Luận văn Lá số tiền định của kim lăng thập nhị kim thoa trong Hồng Lâu Mộng

MS: LVVH-VHNN002 SỐ TRANG: 100 NGÀNH: VĂN HỌC CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM NĂM: 2007 CẤU TRÚC LUẬN VĂN LỜI CẢM ƠN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Lịch sử vấn đề 3. Phạm vi nghiên cứu. 4. Phương pháp nghiên cứu. 5. Đóng góp của luận văn. 6. Cấu trúc luận văn. Chương 1: Hồng lâu mộng trong bối cảnh tiểu thuyết Minh - Thanh 1.1. Thời đại hoàng kim của tiểu thuyết chương hồi Minh – Thanh. 1.1.1. Hồng lâu mộng – bộ bách khoa về văn hóa, xã hội Trung Quốc thế kỷ XVIII. 1.1.2. Hồng lâu mộng – sự khởi đầu của tư tưởng và cách viết mới. 1.2. Sự gặp gỡ giữa hai tác giả Tào Tuyết Cần – Cao Ngạc. 1.2.1. Tào Tuyết Cần – sống trong phồn hoa, chết trong luân lạc. 1.2.2. Cao Ngạc – sự tiếp bút tài hoa với những kỳ vọng ước mơ mới mà cũ. Chương 2: Những lá số tiền định của Kim Lăng thập nhị kim thoa 2.1. “Tiền định” – một quan niệm trong hệ thống triết học Trung Hoa cổ. 2.2. Lá số tiền định dưới góc nhìn của những phương tiện nghệ thuật. 2.3. Những ám chỉ trong mười một lá số tiền định. Chương 3: Thập nhị kim thoa trong thế giới hiện thực 3.1. Thập nhị kim thoa – những nhân cách lý tưởng “song tính đồng thể”. 3.2. Thập nhị kim thoa – bi kịch của tính cách và thời đại. 3.3. Thập nhị kim thoa – quá trình hưng - vong của Tứ đại gia tộc. 3.3.1. Thập nhị kim thoa – sự hưng thịnh của Tứ đại gia tộc. 3.3.2. Thập nhị kim thoa – sự suy vong của Tứ đại gia tộc. KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC NGUYÊN TÁC VÀ PHIÊN ÂM LÁ SỐ TIỀN ĐỊNH CỦA KIM LĂNG THẬP NHỊ KIM THOA CHÍNH SÁCH ẢNH TƯ LIỆU

pdf100 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2798 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lá số tiền định của kim lăng thập nhị kim thoa trong Hồng Lâu Mộng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khâu vá, đọc sách với các cô em” [10, tập 1, tr.82] Nhưng khi cùng các tiểu thư và Giả Bảo Ngọc vào sống trong Đại Quan Viên, ta thấy Lý Hoàn dường như hóa thành một người khác. Nơi Đại Quan Viên ta bắt gặp một Lý Hoàn với nội tâm phong phú và có phong cách sống rất tao nhã không thua kém gì các cô tiểu thư khuê các. Qua đó, ta thấy dù sống trong cảnh lòng lạnh tro tàn nhưng nàng chấp nhận làm cánh hoa báo tin xuân, chấp nhận cái lạnh lẽo của tuyết sương để chở che cho những cánh hoa xuân sắc, để những đóa hoa ấy tận hưởng mùa xuân tươi đẹp, sống trọn vẹn với khoảnh khắc vui tươi, dù là ngắn ngủi nơi vườn Đại Quan. 3.2.12. Tần Khả Khanh cùng với Xảo Thư là người có vai vế thấp nhất trong Kim lăng thập nhị kim thoa chính sách. Trong Kim lăng thập nhị kim thoa nàng là người dẫn đầu đưa các kim thoa trở về nơi Cảnh Ảo, nàng cũng chính là người đã dẫn Bảo Ngọc lên cõi Thái Hư. Bi kịch của cuộc đời nàng khiến cho người đọc không khỏi băn khoăn suy nghĩ. Trong xã hội phong kiến, những người nghèo khổ luôn bị áp bức bóc lột và chịu chung số phận bi thảm, cả đời không sao vươn ra khỏi địa vị thấp hèn, cuộc đời họ luôn gặp hết tai ương này đến tai họa khác, họ không có cách nào để tự bảo vệ bản thân mình. Còn Tần Khả Khanh, đường đường là mợ cả Dung ở phủ Ninh, thế tại sao nàng cũng không làm chủ được số phận của mình đến nỗi rơi vào kết thúc bi kịch? Thực ra, Tần Khả Khanh sống trong một gia đình có hoàn cảnh không khá giả gì cho lắm và ngay từ khi mới ra đời nàng đã mang một nỗi bất hạnh của đứa trẻ mồ côi. Nhưng nhờ có nhan sắc nàng được họ Giả để mắt đến và trở thành nàng dâu ngoan hiền, hiếu thuận. Những tưởng như thế là hạnh phúc nhưng không ngờ đó lại là mồ chôn khát vọng đổi đời của nàng. Nàng sống trong bi kịch và mất không minh bạch nên để lại nhiều nghi án. Bi kịch đời nàng, có lẽ bắt nguồn từ chính nhan sắc của nàng. Vẻ đẹp của nàng đã làm động lòng con người dâm dục, hiếu sắc Giả Trân, cha chồng nàng và nàng khó lòng thoát khỏi móng vuốt của hắn nếu như muốn sống bình yên nơi phủ Giả. Trước sự uy hiếp của Giả Trân, Khả Khanh chỉ có hai sự lựa chọn, một là dứt khoát cự tuyệt, lấy cái chết để bảo toàn tiết hạnh; hai là nàng thuận theo để bảo toàn tính mệnh và giữ được địa vị mợ trẻ trong phủ Giả. Đứng trước sự lựa chọn ấy ta thấy Tần Khả Khanh phải đau khổ thế nào. Cuối cùng nàng đã chọn địa vị mợ Dung, chấp nhận chìu theo sự ham muốn bỉ ổi của cha chồng. Có lẽ do nàng còn nghĩ đến cảnh cha già, em dại, cảnh nhà khó khăn nên cố chịu đựng để còn có cơ hội chăm sóc cha và em. Chính hành động trái với lương tâm ấy đã không ngừng giày vò tâm hồn nàng. Mãi đến khi sự việc bị chính a hoàn của nàng nhìn thấy, nàng đành chọn cái chết để tránh tiếng đời dị nghị nhưng quan trọng hơn là để giải phóng cho tâm hồn đau khổ của mình, giải thoát cho kiếp sống đầy bất hạnh và tủi nhục ê chề. Là người phụ nữ có tâm hồn mẫn cảm, nàng hiểu rằng miệng thế gian thật đáng sợ đồng thời nàng cũng cảm nhận sâu sắc cảnh sống ô nhục của mình, nhận thấy không còn mặt mũi nào nhìn mọi người, cho nên nàng chọn lấy cái chết để kết thúc cuộc đời cay đắng của mình. Tần Khả Khanh quyết không thể nào là người khơi nguồn cho tội dâm nhưng vì nàng muốn giữ lấy những cái hư vô, những danh hão ở đời, nên đành cam chịu cảnh sống tủi nhục nhưng cuối cùng tính cách của nàng vẫn chiến thắng. Do đó, nàng đành chọn kết cục đau xót nhất. 3.3. Thập nhị kim thoa – quá trình hưng - vong của Tứ đại gia tộc. Hồng lâu mộng xây dựng hình ảnh giàu sang hiển hách của Tứ đại gia tộc: Giả không phải là giả dối, ngọc làm nhà ở, vàng làm ngựa cưỡi. Cung A phòng, xây lên ba trăm dặm đã đủ chưa ? Họ Sử đất Kim lăng ở vẫn không vừa. Vua Đông Hải thiếu ngọc trắng làm giường, phải đến vay Kim Lăng vương. Được mùa tuyết lã chã rơi, ngọc châu như đất vàng thời sắt thoi [10, tập 1, tr.85-86]. Thế nhưng cuối cùng: Quan thì cơ nghiệp suy tàn, Giàu thì vàng bạc cũng tan hết rồi [10, tập 1, tr.118]. Như chim khi đã hết mồi, Bay về rừng thẳm đậu nơi yên lành[10, tập 1, tr.119]. Sự hưng thịnh và suy vong của gia tộc họ Giả cùng cuộc đời bi kịch của các kim thoa gắn bó chặt chẽ với nhau. Khi Nguyên Xuân trở được phong làm Quí phi đó là giai đoạn cực thịnh của gia tộc, đến khi Nguyên Phi mất, mọi ân điển của triều đình không còn nữa, nhà họ Giả cũng không còn chỗ dựa để có thể thao túng, chèn ép những người thấp cổ bé miệng, thế là rơi vào cảnh « cây đổ vượn tan ». Kết thúc là sự hoang tàn đổ nát, thê lương, ảm đạm, chia ly, tan tác ... 3.3.1. Thập nhị kim thoa – sự hưng thịnh của Tứ đại gia tộc. Thời hưng thịnh của Tứ đại gia tộc thể hiện rõ nét qua tang lễ Tần Khả Khanh, Nguyên Phi tỉnh thân và sinh nhật Bảo Thoa. 3.3.1.1. Khi miêu tả đám tang Tần Khả Khanh, Tào Tuyết Cần đã gián tiếp chỉ ra nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của đại gia tộc. Tần Khả Khanh là con dâu của Giả Trân bên phủ Ninh, nàng cũng chính là người chắt dâu mà Giả mẫu rất thương yêu. Trong phủ Giả, Tần thị là người có vai vế thấp nhất. Thế nhưng nàng là người đầu tiên sớm giã từ cảnh sống xa hoa khi tuổi đời còn rất trẻ. Nguyên nhân cái chết của nàng có nhiều điều mờ ám nhưng tang lễ lại được tổ chức vô cùng trọng thể càng làm nổi bật tính chất bất thường của cái chết ấy. Đám tang Tần Khả Khanh phản ánh giai đoạn phản quang của đời sống giàu sang nơi phủ Giả. Thế nhưng họ không hiểu điều đó mà còn cố gắng phô bày cảnh xa hoa lãng phí, để chứng tỏ uy thế và sự giàu sang giả tạo của gia tộc. Trong tang lễ này, Giả Trân đã huy động gần như toàn bộ nhân lực, vật lực, tài lực của gia tộc nhằm phô trương thanh thế của một dòng họ, đồng thời qua cách miêu tả này tác giả gián tiếp phô bày những mặt trái xấu xa của hạng người không biết liêm sĩ. Theo lời tuyên bố hùng hồn của Giả Trân trong lúc đau buồn cùng cực là: “Chẳng qua có bao nhiêu tiền làm hết bấy nhiêu thì thôi” [10, tập 1, tr.237]. Quả thật Ninh quốc phủ gần như đã trút toàn bộ tài sản của mình vào đám tang Tần thị. Linh cữu được đặt trong nhà bốn mươi chín ngày, làm lễ ở ba nơi: nhà đại sảnh, lầu Thiên Hương, vườn Hội phương, mời hơn ba trăm vị sư, cao tăng, đạo sĩ, cao đạo để siêu độ vong hồn, giải oan rửa tội. Không hài lòng với các số người đến siêu độ cho vong hồn Tần Khả Khanh và cảm thấy bấy nhiêu đó chưa đủ để bố chồng thương tiếc con dâu ngoan hiền, hiếu thảo. Giả Trân còn bỏ ra một số tiền lớn đóng áo quan và mua chức Phòng hộ nội đình Ngự tiền thị vệ Long cẩm úy cho Giả Dung để viết lên cờ tang cho đẹp. Trong thời gian cử hành tang lễ, quan khách đến chia buồn đông như trảy hội. Cũng nhân dịp này, Phượng Thư có cơ hội để trổ thần oai, ra lệnh điều binh khiển tướng nên mọi việc được sắp xếp tổ chức ngăn nắp đâu ra đó, không ai dám trễ nãi, lười biếng. Chỉ một mình nàng mà sai phái, cắt đặt công việc cho hơn hai trăm người, thế mà lệnh vừa ban ra, ai nấy đều răm rắp làm theo. Nhờ vậy, quan khách được tiếp đãi ân cần và chu đáo. Đến ngày phát dẫn, quan khách đến đưa đám đông đúc kéo dài hàng cây số, đều là người có chức tước, quyền uy, danh vọng trong triều… Một thiếu phụ mới mười mấy tuổi đầu nhưng khi mất lại được gia đình chồng, đặc biệt là cha chồng đứng ra tổ chức tang lễ trọng thể, linh đình như thế thật hiếm thấy và cũng khiến cho người ta hoài nghi. Đám tang Tần thị một mặt phơi bày sự xa hoa phung phí và uy danh thanh thế của tầng lớp phong kiến quý tộc. Mặt khác thông qua đám tang Tần thị, tác giả gián tiếp thể hiện tài năng, uy phong và quyền hành tuyệt đối của Phượng Thư. Nếu như đám tang Tần thị là một vở kịch hoành tráng, náo nhiệt thì Phượng Thư lại là đạo diễn tài năng đồng thời cũng là diễn viên chính trong vở kịch ấy và nàng đã hoàn thành xuất sắc vai diễn của mình. 3.3.1.2. Việc Giả Nguyên Xuân được Hoàng thượng nhân từ cho về thăm nhà, thăm cha mẹ với ý nghĩa làm tròn đạo hiếu. Nhưng khi nàng trở về thì những nghi lễ hoàng cung lại là rào cản vững chắc ngăn tình máu mủ ruột thịt. Vậy thì Nguyên phi tỉnh thân ở một mức độ nào đó vẫn không thể hiện được đạo hiếu như nàng mong muốn. Nhưng nhà họ Giả đã mượn sự kiện này để phô trương thanh thế, danh vọng rằng mình cũng là hoàng thân quốc thích. Với tiếng tăm to lớn ấy, họ phải làm như thế nào để việc đón Nguyên phi xứng với tầm vóc hoàng gia. Thế là công cuộc chuẩn bị được bắt đầu cả năm trời, chỉ để Nguyên Xuân về thăm nhà nghỉ ngơi và dạo chơi trong một ngày rồi lại đi ngay. Đầu tiên là việc chọn địa điểm để xây nhà tỉnh thân. May là hai phủ Vinh Ninh chiếm quá nửa phố Kim Lăng rồi, nên họ không cần phải ra ngoài thành mua thêm đất mà chỉ cần nhờ một nhà nổi tiếng về cách bày trí vườn hoa cây cảnh là Sơn Tử Giả vẽ bản đồ, trù tính việc khởi công, xây lại khu vườn rộng trong hai phủ và khoảng đất từ phía đông nối liền với vườn hoa phủ Đông, đến phía tây bắc dài độ ba dặm rưỡi được chọn để “lập nhà tỉnh thân”. Ngoài việc lập nhà tỉnh thân, Giả Tường phải đi đến Cô Tô đón phường hát, chọn mua con gái bé, sắm sửa những đồ âm nhạc hát tuồng hết ba vạn, mua đèn nến cờ màn hết hai vạn. Ngoài việc đắp núi, đào ao, xây lầu, dựng gác, trồng trúc, vun hoa … Họ còn phải sắm sửa đồ trang trí bày biện trong nhà như rèm cửa, các thứ màn che hơn một ngàn chiếc, gối tựa khăn bàn, quần giường, đệm ghế mỗi thứ một nghìn hai trăm chiếc. Đón về mười hai ni cô, đạo cô trẻ tuổi, may hai mươi bốn bộ áo lễ, chuẩn bị hai mươi ba vở hát. Bên cạnh đó còn mua thêm chim muông về thả trong vườn. Công việc sắp đặt trong một năm mới hoàn thành đúng ngày đón Nguyên phi về thăm nhà. Ta thấy, chỉ có một mình Nguyên phi về thăm nhà mà phủ Giả tiêu tốn biết bao tiền của, số tiền này do đâu mà ra? Sự xa hoa lãng phí ấy, khiến cho Nguyên phi phải nhiều lần kêu lên: “Xa hoa quá, lần sau đừng làm thế nữa”. Nhưng biết bao giờ cho đến lần sau. Chỉ một lần này thôi, gia sản nhà họ Giả đã không còn gì rồi. Việc thu không đủ bù chi đã từng bước đưa họ Giả vào con đường phá sản. Vẻ bên ngoài xa hoa lộng lẫy nhưng không che giấu được nỗi khổ tâm trong lòng Nguyên Xuân. Nàng như một vật hy sinh để gia đình bước lên đỉnh cao danh vọng. Lần này nàng về thăm nhà và được cả gia đình đón tiếp long trọng như thế nhưng nàng chỉ buồn rầu đau đớn, rơi nước mắt. Vì nàng đã cảm nhận được những kết cục không hay của gia đình. 3.3.1.3. Tiết Bảo Thoa đến phủ Giả với vai trò người khách, nàng là chị em con dì với Bảo Ngọc còn Đại Ngọc là anh em con cô con cậu với Bảo Ngọc. Thế nên, mối quan hệ giữa nàng và Bảo Ngọc không thân thiết gắn bó như mối quan hệ giữa Đại Ngọc và Bảo Ngọc. Thế nhưng không vì thế mà vị trí của nàng không được coi trọng. Bảo Thoa đến phủ Giả không bao lâu thì đúng dịp sinh nhật nàng. Trong Hồng lâu mộng, Tào Tuyết Cần đã nhiều lần miêu tả việc tổ chức sinh nhật. Thế nhưng trong so sánh đối chiếu hai giai đoạn thịnh suy của họ Giả thì sinh nhật của Tiết Bảo Thoa giữa lần đầu và lần sau có nhiều khác biệt. Trong lần sinh nhật này của nàng, trước đó mấy ngày, Vương Hy Phượng bàn với Giả Liễn xem nên tổ chức như thế nào. Vì năm nay Bảo Thoa tròn mười lăm tuổi, đây là năm đánh dấu tuổi trưởng thành của người con gái. Vì vậy, buổi tiệc sinh nhật có thể nói là không to cũng không nhỏ, theo lời Phượng Thư thì: “Lễ sinh nhật lớn đã có lệ sẵn, nhưng lần này lớn không ra lớn, nhỏ không ra nhỏ”. Hơn nữa trong phủ Giả Bảo Thoa chỉ là khách. Nên có thể xem đây là sinh nhật bình thường của người khách bình thường nhưng lại có một chút khác biệt so với sinh nhật của những người khác. Cũng trước đó mấy hôm, Tương Vân sang phủ Giả chơi, lúc định về, Giả mẫu giữ lại để cùng mừng sinh nhật Bảo Thoa. Bảo Thoa tuy còn trẻ và lại là khách nhưng nàng rất biết lấy lòng Giả mẫu nên rất được Giả mẫu thương yêu. Sinh nhật nàng Giả mẫu tự mình bỏ ra hai mươi lạng bạc và gọi Phượng thư đến giao cho nàng bày tiệc rượu. Giả mẫu còn cho dựng một cái sân khấu xinh đẹp trong nhà, chọn một ban hát, dọn một tiệc rượu để mừng sinh nhật. Giả mẫu ân cần hỏi nàng “thích nghe hát vở gì, muốn ăn thức ăn gì”. Không khí buổi tiệc thật vui vẻ, sôi nổi và rộn tiếng cười. Tác giả đã nhiều lần lặp đi lặp lại hình ảnh Giả mẫu vui cười: “Giả mẫu cười”, “Giả mẫu nghe nói rất vui”, “lại phì cười một lần nữa”, “Giả mẫu lại càng vui”, “Giả mẫu vui lắm”. Hình ảnh ấy cho thấy niềm vui dường như không bao giờ tắt trên gương mặt mọi người. Giây phút hạnh phúc, vui tươi ấy không chỉ thể hiện qua vẻ mặt, tiếng cười của Giả mẫu mà nó còn hiện lên khắp nơi trong gia đình, trên từng khuôn mặt rạng ngời của tất cả mọi người: “cả nhà cười rộ lên”, “cả nhà cười ầm lên”. Vừa ăn uống chuyện trò lại có thêm ban hát giúp vui. Thử hỏi trong xã hội Trung Quốc ngày xưa có bao nhiêu gia đình được như thế. Tuy nhiên, niềm vui ngắn chẳng tày gang, khi niềm vui, niềm hạnh phúc qua đi thì nỗi buồn lại đến, nối tiếp tiếng cười sẽ là tiếng khóc. Chẳng bao lâu nữa ta lại thấy sinh nhật Bảo Thoa diễn ra trong một không khí khác hẳn. 3.3.2. Thập nhị kim thoa – sự suy vong của Tứ đại gia tộc. Sự suy vong của Tứ đại gia tộc được báo hiệu bằng sự qua đời của Nguyên Phi và gắn bó chặt chẽ với vận mệnh của các kim thoa. Tiếp nối tuyến ám chỉ của Tào Tuyết Cần, Cao Ngạc đã thể hiện khá thành công không khí bi kịch của đại gia tộc họ Giả thông qua việc miêu tả toàn cảnh buổi tiệc sinh nhật lần thứ hai của Tiết Bảo Thoa và tang lễ Giả mẫu. 3.3.2.1. Sinh nhật lần thứ hai của Bảo Thoa cách lần sinh nhật năm nàng mười lăm tuổi vài năm và hoàn cảnh địa vị của Bảo Thoa trong Giả phủ giờ đã khác. Trước kia nàng là khách, còn giờ nàng là người trong gia đình, không những thế nàng còn là cháu dâu rất được Giả mẫu yêu thương. Thế nhưng lần sinh nhật này của nàng không mấy người nhớ đến. Giả mẫu không nhớ ngày sinh nhật của nàng thì cũng không có gì đáng trách, còn Giả Bảo Ngọc, chồng nàng, tuy có nhớ đấy nhưng lại không dám nhắc. Bảo Ngọc tuy bị mọi người cho là ngớ ngẩn nhưng chàng nhận thức rõ tình cảnh gia đình mình lúc này, gia tộc họ Giả của chàng không còn như xưa nữa, hiện tại việc nhà đang rối ren nên dù có nhớ đến ngày sinh nhật Bảo Thoa, Bảo Ngọc cũng đành lặng im. Duy chỉ có Tương Vân, tuy đã có gia đình nhưng tính cách vẫn không thay đổi, nàng vẫn giữ được tính thẳng thắn, khảng khái và bộc trực. Nhìn thấy không khí ảm đạm u buồn của gia đình và Giả mẫu đang nghĩ cách làm thế nào đó để cho con cháu được vui nàng liền nhắc cho bà nhớ ngày kia là sinh nhật Bảo Thoa. Nghe thế Giả mẫu bảo: “Cháu không nhắc thì ta quên mất”. Từ ngày Nguyên phi mất, phủ Giả liên tục gặp phải tai ương, gia sản bị tịch biên, người bị giam cầm hoặc lưu đày … nên không khí chia lìa, ly tán, mất mát đau thương bao trùm khắp phủ Giả. Không khí rộn tiếng cười nói, tiếng đàn hát ngày xưa giờ không còn nữa. Ta khó mà hình dung cảnh tượng một gia đình quen ăn trên ngồi trốc, kẻ hầu người hạ tấp nập, suốt ngày không làm gì cả mà chỉ chìm đắm trong tiếng cười, tiếng hát, trong việc hưởng thụ, thưởng thức món ngon vật lạ, điệu hát hay mà giờ đây lại im ắng lạ thường, người nào người nấy mặt chau mày ủ, sống trong tình cảnh ấy, thì tâm trạng của họ sẽ như thế nào, ắt hẳn rất khó chịu đựng nỗi. Tào Tuyết Cần là người thấu hiểu cảnh tình ấy hơn ai hết nên ông miêu tả, tái hiện không khí ảm đạm, sụp đổ hoàn toàn và đó mới thể hiện đúng bản chất của mối quan hệ quân thần trong xã hội phong kiến. Một khi đã được lòng Thiên tử thì họ được hưởng mọi vinh hoa phú quý ở đời thế nhưng khi thất sủng, họ chẳng khác nào bị rơi xuống hố sâu không đáy, rơi vào vực thẳm của đời nhân loại. Họ không chỉ mất hết tất cả những gì họ đã từng có mà thậm chí còn có thể bị tù tội, bị lưu đày, thậm chí không giữ được tính mạng của mình. Gia đình họ Giả đang rơi vào hoàn cảnh như thế, hỏi làm sao mọi người còn tinh thần để vui chơi và nhớ đến ngày sinh nhật Bảo Thoa. Nhưng vì trong bốn mươi hồi sau là do Cao Ngạc viết tiếp, nên có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng nội dung tư tưởng của bốn mươi hồi sau không thể hiện được nguyên ý của Tào Tuyết Cần, Cao Ngạc đã để cho nhà họ Giả có cơ hội được phục hưng, nên ta có thể nhìn thấy được cách cứu vãn tình cảnh bi đát của gia đình bằng buổi tiệc sinh nhật Bảo Thoa. Thế nhưng, dưới ngòi bút Cao Ngạc, không khí đầm ấm, vui tươi, rộn ràng tiếng cười nói giờ đã không còn nữa. Trong lần sinh nhật này của Bảo Thoa, Giả mẫu bỏ ra đến một trăm lạng để sửa soạn bữa tiệc nhưng không có ban hát và người cũng không đông như trước, Phượng Thư pha trò cũng không còn náo nhiệt mà rất nhạt nhẽo, vô vị, thậm chí còn bị mọi người lườm nguýt. Những người trong gia đình được mời đến dự tiệc, họ đến với thái độ miễn cưỡng, gượng ép. Trong suốt buổi tiệc, chỉ có một lần duy nhất Giả mẫu cười, thế nhưng cái cười ấy cũng không hoàn toàn là cái cười vui tươi hạnh phúc. Qua việc Giả mẫu tổ chức sinh nhật cho Bảo Thoa, ta thấy bà không phải là người chỉ biết hưởng thụ, an nhiên tự tại, không lo không phiền. Ngược lại, Giả mẫu cũng đã dự cảm được những điều không hay của gia đình, cảm nhận một cách sâu sắc kết cục bi thảm của nhà họ Giả, thấu hiểu cảnh bi hoan ly hợp và sự thịnh suy của gia đình quý tộc phong kiến. Mọi sự thay đổi dù rất nhỏ nhưng bà đều nhận thấy, không có gì có thể che mắt được bà. Tuy bà nói rằng bà không hay ăn chay niệm phật nhưng bà cũng bắt con cháu sao chép kinh Kim cương, hầu mong nhờ thế mà có thể giải hạn cho cả gia tộc, hòng cứu vãn phần nào tai ương sắp đến. Giả mẫu cũng đã đem tài sản riêng của mình phân chia cho con cháu với hy vọng kéo dài hơi thở yếu ớt của gia đình. Trong khi chiếc xe đổ nát của gia tộc họ Giả đang lao xuống vực thẳm thì bà định mượn cách tổ chức sinh nhật cho Bảo Thoa nhằm lấy tiếng cười xua đi không khí ảm đạm, đau thương đang bao trùm khắp gia đình. Qua đó, bà muốn giúp con cháu lấy lại tinh thần, thực sự vui tươi để làm sống lại không khí náo nhiệt trước kia. Nhưng niềm mong mỏi của bà khó mà thực hiện được. Cho dù con cháu cũng rất muốn làm bà vui nhưng hiện thực đau buồn như thế làm sao họ có thể tươi cười như chưa từng xảy ra chuyện gì được. Nhìn thấy Giả mẫu không ngừng động viên con cháu phải vui lên nhưng ai biết được trong lòng bà đang nghĩ gì. Phải chăng bà không đau khổ, phải chăng bà không luyến tiếc? Thật ra là bà cố đè nén nỗi đau để động viên, khích lệ con cháu. Vì trong phủ Giả bà là người có địa vị cao nhất, bà như một thái thượng hoàng, một lão phật gia, nếu bà cũng tỏ ra suy sụp tinh thần thì ai đủ sức làm điểm tựa để vực con cháu đứng lên. Cho nên bà phải cố gắng tỏ ra vui vẻ nhưng nhìn xung quanh, ai nấy đều ủ rũ, bà sốt ruột hối thúc mọi người: “Các bà làm sao thế? Phải vui lên một chút mới được chứ!”. Lời kêu gọi, mời mọi người vui nhưng ta nghe như lời van xin. Ta càng thấy rõ nỗi đau khổ của Giả mẫu khi nhìn lại sinh nhật năm Bảo Thoa mười lăm tuổi. Đúng là không khí đau thương, u sầu đặc quánh, quyện lại trong gia đình. Sự kêu gọi của Giả mẫu, sự bắt buộc, thậm chí như van xin của bà càng làm sâu sắc thêm nỗi đau. Giờ đây, tuy bề ngoài không ai cười nhưng trong lòng họ đang cười, một cái cười đau khổ, chua chát, đắng cay, cười mà nước mắt rưng rưng. Đây cũng chính là nét độc đáo trong nghệ thuật miêu tả của Cao Ngạc, bằng cách thể hiện ý ở ngoài lời, mượn chuyện vui để tả nỗi buồn, Cao Ngạc đã phản ánh một cách sâu sắc và tinh tế không khí thê lương, ảm đạm trong gia tộc họ Giả. Tâm trạng đau buồn của từng người hiện lên càng lúc càng thêm rõ nét. Trong ngày sinh nhật Bảo Thoa, không khí buổi tiệc vui được mở đầu bằng tiếng khóc và những giọt nước mắt đau buồn của Nghênh Xuân cùng những lời trối trăn của nàng. Tiếp theo là những lời bông đùa vô vị nhạt nhẽo của Phượng Thư. Phượng Thư không những không thể làm cho mọi người vui được mà mỗi lời nàng nói ra lại như ngàn mũi kim châm vào nỗi đau trong muôn vàn nỗi đau của họ: “Hôm nay bà hơi vui vẻ. Các người xem, những người này đã lâu không ở một chỗ, hôm nay đông đủ …”[10, tập 6, tr.126]. Vừa nói đến đó, ngoảnh lại thấy còn mấy người không có mặt. Khi chơi tửu lệnh, Uyên Ương nói đến câu: “Chim én dắt con”, [10, tập 6, tr.131] Phượng Thư tiếp lời: “Chim con thì chim con, nhưng bay mất một ít rồi”[10, tập 6, tr.131]. Nghe thế “mọi người lườm chị ta một cái. Phượng Thư liền im lặng” [10, tập 6, tr.131] Hành động, lời nói, việc làm của Phượng Thư khiến ta không còn nhận ra đây là người đã từng có một thời mà tiếng nói của nàng như quân lệnh, cách trêu chọc mọi người của nàng đã làm những ai tham gia đều phải cười nghiêng, cười ngửa. A hoàn khắp các phòng khi nghe mợ hai Liễn kể chuyện liền bỏ tất cả những việc đang làm để chạy đến nghe. Hình ảnh ấy giờ đây đã trở thành quá khứ. Trước mắt ta bây giờ là một Phượng Thư khác, nhỏ bé, e dè, khép nép, sợ sệt, những biểu hiện trái hẳn với tính cách vốn có của nàng và thể hiện sự thiếu bản lĩnh, kém thích nghi với hoàn cảnh của Phượng Thư và đó cũng chính là nỗi đau lớn nhất của đời nàng. Số phận những người con gái trong phủ Giả từ tiểu thư cho đến a hoàn không những gắn liền với vận mệnh của gia tộc mà còn gắn bó mật thiết với Giả Bảo Ngọc. Nên khi những người con gái ấy lần lượt ra đi thì người đau khổ nhất sẽ là chàng. Trong ngày sinh nhật Bảo Thoa, Lý Hoàn gieo được cái tửu lệnh gọi là “mười hai thoa vàng”. Bốn tiếng ấy gợi cho Bảo Ngọc nhớ lại giấc mộng năm xưa và giờ đây chàng mới thật sự hiểu và thấm thía ý nghĩa của từng lá số tiền định trước kia và nhìn lại gia đình mình thấy cảnh chia ly tan tác, mỗi kẻ một nơi, mỗi người một ngã, bất giác chợt buồn “anh ta cố nín không được, nước mắt muốn rơi xuống, nhưng sợ người ta nhìn thấy”. Bảo Ngọc giả vờ sốt và xin ra ngoài. Bước chân vô định đã đưa chàng trở lại chốn xưa – khu vườn Đại quan, một thời rộn tiếng cười tươi vui hạnh phúc. Nơi ấy giờ đây chỉ còn “cỏ hoa khô héo, đầy vẻ thê lương, màu sắc các đình đài phai nhạt đã lâu”[10, tập 1, tr.136]. Cảnh vật thê lương, lòng người sầu não, nỗi buồn nhân thế nhuộm màu ảm đạm lên khắp nơi mà ngày xưa từng rộn rã tiếng cười nói, đàn ca, ngâm thơ, vịnh cảnh. Trong ngày sinh nhật Bảo Thoa nhưng mỗi người đuổi theo một tâm trạng, suy nghĩ của riêng mình, họ tham gia một cách miễn cưỡng nên bên ngoài lộ vẻ không vui, trong lòng thì oán trách. Hình phu nhân, Vưu thị, Tích Xuân thì nghĩ rằng gia nghiệp đã suy tàn mà còn tổ chức sinh nhật cho Bảo Thoa là Giả mẫu thiên vị. Còn thái độ của Uyên Ương, a hoàn thân tín của Giả mẫu cũng khác. Khi Giả mẫu muốn chơi tửu lệnh, Bảo Ngọc đi gọi Uyên Ương đến, nàng nói: “Ông trẻ ơi, để chúng tôi uống chén rượu cho khoan khoái, tội gì lại đến quấy thế?”[10, tập 6, tr.128]. Câu nói tỏ thái độ khó chịu, không muốn đến giúp vui. Ta thấy trong ngày vui nhưng ngay cả thái độ vui gượng mà mọi người cũng không thể hiện được. Nỗi bi ai, sầu thảm không thể ẩn giấu trong lòng mà hiện cả trên gương mặt mọi người. Chính không khí không trọn vẹn niềm vui đã khiến mọi người cảm nhận sâu sắc hơn hoàn cảnh suy tàn của gia đình. Gọi là ngày vui nhưng thực ra là nơi để mọi người trút cạn nỗi niềm đau khổ, oán giận của mình. 3.3.2.2. Sinh nhật Bảo Thoa, Giả mẫu định mượn tiếng cười điệu hát xua tan u ám trong lòng mọi người nhưng bất thành. Nỗi buồn ấy tích tụ lại và càng về cuối tác phẩm không khí bi kịch càng như đám mây đen che kín bầu trời vinh hoa của phủ Giả. Cuối cùng đám mây đen ấy hóa thành trận phong ba rửa sạch vẻ hào nhoáng bên ngoải, để lộ ra vẻ nhếch nhác, hoảng loạn, tan tác không thể cứu vãn được. Tất cả những điều ấy được thể hiện rõ nét trong lần tổ chức tang lễ Giả mẫu. Người Trung Quốc rất coi trọng cái chết của con người. Vì vậy từ rất sớm đã xuất hiện những nghi lễ phức tạp và nghiêm ngặt biểu thị sự thương tiếc đối với người mất và sự cầu phúc cho người chết về thế giới bên kia. Hồng lâu mộng miêu tả nhiều tang lễ. Trong đó, đám tang Tần Thị và Giả Mẫu là có sắc thái trái ngược nhau. Trên kia chúng tôi đã phân tích khung cảnh xa hoa, lãng phí trong đám tang Tần Thị. Còn đây là tang lễ của người có địa vị cao nhất ở hai phủ Vinh, Ninh là Sử thái quân – Giả mẫu. Thế nhưng khi bà từ giã nhân thế ở tuổi tám mươi ba để trở về “Ngũ đài sơn” thì việc tang lễ được lo liệu như thế nào? Với địa vị và thân phận cao quý của Giả mẫu, tang lễ phải được cử hành long trọng và tôn nghiêm, đúng theo lễ chế. Thế nhưng thực tế hoàn toàn trái ngược, việc cử hành tang lễ không được chu đáo và thiếu tôn nghiêm, kém phần trọng thể, hoàn toàn không tương xứng với danh phận và địa vị của bà. Đó là vì gia cảnh của nhà họ Giả không còn như xưa, thế lực và uy quyền không còn nữa. Sau khi Nguyên phi mất, họ Giả như bị mất đi điểm tựa vững chắc, cơ ngơi đồ sộ bị lục soát, bị tịch biên, niêm phong, kinh tế gia đình gặp nhiều khốn khó, thiếu trước hụt sau, lo đằng này thì hỏng đằng kia. Những nô bộc, a hoàn trong gia đình cũng không còn tôn kính chủ nhà, thậm chí thay đổi hẳn thái độ, khiến cho phủ Giả giờ đây như một đống cát rời rạc không ai lãnh đạo và chỉ huy. Giả mẫu mất vào lúc gia đình đang trên đà đổ nát, sự đãi ngộ và quan tâm của triều đình phong kiến mà đại diện là Hoàng đế cũng khác xưa. Nhưng vì những hồi sau là do Cao Ngạc chấp bút nên mới có việc vua ban ơn thưởng cho một ngàn lạng bạc và sai bộ lễ làm chủ tế. Con trưởng là Giả Xá không có ở nhà, nên việc gia đình được giao lại cho Giả Chính nhưng ông ta lại là người hay câu nệ, không dám chuyên quyền nhưng quan trọng là do Giả Chính không có tài quản lý. Bên cạnh đó, Giả Chính và Vương phu nhân không như Giả Trân lúc lo tang lễ cho Tần thị là “có bao nhiêu làm hết bấy nhiêu thì thôi”. Một phần là do gia đình lo sợ nếu tổ chức linh đình quá, triều đình sẽ nghi ngờ nhà họ Giả còn cất giấu tài sản riêng nên chủ trương “đám tang thà buồn thương hơn là bày biện linh đình” [10, tập 6, tr.168] và họ cũng cần để lại một ít tiền để đưa linh cữu Giả mẫu về Nam. Trong khi đó, Hình phu nhân cho rằng Phượng Thư ăn tiêu rộng rãi, Giả Liễn hay giở trò ma nên cố nắm chặt lấy tiền bạc không chịu chi. Vì thế xảy ra cảnh “làm rạp bên ngoài cần phải chi mấy trăm bạc, mà cũng chưa có đồng nào” [10, tập 6, tr.170]. Trong khi đó việc tiếp đãi những người đến viếng cũng không được chu đáo “đến ngày thứ ba rồi mà trong nhà còn rối beng”, “được thức ăn thì thiếu cơm” [10, tập 6, tr.170]. Mời hòa thượng đọc kinh sám hối, điếu tế cúng cơm liên tiếp không ngớt nhưng rút cuộc vì chi tiêu dè sẻn quá nên không ai chịu hăng hái, chẳng qua chỉ làm qua loa cho xong việc. Đó là những việc bên ngoài, cần phải có tiền bạc mới có thể lo chu tất. Thế còn phương diện tình cảm, sự tiếc thương, đau buồn được thể hiện như thế nào? Đầu tiên là Giả Hoàn, “hai mắt cứ y như là khỉ sống, hết liếc bên này lại liếc bên kia. Tuy là gào khóc ở đây, nhưng khi thấy các mợ các cô đến, anh ta ở trong màn tang cứ liếc mắt nhìn trộm”[10, tập 6, tr.178]. Bên cạnh đó, Giả Bảo Ngọc nhìn Tương Vân, “thấy cô ta ăn mặc đồ trắng, son phấn không xoa, mà so với lúc chưa đi lấy chồng còn đẹp hơn nhiều”, nhân đó lại nghĩ đến Đại Ngọc, cảm thấy trong lòng chua xót, nước mắt trào ra, nhân tiện có việc tang Giả mẫu nên khóc to lên. Ai cũng nghĩ anh ta nghĩ đến Giả mẫu thương yêu cho nên đau buồn mà khóc, không biết rằng anh chàng có nỗi đau xót riêng. Tương Vân cũng thế, nghĩ đến ngày thường được Giả mẫu thương yêu, rồi cảm thấy số mình khổ sở, vừa lấy được người chồng tài mạo song toàn, tính tình hòa nhã, không ngờ mắc phải chứng bệnh oan nghiệt, chỉ còn chờ từng ngày thôi nên càng thêm đau xót, khóc mãi đến nửa đêm. Trong tang lễ Giả mẫu mặc dù theo lời Giả Chính tiếc thương là chủ yếu nhưng điểm qua một vài gương mặt, ta nhận thấy mỗi người theo đuổi một mục đích riêng, mỗi người mang một tâm sự riêng, nỗi đau riêng và nhân tang lễ Giả mẫu, họ đều khóc than thảm thiết nhưng đó không xuất phát từ lòng thương xót người đã khuất. Họ chỉ nhân đấy mà khóc than cho niềm đau riêng của chính mình. Tất cả những cảnh tượng ấy góp phần tạo nên vẻ hỗn độn bát nháo trong những ngày diễn ra tang lễ. Tình cảnh như thế, Vương Hy Phượng dù tài giỏi thế nào cũng không thể lo liệu cho chu toàn được. Khi không có tiền trong tay thì việc chứng tỏ tài năng và uy quyền như khi ở phủ Ninh là không thể thực hiện. Cho dù Uyên Ương khóc lóc quỳ xin Phượng Thư “lo liệu cho có bề thế một tí”, “để cụ khi chết vẫn còn được mát mặt một chút”[10, tập 6, tr.168]. Phượng Thư cũng muốn chứng tỏ cho mọi thấy tài năng quán xuyến việc nhà của mình và Giả mẫu qua đời cũng chính là dịp để nàng trổ tài. Chính Phượng Thư cũng nghĩ : “Việc nhà đây vốn do mình coi, bọn người nhà đều là chân tay mình. Mặc dù người mình không được khỏe nhưng không đến nỗi để người ta chê bai. Thế nào cũng còn lo liệu chu tất hơn khi ở phủ Ninh”[10, tập 1, tr.167]. Thế nhưng vào cuộc rồi mới nhận thấy tình hình hiện tại không đơn giản như nàng nghĩ, Vương Hy Phượng lâm vào tình cảnh dở khóc dở cười. Trên thì bị Vương phu nhân, Hình phu nhân quở trách, cho là nàng không hết lòng lo liệu, dưới thì bị kẻ ăn người ở trong nhà khinh thường không còn tôn trọng, nể sợ. Lời nói của nàng vì thế cũng không còn giá trị. Ngay cả Uyên Ương cũng trách Phượng Thư: “Mợ ta trước kia làm việc lanh lợi và chu đáo biết dường nào, sao nay bị lúng ta lúng túng như thế! Mình xem ba bốn hôm nay, mợ ấy cứ lẩm ca lẩm cẩm, thật là phụ lòng thương yêu của cụ bà”[10, tập 6, tr.172]. Phượng Thư mất hết uy phong là do nhà họ Giả đã thật sự suy sụp, không còn gì, hiện tại người thì thiếu, tiền thì không nên không thể tổ chức linh đình chu đáo như đám tang Tần thị được. Không có tiền, không có quyền, nàng không thể hành động quyết liệt như trước kia nên chỉ biết kêu gào van xin. Thế mà còn bị a hoàn mượn thế Vương phu nhân, Hình phu nhân đến mắng ngược trở lại. Đó còn do Phượng thư không được Vương phu nhân ủng hộ, bênh vực như trước kia nên bọn người làm thừa gió bẻ măng, trở mặt với nàng. Có a hoàn đã chạy đến trước mặt Phượng Thư dày vò: “Mợ Hai ở đây à? Chẳng trách bà Cả nói: trong nhà nhiều người mà trông nom không xiết, mợ Hai thì tránh đi cho khỏe rồi!" [10, tập 6, tr.180]. Nghe câu nói ấy Phượng Thư cố gắng nén nỗi bực tức, nhưng nước mắt cứ trào ra, cuối cùng không chịu đựng được nữa hộc máu tươi, ngã ra đất. Phủ Giả giờ đây như ngọn đèn đã cạn dầu, chỉ còn le lói vài tia sáng yếu ớt. Thế nên tang lễ Giả mẫu chỉ được lo liệu sơ sài, qua loa, thiếu trước hụt sau. Ngày đưa tang, xe để các bà các cô ngồi cũng không có đủ, đành phải đi thuê, đi mượn. Tục ngữ có câu “Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí”. Trong hoàn cảnh khốn khó như thế mà gia tộc họ Giả còn bị con nuôi Chu Thụy là Hà Tam dẫn bọn cướp đến khuân sạch số tài sản còn lại. Qua chi tiết ấy, ta thấy gia đình họ Giả thật sự không thể cứu vãn nổi, bọn người hầu cũng đứng lên chống lại chủ nhà, chúng không những phản kháng mà còn thừa gió bẻ măng, nhân lúc họ Giả suy yếu chúng đến cướp sạch số của cải còn sót lại. Trong Hồng lâu mộng, qua việc miêu tả cảnh long trọng xa hoa của đám tang Tần thị và sự sơ sài, thiếu thốn trong tang lễ Giả mẫu, Tào Tuyết Cần, Cao Ngạc đã cho ta thấy được quá trình phát triển từ thịnh đến suy của một gia tộc. Đồng thời qua đó tác giả gián tiếp miêu tả số phận bi kịch của Vương Hy Phượng. Sự vinh nhục trong cuộc đời nàng gắn liền với quá trình phát triển của phủ Giả. Nhờ thế lực họ Giả mà Phượng Thư chứng tỏ được tài năng của mình, khi họ Giả thất thế thì tài năng của nàng cũng không có đất để phát huy. Từ đó Phượng Thư như biến đổi hẳn trở thành một con người hoàn toàn khác, cơ thể bạc nhược, tinh thần suy sụp, nói cũng không ra hơi, chỉ còn biết van xin mọi người: “Các bà các thím thương tôi với”[10, tập 6, tr.136] Câu tục ngữ mà Lý Hoàn dẫn ra rất phù hợp với hoàn cảnh của Phương Thư: “Hoa mẫu đơn dầu đẹp, toàn nhờ lá xanh nâng niu”[10, tập 6, tr.176]. Nếu Hy Phượng không còn uy thế, tiền tài để trấn áp những người cần nhờ vả thì họ sẽ xa lánh nàng, lúc ấy Phượng Thư trở nên lẻ loi, cô độc. Khi thế lực nhà họ Giả không còn thì tài năng của nàng cũng không thể phát huy, địa vị của nàng quản gia trẻ tuổi nơi phủ Giả đã mất hết tác dụng. Hy Phượng giờ đây cũng giống như Bảo Ngọc khi bị mất viên ngọc thông linh, chỉ có xác mà không có hồn, ngây ngây dại dại, trở thành người vô dụng. Cảnh suy vong của gia tộc họ Giả ở bốn mươi hồi sau của Hồng lâu mộng là do Cao Ngạc chấp bút. Cao Ngạc là một ông quan đang trên đường hanh thông, với cái nhìn hơi khác, ông đã không hoàn toàn trung thành với dự thảo của Tào Tuyết Cần nhưng về cơ bản hai tác giả của Hồng lâu mộng vẫn có cùng cảm quan chung đối với xã hội phong kiến quý tộc Trung Hoa. Vì thế đoạn kết miêu tả khá thành công không khí suy tàn của Tứ đại gia tộc. KẾT LUẬN Mỗi nền văn học đều có hạt nhân văn hóa của nó. Hồng lâu mộng sở dĩ có thể đạt tới đỉnh cao như vậy là vì nó đã thực hiện tốt sứ mệnh vận dụng yếu tố văn hóa để phản ánh hiện thực. Hiện thực cuộc sống có quá nhiều hiện tượng khiến cho con người không giải thích được. Vì thế, con người luôn băn khoăn về vấn đề nguồn gốc của mọi vật cũng như số phận của chính mình. Những vấn đề này, những giải đáp khoa học hay triết học chưa đủ thỏa mãn con người. Trong tình hình đó, họ tìm thấy trong tôn giáo lời giải đáp có thể không chính xác nhưng lại có sức hấp dẫn, thuyết phục bởi tính huyền bí, tính logic tư biện của nó. Vì thế, Tào Tuyết Cần đã mượn triết lý Nho, Đạo, Phật để hòa chung vào chỉnh thể Hồng lâu mộng. Nếu nói tư tưởng nhà Nho là âm điệu chính cố kết do phím đàn tạo ra thì tư tưởng Đạo gia và Phật giáo là hòa âm nhẹ nhàng luôn phát ra. Do đó muốn nắm được tính khuynh hướng của Hồng lâu mộng không phải là việc đơn giản, vì bản thân tác phẩm bao hàm nhiều yếu tố phức tạp, đa dạng và chịu sự chi phối của nhiều hiện tượng xã hội nhưng lại tập trung và hòa hợp với nhau, không thể chia tách, trong một chỉnh thể nghệ thuật. Thế nhưng, tác phẩm vẫn thực tốt sứ mệnh của mình là thanh lọc con người, đưa con người lên bậc cao hơn trong đời sống tinh thần, thấm vào tâm hồn con người một cách bí ẩn, lắng sâu. Có nhiều con đường khác nhau để tiếp cận tác phẩm Hồng lâu mộng, cũng có nhiều tiêu chí để chúng ta đưa ra soi chiếu tác phẩm. “Lá số tiền định của Kim Lăng thập nhị kim thoa” chỉ là một trong những con đường đó. Do vậy, chúng tôi không hy vọng những kết luận chúng tôi đưa ra có thể bao quát hết giá trị Hồng lâu mộng. Song theo chúng tôi, đây là một hướng đi có thể giúp chúng ta khám phá được phần nào nét độc đáo và vẻ đẹp của Hồng lâu mộng. Đọc Hồng lâu mộng, chúng ta dễ dàng nhận ra, Tào Tuyết Cần không phải chỉ là người quan sát mà còn là người tham gia vào mọi biến động, len lỏi vào những tầng sâu của xã hội phong kiến bằng tất cả những nhận thức sắc sảo cộng với một trái tim nhạy cảm. Vì thế, Hồng lâu mộng được tác giả viết không phải chỉ bằng vốn văn hóa mà còn bằng vốn sống, bằng sự trải nghiệm bản thân. Đề tài “Lá số tiền định của thập nhị Kim thoa trong Hồng lâu mộng” đã góp phần giải mã những bí ẩn của lá số dưới góc nhìn của những phương tiện nghệ thuật, một mặt khẳng định tài năng sáng tạo của Tào Tuyết Cần mặt khác giúp cho người đọc có thể hiểu tác phẩm một cách thấu đáo hơn. Lá số tiền định được tác giả xây dựng bằng cách vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố văn hóa, ngôn ngữ ... Những lá số ấy đã miêu tả nhân vật dưới nhiều góc nhìn khác nhau, có thể là một sự kiện, tình tiết quan trọng trong cuộc đời nhân vật; đặc điểm dung mạo, tính cách đặc trưng của nhân vật; ám chỉ số phận nhân vật. Có thể nói, lá số tiền định chính là bản tóm tắt cuộc đời Thập nhị kim thoa nhưng vì cách thể hiện hô ứng ám thị khiến cho người đọc như hiểu như không. Do đó có thể thấy bản thân lá số tiền định đã mang tính phức tạp và độc đáo, khiến cho bản dịch rất khó chuyển tải được những nét độc đáo, đặc sắc của lá số. Vì thế, khi giải mã lá số dưới những góc nhìn của những phương tiện nghệ thuật càng khiến cho chúng ta khâm phục tài năng và sự sáng tạo độc đáo của Tào Tuyết Cần. Bên cạnh đó, việc phân tích số phận bi kịch của Thập nhị kim thoa trong thế giới hiện thực, cho thấy Tào Tuyết Cần ngoài việc cảm thụ hiện thực cuộc sống sắc sảo còn thể hiện những suy ngẫm lý tính có tính chất toàn diện và sâu sắc về vũ trụ và nhân sinh. Tào Tuyết Cần đã nghệ thuật hóa những suy ngẫm khô khan của mình, tạo thành một kiểu đặc sắc nghệ thuật “Hồng lâu thị mộng nguyên phi mộng”. Từ thế giới mộng tác giả đã dẫn dắt người đọc đến thế giới thực : thế giới của những người con gái tài hoa, thanh cao, trong sạch nhưng chịu chung số phận bi kịch. Bi kịch trong Hồng lâu mộng khác với bi kịch Hy Lạp cổ đại. Trong bi kịch Hy Lạp, cuộc đấu tranh của con người là các lực lượng siêu nhiên, đại diện cho số mệnh và có quyền sinh sát con người. Còn bi kịch trong Hồng lâu mộng, đại diện là Kim lăng thập nhị kim thoa chính là bi kịch của tính cách và thời đại. Chính thời đại thối nát đã bóp nghẹt ước mơ và lẽ sống chính đáng của con người. Thập nhị kim thoa, mỗi người một tính cách, một hoàn cảnh nhưng tất cả đều nhận thức sự phi lí của chế độ tông pháp phong kiến. Mỗi người có một cách phản kháng khác nhau đối với xã hội ấy nhưng cuối cùng vẫn chưa giành được chiến thắng. Điều này có thể lí giải bằng nguyên nhân xã hội. Hồng lâu mộng ra đời vào lúc xã hội Trung Quốc đã xuất hiện những mầm mống của chủ nghĩa tư bản nhưng lực lượng mới chưa đủ mạnh. Bên cạnh đó, dưới sự thống trị của đế chế Mãn Thanh, triều đại ngoại tộc này rất có ý thức làm sống lại chủ nghĩa phong kiến Trung Hoa vốn có từ hai mặt cơ cấu xã hội và ý thức hệ, kìm hãm mọi mầm mống chuyển hóa, kéo dài thời kỳ trung đại. Do đó, Tào Tuyết Cần lẫn Cao Ngạc vẫn chưa đủ cơ sở để xây dựng nên hình ảnh xã hội và con người tương lai. Vì vậy, đành để nhân vật kết thúc số phận trong bi kịch và kéo theo sự suy tàn của cả gia tộc, cả thời đại. Người viết vẫn chưa triển khai hết những ý tưởng của mình trong luận văn này. Vì thế, đề tài “Lá số tiền định của thập nhị Kim thoa trong Hồng lâu mộng” có thể được mở rộng theo những hướng sau: Ngôn ngữ nghệ thuật, hệ thống các biểu tượng mang tính chất tiên tri, những dự cảm không lành của nhân vật trong Hồng lâu mộng. Nghiên cứu “Lá số tiền định” trong lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc nói chung và lịch sử tiểu thuyết Minh – Thanh nói riêng. Nghiên cứu “lá số tiền định” trong mối quan hệ với vấn đề tôn giáo trong Hồng lâu mộng. Chúng tôi hy vọng có thể tiếp tục tìm hiểu đề tài này với những hướng nghiên cứu trên trong một tương lai không xa. TÀI LIỆU THAM KHẢO I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT 1. Dư Quan Anh chủ biên (1997), Lịch sử văn học Trung Quốc, tập 3, Nxb Văn học Hà Nội. 2. Lại Nguyên Ân, Bùi Văn Trọng Cường (2005), Từ điển Việt Nam từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX, Nxb ĐHQG Hà Nội. 3. Trần Lê Bảo (1996), “Hồng lâu mộng và chu dịch”, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 1. 4. Trần Lê Bảo (2002), “Nghệ thuật xây dựng nhân vật chính diện trong Hồng lâu mộng”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 3. 5. Trần Lê Bảo (2004), “Nhóm nhân vật điển hình trong tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 9. 6. Trần Lê Bảo (2006), “Thể nghiệm mộng ảo của các tác gia cổ đại Trung Quốc”, Nghiên cứu Trung Quốc, số 4. 7. Phan Văn Các chủ biên (2001), Từ điển Hán Việt hiện đại, Nxb Giáo Dục. 8. Phan Văn Các (1995), “Lời giới thiệu Hồng lâu mộng”, Hồng lâu mộng, tập 1, Nxb Văn học. 9. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du. 10. Tào Tuyết Cần (1989), Hồng lâu mộng, 6 tập, Nxb Văn Nghệ Tp. Hồ Chí Minh. 11. Phạm Tú Châu (2000), “Vài nét về nghiên cứu tiểu thuyết Minh Thanh ở Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, số 3. 12. Phạm Tú Châu (1992), “Việc nghiên cứu ảnh hưởng Phật giáo và Đạo giáo trong mấy bộ tiểu thuyết tiêu biểu của Trung Quốc”, Tạp chí văn học, số 4. 13. Nhật Chiêu (2003), Những câu chuyện văn chương phương Đông, Nxb Giáo Dục. 14. Trương Chính (1998), Bình giảng ngụ ngôn Trung Quốc, Nxb Giáo Dục. 15. Doãn Chính (1994), Đại cương lịch sử triết học phương Đông cổ đại, Nxb Giáo Dục. 16. Đoàn Trung Còn (1992), Phật học từ điển, quyển 3, Nxb Tp. HCM. 17. Đường Đắc Dương chủ biên (2003), Cội nguồn văn hóa Trung Quốc, Nxb Hội Nhà Văn. 18. Đặng Anh Đào (1992), “Nguồn gốc và tiền đề của tiểu thuyết”, Tạp chí văn học, số 6. 19. Lâm Hán Đạt (2001), Lịch sử Trung Quốc 5000 năm, Nxb Trẻ. 20. Trần Xuân Đề (1998), Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo Dục. 21. Lâm Ngữ Đường (1994), Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa, Nxb Văn Hóa. 22. Lâm Ngữ Đường (2001), Trung Hoa đất nước con người, Nxb Văn hóa Thông tin. 23. Nhiều tác giả (2000), Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc, tập 2, Nxb Thế Giới. 24. Nhiều tác giả (1997), Lịch sử văn học Trung Quốc, tập 2, Nxb Giáo Dục. 25. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới Hà Nội. 26. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên (1997), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội. 27. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lí luận văn học – vấn đề và suy ngẫm, Nxb Giáo Dục. 28. Nguyễn Hùng Hậu (2004), Triết lý trong văn hóa phương Đông, Nxb Đại Học Sư Phạm. 29. Hồ Sĩ Hiệp (2001), Văn học Trung Quốc năm 2000, Tạp chí văn học (2). 30. Nguyễn Xuân Hòa (1998), Ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ Trung Quốc đến tiểu thuyết cổ Việt Nam, Nxb Thuận Hóa. 31. Chương Bồi Hoàn, Lạc Ngọc Minh (2000), Trung Quốc văn học sử, tập 3, Nxb Phụ Nữ. 32. Từ Tập Huy chủ biên (2000), Những mẫu chuyện lịch sử nổi tiếng Trung Quốc – 10 đại văn hào Trung Quốc, Nxb Thanh Niên. 33. Nguyễn Huy Khánh (1991), Khảo luận tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa, Nxb Văn Học. 34. Khrapchenko (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội. 35. Konrat (1997), Phương Đông và phương Tây, Nxb Giáo Dục. 36. Đinh Trọng Lạc (1999), 99 phương tiện và biện php tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo Dục. 37. Doãn Hiệp Lí chủ biên (2001), Từ điển văn hoá cổ truyền Trung Hoa, Nxb Văn hoá thông tin Hà Nội. 38. Nguyễn Thị Diệu Linh (2003), Thực – hư trong Hồng lâu mộng, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư Phạm Hà Nội. 39. Lixêvích (2000), Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc, Nxb Đại học Sư phạm Tp. HCM 40. Phương Lựu (1981), “Vài nét về lý luận văn học, mỹ học cổ điển Trung Quốc”, Tạp chí văn học, số 6. 41. Phương Lựu (1996), Văn hóa văn học Trung Quốc cùng một số liên hệ ở Việt Nam, Nxb Hà Nội. 42. Phương Lựu (1989), Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo Dục. 43. Vương Tuệ Mẫn, (2002), 100 danh nhân có ảnh hưởng đến lịch sử Trung Quốc, Nxb Văn hóa Thông tin. 44. Milankundera (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết, Nxb Đà Nẵng. 45. Nãrađa Mahã Thera (2007), Đức Phật và Phật pháp, Nxb Phương Đông. 46. Phạm Xuân Nguyên, (1991), Phân tích tâm lý trong tiểu thuyết, Tạp chí văn học, số 2. 47. Nguyễn Khắc Phi (1998), Thơ văn cổ Trung Hoa, mảnh đất quen mà lạ, Nxb Giáo Dục. 48. Nguyễn Khắc Phi, Lưu Đức Trung, Trần Lê Bảo (2002), Lịch sử văn học Trung Quốc, tập 2, Nxb Đại Học Sư Phạm. 49. Trương Quốc Phong, Thái Trọng Lai (2001), Tiểu thuyết sử thoại các thời đại Trung Quốc, Nxb Văn nghệ Tp. HCM. 50. Vu Đại Quang (1996), 100 nhân vật ảnh hưởng lịch sử Trung Quốc, Nxb Trẻ. 51. Vương Hồng Sển (1993), Thú xem truyện Tàu, Nxb.Tp.HCM. 52. Trần Đình Sử (2003), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo Dục Hà Nội. 53. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 54. Lỗ Tấn (1996), Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, Nxb Văn Hóa. 55. Khâu Chấn Thanh, Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo Dục. 56. Trương Khánh Thiện, Lưu Vĩnh Lương (2002), Mạn đàm về Hồng lâu mộng, Nxb Thuận Hóa. 57. Lương Duy Thứ (1990), Để hiểu tám bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Nxb KHXH và Nxb Mũi Cà Mau. 58. Lương Duy Thứ (1989), “Kim Bình Mai một tác phẩm hiện thực phê phán có giá trị”, Tạp chí văn học, số 3 59. Cung Kim Tiến biên soạn (2002), Từ điển triết học, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 60. Lê Huy Tiêu (2005), Cảm nhận mới về văn hóa – văn học Trung Quốc, Nxb ĐHQG Hà Nội. 61. Lê Huy Tiêu (2003), “Xu hướng nghiên cứu văn học cổ điển Trung Quốc ở thế kỷ mới”, Tạp chí Văn học, số 10. 62. Vũ Anh Tuấn dịch (2006), 101 Vẻ đẹp văn chương Việt Nam và thế giới, Nxb Văn hóa Thông tin. 63. Lao Tử, Thịnh Lê chủ biên (2001), Từ điển Nho, Phật, Đạo, Nxb Văn Học. 64. Trương Lập Văn chủ biên (2003), Thiên, Nxb Khoa Học Xã Hội. 65. Nguyễn Đức Vân (1962), “Giá trị bộ tiểu thuyết Hồng lâu mộng”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 3. 66. Hà Thanh Vân (1999), Sự tương đồng về thi pháp nhân vật Truyện Kiều và Hồng lâu mộng, Trường Đại học KHXH & NV. II. TÀI LIỆU TIẾNG TRUNG 67. 曹雪芹著 (2004), 红楼梦, 北京燕山出版社(上册,下册). 68. 董晔(2003),“20 世纪林袋玉研究综述”,河南教育学院学报(哲学社 会科学版),第二期第 22 卷。 69. 刘士聪主编 (2004),红楼梦翻译研究论集, 南开大学出版社. 70. 宋淇(2000),红楼梦识药,中国书店。 71. 苏萍 (1998),红楼梦中国古代女性整体人格悲局的总结,第 1 期第 19 卷。 72. 王富鹏 (2000),“论贾宝玉的双姓化性格特征及其实质”,商丘师专 学报,第 16 卷第 1期。 73. 谢真元(1997), 古代小说中国妇女命运的文化透视,重庆师范学报哲社 版,第 1期。 74. 薛海燕 (2000),红楼梦女性观与明青女性文化,红楼梦学刊,第 2 辑。 75. 姚晓菲(2003),“20 世纪王熙凤研究综述”,河南教育学院学报(哲学 社会科学版),第二期第 22 卷。 76. 张瑞娥, 陈德用(2003),“由女性主义看“红楼梦”判词的英译”山东外语 教学,第 6期。 77. 张艳萍(2005),“试论老庄思想对 “红楼梦”的影响“,北京科技大 学学报,第 21卷第 1期。 78. 周汝唱著 (2005), 周汝唱梦解红楼, 漓江出版社. 79. 朱一玄编(2004),红楼梦资料汇编,南开大学出版社。 PHỤ LỤC NGUYÊN TÁC VÀ PHIÊN ÂM LÁ SỐ TIỀN ĐỊNH CỦA KIM LĂNG THẬP NHỊ KIM THOA CHÍNH SÁCH 1. Lá số thứ nhất: 可叹停机德,堪怜咏絮才。 玉带林中挂, 金簪雪里埋。 Khả thán đình cơ đức, kham liên vịnh nhứ (tử) tài. Ngọc đái lâm trung quải, kim trâm tuyết lí mai. 2. Lá số thứ hai: 二十年来辨是非, 榴花开处照宫闱。 三春怎及初春景, 虎兕相逢大梦归。 Nhị thập niên lai biện thị phi, lựu hoa khai xứ chiếu cung vi. Tam xuân chẩm cực sơ xuân cảnh, hổ tỉ tương phùng đại mộng quy. 3. Lá số thứ ba: 才自精明志自高, 生于末世运偏消。 清明涕送江边望, 千里东风一梦遥。 Tài tự tinh minh chí tự cao, sinh vu mạt thế vận thiên tiêu. Thanh minh thế tống giang biên vọng, thiên lý đông phong nhất mộng dao. 4. Lá số thứ tư: 富贵又何为, 襁褓之间父母违。 展眼吊斜晖, 湘江水逝楚云飞。 Phú quý hựu hà vi, cưỡng bảo chi gian phụ mẫu vi. Triển nhãn điếu tà huy, Tương giang thuỷ thức Sở vân phi. 5. Lá số thứ năm: 欲洁何曾洁, 云空未必空。 可怜金玉质, 终陷淖泥中。 Dục khiết hà tằng khiết, vân không vị tất không. Khả liên kim ngọc chất, chung hãm náo nê trung. 6. Lá số thứ sáu: 子系中山狼, 得志便猖狂。 金闺花柳质, 一载赴黄梁。 Tử hệ Trung Sơn lang, đắc chí tiện xương cuồng. Kim khuê hoa liễu chất, nhất đới phó hoàng lương. 7. Lá số thứ bảy: 勘破三春景不长, 缁衣顿改青衣妆。 可怜绣户侯门女, 独卧青灯古佛旁。 Khám phá tam xuân cảnh bất trường, tri y đốn cải thanh y trang. Khả liên tú hộ hầu môn nữ, độc ngọa thanh đăng cổ phật bàng. 8. Lá số thứ tám: 凡鸟偏从末世来, 都知爱慕此生才。 一从二令三人木, 哭向金陵事更哀。 Phàm điểu thiên tòng mạt thế lai, đô tri ái mộ thử sinh tài. Nhất tòng nhị lệnh tam nhân mộc, khốc hướng Kim Lăng sự cánh ai. 9. Lá số thứ chín: 势败休云贵, 家亡莫论亲。 偶因济刘氏, 巧得遇恩人。 Thế bại hưu vân quý, gia vong mạc luận thân. Ngẫu nhân tề Lưu thị, xảo đắc ngộ ân nhân. 10. Lá số thứ mười: 桃李春风结子完, 到头谁似一盆兰。 如冰水好空相妒, 枉与他人作笑谈。 Đào lý xuân phong kết tử hoàn, đáo đầu thuỳ tự nhất bồn lan? Như băng thuỷ hảo không tương đố, uổng dữ tha nhân tác tiếu đàm. 11. Lá số thứ mười một: 情天情海幻情身, 情既相逢必主淫。 漫言不肖皆荣出, 造衅开端实在宁。 Tình thiên tình hải huyễn tình thân, tình ký tương phùng tất chủ dâm; Mạc ngôn bất tiếu giai Vinh xuất, tạo hấn khai đoan thực tại Ninh. ẢNH TƯ LIỆU NHÀ KỶ NIỆM TÀO TUYẾT CẦN DIỆP HƯƠNG THÔN NHÀ KỲ HẠ Bài thơ trên tường – tương truyền là của Ngạc Tỷ đề tặng Tào Tuyết Cần NGUYÊN BẢO THẠCH KIM LĂNG THẬP NHỊ KIM THOA CHÍNH SÁCH LÂM ĐẠI NGỌC TIẾT BẢO THOA GIẢ NGUYÊN XUÂN GIẢ THÁM XUÂN SỬ TƯƠNG VÂN DIỆU NGỌC GIẢ TÍCH XUÂN GIẢ NGHÊNH XUÂN VƯƠNG HY PHƯỢNG TẦN KHẢ KHANH GIẢ XẢO THƯ LÝ HOÀN PHỤ LỤC NGUYÊN TÁC VÀ PHIÊN ÂM LÁ SỐ TIỀN ĐỊNH CỦA KIM LĂNG THẬP NHỊ KIM THOA CHÍNH SÁCH 1. Lá số thứ nhất: 可叹停机德,堪怜咏絮才。 玉带林中挂, 金簪雪里埋。 Khả thán đình cơ đức, kham liên vịnh nhứ (tử) tài. Ngọc đái lâm trung quải, kim trâm tuyết lí mai. 2. Lá số thứ hai: 二十年来辨是非, 榴花开处照宫闱。 三春怎及初春景, 虎兕相逢大梦归。 Nhị thập niên lai biện thị phi, lựu hoa khai xứ chiếu cung vi. Tam xuân chẩm cực sơ xuân cảnh, hổ tỉ tương phùng đại mộng quy. 3. Lá số thứ ba: 才自精明志自高, 生于末世运偏消。 清明涕送江边望, 千里东风一梦遥。 Tài tự tinh minh chí tự cao, sinh vu mạt thế vận thiên tiêu. Thanh minh thế tống giang biên vọng, thiên lý đông phong nhất mộng dao. 4. Lá số thứ tư: 富贵又何为, 襁褓之间父母违。 展眼吊斜晖, 湘江水逝楚云飞。 Phú quý hựu hà vi, cưỡng bảo chi gian phụ mẫu vi. Triển nhãn điếu tà huy, Tương giang thuỷ thức Sở vân phi. 5. Lá số thứ năm: 欲洁何曾洁, 云空未必空。 可怜金玉质, 终陷淖泥中。 Dục khiết hà tằng khiết, vân không vị tất không. Khả liên kim ngọc chất, chung hãm náo nê trung. 6. Lá số thứ sáu: 子系中山狼, 得志便猖狂。 金闺花柳质, 一载赴黄梁。 Tử hệ Trung Sơn lang, đắc chí tiện xương cuồng. Kim khuê hoa liễu chất, nhất đới phó hoàng lương. 7. Lá số thứ bảy: 勘破三春景不长, 缁衣顿改青衣妆。 可怜绣户侯门女, 独卧青灯古佛旁。 Khám phá tam xuân cảnh bất trường, tri y đốn cải thanh y trang. Khả liên tú hộ hầu môn nữ, độc ngọa thanh đăng cổ phật bàng. 8. Lá số thứ tám: 凡鸟偏从末世来, 都知爱慕此生才。 一从二令三人木, 哭向金陵事更哀。 Phàm điểu thiên tòng mạt thế lai, đô tri ái mộ thử sinh tài. Nhất tòng nhị lệnh tam nhân mộc, khốc hướng Kim Lăng sự cánh ai. 9. Lá số thứ chín: 势败休云贵, 家亡莫论亲。 偶因济刘氏, 巧得遇恩人。 Thế bại hưu vân quý, gia vong mạc luận thân. Ngẫu nhân tề Lưu thị, xảo đắc ngộ ân nhân. 10. Lá số thứ mười: 桃李春风结子完, 到头谁似一盆兰。 如冰水好空相妒, 枉与他人作笑谈。 Đào lý xuân phong kết tử hoàn, đáo đầu thuỳ tự nhất bồn lan? Như băng thuỷ hảo không tương đố, uổng dữ tha nhân tác tiếu đàm. 11. Lá số thứ mười một: 情天情海幻情身, 情既相逢必主淫。 漫言不肖皆荣出, 造衅开端实在宁。 Tình thiên tình hải huyễn tình thân, tình ký tương phùng tất chủ dâm; Mạc ngôn bất tiếu giai Vinh xuất, tạo hấn khai đoan thực tại Ninh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHVHNN002.pdf