợi nhuận cho 
công ty và cũng là cho chính họ. Các vị trí quan trọng, có quyền đưa ra các quyết 
định điều hành, giám sát các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đều do ông 
chủ duy nhất của công ty thực hiện, hoặc là các thành viên trong gia đình của ông 
chủ này đảm nhiệm, người ngoài - người làm thuê chỉ được thực hiện các công việc 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 33 
mang tính chất thừa hành. Vai trò tích cực của người đại diện đối với công ty không 
được đánh giá cao bằng tính tự chủ của người Việt Nam. 
Ngoài ra, với lối tư duy cụ thể, thiếu tính logic, thiên về kinh nghiệm cảm 
tính hơn là duy lý, ưa hình tượng hơn khái niệm, đầu óc gia trưởng, bảo thủ, địa 
phương, hẹp hòi,… những đặc điểm này của người Việt Nam khiến cho hoạt động 
quản trị doanh nghiệp, mà cụ thể là vai trò của người điều hành bị hiểu và thực hiện 
một cách méo mó. Người điều hành công ty, dù có là cổ đông hay không là cổ đông 
trong công ty luôn có tư tưởng tự cho mình cũng như được các nhân viên trong 
công ty nhìn nhận cảm tính như là một “ông chủ”. Điều này rất dễ dẫn đến tình 
trạng lạm dụng quyền lực của các thành viên trong ban điều hành. Ngoài ra, tính 
cách này cũng ảnh hưởng đến cách thức điều hành và ra quyết định của các giám 
đốc, tổng giám đốc. Họ điều hành công ty phần lớn dựa vào kinh nghiệm bản thân, 
suy xét vấn đề một cách cảm tính, phần lớn là không mang tính khoa học, ra quyết 
định mà không suy xét đến các hậu quả có thể xảy ra, bảo thủ, kiên quyết giữ ý kiến 
của mình dù có thể biết rõ rằng ý kiến đó là không mang lại hiệu quả cho việc điều 
hành công ty. Vì vậy, tính cách này của họ làm khoét sâu hơn nữa tác động tiêu cực 
của vấn đề đại diện trong công ty cổ phần. 
Xu hướng phủ định cá nhân, san bằng cá tính, yêu thích sự dung hòa, quân 
bình của người Việt Nam khiến cho vai trò tích cực của người đại diện bị hạn chế, 
các ý kiến của cá nhân không thể vượt qua ý kiến của tập thể, của số đông. Những 
suy nghĩ mới, mang tính đột phá của các cá nhân luôn bị những luồng suy nghĩ cũ, 
những kinh nghiệm cũ, hoặc những tập thể cũ chèn ép, dần dần sẽ dẫn đến hạn chế 
khả năng tư duy sáng tạo, tính quyết đoán, sự nhạy bén, lòng nhiệt tình của các cá 
nhân. Và vai trò của người đại diện đối với công ty cổ phần vì thế không được 
chứng tỏ. 
Bên cạnh đó là lề thói chuộng hư danh, thích phô trương, kiểu cách cũng 
khiến các giám đốc, tổng giám đốc tiêu tốn rất nhiều thời gian vào những việc 
không mang lại lợi nhuận cho các cổ đông của công ty, trong trường hợp này, vấn 
đề đại diện phát sinh dưới dạng sự lựa chọn bất lợi. 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 34 
Thói quen dựa dẫm vào các mối quan hệ của người Việt ta cũng ảnh hưởng 
đến vấn đề đại diện. Trong một số trường hợp, những thành viên trong ban điều 
hành sẽ dùng các mối quan hệ của mình trong việc điều hành công ty, những mối 
quan hệ này đôi khi đem lại lợi ích cho công ty, nhưng sẽ là không tốt khi các mối 
quan hệ của người điều hành diễn ra không suôn sẻ, những “chỗ dựa” không còn 
vững chắc. Theo Chuyên đề nghiên cứu kinh tế tư nhân số 22 với trên 85 doanh 
nghiệp lớn ở Việt Nam do IFC-MPDF (International Finance Corporation – 
Mekong Private Sector Development Facility: Chương trình Phát triển Kinh tế tư 
nhân thuộc công ty Tài chính Quốc tế) thực hiện, thì có 87% doanh nghiệp được 
phỏng vấn đã xếp mối quan hệ cá nhân giữa giới quản lý và cơ quan quản lý nhà 
nước mà doanh nghiệp phải làm việc cùng là quan trọng hoặc rất quan trọng. 
Ngược lại, phong cách uyển chuyển, linh hoạt, dễ dung hợp, dễ thích nghi lại 
giúp các thành viên trong ban điều hành nhanh chóng hòa nhập với các thành viên 
khác, thích nghi nhanh với công việc điều hành để có thể đưa ra những quyết định 
mang lại lợi nhuận cao nhất cho các ông chủ. 
Cùng với sự phát triển của hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, quy 
mô hoạt động của các công ty lớn dần, nhu cầu về vốn cho các cơ hội sản xuất kinh 
doanh dẫn đến việc các ông chủ phải hoặc đi vay vốn ngân hàng, hoặc huy động 
thêm vốn bằng cách phát hành và bán cổ phần ra bên ngoài. Như vậy, do sự phát 
triển lớn mạnh về kinh tế và xu thế chuyên môn hóa trong điều hành, vấn đề đại 
diện cũng sẽ luôn luôn tồn tại và người chủ doanh nghiệp phải chấp nhận chi phí đại 
diện để có thể thiết lập được mối quan hệ đại diện hiệu quả và đạt được mục tiêu tối 
đa lợi nhuận. Tuy vậy, với những đặc điểm về văn hóa, các ông chủ và người đại 
diện Việt Nam cần phải học tập, làm việc và hợp tác với nhau nhiều hơn để có thể 
tiến tới xây dựng một công ty hoạt động hiệu quả và mang lại lợi ích cho cả hai bên, 
đồng thời hạn chế tối đa chi phí đại diện, cuối cùng là vì mục tiêu phát triển kinh tế 
vì một đất nước giàu mạnh. 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 35 
3. NGUYÊN NHÂN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CHI PHÍ ĐẠI DIỆN Ở VIỆT 
NAM 
3.1. NGUYÊN NHÂN PHÁT SINH 
Nguyên nhân phát sinh các chi phí đại diện ở các công ty Việt Nam cũng từ 
sự tư lợi. Tuy mục tiêu lợi ích của các giám đốc, tổng giám đốc cũng là đem lại lợi 
nhuận cao nhất cho công ty cổ phần, nhưng bên cạnh đó, những “người đại diện” 
này còn có những mục tiêu cá nhân khác, những cơ hội tìm kiếm lợi ích riêng cho 
mình mà không phải chi trả chi phí cho việc tìm kiếm các cơ hội, các khoản lợi tức 
đó. 
Ở Việt Nam hiện nay, sự ra đời hàng loạt các công ty gia đình cho thấy sự 
phát triển mạnh về mặt kinh tế, nguồn vốn trong nhân dân được huy động, thu nhập 
từ nền kinh tế được tái đầu tư vào sản xuất, kinh doanh. Về mặt nào đó thì đây là tín 
hiệu tốt cho thấy sự phát triển kinh tế quốc gia. Sự bền vững và thống nhất về xã hội 
của gia đình đã tạo cho các công ty gia đình một lợi thế riêng có trong giai đoạn đầu 
của quá trình công nghiệp hóa và khi khuôn khổ pháp luật kinh doanh còn nhiều bất 
ổn. 
Tuy nhiên, hiện tại, số lượng các công ty gia đình ở Việt Nam với nghĩa là 
một dạng công ty hoàn toàn do các thành viên của một gia đình nắm giữ quyền sở 
hữu, hoạt động bình thường, nghiêm túc trên thị trường, hoạt động bằng thực lực và 
cạnh tranh công bằng rất ít. Các công ty gia đình còn lại hay đúng hơn là các công 
ty “sân sau”, các công ty “tay trong” có liên quan đến các thành viên trong ban điều 
hành chiếm phần lớn. Các công ty này được thành lập nhiều là do tình trạng các 
công ty cổ phần không có biện pháp hữu hiệu để tránh xung đột lợi ích, không có 
những nguyên tắc quản trị tốt (xem phụ lục), bên cạnh đó, cơ chế công bố thông tin 
công khai và thực hiện kiểm toán bắt buộc là vấn đề hết sức mới mẻ đối với doanh 
nghiệp Việt Nam, dẫn đến tình trạng những người quản lý lạm dụng quyền và 
nhiệm vụ được giao, sử dụng tài sản, cơ hội kinh doanh của công ty phục vụ cho lợi 
ích riêng của bản thân hoặc của người có liên quan khác hoặc làm thất thoát nguồn 
lực do công ty kiểm soát. Với cương vị là giám đốc, tổng giám đốc điều hành, họ 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 36 
tiếp cận được rất nhiều thông tin mà không phải cổ đông nào cũng được biết, họ 
biết được những mặt hàng, những sản phẩm dịch vụ mà công ty cần mua bán, các 
yêu cầu cần thiết để ký kết các hợp đồng, cung cách thực hiện việc sản xuất kinh 
doanh của công ty; việc tìm kiếm, tiếp xúc, gặp gỡ, bàn bạc, thỏa thuận các yêu cầu, 
điều kiện với các đối tác kinh doanh của công ty cũng do họ đảm nhiệm (những 
thông tin này vốn không được tiết lộ đến các cổ đông đại chúng); kết quả là những 
cơ hội hợp tác kinh doanh mua bán thường dành cho các công ty gia đình, hoặc là 
những công ty biết dành một khoản hoa hồng, lợi tức hấp dẫn cho các nhà điều hành 
công ty. Trong khi đó, nếu cơ hội hợp tác kinh doanh được phân bổ một cách công 
bằng thì có thể các cổ đông – các ông chủ còn lại sẽ thu được lợi nhuận nhiều hơn 
nữa, sự cạnh tranh công bằng giữa các công ty đối tác sẽ giúp mang lại lợi ích cao 
nhất cho các cổ đông. Kết quả là phát sinh chi phí đại diện mà các cổ đông khác 
(thường là các cổ đông thiểu số) phải gánh chịu. 
3.2. TÁC ĐỘNG CỦA CHI PHÍ ĐẠI DIỆN Ở VIỆT NAM 
Tuy vấn đề người đại diện và chi phí đại diện ở Việt Nam hiện nay chưa nổi 
bật, chưa phải là vấn đề được quan tâm nhiều trong quản trị doanh nghiệp, nhưng 
không phải vì thế mà các tác động của vấn đề đại diện là hoàn toàn không phát sinh 
và không đáng chú ý đối với các công ty cổ phần Việt Nam. 
Bên cạnh những tác động tích cực và tiêu cực như đã phân tích ở mục 4 phần 
II, ở Việt Nam, với những đặc điểm riêng của nền kinh tế đang phát triển, chi phí 
đại diện còn gây ra những tác động tiêu cực sau cho quản trị doanh nghiệp nói riêng 
và cho nền kinh tế quốc gia nói chung. 
Phần lớn các công ty ở Việt Nam hiện nay là công ty một người làm chủ 
hoặc là công ty của gia đình. Chính vì thế chưa có sự phân biệt được quyền và trách 
nhiệm của ông chủ và người quản lý. Ở quy mô nhỏ, quản lý kiểu gia đình có thể là 
phù hợp. Nhưng khi doanh nghiệp bắt đầu phát triển lớn lên, chủ doanh nghiệp phải 
đi thuê người quản lý thì bắt đầu cảm thấy lúng túng, không nhận dạng được nguy 
cơ người quản lý có thể xâm hại đến lợi ích của mình. Người quản lý có nhiều lợi 
thế: có thể tiếp cận đến thông tin đầu vào, có kỹ năng phân tích, có thẩm quyền 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 37 
quyết định trong tay. Họ có thể dùng những công cụ đó để xâm hại đến lợi ích của 
chủ doanh nghiệp như làm méo mó thông tin đầu vào hay ký kết các hợp đồng giao 
dịch tư lợi v.v… 
Xung đột về lợi ích đặc biệt xảy ra nhiều trong những doanh nghiệp cổ phần 
hóa. Đại đa số các vụ lộn xộn này là do người lao động bán đi những cổ phần họ 
được mua với giá giảm (mà ta quen gọi là giá ưu đãi) đã tạo cơ hội hình thành 
những nhóm cổ đông có những lợi ích khác nhau, trong đó có những cổ đông có ý 
định thôn tính công ty bằng mọi giá. Điều lệ, một công cụ quan trọng của quản trị 
doanh nghiệp, được các doanh nghiệp xây dựng một cách hình thức nên không có 
tác dụng để phân xử mâu thuẫn giữa các bên. Những xung đột nội bộ không thể tự 
giải quyết được thì được mang đến tòa. Các phán quyết của tòa hầu như không được 
thi hành do không giải quyết một cách thỏa đáng các mâu thuẫn trong nội bộ và 
không tạo được sự cân bằng lợi ích của các thành phần khác nhau trong công ty. 
Một trường hợp cụ thể là Công ty cổ phần Hữu nghị (Hà Nội) đóng cửa hơn 5 năm 
chỉ để kiện tụng nhau. 
Trên thực tế một số doanh nghiệp sau cổ phần hoá đi vào hoạt động đã dần 
dần bị "gia đình hóa", bị biến thành doanh nghiệp tư nhân. 
Theo khảo sát, một số Chủ tịch Hội đồng quản trị, Giám đốc điều hành của 
công ty có xu hướng biến công ty cổ phần thành công ty gia đình bằng cách bổ 
nhiệm người thân vào những vị trí quan trọng. Ở một số công ty cổ phần đã xảy ra 
tình trạng mua bán, chuyển nhượng cổ phần khá tự do, công ty không kiểm soát 
được. Một số cổ đông còn chuyển nhượng ngầm cả số cổ phiếu ưu đãi, bất chấp quy 
định của pháp luật. Có những cá nhân đã mua gom cổ phần của người lao động lớn 
tới mức trên 50% giá trị cổ phần danh nghĩa và nghiễm nhiên họ đã trở thành chủ 
nhân đích thực của công ty cổ phần, biến doanh nghiệp sau cổ phần hoá thành 
doanh nghiệp tư nhân và người lao động (cổ đông, nhất là cổ đông nghèo) thành 
người làm thuê. Thực chất, có thể coi đây là hiện tượng "tư nhân hóa ngầm" các 
doanh nghiệp đã cổ phần hoá. Điều này hoàn toàn trái với mục tiêu cổ phần hoá mà 
Đảng và Nhà nước chủ trương. Cùng với hiện tượng "tư nhân hoá ngầm" là hiện 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 38 
tượng "hợp tác hoá ngầm" các doanh nghiệp đã cổ phần hoá. Trường hợp này 
thường diễn ra ở những doanh nghiệp cổ phần hoá không có cổ đông là người ngoài 
doanh nghiệp tham gia, mặc dù Khoản 4, Điều 3, Nghị định 64/2002/NĐ-CP đã quy 
định dành tối thiểu 30% số cổ phần còn lại (nếu có) bán cho đối tượng ngoài doanh 
nghiệp. Việc không thu hút được những nhà đầu tư bên ngoài, nhất là những nhà 
đầu tư có tiềm năng về vốn, trình độ công nghệ, trình độ quản lý... đã làm cho cổ 
phần hoá có nguy cơ biến thành hợp tác hóa. 
Ngoài ra, thiệt hại lớn nhất mà vấn đề đại diện hay cụ thể hơn là hệ thống 
công ty “tay trong”, công ty “sân sau” của các giám đốc, tổng giám đốc gây ra cho 
nền kinh tế là tạo ra sự cạnh tranh không công bằng, từ đó buộc những công ty có 
năng lực phải đi tìm chỗ khác mà “chơi” hoặc phải rút khỏi thị trường. Nguy hiểm 
hơn, việc giao dịch dựa trên mối quan hệ với các giám đốc, tổng giám đốc này làm 
nản lòng những nhà đầu tư mới, khiến họ không dám bỏ vốn làm ăn, nền kinh tế có 
thể bị méo mó khi những nhà kinh doanh có năng lực thật sự không muốn và không 
thể gia nhập ngành chỉ vì những lực cản không minh bạch. Trong chuyên đề nghiên 
cứu kinh tế tư nhân số 22 do IFC – MPDF thực hiện cho thấy, chỉ có chưa tới 25% 
doanh nghiệp được phỏng vấn nói rằng họ có những quy định hướng dẫn bằng văn 
bản về việc kiểm soát các giao dịch của các bên. 
4. CÁC BIỆN PHÁP KIỂM SOÁT VÀ GIA TĂNG HIỆU QUẢ QUẢN 
LÝ CHI PHÍ ĐẠI DIỆN Ở VIỆT NAM: 
Bên cạnh những biện pháp đã đề cập ở mục 5, phần II, tôi xin trình bày bổ 
sung một số ý kiến tôi rút ra từ quá trình tìm hiểu và phân tích vấn đề đại diện ở các 
công ty cổ phần Việt Nam. 
Thứ nhất, thực tế cho thấy khái niệm “quản trị doanh nghiệp” ở Việt Nam 
vẫn còn rất mới mẻ. Theo kết quả điều tra năm 2004 với trên 85 doanh nghiệp lớn ở 
Việt Nam do IFC-MPDF (Chương trình Phát triển Kinh tế tư nhân thuộc công ty 
Tài chính Quốc tế) thực hiện, có đến hơn 60% doanh nghiệp thừa nhận chưa thực 
hiện tốt công tác quản trị; hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhiều 
khi vẫn chịu sự lệ thuộc ở mức độ lớn vào các cơ quan quản lý nhà nước cấp trên; 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 39 
gần 40% các doanh nghiệp nhà nước được điều tra cho biết, họ bị áp đặt các chỉ tiêu 
kinh doanh từ cấp trên; khoảng 75% doanh nghiệp trả lời cho rằng "cơ chế xin-cho" 
vẫn tồn tại khá phổ biến; chỉ có 23% số doanh nghiệp được hỏi cho thấy đã hiểu 
khái niệm và nguyên tắc cơ bản của quản trị doanh nghiệp. Nhiều giám đốc được 
phỏng vấn vẫn còn lẫn lộn giữa quản trị doanh nghiệp với quản lý tác nghiệp như: 
điều hành sản xuất, quản lý marketing, quản lý nhân sự, v.v... 
Nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam, kể cả các doanh nghiệp cổ phần 
hoá, chưa có hệ thống quản trị doanh nghiệp tốt. Theo điều tra của IFC-MPDF thì 
đa số các giám đốc được hỏi cho rằng các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện chưa thực 
hiện tốt công tác quản trị doanh nghiệp, cụ thể trong các vấn đề sau: 
- Vai trò và chức năng của Ban kiểm soát trong một số công ty còn chưa rõ 
ràng, rất hạn chế và mang tính hình thức. Có đến 37% số người được hỏi 
trong cuộc điều tra của IFC về quản trị doanh nghiệp ở Việt Nam cho rằng 
“trên thực tế, Ban kiểm soát có rất ít quyền hành và chỉ tồn tại trên giấy tờ do 
yêu cầu của luật pháp”. Có những trường hợp mà Ban kiểm soát bao gồm các 
cá nhân trong doanh nghiệp là cấp dưới của Ban giám đốc, hoặc thậm chí có 
quan hệ với Ban giám đốc, thì họ rất khó có thể thực hiện nhiệm vụ của mình 
một cách tự do và độc lập. 
- Hội đồng quản trị có vai trò và trách nhiệm không rõ ràng. Chuyên đề số 22 
về phát triển kinh tế tư nhân của IFC cho thấy, 35% công ty cho rằng cuộc 
họp Hội đồng quản trị của họ được tổ chức một cách không chính thức; tính 
trên tiểu mẫu các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì gần 65% tiết lộ rằng 
các cán bộ quản lý cao cấp không thuộc Hội đồng quản trị cũng thường 
xuyên tham dự các cuộc họp Hội đồng quản trị. 
- Sự minh bạch và công bố thông tin chưa được thực hiện tốt. Đặc biệt là ở các 
công ty cổ phần hóa. Chuyên đề nghiên cứu kinh tế tư nhân số 22 của IFC 
cho thấy, hơn 37% các doanh nghiệp được phỏng vấn không tiến hành kiểm 
toán độc lập, trong đó có 46% công ty cổ phần lựa chọn việc không tiến hành 
kiểm toán độc lập. Đối với các doanh nghiệp có tiến hành kiểm toán độc lập, 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 40 
chỉ có một số ít (13%) các doanh nghiệp đó có các quy định hoặc hướng dẫn 
bằng văn bản để đảm bảo rằng các kiểm toán viên độc lập với doanh nghiệp 
và độc lập với các cán bộ quản lý cao cấp trong doanh nghiệp. Hơn một nửa 
các doanh nghiệp thừa nhận rằng báo cáo tài chính trong bản báo cáo thường 
niên không được kiểm toán và không được thông qua bởi một kiểm toán viên 
độc lập. 
- Nhà đầu tư không được cung cấp đầy đủ và kịp thời thông tin về việc cổ 
phần hóa dẫn đến việc cổ phần hóa còn mang tính “khép kín”, không thu hút 
được các nhà đầu tư chiến lược, thậm chí còn tạo điều kiện cho một số nhà 
đầu tư mua gom cổ phiếu và trục lợi cá nhân. 
- Vai trò của cổ đông đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại các công ty cổ 
phần hóa không được rõ ràng, hoặc buông lỏng, hoặc quá lạm dụng, làm 
mầm mống cho các xung đột, dẫn đến sự can thiệp thường xuyên của các cơ 
quan quản lý Nhà nước vào quản trị doanh nghiệp. Mặt khác, việc quản lý 
trong các công ty này phổ biến vẫn là “bình mới, rượu cũ”, do đó thiếu hiệu 
quả. 
- Các giao dịch với bên có liên quan: đây là những giao dịch giữa hai hay 
nhiều bên có mối quan hệ đặc biệt với nhau trước khi giao dịch xảy ra. Hiện 
tượng giao dịch tư lợi diễn ra khá phổ biến, đặc biệt là ở các doanh nghiệp 
nhà nước, nhất là trong các giao dịch lớn như mua sắm máy móc thiết bị, đấu 
thầu còn khá phổ biến. Vai trò của quản lý nhà nước trong việc buộc các 
doanh nghiệp phải công khai thông tin, kiểm tra thông tin về các giao dịch 
với các bên có liên quan còn hạn chế. Trong cuộc điều tra được tiến hành bởi 
IFC về quản trị doanh nghiệp ở Việt Nam, hơn 75% doanh nghiệp không có 
các văn bản hướng dẫn hoặc những quy định bằng văn bản để kiểm soát các 
giao dịch của các bên liên quan, họ cho rằng “chúng tôi không cần phải có 
quy định riêng của mình vì mọi điều đã được quy định trong luật và các quy 
định pháp luật”6. Dĩ nhiên lập luận này là có cơ sở nếu không tính đến sự cố 
6 Quản trị doanh nghiệp tại Việt Nam: bước đầu của một chặng đường dài, chương 3, mục 5.4, trang 48. 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 41 
ý của các đại diện doanh nghiệp trong việc không áp dụng một cơ chế nội bộ 
để hạn chế các giao dịch với các bên liên quan nhằm dễ dàng trục lợi từ các 
giao dịch đó. 
Chính vì thế, các công ty cổ phần Việt nam muốn phát triển bền vững phải 
có quy chế quản trị phù hợp, phải thực hiện đầy đủ và hiệu quả các nguyên tắc 
quản trị đề ra, các nhà điều hành phải được đào tạo để hiểu rõ và thực hiện các 
nguyên tắc quản trị một cách tốt nhất. Đối với các cổ đông cũng vậy. Nếu các ông 
chủ coi trọng vấn đề quản trị doanh nghiệp, có những quy định phù hợp với các tập 
quán quốc tế tốt nhất, thì vấn đề lãng phí, lạm dụng giá trị của doanh nghiệp vì mục 
đích cá nhân hay các vấn đề của các công ty "tay trong" sẽ giảm bớt đáng kể. 
Thứ hai, chúng ta biết rằng cơ chế vận hành của thị trường chứng khoán 
cũng góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu thực hiện nghiêm túc 
các nguyên tắc quản trị công ty, qua đó tạo ra một thị trường hoạt động công bằng, 
công khai, minh bạch, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cổ đông, đặc biệt là 
các cổ đông nhỏ, kết quả là vấn đề đại diện được kiểm soát và cùng với nó là chi phí 
đại diện. Mặc dù còn đang rất sơ khai và mới mẻ, nhưng có thể khẳng định rằng các 
công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam là những doanh 
nghiệp tiên phong trong việc thực hiện quản trị công ty tốt. Trên cơ sở thực hiện 
Mẫu điều lệ áp dụng cho công ty niêm yết, các công ty niêm yết đã thể hiện được 
các nguyên tắc cơ bản về quản trị công ty theo đề xuất của Tổ chức hợp tác và phát 
triển kinh tế (OECD) trên các phương diện sau: 
- Thực hiện đảm bảo các nguyên tắc đối xử bình đẳng, cho các cổ đông được 
tham dự các quyền của mình (quyền thông tin, quyền đề cử, biểu quyết…), 
đặc biệt là cổ đông thiểu số, qua đó tăng cường vai trò giám sát đối với hoạt 
động công ty; 
- Thực hiện cơ chế công bố thông tin công khai (thông tin định kỳ; bất thường 
và thông tin theo yêu cầu của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước) và chế độ 
kiểm toán bắt buộc, nhằm nâng cao trách nhiệm của Hội đồng quản trị trước 
các cổ đông và cơ quan quản lý thị trường (là Uỷ ban Chứng khoán Nhà 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 42 
nước), đảm bảo cho các cổ đông được tiếp cận thông tin tối đa, thường 
xuyên, liên tục và giám sát được hoạt động của Hội đồng quản trị và Giám 
đốc điều hành. 
Do đó, phát triển hoạt động của thị trường chứng khoán cũng là một trong 
các biện pháp gián tiếp góp phần nâng cao trình độ và hiệu quả của việc thực hiện 
các nguyên tắc quản trị công ty cho các công ty cổ phần, từ đó có thể hạn chế được 
các vấn đề phát sinh do mâu thuẫn lợi ích giữa người điều hành và các cổ đông, 
cuối cùng là tiến tới giảm chi phí đại diện cho công ty cổ phần. 
Thứ ba, cũng phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, việc vận dụng các quy tắc quản 
trị công ty đối với các doanh nghiệp Việt Nam gặp không ít những trở ngại. Xuất 
phát từ một số lý do sau: 
- Nền kinh tế nước ta đang chuyển đổi sang kinh tế thị trường, nhưng xuất 
phát điểm rất thấp, nền kinh tế vẫn còn chứa đựng rất nhiều các yếu tố kinh 
tế phi thị trường; 
- Vẫn còn sự bảo hộ nhà nước trong những chừng mực nhất định về vốn, 
nguyên liệu, trợ giá sản phẩm với các công ty cổ phần hóa; 
- Môi trường luật pháp chưa thực sự nghiêm minh trong việc xử lý các công ty 
vi phạm quy chế thông tin minh bạch; 
- Môi trường kinh tế còn thiếu minh bạch, không có sự bình đẳng trong công 
bố thông tin và kiểm toán bắt buộc giữa công ty niêm yết và công ty không 
phải niêm yết; 
- Ngoài ra sự hiểu biết về quản trị công ty trong cán bộ lãnh đạo và cơ quan 
quản lý nhà nước còn hạn chế. 
Vì vậy, để giảm thiểu các vấn đề về người đại diện, các doanh nghiệp Việt 
nam cần phải thực hiện nghiêm túc các quy định trong khuôn khổ pháp lý thống 
nhất cho các doanh nghiệp (Luật doanh nghiệp thống nhất năm 2005) song song 
với việc mở rộng phạm vi áp dụng các nguyên tắc quản trị công ty tốt tại Việt 
Nam (tiến tới thống nhất các quy định về công khai thông tin và kiểm toán cho mọi 
loại hình doanh nghiệp; xây dựng cơ chế giao tiếp đối thoại giữa cổ đông và Hội 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 43 
đồng quản trị nhằm đảm bảo cổ đông được thực hiện các quyền của mình và giám 
sát hoạt động của Hội đồng quản trị và Ban điều hành). 
Thứ tư và cụ thể hơn là ban hành trong điều lệ công ty cổ phần những quy 
định chi tiết liên quan đến quyền và nghĩa vụ của những thành viên trong Ban 
điều hành công ty. Ví dụ như, việc cấm các nhà quản lý doanh nghiệp lạm dụng địa 
vị và quyền hạn để thu lợi riêng cho bản thân; các hợp đồng kinh tế lớn phải trải qua 
các bước giám sát như thế nào nếu công ty đối tác có liên quan đến thành viên hội 
đồng quản trị và thành viên ban giám đốc doanh nghiệp. Hay việc quy định những 
người lãnh đạo phải công khai tiết lộ liệu họ trực tiếp, gián tiếp hay thông qua người 
thứ ba có lợi ích vật chất gì trong bất cứ giao dịch hay vấn đề nào ảnh hưởng đến 
công ty hay không, và đặt ra quy định rằng những giao dịch như vậy bị cấm thực 
hiện (cùng với biện pháp chế tài hợp lý) hoặc những người có liên quan không được 
tham gia vào việc ra quyết định ấy,… 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 44 
PHẦN IV: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
1. KẾT LUẬN 
Các tác động của chi phí đại diện ở Việt Nam mặc dù chưa ở mức độ nghiêm 
trọng, cụm từ chi phí đại diện chưa được nhắc đến nhiều trong các lý thuyết về 
doanh nghiệp. Thậm chí, ngay cả bản thân một số cổ đông trong Hội đồng quản trị 
cũng chưa nhận thức được sự tồn tại của chi phí đại diện trong công ty mình. Do đó, 
phần lớn các cổ đông đã vô tình giao quyền lực của mình cho các thành viên trong 
ban quản lý công ty. Xu hướng này là hệ quả của sự gia tăng đầu tư đáng kể và nó 
đã để lại một khoảng trống quyền lực trong công ty. Điều đó đã dẫn đến tình trạng 
lạm dụng quyền lực quản lý của ban điều hành là điều tất yếu xảy ra. 
Nền kinh tế nước ta đang ở giai đoạn đang phát triển, vai trò của người đại 
diện đối với việc điều hành công ty cổ phần chưa được chú trọng. Cùng với sự phát 
triển kinh tế và xu hướng hội nhập toàn cầu, xu hướng thuê các thành viên trong ban 
điều hành là người đại diện cho các cổ đông điều hành công ty là tất yếu. Các thành 
viên ban điều hành này đương nhiên có những lợi ích không đồng nhất với các ông 
chủ của họ. Sự mâu thuẫn trong lợi ích và bản tính tư lợi của mỗi cá nhân là nguyên 
nhân của vấn đề đại diện trong công ty. Và để giải quyết những mâu thuẫn lợi ích 
này, tiến tới mức lợi nhuận cao nhất cho các cổ đông, các ông chủ phải chấp nhận 
chi phí đại diện, bao gồm các chi phí giám sát, chi phí ràng buộc cùng các mất mát 
phụ trội do sự xuất hiện của vấn đề đại diện. 
Việt Nam đã gia nhập vào WTO, rất nhiều cơ hội và thách thức đặt ra trước 
mặt các doanh nhân Việt nam. Chúng ta có thể lên tàu ra biển lớn nếu chúng ta tìm 
được con đường phát triển bền vững và hội nhập được với các thành viên trên con 
tàu. Chúng ta không thể khăng khăng giữ mãi những đặc điểm của dân tộc mà 
không còn phù hợp với sự phát triển đi lên của kinh tế xã hội. Chúng ta cũng không 
thể vì lợi ích trước mắt (những lợi ích có được do sự buông lỏng quản lý, sự thả nổi 
các nguyên tắc về quản trị công ty) mà quên đi rằng chúng ta đang trên tàu ra biển, 
nếu không cùng hướng tới mục đích chung chúng ta sẽ bị hất xuống biển vì lỗi lầm 
của chính chúng ta. 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 45 
Ở các nước có nền kinh tế phát triển và một số nước đang phát triển khác, 
việc nghiên cứu về chi phí đại diện và những tác động của loại chi phí này đến kinh 
tế; các mối liên hệ với các biến khác của nền kinh tế; các biện pháp quản lý, kể cả 
các ứng dụng vào các lĩnh vực của kinh tế xã hội đã và đang được các nhà khoa 
học, các nhà kinh tế thực hiện theo cách thức và trình tự rất khoa học cả về số lượng 
và chất lượng. Những nghiên cứu của họ đóng góp rất nhiều và trở thành một bộ 
phận không thể thiếu trong lý thuyết doanh nghiệp hiện đại. Cùng với xu thế hội 
nhập, tôi thiết nghĩ chúng ta nên bắt đầu tìm hiểu và nghiên cứu về vấn đề đại diện 
và những mặt liên quan, ít nhất là để có thể hoà nhập với nền kinh tế thế giới về mặt 
lý thuyết. 
2. KIẾN NGHỊ VỀ NHỮNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO 
Với một nền kinh tế đang phát triển, còn nhiều yếu tố phi thị trường như Việt 
Nam hiện nay, tôi chỉ xin đưa ra một số kiến nghị trước mắt ở mức độ cho phép về 
những nghiên cứu tiếp theo trong vấn đề chi phí đại diện ở nước ta như sau: 
- Để định lượng được chi phí đại diện, chúng ta cần phân tích và xác định các 
loại chi phí đại diện cụ thể trong công ty cổ phần. Ví dụ, cần xác định cụ thể 
bao nhiêu phần trăm lương của các thành viên ban điều hành là dành để thuê 
“năng lực làm việc” vì lợi ích của cổ đông, bao nhiêu phần trăm là để giám 
sát và ràng buộc người đại diện này thực hiện đầy đủ và đúng đắn “năng lực 
làm việc” đó; hay xác định giá của các hợp đồng khuyến khích, các quyền 
chọn, các quyền mua cổ phiếu và giá của việc rò rỉ những thông tin nội bộ 
mà các giám đốc, tổng giám đốc sử dụng cho mục đích tư lợi cho bản 
thân,… Đây là vấn đề cần sự tham gia của không chỉ các cổ đông – các ông 
chủ, mà còn của các ban ngành có liên quan như Bộ Tài chính, Bộ Lao động, 
Thương binh và Xã hội,…, và của cả các chuyên gia kinh tế. 
- Nếu định lượng được chi phí đại diện trong công ty, thì việc kiểm soát, hạn 
chế và gia tăng hiệu quả quản lý loại chi phí này sẽ chỉ còn là vấn đề của các 
cổ đông của từng công ty giống như đối với các chi phí sản xuất, kinh doanh 
hiện nay. 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 46 
- Từ đó, xác định và phân tích, ứng dụng mối liên hệ giữa chi phí đại diện và 
các vấn đề khác của công ty sẽ chỉ là vấn đề thời gian đối với các nhà nghiên 
cứu và các chuyên gia kinh tế. 
- Đối với doanh nghiệp, để tìm được giám đốc doanh nghiệp giỏi, phải kỳ 
công “đãi cát tìm vàng”, phải chủ động tìm kiếm, tuyển lựa, lôi kéo, chứ 
không thể thụ động ngồi chờ sau khi đăng thông báo tuyển dụng. Người có 
tài thường khái tính và có tính độc lập cao. Nếu như doanh nghiệp là “minh 
quân” và đem lòng thành thực, cầu thị đi tìm người tài, tạo điều kiện cho họ 
phát huy sở trường và trọng đãi, tôn vinh họ xứng đáng... thì nhất định 
“cung” sẽ gặp “cầu”. Do đó, về dài hạn, một chiến lược và kế hoạch cụ thể 
cho việc đào tạo thế hệ giám đốc doanh nghiệp chuyên nghiệp là cần thiết 
khách quan cho bất kỳ quốc gia nào, trong đó có Việt Nam. 
- Cuối cùng, theo tôi thiết nghĩ, đạo đức kinh doanh là vấn đề cần được quan 
tâm hơn cả ngay từ bây giờ, không chỉ trong lĩnh vực liên quan đến vấn đề 
đại diện mà trong mọi khía cạnh, mọi hoạt động kinh tế. Vì vậy, tôi kiến nghị 
nên đưa môn học giáo dục đạo đức kinh doanh trở thành môn học chính thức 
trong tất cả các ngành học liên quan đến kinh tế ở các trường Đại học, Cao 
đẳng ở nước ta. 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 47 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Tiếng Việt 
1. Doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa: kết quả, bất cập và hướng tháo 
gỡ,  
2. Luật Doanh nghiệp 2005 
3. Nguyễn Quang A, Hiện tượng "công ty gia đình", Lao Động Cuối tuần số 20 
Ngày 24/12/2006 
4. Thúc đẩy tăng trưởng thông qua quản lý doanh nghiệp, tư liệu dịch đăng trên 
Tạp chí Điện tử của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Triển vọng Kinh tế, tháng 
2/2005.  
5. Quản trị doanh nghiệp ở Việt Nam – Bước đầu của một chặng đường dài, 
chuyên đề nghiên cứu kinh tế tư nhân số 22 của IFC. 
6. Những kinh nghiệm về các nguyên tắc quản trị doanh nghiệp của OECD: bài 
phát biểu của ông Daniel Blume, quản trị viên cao cấp của OECD, tại Hội 
nghị quốc tế về quản trị doanh nghiệp tổ chức tại Hà Nội, ngày 06 tháng 12 
năm 2004. 
Tiếng Anh 
1. Henrik Cronqvist – The Ohio State University; Fredrik Heyman – Trade 
Union Insititute for Economic Research; Mattias Nilsson – Worcester 
Polytechnic Institute, Department of Management; Helena Svaleryd – The 
Research Institute of Industrial Economics; and Jonas Vlachos – The 
Research Institute of Industrial Economics, Do Agency Problems between 
Shareholders and Managers Affect Workers’ Pay?, 10/2005. 
2. Michael C. Jensen - Harvard Business School, Self-interest, altruism, 
incentives & agency theory, 1994. 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 48 
3. Michael C. Jensen, Agency cost of free cash flow, corporate finance and 
takeovers, American Economic Review, May 1986, Vol. 76, No. 2, pp. 232-
329. 
4. Michael Jensen - Harvard Business School, and William Meckling - 
University of Rochester, Theory of the firm: Managerial Behavior, Agency 
costs and Ownership structure, 1976. 
5. Patrick McColgan, University of Strathclyde, United Kingdom, Agency 
theory and corporate governance: a review of the literature from a UK 
perspective, 2001. 
6. Kazuo Ogawa and Hirokuni Uchiyama, Osaka University, Does Agency cost 
model explain Business Fluctuation in Japan?: An empirical attempt to 
estimate Agency cost by firm size, 03/2003. 
7. Dennis Proffitt, Professor of Finance, Grand Canyon University - Agency 
Theory as a Basis for Business Ethics, 2000. 
8. Adam Smith - The Wealth of Nations - Book five: The revenue of The 
Sovereign or Commonwealth – part 3. 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
Trang 49 
PHỤ LỤC 
CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA OECD (Organization for Economic Co-
operation and Development: tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế) VỀ QUẢN 
LÝ CÔNG TY 
I. Đảm bảo cơ sở cho một cơ cấu quản trị doanh nghiệp có hiệu quả 
Khuôn khổ quản trị công ty phải thúc đẩy các thị trường minh bạch và hiệu 
quả, phù hợp với pháp luật và xác định rõ sự phân công trách nhiệm của các nhà 
giám sát, quản lý và thực thi pháp luật. 
II. Quyền lợi của cổ đông và những vai trò của quyền sở hữu then chốt 
Khuôn khổ quản trị công ty cần bảo vệ và thúc đẩy việc thực hiện các quyền 
của cổ đông. 
III. Đối xử công bằng giữa các cổ đông 
Khuôn khổ quản trị công ty cần đảm bảo đối xử công bằng với tất cả các cổ 
đông, các cổ đông thiểu số và cổ đông là người nước ngoài. Tất cả các cổ đông phải 
có cơ hội được bồi thường trong trường hợp quyền của họ bị vi phạm. 
IV. Vai trò của cổ đông trong quản trị doanh nghiệp 
Khuôn khổ quản trị công ty cần công nhận các quyền của cổ đông theo quy 
định pháp luật hoặc thông qua các thỏa thuận chung và khuyến khích sự hợp tác tích 
cực giữa công ty và cổ đông trong việc tạo ra của cải, việc làm và sự bền vững của 
các doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt. 
V. Tính công khai và minh bạch 
Khuôn khổ quản trị công ty cần đảm bảo việc thông tin kịp thời và chính xác 
tất cả các vấn đề quan trọng liên quan đến công ty, bao gồm tình hình tài chính, hoạt 
động kinh doanh, quyền sở hữu và quản trị công ty. 
VI. Trách nhiệm của hội đồng quản trị 
Khuôn khổ quản trị công ty cần đảm bảo định hướng chiến lược cho công ty, 
giám sát hiệu quả của hội đồng quản trị đối với ban giám đốc và trách nhiệm của 
hội đồng quản trị đối với công ty và cổ đông. 
Luận văn tốt nghiệp Hà Thị Thu Hằng – Khoá 13 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
463681.pdf