Luận văn Lễ cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng tỉnh Lào Cai

LỄ CẤP SẮC VÀ TANG MA CỦA NGưỜI DAO TUYỂN Ở HUYỆN BẢO THẮNG TỈNH LÀO CAI Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM Mã số: 60.22.54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với một nền văn hóa đa dạng trong thống nhất. Văn hóa là dòng chảy xuyên suốt quá khứ, hiện tại và tương lai của một dân tộc. Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, mỗi dân tộc đã tạo dựng cho mình một lâu đài văn hóa đồ sộ, một truyền thống văn hóa riêng để phân biệt với các dân tộc khác. Những giá trị văn hóa đó tạo nên bản sắc văn hóa tộc người, làm thành những chuẩn mực để phân biệt tộc người này với tộc người kia. Nếu dân tộc nào để mất đi văn hóa truyền thống của mình thì nó không còn là một cộng đồng tộc người riêng biệt nữa. Dân tộc Dao là một trong số 54 dân tộc anh em đang sinh sống trên đất nước Việt Nam. Trong các tộc người thiểu số ở nước ta, người Dao có dân số khá đông, xếp vào hàng thứ 9 với khoảng 620.538 người [45, tr. 21], cư trú phân tán ở nhiều địa phương chủ yếu ở các tỉnh vùng cao biên giới phía Bắc như Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn . Người Dao có nhiều nhóm ngành khác nhau lại cư trú trên địa bàn nhiều tỉnh nên đã tạo nên những sắc thái văn hóa phong phú và đa dạng. Người Dao có nguồn gốc xa xưa ở phía Nam Trung Quốc di cư sang nước ta theo nhiều đợt bằng đường bộ, đường sông và đường biển. Trong số 7 nhóm người Dao địa phương thì ở Lào Cai có 3 nhóm là: Dao Tuyển, Dao Đỏ và Dao Nga Hoàng. Bảo Thắng là một trong hai huyện có người Dao Tuyển sống tập trung đông nhất của tỉnh Lào Cai. Bảo Thắng là vùng bảo tồn được nhiều loại hình văn hóa dân gian và nếp sống của cộng đồng có tính chất tộc người. Trong đó có những lễ nghi theo chu kỳ đời người hết sức độc đáo của người Dao Tuyển. Những lễ nghi theo chu kỳ đời người như sinh đẻ, cấp sắc, cưới xin, ma chay là một trong những biểu hiện cụ thể vừa mang tính xã hội vừa mang tính tôn giáo. Đó là những giá trị văn hóa điển hình phản ánh về cái mốc đáng nhớ nhất trong đời người mà bất kỳ người Dao Tuyển nào cũng phải trải qua. Những phong tục tập quán theo chu kỳ đời người đó vẫn được đồng bào Dao Tuyển ở đây lưu giữ đến tận ngày nay trong những cuốn sách cổ. Hiện nay, trong xu thế hội nhập mở cửa, quốc tế hóa với sự du nhập của nhiều dòng văn hóa ngoại lai, người Dao Tuyển cũng như nhiều dân tộc anh em đang đứng trước những biến đổi sâu sắc trong đời sống văn hóa, xã hội. Việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đang là việc làm cấp thiết. Nghiên cứu về các tập tục chủ yếu trong chu kỳ đời người ngườ i Dao Tuyển ở Bảo Thắng, Lào Cai là đóng góp cho việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của người Dao nói chung theo chủ trương Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã đề ra: “Chúng ta cần nỗ lực xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta thừa nhận các dân tộc sống trên đất nước ta đều có những giá trị và sắc thái văn hóa riêng và chủ trương tạo điều kiện cho các giá trị và các sắc thái văn hóa đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc, là cơ sở để giữ sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng văn hóa của các dân tộc anh em”. [51, tr.206]. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn là nguồn tài liệu làm cơ sở cho các nhà quản lý có thể xây dựng các chính sách phù hợp với chủ trương kế thừa và phát huy những mặt tích cực trong lĩnh vực phong tục tập quán của người Dao Tuyển ở Bảo Thắng nói riêng và của người Dao Tuyển cũng như của cả cộng đồng người Dao ở Việt Nam nói chung. Chính từ những lý do trên nên em chọn vấn đề “Lễ cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng tỉnh Lào Cai” làm luận văn thạc sỹ của mình. Mục đích nhằm góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của người Dao Tuyển ở Lào Cai nói riêng và của dân tộc Dao nói chung. MỤC LỤC MỞ ĐẦU . 0 1. Lý do chọn đề tài . 1 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 3 3. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu . 4 3.1. Đối tượng nghiên cứu . 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu 4 3.3. Mục đích nghiên cứu 5 4. Phương pháp nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn 5 4.1. Phương pháp nghiên cứu 5 4.2. Nhiệm vụ của luận văn . 5 5. Nguồn tài liệu . 5 6. Đóng góp của luận văn 6 7. Bố cục luận văn . 6 Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ NGưỜI DAO TUYỂN Ở HUYỆN BẢO THẮNG TỈNH LÀO CAI 7 1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên huyện Bảo Thắng 7 1.2. Người Dao Tuyển ở Bảo Thắng 12 1.2.1. Địa bàn cư trú và nguồn gốc lịch sử của người Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng . 12 1.2.2. Đời sống kinh tế, xã hội của người Dao Tuyển ở Bảo Thắng 15 Chương 2. LỄ CẤP SẮC VÀ TANG MA CỦA NGưỜI DAO TUYỂN Ở HUYỆN BẢO THẮNG TỈNH LÀO CAI . 30 2.1. Lễ tục cấp sắc của người Dao Tuyển 30 2.1.1. Quan niệm về sự trưởng thành . 30 2.1.2. Lễ cấp sắc của người Dao Tuyển . 30 2.1.3. Ý nghĩa của lễ cấp sắc 78 2.1.4. Một số biến đổi ngày nay . 80 2.2. Lễ tục tang ma của người Dao Tuyển . 81 2.2.1. Quan niệm về hồn và cái chết 81 2.2.2. Lễ tục tang ma . 82 2.2.3. Để tang và những kiêng kỵ 103 2.2.4. Một số biến đổi trong tang ma . 105 Chương 3. NHỮNG GIÁ TRỊ TRONG LỄ CẤP SẮC VÀ TANG MA CỦA NGưỜI DAO TUYỂN 108 3.1. Giá trị trong lễ cấp sắc và tang ma . 108 3.1.1. Giá trị lịch sử . 108 3.1.2. Giá trị nhân văn . 109 3.1.3. Giá trị nghệ thuật . 115 3.1.4. Giá trị cố kết cộng đồng . 118 3.2. Những yếu tố phi giá trị . 118 3.3. Bảo tồn và phát huy những giá trị trong đời sống . 119 KẾT LUẬN . 123 TÀI LIỆU THAM KHẢO 127 Phụ lục . 131

pdf151 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 4058 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lễ cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng tỉnh Lào Cai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên quan đến chôn cất đều được diễn ra nhanh chóng. Sự đổi mới hiện nay còn được thể hiện ở việc không kết hợp lễ chôn cất với lễ chay. Người ta cho rằng nếu kết hợp cả hai lễ thì phải quàn người chết nhiều ngày ở trong nhà để có thời gian đi báo cho anh em họ hàng ở xa đến lễ. Bởi vậy, trong nhà có người chết thì người ta lập tức tiến hành các nghi thức đưa thi thể đi chôn. Sau này, lúc nào có điều kiện về kinh tế người ta mới tổ chức lễ chay. Có thể coi đây là bước biến đổi hợp lý, đảm bảo vệ sinh, giữ gìn được sức khỏe cho con cháu người chết và cộng đồng. Thời gian diễn ra lễ tang và lễ chay cũng đã được rút ngắn. Nếu trước đây đồng bào thường làm ma trong 3 đến 4 ngày liền chi phí rất tốn kém thì giờ đồng bào chỉ làm ma trong phạm vi 2 ngày 1 đêm. Sự biến đổi này làm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 106 giảm sự tốn kém về vật chất cho con cháu và tránh được những sự lãng phí không cần thiết. Trong lễ an táng trước đây hầu như chỉ có con cháu cùng với anh em trong dòng họ là chính, dân làng cùng nhiều bè bạn thường không trực tiếp đến giúp mà chỉ giúp đỡ bằng cách biếu hoặc cho vay một số lễ vật nếu tang chủ yêu cầu. Người ta sợ ma của người chết làm hại, quan niệm cho rằng ma của người chết thường bảo vệ con cháu nên rất ghét người lạ. Do vậy, trong lễ chôn cất, nếu con cháu ít mà họ hàng ở xa thì khá vất vả và đây là một trong nhiều nguyên nhân làm cho đồng bào có thói quen sinh đẻ nhiều. Hiện nay, mỗi khi trong làng có người chết đều được anh em xóm giềng và bè bạn đến giúp đỡ kể cả lúc chôn cất. Nếu xem xét các yếu tố biến đổi trong tang lễ thì thấy rằng chúng chỉ biến đổi về các thành tố liên quan đến sự phát triển kinh tế - xã hội, còn bản chất vẫn được duy trì một cách bền vững. Tất cả các yếu tố biến đổi đều diễn ra theo chiều hướng đơn giản hóa, phù hợp với nếp sống mới. Tiểu kết Lễ cấp sắc là một lễ tục có tính chất quan trọng trong đời người, đánh dấu bước ngoặt trong sự phát triển của thanh niên Dao Tuyển. Chỉ có những người đàn ông đã trải qua lễ cấp sắc mới được xã hội cộng đồng Dao cho là người lớn, mới được tham gi vào các nghi lễ thờ cúng tổ tiên, thờ cúng Bàn Vương, mới có một vị trí nhất định trong cộng đồng tộc người nơi đây. Ma chay của người Dao Tuyển ở Bảo Thắng được tiến hành hai nghi lễ: lễ làm ma và lễ chay. Mỗi nghi lễ có nhiều chi tiết riêng phản ánh những quan niệm và cách ứng xử của người sống với người chết. Lễ làm ma là nghi lễ chia tay với người chết để người chết đi về thế giới bên kia, còn lễ làm chay là để giải thoát cho người chết khỏi 18 tầng địa ngục để người chết về sum Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 107 họp với tổ tiên. Tất cả các nghi lễ làm ma cũng như làm chay đều diễn ra dưới sự cầm trịch của thầy cúng. Lễ cấp sắc và lễ tang ma ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của đồng bào. Do đó, các nghi lễ này có giá trị nhất định đối với việc nghiên cứu tâm lý cá nhân và cộng đồng người Dao Tuyển nói riêng, văn hóa Dao nói chung. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 108 Chương 3 NHỮNG GIÁ TRỊ TRONG LỄ CẤP SẮC VÀ TANG MA CỦA NGƢỜI DAO TUYỂN 3.1. Giá trị trong lễ cấp sắc và tang ma 3.1.1. Giá trị lịch sử - Lễ cấp sắc của người Dao Tuyển nói riêng và người Dao nói chung cung cấp một số tư liệu về nguồn gốc dân tộc, quá trình di cư và những sinh hoạt văn hóa, xã hội của cộng đồng. Trước hết là những câu chuyện truyền thuyết, những bài ca đọc trong nghi lễ cấp sắc là những tài liệu quý để tìm hiểu về nguồn gốc tộc người đó là sự tích Bàn Hồ. Những câu chuyện hay, những bài thơ dài không dừng lại ở sự tích Bàn Hồ mà còn nói về quá trình di cư của tổ tiên họ, Đó là những truyện thơ về Đặng Hành và Bàn Đại Hội có nói tới hai họ Đặng và họ Bàn đã di cư sang Việt Nam như thế nào?. Trong chuyện Bình Hoàng khoán điệp còn viết về sự phân bố, cư trú và tên gọi của các ngành Dao, trong đó có một số ngành đang sinh sống ở Việt Nam như ngành Dao Làn Tiẻn, Dao Quần Trắng… Qua lễ cấp sắc ta có điều kiện tìm hiểu cách làm giấy dó khá nổi tiếng của dân tộc, cách nhuộm vải, cách cắt may trang phục thầy cúng kiểu nữ. Đây là dịp tốt để chúng ta nghiên cứu trang phục cổ phản ánh lại thời kỳ mẫu hệ xã xưa mà người phụ nữ dao còn làm thầy cúng. Cũng qua trang phục chúng ta được hiểu thêm về nguồn gốc thủy tổ của người Dao là “Long khuyển” - đó là mô típ trang trí trên áo. Qua lễ cấp sắc ta cũng thấy được Đạo giáo tộc Dao hóa và Dao tộc Đạo giáo hóa khá sâu đậm trong tục lệ sinh hoạt của người Dao. Đạo giáo ra đời ở Trung Quốc, ảnh hưởng đến người Dao từ lâu đời. Nội dung Đạo giáo đã được người Dao tiếp thu và biến hóa đi rất nhiều hay nói cách khác là: Đạo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 109 giáo đã sử dụng các tín ngưỡng (thờ cúng Bàn Vương) và hành vi tôn giáo (cấp sắc) vốn có ở người Dao và đưa vào đó một nghi thức mới, một nội dung mới: - Tất cả mọi người đàn ông của dân tộc Dao đều phải qua lễ cấp sắc Đạo giáo. - Ai không qua lễ cấp sắc thì dù chết già linh hồn họ cũng không được về với tổ tiên (Bàn Vương) và lúc sống cũng không được cúng bái cha mẹ, cao hơn nữa là Bàn Vương. - Điều có ý nghĩa quan trọng là: Đạo giáo đã đặt ra tục lệ: Ai không làm lễ cấp sắc sẽ không được công nhận là con cháu Bàn Vương. Tục lệ thêm thắt này khẳng định tính phổ biến của Đạo giáo ở người Dao. Từ cái ngoại sinh trở thành cái nội sinh tồn tại đến tận ngày nay. Đó chính là sự xâm nhập của Đạo giáo vào tín ngưỡng, phong tục tập quán của người Dao nói chung và người Dao Tuyển nói riêng thông qua lễ cấp sắc. 3.1.2. Giá trị nhân văn Giá trị nhân văn trong lễ cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển thể hiện ở những mặt sau: a, Giáo dục, rèn luyện nhân cách con người Một trong những giá trị tiêu biểu của tập tục cấp sắc và tang ma nói riêng cung như tập tục trong chu kỳ đời người nói chung của người Dao đó chính là giáo dục, rèn luyện nhân cách. Khi một thành viên của cộng đồng sinh ra, lớn lên, trưởng thành, xây dựng gia đình, về già và chết đi… đều phải sống và tuân theo cái “khuôn” văn hóa của tộc người. Nhân cách của mỗi thành viên cộng đồng được hình thành, định hình và hoàn thiện từ trong tập tục, nếp sống gia đình, dòng họ. Khi người mẹ mang thai, sinh nở, khi một thành viên ra đời, làm lễ đặt tên, khi trưởng thành làm lễ cấp sắc, xây dựng gia đình làm chồng, làm vợ, khi về già làm ông bà… là một quá trình thu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 110 nhận các quan niệm đạo đức, lối sống… theo những chuẩn mực nhất định để hình thành nên nhân cách của mỗi thành viên. Mỗi độ tuổi trong chu kỳ đời người yêu cầu và biểu hiện nhân cách đó khác nhau. Lúc trẻ tập tục dạy cho biết học tập để trở thành người, khi trưởng thành thì thể hiện nhân cách, lúc về già lam gương cho con cháu. Nội dung của các tập tục góp phần quan trọng định hình nhân cách cho các thành viên của cộng đồng. Cụ thể là: vui mừng khi có một thành viên mới ra đời trong gia đình, dòng họ; Đến tuổi trưởng thành, các thành viên nam được làm lễ cấp sắc để công nhân là thành viên trưởng thành, chính thức của cộng đồng, để giao các nhiệm vụ và được hưởng quyền lợi. Trong lễ được nghe các điều khuyên răn, những điều nên làm và không được làm trong cuộc sống; đên tuổi hôn nhân được gia đình, họ hàng chăm lo khi bước vào cuộc sống độc lập; Khi chết đi được con cháu đau buồn làm ma và làm chay với các nghi lễ thể hiện sự tôn trọng tiễn người thân về với tổ tiên… Chúng ta có thể thấy sự hình thành nhân cách của các thành viên trong cộng đồng được nuôi dưỡng trong suốt quá trình sinh sống trong cái nôi văn hóa gia đình, cộng đồng mà các mốc quan trọng trong chu kỳ đời người là một sự khẳng định của cả một quá trình của cuộc đời một thành viên. Nội dung của lễ cấp sắc có ý nghĩa giáo dục tích cực đối với người thanh niên Dao. Ý nghĩa giáo dục người được cấp sắc được thể hiện rất rõ trong các lời giáo huấn, những điều quy định ghi trong tờ âm dương điệp của bên Sư giáo và Đạo giáo. Sư giáo có 9 điều quy định như sau: 1. Đệ nhất giới, là môn đồ sư giáo, không được coi thường trời đất, thần phật 2. Đệ nhị giới, là môn đồ sư giáo, không được ngược đãi cha mẹ 3. Đệ tam giới, là môn đồ sư giáo, không được sát hại sinh linh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 111 4. Đế tứ giới, là môn đồ sư giáo, không được trộm cắp, hại người 5. Đệ ngũ giới, là môn đồ của sư giáo, không được khinh dẻ người nghèo 6. Đệ lục giới, là môn đồ của sư giáo, không được tham hoa ai sắc làm nhơ bản thân 7. Đệ thất giới, là môn đồ của sư giáo, không được uống rượu ăn nói ngang ngửa 8. Đệ bát giới, là môn đồ sư giáo, dù đêm hôm khó khăn vẫn phải cứu người 9. Đệ cửu giới, là môn đồ sư giáo, phải thành thực, khi làm thầy cúng không được dối trá, ẩu giả, ăn quỵt của dân lành Đạo giáo có chín điều quy định như sau: 1. Đệ nhất diệu giới, không được sát hại tính mệnh. Thường hành cứu khổ chúng sinh 2. Đệ nhị diệu giới, không được tham lam 3. Đệ tam diệu giới, không được hỗn hôn dục tà. 4. Đệ tử diệu giới, không được khinh tâm. 5. Đệ ngũ diệu giới, không được hung tâm ngoan ngu. 6. Đệ lục diệu giới, không được phấn nộ điên đảo 7. Đệ thất diệu giới, không được vong ngôn sinh ngữ, trung trực nội ngoại thuận hoà 8. Đệ bát diệu giới, khi tụng kinh niệm phật, không được nghe nhìn cười nói 9. Đệ cửu diệu giới chân tâm, bảo quốc ninh gia, không được thoái thoát chuyển tâm Trong các điều giáo huấn ghi trong đạo sắc cấp cho người thụ lễ đều hướng tới cái chân, thiện, tuyệt đối kiêng kỵ người thụ lễ làm điều ác. Đó là sự kính trọng các thầy cúng đến làm lễ cấp sắc, biết ơn nghĩa mẹ cha, thủy chung với bạn bè, biết trọng nghĩa kinh tài, có làng vị tha và dũng cảm, sống Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 112 thành thật, không lừa lọc, không dâm đãng… hơn nữa, các điều giáo huấn này đôi khi còn được thực hiện bằng lời thề của người thụ lễ dưới sự giám sát của các thần linh và tổ tiên nên tính giáo dục càng có giá trị. Ngoài ra, lễ cấp sắc còn khuyên dạy con người biết tôn trọng và chấp hành các luật lệ, tập tục, tập quán tộc người. Điều này được thể hiện rất rõ ở trong cuốn Quá sơn bảng văn - truyền thuyết về thủy tổ của người Dao, được một số dòng họ đem ra đọc trong lễ cúng Bàn Vương. Trong quyển sách này có đoạn viết: “Vua ban cho con cháu Bàn Vương cư trú ở rừng sâu, đao canh hỏa chủng. Con cháu Bàn Vương không được gây tai họa, phải tôn trọng luật lệ. Nếu ai không tuân theo luật lệ đều đưa ra quan trị tội” [31,tr.146]. Bởi vậy, người thụ lễ cấp sắc sắc thường luôn tự nguyện trong việc tu dưỡng đạo đức để làm việc thiện, tránh gây ra tội ác. Có thể nói rằng lễ cấp sắc đóng vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục con người Dao biết sống lương thiện, hòa hợp cộng đồng, biết tôn trọng tập tục và tập quán tộc người. b, Giá trị nhân văn giữa người sống và người chết Trong tập tục tang ma của người Dao Tuyển ở Bảo Thắng, nếu ta gạt bỏ đi những phần có tính mê tín dị đoan sẽ bóc tách được những nét văn hóa phù hợp với tính cách và con người Dao Tuyển nơi đây. Ở đó, thể hiện lòng hiếu thảo, lòng kính trọng mong muốn được báo hiếu, đền đáp ơn sinh thành dưỡng dục của những người đang sống với những người đã khuất, với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” đã có từ ngàn đời mà nó vẫn còn hiện hữu cho tới ngày nay. Bởi vậy, tập tục này có một sức sống mạnh mẽ trong tâm thức của đồng bào. Như vậy, tập tục theo chu kỳ đời người với các nghi lễ được toàn thể gia đình, dòng họ, làng bản tham dự như là cái “khung” văn hóa định hình “nhào nặn” nên nhân cách của các thành viên trong công đồng. Đó cũng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 113 chính là lý do để các thành viên tồn tại và phát triển trong môi trường văn hóa tộc người. c, Góp phần bảo tồn nhiều giá trị văn hóa tộc người Tập tục trong đời sống của các tộc người là một lối sống của cộng đồng được ra đời, định hình, thử thách trong quá trình phát triển của các tộc người. Như vậy, tập tục được hình thành như một nhu cầu tất yếu, một lẽ đương nhiên cần có trong đời sống của cộng đồng tộc người. Tập tục cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển được ra đời và duy trì đến hôm nay chắc hẳn cũng không nằm ngoài quy luật chung đó. Quá trình tập tục liên quan đến chu kỳ đời người nói chung và lễ tục cấp sắc và tang ma nói riêng ra đời và vận hành trong đời sống tộc người cũng chỉ với tư cách một thành tố văn hóa làm nên bản sắc văn hóa tộc người. Bản sắc văn hóa tộc người là hệ thống các giá trị của văn hóa tộc người nhưng phản ánh những cá tính riêng của tộc người. Bản sắc văn hóa Dao Tuyển tồn tại duy trì đến hôm nay là do trong đời sống của các tộc người có những thiết chế, những chuẩn mực của luật tục được biểu hiện trên nhiều khía cạnh trong đó lễ tục cấp sắc và tang ma là một khía cạnh quan trọng. Sắc thái văn hóa của người Dao Tuyển qua lễ tục cấp sắc được biểu hiện với những khía cạnh như: + Là tập tục bắt buộc đối với thành viên nam tuổi từ 10 đến 17 tuổi. Trong gia đình anh làm lễ trước, em làm sau, nếu người chết chưa làm lễ cấp sắc thì được làm trước khi cấp sắc cho người sống. + Phải qua tục cấp sắc mới trở thành người bình thường để đảm nhận các công việc mà người đàn ông phải làm theo quan niệm của cộng đồng. + Lễ cấp sắc có nhiều thang bậc khác nhau. + Là dịp để nhắc đến công lao của tổ tiên, thần linh bảo hộ cho gia đình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 114 + Bố mẹ là người đứng ra tổ chức cho con trai sau một quá trình chuẩn bị về vật chất. Tập tục cấp sắc với một số biểu hiện đặc trưng trên đây cho thấy đây là một tập tục khá điển hình không chỉ của người Dao Tuyển mà là của cả cộng đồng Dao nói chung. Tập tục phản ánh những giá trị bản sắc tộc người trong chế độ phụ quyền, mang dấu ấn đánh dấu sự trưởng thành của thành viên nam trong gia đình và cộng đồng kèm theo đó là một hệ thống các nghĩa vụ, giá trị mà thành viên đó phải và được gánh vác trong gi đình, dòng họ và cộng đồng mà thành viên nữ không được đảm nhiệm. Các giá trị bản sắc tộc người được phản ánh khá sinh động trong các quy trình chuẩn bị công phu và thực hành nghi lễ của tục cấp sắc. Tục cấp sắc của người Dao là một hiện tượng văn hóa dân gian, một phức hợp phản ánh khá điển hình một nghi thức tập tục quan trọng và hội tụ nhiều bản sắc tộc người trong một quan niệm, một triết lý có từ lâu đời trong nếp sống thể hiện về thân phận con người trong mối quan hệ với tổ tiên với hiện tại và với tương lai. Tập tục tang ma của người Dao Tuyển là thể hiện một hệ thống các quan niệm về thế giới tâm linh và thực tại của cộng đồng. Đó là các quan niệm về linh hồn và về cái chết, về ma chay và về các tập tục làm ma với hệ thống các nghi thức theo một quy định mang đậm cá tính tộc người và các nhóm địa phương trong tộc người. Đối với đời sống của mỗi thành viên, mỗi gia đình, mỗi dòng họ, tập tục trong tang ma là một tập tục phản ánh nhiều quan niệm triết lý của cộng đồng mang đậm dấu ấn nhân bản. Gia đình, bè bạn, dòng họ vui mừng khi có một thành viên mới ra đời nhưng lại đau lòng khi một thành viên có nhiều mối quan hệ với người đang sống ra đi về với tổ tiên. Các tập tục trong lễ tang ma tuy diễn ra với nhiều nghi thức phức tạp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 115 song toát lên tất cả là thể hiện sự báo hiếu của con cháu, anh chị em, dòng họ đối với người đã khuất. Như vậy, các quy định của dân tộc về cái mốc làm các loại lễ cho một thành viên như độ tuổi, thời gian làm lễ cấp sắc, lễ làm ma, làm chay…; các nghi lễ với các bước tiến hành theo quy trình đã được quy định lâu đời, các yếu tố văn hóa vật thể chuẩn bị cho các bước làm lễ (ăn uống, vàng mã…), các yếu tố liên quan đến văn hóa tâm linh - phi vật thể như cúng bài, âm nhạc, quan niệm về linh hồn… là những biểu hiện cụ thể sinh động của các giá trị văn hóa tộc người được bảo tồn qua nhiều thế hệ. Khi tập tục liên quan đến chu kỳ đời người còn tồn tại trong đời sống tộc người Dao Tuyển thì nhiều giá trị bản sắc văn hóa tộc người được bảo tồn. Đó cũng là một hệ thống các tập tục bền chặt và có thể nói ít biến đổi nhất trong hệ các giá trị văn hóa tộc người nói chung và cũng chính vì lẽ đó mà nó phần nào giúp chúng ta nhận diện sắc thái văn hóa tộc người Dao Tuyển nói riêng và tộc người Dao nói chung trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường, của sự giao lưu văn hóa mang tính quốc gia và quốc tế hiện nay. Tóm lại, lễ cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển ở Bảo Thắng mang giá trị nhân văn hết sức to lớn. Những lễ nghi đó góp phần giáo dục, rèn luyện nhân cách con người; mang ý nghĩa nhân văn tốt đẹp giữa người sống và người chết; và góp phần bảo tồn nhiều giá trị bản sắc văn hóa tộc người. 3.1.3. Giá trị nghệ thuật a. Giá trị nghệ thuật trên trang phục thầy cúng Trong lễ cấp sắc, lễ làm chay, người Dao Tuyển có hai loại thầy đến chủ trì nghi lễ: Thầy cúng Tam Nguyên bên Sư Giáo và thầy cúng Tam Thanh bên Đạo gáo. Trang phục của 3 ông thầy cúng Tam Nguyên đơn giản. Các bộ trang phục này đều là áo dài, hai tà, xe nách bên phải có cúc cài, quần chàm kiểu chân què. Áo dài của thầy cúng Thượng Nguyên chỉ có màu vàng, không Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 116 thêu họa tiết, áo của thầy cúng Trung Nguyên màu đỏ và của thầy Hạ Nguyên là màu chàm đen sẫm. Trang phục thầy cúng Tam Thanh sặc sỡ, thêu thùa nhiều họa tiết hoa văn. Áo dài của các thầy may cắt đơn giản, không có tay nhưng nó thực sự là một tác phẩm nghệ thuật trang trí độc đáo, phản ánh vũ trụ luận của người Dao Tuyển. Theo quan niệm của Đạo giáo thân thể con người là một vũ trụ thu nhỏ gồm ba cõi đất, trời khác nhau. Đầu là cõi trời, là cõi Thượng Nguyên, trong sáng. Đầu của thầy cúng đội mũ. Mũ thầy cúng được trang trí đẹp, có hình các vì tinh tú trên bầu trời, hình hai con rồng chầu mặt trời và núi cũng nhấp nhô hình 5 ngọn núi, có chữ Nhật bên phải và chữ Nguyệt bên trái. Phần thân người từ vai xuống đến thắt lưng là cõi Trung Nguyên. Đặc biệt phần thân sau lưng người có xương sống được ví như cột trụ của cơ thể. Vì vậy, phần thân sau lưng của các thầy sẽ trở thành đồ án trang trí chủ đạo. Còn phần trước ngực chỉ trang trí đơn giản. Còn từ thắt lưng trở xuống bàn chân tương ứng với cõi Hạ Nguyên. Hai tấm vải phía trước áo thầy cúng Tam Thanh thêu các hình tượng, trên cùng là trời có hai con rồng bay, dưới nước có hai hình con cá bơi, dưới đất ở vạt bên phải là hình một trẻ em cầm gậy, vạt bên trái thêu hình trẻ em cầm búa. Dưới hai vạt áo là hình Công Tào cưỡi ngựa, cầm cờ báo tin. Hai vạt áo phía trước còn thêu 8 hình tròn của 8 quẻ bát quái. Vạt bên phải thêu 4 quẻ: Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Vạt bên trái thêu 4 quẻ: Càn, Khảm, Cấn, Chấn. Tấm áo phía sau là bức thêu hoàn chỉnh phản ánh thế giới nhiều tầng. Tầng trên cùng là hình ba vị Tam Thanh cưỡi chim hạc trắng, chính giữa là Ngọc Thanh, bên trái là Thượng Thanh, bên phải là Thái Thanh. Gấu áo của ông Tam Thanh còn thêu các hình bầu dục có tia lửa, Bên trong ghi các địa danh, các đạo quán, các nơi tu luyện của các vị thần Đạo giáo. Trong các trang phục thầy cúng, các họa tiết chữ Nôm Dao thêu trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 117 hình tròn với nội dung phản ánh 24 khí tiết cũng trang trí khắp riềm áo, gấu áo tạo thành đương viền bao quanh các họa tiết chính. Đó là các tiết: Lập xuân, Vũ thủy, Kinh trập, Xuân phân, Thanh minh, Cốc vũ, Lập hạ, Tiểu mãn, Mang chủng, Hạ chí, Tiểu thử, Đại thử, Lập thu, Sư thử, Bạch lộ, Thu phân, Hàn lộ, Sương giáng, Lập đông, Tiểu tuyết, Đại tuyết, Đông chí, Tiểu hàn, Đại hàn. Phần dưới tà áo sau có loại thêu 1 đôi rồng, có loại thêu đôi ngựa hoặc những đám mây. Màu sắc của trang phục thầy cúng người Dao gồm 7 màu: đỏ, vàng, trắng, lục, lam, chàm, tím. Màu nền của áo là màu chàm nhưng trên nền này, người Dao Tuyển đã thêu và ghép vải tạo thành một dải hoa văn đan xít nhau khiến cho màu chàm của nền áo bị thu hẹp còn hoa văn lại hiện ra sặc sỡ trên nền chàm. Hầu hết các học tiết chính đều là màu đỏ và màu vàng đặt cạnh nhau. Màu đỏ cạnh màu vàng, màu đỏ thành màu đỏ tươi, màu vàng trên nền đỏ khiến màu vàng thành vàng óng… Như vậy, các nghệ nhân dân gian đã khéo léo sử dụng các màu sắc nhằm đối chọi với màu chàm của nền áo tạo nên sắc rực rỡ của trang phục thầy cúng. Trang phục thầy cúng của người Dao Tuyển thực sự là bức tranh nghệ thuật giàu giá trị thẩm mỹ, là tác phẩm phản ánh đậm nét vũ trụ quan của đồng bào. b. Nghệ thuật diễn xướng Trong lễ cấp sắc và ma chay của đồng bào Dao Tuyển còn có nhiều áng thơ ca lời hay ý đẹp, nhạc điệu phong phú, tiết tấu rõ ràng. Nhiều loại nhạc cụ đã được huy động vào việc phục vụ nghi lễ như nạo bạt, choòng cheng, trống, cồng, chiêng... Diễn xướng lúc trầm, lúc bổng theo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 118 từng khung cảnh của buổi lễ, theo từng sắc thái lúc hành lễ của các thầy cúng tạo nên sự trang nghiêm của các nghi thức cúng, lễ. Trong lễ cấp sắc còn có nghệ thuật biểu diễn của các thầy cúng với các điệu nhảy múa cổ truyền như múa gà, nhảy bát quái,… Đây là những điệu múa được biểu diễn theo những bài hát hoặc thơ cúng. Bên ngoài có tiếng trống, tiếng chiêng đệm theo. 3.1.4. Giá trị cố kết cộng đồng Tinh thần cộng đồng làng bản trong lễ tục cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển ở Bảo Thắng thể hiện khá rõ nét. Mỗi khi gia đình nào làm lễ cấp sắc cho con trai đều được sự giúp đỡ trong việc dựng ngũ đài sơn, dựng chay đàn, nấu nướng hay các công việc khác. Không chỉ đến giúp đỡ mà họ còn đến chia vui với gia chủ. Hay khi một thành viên của một gia đình chết, cả làng có nhiệm vụ giúp đỡ lo liệu ma chay, đến chia buồn với tang chủ và tỏ lòng tiếc thương đối với người quá cố. Việc tang ma không phải là việc riêng của gia đình người chết mà trở thành việc chung của cả dòng họ, làng mạc. Mỗi khi gia đình có việc lớn đều được sự giúp đỡ chia sẻ của làng xóm. Sự giúp đỡ sẻ chia này làm cho mọi người trong dòng họ, trong làng bản gần gũi với nhau, gắn kết với nhau hơn. Tính cố kết cộng đồng làng bản trở lên chặt chẽ và bền vững hơn. 3.2. Những yếu tố phi giá trị Trước hết, các lễ tục này rất phức tạp, nhiều nghi thức và còn khá nhiều lễ cúng, đặc biệt phải tuân thủ những tập quán và những quy định khá khắt khe của cộng đồng, do đó gây nên sự lãng phí ít nhiều về tiền của và thời gian của các gia đình. Thứ hai là, các quan niệm, tục kiêng kỵ và những quy định của tập quán liên quan đến việc tổ chức lễ thường tạo nên một số hàng rào tâm lý có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 119 thể làm chậm tiến độ tiếp thu các yếu tố mới trong quá trình giao lưu và vận động xây dựng nếp sống hiện đại. Thứ ba là, việc sinh đẻ và nuôi dạy con của các bậc cha mẹ đã vất vả, nhưng còn vất vả hơn khi họ phải lo tổ chức lễ cấp sắc cho con cháu. Đây quả là tập tục trái với quan niệm về việc thêm con bớt bần của đồng bào, làm cho thế hệ trước trong suốt cuộc đời chỉ biết lo toan các nghi lễ cho thế hệ sau. Như vậy, lễ cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển còn mang nặng mê tín dị đoan, nhiều nghi thức tục lệ cúng bái, kiêng kỵ phức tạp, tốn kém, ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt của đồng bào… 3.3. Bảo tồn và phát huy những giá trị trong đời sống Hiện nay văn hóa truyền thống của người Dao Tuyển ở Bảo Thắng đang có nhiều biến đổi sâu sắc trước xu thế phát triển của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và sự giao lưu văn hóa mạnh mẽ giữa các dân tộc anh em trong cùng một không gian sinh sống. Do vậy, chúng ta cần phải bảo tồn và phát huy những giá trị trong văn hóa truyền thống nói chung và những giá trị trong lễ tục cấp sắc, tang ma nói riêng của người Dao Tuyển. Khi đề cập đến nhiệm vụ bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa Đảng đã chỉ rõ: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị văn hóa mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống, văn hóa cách mạng. bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể” [51, tr. 206]. Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo cho đồng bào Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng nói riêng và đồng bào các dân tộc thiểu số ở Lào Cai nói chung. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ các nhà nghiên cứu về văn hóa của dân tộc mình. Bởi không ai hiểu người Dao Tuyển bằng chính người Dao Tuyển, chính họ là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 120 nhân tố quan trọng trong việc kế thừa và phát triển văn hóa dân tộc Dao Tuyển. Dựa vào đường lối phát triển văn hóa dân tộc của Đảng và Nhà nước, chính những người trí thức Do Tuyển sẽ tìm ra con đường phát triển tốt nhất cho dân tộc mình phù hợp với tình hình phát triển chung của đất nước. Thứ hai, tuyên truyền giáo dục rộng rãi văn hóa các dân tộc thiểu số để nâng cao lòng tự hào dân tộc để đồng bào nhận thấy rõ giá trị phong phú độc đáo trong văn hóa dân tộc. Bởi vì, bản sắc văn hóa dân tộc chỉ có thể được bảo tồn, phát huy khi mọi di sản văn hóa quý báu được lưu giữ vững chắc trong bảo tang và ý thức của mỗi người dân, do chính họ là người thực hiện. Việc tuyên truyền giáo dục này không chỉ thông qua việc giáo dục trường học và các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài truyền hình, đài truyền thanh… Đây là việc làm hết sức cần thiết để đồng bào Dao Tuyển hiểu sau hơn giá trị văn hóa của cộng đồng mình, vừa để các dân tộc hiểu biết lẫn nhau, đoàn kết tương trợ nhau. Thứ ba, bản sắc văn hóa tộc người được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua các kênh truyền miệng, hướng dẫn thực hành. Người Dao Tuyển cũng như nhiều dân tộc Dao anh em khác có chữ viết đã lưu giữ tri thức dân gian trong sách vở và mở ra một kênh lưu truyền hiệu quả qua các thế hệ, xuyên cả thời gian là sách cổ. Sách cổ ghi chép hàng nghìn câu lời hay ý đẹp phản ánh quan hệ ứng xử giữa người với người trong công đồng, ứng xử giữa con người với thiên nhiên. Sách cổ cũng ghi chép các lễ nghi, phong tục, tín ngưỡng để trao truyền cho các thế hệ sau. Suốt từ khi mới cất tiếng khóc chào đời đến khi nhắm mắt xuôi tay về với tổ tiên, người Dao Tuyển luôn tắm mình trong các gia trị văn hóa được ghi chép trong sách cổ. Người Dao Tuyển khi đến tuổi thiếu niên và trưởng thành (thường từ 10 đến 17 tuổi), nam giới đều được làm lễ cấp sắc. Đây là nghi lễ chuyển giai Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 121 đoạn từ thiều niên đến tuổi trưởng thành. Để thực hiện nghi lễ này, các thầy cúng và người được làm lễ phải đọc rất nhiều kinh thư, sách tôn giáo, điển tích của người Dao. Các thầy cúng người Dao Tuyển phải sử dụng bộ Kinh thư. Ngoài việc vân dụng các điển tích, thầy cúng còn trực tiếp dạy đạo đức, chuẩn mực sống cho người được cấp sắc (thể hiện trong các lời răn). Đồng thời căn cứ vào nội dung sách cổ đã ghi chép, thầy cúng dạy học trò được cấp sắc các nghi lễ, tín ngưỡng, thực hành Đạo giáo. Thầy cúng giảng giải ý nghĩa các biểu tượng trong nghi lễ tôn giáo cho học trò như các biểu tượng của mâm cúng, biểu tượng của đánh trống,… Thông qua lời đọc, lời xướng, lời ngâm trong các kinh thư, bài cúng, học trò còn tiếp cận các giáo lý của đạo giáo thể hiện trong kinh thư. Lễ cấp sắc như một lớp học đặc biệt truyền dạy cả nếp sống, đạo đức đan xen với kiến thức tôn giáo cho lớp trẻ. Sự truyền dạy này bằng niềm tin trong nghi lễ có tính chất thiêng liêng, bằng hành động, cử chỉ của người thầy nhưng không thể thiếu được vai trò của sách cổ. Thậm chí cách đánh trống, cách nhảy múa cũng ghi trong sách. Khi người Dao Tuyển nhắm mắt xuôi tay, các bài tang ca, các nghi lễ khâm niệm, tiễn đưa hồn, đến cả những lời ca than khóc cũng được ghi chép trong các bộ sách cổ. Nội dung của các bài đánh trống, thổi kèn cũng như cách trang trí trong tang lễ, làm chay cũng được người Dao Tuyển ghi chép đầy đủ trong sách cổ. Qua đó ta thấy sách cổ có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và trao truyền văn hóa người Dao Tuyển từ thế hệ này sang thế khác. Do vậy, việc bảo tồn sách cổ sẽ là một trong những biện pháp nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa trong cộng đồng dân tộc. Để bảo tồn được sách cổ người Dao Tuyển phải có biện pháp tuyên truyền về giá trị sách cổ, đổi mới nhận thức về vai trò của tôn giáo tín Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 122 ngưỡng, vai trò của các nghệ nhân, thầy cúng người Dao Tuyển. Kết hợp chặt chẽ giữa công nghệ bảo tồn tiên tiến với các hình thức bảo dân gian của người dân. Đặc biệt là cần làm sống lại môi trường học tập chữ Dao cổ cho thanh thiếu niên, trao truyền kiến thức thực hành viết, đọc chữ Dao cổ cho thế hệ trẻ. Tiểu kết Qua tập tục cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển ở Huyện Bảo Thắng ta thấy chứa đựng trong đó những giá trị văn hóa tiêu biểu. Đó là giá trị lịch sử cho ta biết về nguồn gốc, quá trình sinh cơ lập nghiệp của đồng bào; giá trị nhân văn giữa người sống và người chết, giáo dục rèn luyện nhân cách con người; đó là những giá trị cố kết cộng đồng tộc người. Không chỉ vậy, lễ cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển còn chứa đựng những giá trị nghệ thuật biểu hiện trên trên trang phục thầy cúng, biểu hiện ở những câu hát, bài cúng và nhịp của các nhạc cụ trong suốt quá trình diễn ra các nghi lễ. Bên cạnh những yếu tố giá trị tộc người tiêu biểu ta còn thấy ở đó vẫn tồn tại những yếu tố mê tín, dị đoan, ảnh hưởng đến sức khỏe, vật chất và điều kiện sinh hoạt cũng như lao động của đồng bào. Tuy nhiên, tập tục cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển chứa đựng nhiều yếu tố văn hóa và văn hóa tộc người nên cần phải được bảo tồn và gìn giữ để bản sắc văn hóa người Dao Tuyển mãi mãi được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 123 KẾT LUẬN 1. Dao Tuyển là tên gọi của một trong các nhóm địa phương người Dao, cư trú rải rác ở một số tỉnh miến núi phía Bắc nước ta trong đó có tỉnh Lào Cai. Huyện Bảo Thắng là một trong hai huyện của tỉnh có số người Dao Tuyển cư trú tập trung đông đảo nhất. Trong huyện đồng bào cư trú phân tán ở trong 6 xã: Bản Phiệt, Bản Cầm, Phong Niên, Phong Hải, Trì Quang và Xuân Quang. Mặc dù cư trú theo làng, xóm nhưng các yếu tố văn hóa cổ truyền của người Dao Tuyển ở Bảo Thắng, trong đó có lễ tục cấp sắc và lễ tục tang ma vẫn được duy trì từ thế hệ này sang thế hệ khác. 2. Trong một chu kỳ đời người Dao, các nghi lễ sinh đẻ và nuôi con, cấp sắc, cưới xin và tang ma là những nghi lễ chủ yếu, bởi vì một mặt chúng đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong từng giai đoạn phát triển của con người, mặt khác mỗi người trong cuộc đời của mình nhất thiết phải trải qua một lần. Tục lễ cấp sắc vừa mang tính chất xã hội, vừa mang tính chất tôn giáo. Lễ thức được tiến hành cho nam giới Dao Tuyển từ 10 đến 17 tuổi, là móc đánh dấu chuyển từ giới trẻ con sang giới người lớn. Khi đã được cấp sắc mới đủ tư cách hoàn thành những việc mà thành viên bình thường trong xã hội làm: làm mối lái trong hôn nhân, nhóm bếp lửa đầu tiên và mang đồ đạc vào nhà mới, mới được cúng tổ tiên, tham dự lễ cúng bàn Vương, mới được làm thầy cúng… Lễ tục cấp sắc mang tính chất của lễ nghi tôn giáo, thể hiện rõ nhất ở quan niệm tái sinh - chết đi sống lại. Tục cấp sắc của người Dao đã gia nhập vào phạm trù của Đạo giáo, kết bền chặt với tôn giáo này. Lễ cấp sắc của người Dao bao hàm nhiều ý nghĩa quan trọng trong đời sống tâm linh, sinh hoạt văn hóa, có nhiều yếu tố tích cực trong sự nghiệp giáo dục đạo đức, nhân cách cho các thành viên trong gia đình, xã hội và cộng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 124 đồng dân tộc. Nó hướng ý thức con người tới những suy nghĩ thiện lương, những hành vi ứng xử nhân ái giữa con người với con người và giữa con người với vũ trụ xung quanh. Ma chay là thuật ngữ dùng để chỉ cách thức và lễ nghi tôn giáo có liên quan đến người chết và những tín ngưỡng gắn liền với các nghi lễ đó. Từ quan niệm “linh hồn tồn tại”, chết đi là tiếp tục sự sống ở một thế giới khác. Người chết vẫn hoạt động, sinh hoạt như lúc còn sống đã đẻ ra nhu cầu và các nghi lễ nhằm thỏa mãn người chết ở bên kia thế giới. Nếu không lo cho người chết mồ yên mả đẹp thì hoặc linh hồn người chết vẫn luẩn quẩn xung quanh người sống, quấy nhiếu người sống hoặc là linh hồn do bị thiếu thốn ở bên kia thế giới trở lại gây ốm đau, chết chóc cho con cháu. Làm thế nào cũng phải đưa linh hồn người chết về “an cư” ở thế giới bên kia. Tuy có sự khác nhau về ý nghĩa xã hội và nghi thức tiến hành nhưng nội dung cốt lõi của các nghi lễ đều thể hiện mối quan hệ giữa thế hệ trước với thế hệ sau, giữa cá nhân với cộng đồng và đều thông qua những phong tục, tập quán được coi là bảng giá trị trong đời sống tộc người. 3. Trên cơ sở nghiên cứu về lễ cấp sắc và tang ma chúng ta hiểu được quan niệm của người Dao Tuyển ở Bảo Thắng về con người và thế giới xung quanh, biết được đặc điểm tôn giáo tín ngưỡng của họ, đồng thời còn thấy được những yếu tố văn hóa dân gian như ca, múa, nhạc… Những yếu tố này không chỉ là những nét văn hóa mang tính tộc người mà còn giữ vai trò quan trọng trong việc thống nhất ý thức cộng đồng. 4. So với trước đây, hiện nay lễ tục cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển ở Bảo Thắng đã có không ít những biến đổi nhưng thường biến đổi những yếu tố liên quan đến điều kiện kinh tế và trình độ nhận thức của đồng bào, còn bản chất và các bước tiến hành lễ hầu như vẫn không thay đổi. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 125 Nguyên nhân tạo ra sự biến đổi đó là do sự ảnh hưởng của các điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội, giao lưu văn hóa… đặc biệt là nâng cao trình độ nhận thức. Do đó, muốn thành công trong việc vận động người dân thực hiện nếp sống mới, xóa bỏ những tập quán không còn phù hợp thì cần tạo điều kiện thiết thực để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của họ. 5. Lễ tục cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển còn chứa đựng nhiều tư liệu quan trọng: - Các nghi thức hành lễ, nhiều bài hát cùng với những truyện kể trong lễ cấp sắc và tang ma là những bức tranh phản ánh về nguồn gốc lịch sử, tín ngưỡng tôn giáo, quá trình di cư, cách thức tổ chức sản xuất cổ truyền của tộc người. Đó là những phương tiện chuyển tải thông tin lịch sử rất hữu hiệu, là nguồn tư liệu quý để nghiên cứu về người Dao Tuyển ở Bảo Thắng nói riêng và về người Dao nói chung. - Đối với lễ cấp sắc và tang ma thì những điệu múa dân gian, nhưng bộ trang phục thầy cúng và các nhạc cụ cùng với quan niệm, tập tục, truyện kể liên quan không chỉ là những đặc trưng văn hóa có một không hai của tộc người mà còn có giá trị trong nghiên cứu khoa học. Chúng giúp ích cho công tác nghiên cứu về đặc điểm tín ngưỡng tôn giáo, nghệ thuật, mỹ thuật dân gian… của đồng bào Dao. - Các nghi lễ chủ yếu trong lễ tục cấp sắc và tang ma là những yếu tố hữu hiệu ảnh hưởng đến đời sống tâm lý của đồng bào, đồng thời cũng là những tác nhân quan trọng để hình thành và chi phối những biểu hiện tâm lý của từng thành viên và của cả cộng đồng. Do đó, lễ tục này có giá trị nhất định đối với việc nghiên cứu tâm lý cá thể và tâm lý cộng đồng người Dao Tuyển ở Bảo Thắng. 6. Bên cạnh những mặt tích cực, lễ tục cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển ở Bảo Thắng cũng có hạn chế như nội dung của các nghi lễ cấp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 126 sắc, tang ma mang nặng mê tín dị đoan, nhiều nghi thức tục lệ cúng bái, kiêng kỵ phức tạp, tốn kém, ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt của đồng bào… Mặc dù còn có một số hạn chế nhỏ so với điều kiện cuộc sống còn khó khăn hiện nay, nhưng từ lâu đời các nghi lễ cấp sắc và tang ma người Dao Tuyển ở Bảo Thắng đã trở thành những nghi lễ không thể thiếu được trong đời sống cộng đồng, luôn gắn liền với đặc trưng văn hóa của họ. Do đó, vấn đề gìn giữ bản sắc văn hóa người Dao Tuyển Bảo Thắng nói riêng và người Dao nói chung là phải gắn với việc duy trì các nghi lễ trong chu kỳ đời người trước hết là lễ cấp sắc, tang ma. Nếu các nghi lễ này bị mai một thì chắc chắn rằng sớm hay muộn cũng sẽ mất đi tính truyền thống trong văn hóa của đồng bào và tất nhiên cũng sẽ có ảnh hưởng nhất định đến quá trình kết nối văn hóa của tộc người này. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 127 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Văn hóa thông tin, HN. 2. Đào Duy Anh (1998), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Đồng Tháp. 3. Diệp Trung Bình (2005), Phong tục và nghi lễ chu kỳ đời người của người Sán Dìu ở Việt Nam, Nxb Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam, Thái Nguyên. 4. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Bảo Thắng (2009), Bảo Thắng trên đường phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Ban tuyên giáo (2002), Địa chí Lào Cai. 6. Ban tƣ tƣởng - Văn hóa Trung ƣơng (2002), Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 7. Bộ văn hóa thông tin - Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam (2005), 45 năm Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam, Thái Nguyên. 8. Sần Cháng (2004), Một số phong tục tập quán dân tộc Giáy Lào Cai, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 9. Nguyễn Từ Chi (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 10. Trƣờng Chính (1983), Về các giá trị văn hóa tinh thần Việt Nam , Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội. 11. Phan Huy Chú (1960), Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 1, Nxb Sử học, HN. 12. Phan Hữu Dật (1995), "Trở lại vấn đề tín ngưỡng dân gian", Tạp chí dân tộc học, số 02. 13. Phan Hữu Dật - Hoàng Hoa Toàn, Một số vấn đề dân tộc học Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 14. Nguyễn Đăng Duy (2004), Nhận diện văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 128 15. Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung (1971), Người Dao ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 16. Nịnh Văn Độ (2003), Văn hóa truyền thống các dân tộc Tày, Dao, Sán Dìu ở Tuyên Quang, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 17. Lê Quý Đôn (1962), Kiến văn tiểu lục, Nxb Sử học, Hà Nội. 18. Lù Sín Giềng (1991), Một số phong tục tập quán của các dân tộc thiểu số Hoàng Liên Sơn, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 19. Gìn giữ và bảo vệ bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam (1996), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 20. Lê Huy Hòa - Hoàng Đức Nhuận (2000), Văn hóa truyền thống và hiện đại, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 21. Phạm Quang Hoan, Hùng Đình Quý (Chủ biên) (1999), Văn hóa truyền thống người Dao ở Hà Giang, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 22. Nguyễn Văn Huy (1997), Bức tranh văn hóa các dân tộc Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 23. Nguyễn Đình Khoa (1976), Các dân tộc ở miền Bắc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 24. Đỗ Đức Lợi (1997), Tục cấp sắc của người Dao Quần Chẹt ở Bắc Thái, Luận văn Thạc sỹ Lịch sử, ĐH KHXH và Nhân văn, Hà Nội. 25. Đỗ Đức Lợi (2002), Tập tục trong chu kỳ đời người của tộc người ngôn ngữ Mông - Dao ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 26. Đặng Văn Lung - Nguyễn Sông Thao… (1997), Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 27. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 28. Lò Giàng Páo (1997), Tìm hiểu văn hóa vùng các dân tộc thiểu số, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 129 29. Nguyễn Hồng Phong (2001), Một số chương trình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, Văn hóa và phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 30. Quốc sử quán triều Nguyễn (1992), Đại Nam nhất thống chí, tập IV, Nxb Thuận Hóa, Huế. 31. Chu Thái Sơn (Chủ biên) (2004), Người Dao, Nxb Trẻ, TP. HCM. 32. Lý Hành Sơn (Chủ biên) (2003), Các nghi lễ chủ yếu trong chu kỳ đời người của nhóm Dao Tiền ở Ba Bể - Bắc Cạn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 33. Trần Hữu Sơn (Chủ biên) (2005), Thơ ca dân gian người Dao Tuyển, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 34. Trần Hữu Sơn (Chủ biên) (2001), Lễ cưới người Dao Tuyển, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 35. Trần Hữu Sơn (1997), Văn hóa dân gian Lào Cai, Nxb VHDT, HN. 36. Trần Hữu Sơn (1999), Tục ngữ câu đố dân tộc Dao, Nxb VHDT, HN. 37. Trần Hữu Sơn (Chủ biên) (2009), Sách cổ người Dao, tập 1, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 38. Trần Hữu Sơn (Chủ biên) (2009), Sách cổ người Dao, tập 2, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 39. Trần Hữu Sơn - Trần Thùy Dƣơng (2009), "Sách cổ người Dao - Nguồn sử liệu quan trọng tìm hiểu lịch sử tộc người Dao", Tạp chí dân tộc học, số 3. 40. Trần Hữu Sơn (1999), Lễ hội cổ truyền Lào Cai, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 41. Lê Ngọc Thánh (Chủ biên) (1990), Bản sắc văn hóa các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc. 42. Lê Bá Thảo, Bế Viết Đẳng, Đặng Nghiêm Vạn (1978), Các dân tộc ít người ở Việt Nam - Các tỉnh phía Bắc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 43. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 130 44. Ngô Đức Thịnh (1994), Trang phục cổ truyền các dân tộc ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 45. Tổng cục thống kê (2001), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1999, Nxb Tổng cục thống kê, Hà Nội. 46. Đỗ Quang Tụ, Nguyễn Liễn (Đồng chủ biên) (2005), Người Dao trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội. 47. Quảng Tuệ (2002), Một số phong tục nghi lễ dân gian truyền thống Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 48. Nguyễn Khắc Tụng (1997), "Trở lại vấn đề phân loại các nhóm Dao Việt Nam", Tạp chí dân tộc học số 3. 49. Đặng Nghiêm Vạn (1993), Quan hệ giữa các tộc người trong một quốc gia dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 50. Nguyễn Văn Vân (2004), Một số vấn đề lịch sử và văn hóa Lào Cai, Nxb HN. 51. Văn kiện nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ƣơng khóa VIII (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 52. Lê Trung Vũ (1999), Nghi lễ vòng đời người, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. NHỮNG NGƢỜI CUNG CẤP THÔNG TIN STT Họ và tên Chức năng Tuổi Chỗ ở 1 Tráng A Cắm Thầy cúng 52 Xã Bản Phiệt 2 Đặng Văn Định Thầy cúng 47 Xã Bản Phiệt 3 Triệu Văn Quẩy Thầy cúng 56 Xã Bản Phiệt 4 Vạn Văn Thanh 64 Xã Phong Hải 5 Lý Thị Mai 78 Xã Phong Hải 6 Hoàng Văn Lù Trưởng thôn 41 Xã Phong Niên 7 Đặng Văn Thêm Già làng 72 Xã Bản Cầm 8 Hoàng Văn Tờ 81 Xã Bản Cầm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 131 PHỤ LỤC 1 MỘT SỐ BÀI CA TRONG LỄ CẤP SẮC VÀ TANG MA Bài thơ: Quy y Thái thanh Khể thủ quy sư Lịch kiếp hảo tu thì Tám mươi mốt năm trong bụng mẹ Giáng sinh chu tuổi mạo hồng nhi Diễn hoá ra quận mê Truyền chính giáo, tán khoa nghi Vĩnh thọ nguyên niên tạp thuyết pháp Khắp trời tinh tú tận quy y Vô vật bất cai quy Cửu long ủng Nước phép phun đan trì Tám vạn bốn nghìn cửa lợi lộc Nguyên thăng chín phẩm hạ sinh thời Tuỳ kiếp phó huyền cơ Hiền bất tuyệt, học vô vi Tổ tổ truyền thăng thường hiện hoá Quốc vương vạn tuổi tổng binh di Thiên hạ thái bình thì Quy y thái thanh đạo đức tôn Quy y thái thanh đạo đức tôn. (Nguồn: Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 132 Bài thơ: Quy y Thƣợng Thanh Khể thủ quy y kinh Ngọc trọc diệu lang hàm Bí phạm khai thời quang sán lạn Ngôn ngôn câu câu diệu huyền nguyên Kim hậu vĩnh lưu truyền Chiểu khổ hải, giá chu toàn Bản hành chân toàn tam thập lục Thất thiên việt điển diệu phi thường Vô ám bất khai quang Tiêu nghiệp tôi, tống phúc điền Chấn động hàm linh giai thác hoá Tứ sinh lục đạo lại chu toàn Tứ sinh lục đạo lại chu toàn Ủ nhân thế, quảng lưu truyền Đọc tụng chư thiên cai chiêm ngưỡng Thụ thì kinh giả phúc vô biên Bạch nhật thượng tam thiên Quy y thượng thanh linh bảo tôn Quy y thượng thanh linh bảo tôn. (Nguồn: Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 133 Bài thơ: Quy y Ngọc Thanh Khể thủ quy y đạo Đạo khí bản tự nhiên Đạo giáng đông đô truyền khổng thánh Đạo lâm tây trúc hoá kim tiên Thuyết pháp độ nhân thiên Thiên vạn tuế, hiệu tu thì Lịch kiếp tu lai thành chính giáo Ngũ vân kết tuyển chính kim tiên Khai hoá chúng nhân thiên Truyền chính giáo, độ chúng sinh Thanh vi thiên cùng khai diệu nghĩa Chí kim đạo pháp quảng lưu truyền Xứ xứ kết lương duyên Quy y Ngọc Thanh Nguyên thuỷ tôn Quy y Ngọc Thanh Nguyên thuỷ tôn. (Nguồn: Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 134 Bài : Báo ân Ba bái dâng ba chén trước điện linh Ba nén hương thơm phụng ba hồn Những ngày còn sống không gì ăn Rau xanh không muối cũng phải nuốt Trước khi lên tiên mời chén rượu Dẫu có rượu thật uống được không? Tạm biệt tam hồn ở linh vị Hương hồn mong nhận được thiện tình Nghĩa cả ân sâu báo chẳng đặng Chỉ trang giấy trắng đốt trước linh Vạn đắng, ngàn cay nghĩa dưỡng dục Một giờ báo đáp làm sao đủ Bái vàng quanh linh, thắp đèn tiến Mong cho cha (mẹ) sớm thành tiên Sớm hóa thành tiên về tiên cảnh Nghìn năm âm dương cách biệt rồi Cha (mẹ) cùng con tạm chia tay Chân trời góc bể cùng chẳng gặp Bái biệt linh hồn ba lạy này Biết rằng báo đáp chẳng chu toàn (Nguồn: Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 135 Bài: Thập diện ca Một vái tần quảng điện đế vương Mở cửa xá tội cho linh hồn Phát sáng soi cho đường phục sinh Linh hồn đi qua chẳng bị chìm Hai vái Sở giang điện vương đế Kiểm tra phạm nhân giải tội hình Giải thích oan uổng trên dương thế Thác sinh hậu thế tránh phiền hà Ba vái Tông đế điện vua trước Mở mang đường cái cho linh hồn Trong ngục Minh ty đã mở thông Thần hồn được lên chẳng ưu sầu Bốn vái Ngũ Quang Điện Vương đế Phán cho linh hồn bay lên trời Linh hồn sinh ra khỏi trở ngại Tránh thành loài vật chịu khổ đau Năm thành tâm vái Diêm La đế Diêm La con trời phán linh hồn Ngự bút phân cho kiếp đời sau Vui vẻ linh hồn nhận làm quan Sáu vái Minh Vương Đô Thị đế Lên phận vong sáng được ngao du Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 136 Vui vẻ ngao du đất không đêm Phúc đầy cửu dương con cháu hiếu Bảy vái Minh Ty Bình Đẳng đế Ván định nhân gian trăm việc yên Vong hồn đến kỳ chẳng trở ngại Thác sinh đời sau được phong lưu Tám vái Thái Sơn Điện Vương đế Thái Sơn kiểm duyệt định đời người Mất về âm phủ lại hoàn dương Kiếp sau linh hồn được trường thọ Chín vái Kiều Hà Điện Ngọc đế Dẫn dắt linh hồn lên cầu đi Cầu vàng cầu bạc bắc dẫn đường Chớ để sẩy chân rơi Nại Hà Mười vái chuyển luân điện vương đế Luân chuyển linh hồn thác kiếp sau Hương hồn không bị chìm ở án Thẳng lên thiên đường nơi tiên cảnh Điểm qua mười vua, mười án phán Linh hồn phiêu độ kiếp tiêu giao Chúc cho con cháu vạn điều phú. (Nguồn: Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 137 Bài: Thập biệt ca Một biệt sinh ra trên dương thế Là người nhỏ bé trên dương gian Hai biệt thanh xuân tuổi niên thiếu Hiểu được âm dương trăm thứ vui Ba biệt gặp gỡ lúc hội họp Uyên ương kết hợp trở thành đôi Bón biệt trời đất bao la Thiên hà nhật nguyệt cùng Tam Quan Năm biệt người thân kẻ già trẻ Già trẻ tình thân người họ hàng Sáu biệt con cháu nam lẫn nữ Ân tình cốt nhục đã phân ly Bảy biệt quần áo đẹp trên đường Giày, mũ, thắt lưng đều điểm trang Tám biệt trăm thức ngon trên đời Cơm ngon rượu ngọt cùng trà thơm Chín biệt ân tình trên dương thế Tình sâu nghĩa nặng đã phân ly Mười biệt kiếp sống mệnh đã hết Trốn biệt nhân gian đã mất rồi (Nguồn: Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên PHỤ LỤC 2 MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG LỄ CẤP SẮC CỦA NGƢỜI DAO TUYỂN Đến nhà thầy cúng (Ảnh: Phan Thị Hằng) Thầy Tam Thanh và Tam Nguyên trang trí chay đàn (Ảnh: Phan Thị Hằng) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 1 Viết sớ (Ảnh: Phan Thị Hằng) Lễ mở trống khai đàn (Ảnh: Phan Thị Hằng) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 2 Tích trò Bà Mụ cõng con ngoài Ngũ đài sơn (Ảnh: Phan Thị Hằng) Các thầy đuổi tà ma khu vực Ngũ đài sơn (Ảnh: Phan Thị Hằng) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 3 Lễ múa gà (Ảnh: Phan Thị Hằng) Lễ cắt tóc trừ nợ đời (Ảnh: Phan Thị Hằng) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 4 MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG MA CHAY CỦA NGƢỜI DAO TUYỂN Lễ khai quang dụng cụ cúng (Ảnh: Phan Thị Hằng) Nhà táng (Ảnh: Phan Thị Hằng) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 5 Con cháu bò chung quanh quan tài trong bài cúng báo ơn (Ảnh: Phan Thị Hằng) Hiến rượu (Ảnh: Phan Thị Hằng) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 6 Thầy làm lễ chia cơm (Ảnh: Phan Thị Hằng) Con cháu bắc cầu cho cha (mẹ) đi (Ảnh: Phan Thị Hằng) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 7 Thầy cúng làm lễ khai đàn (Ảnh: Phan Thị Hằng) Chay đàn (Ảnh: Phan Thị Hằng) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 8 Lễ phá ngục (Ảnh: Phan Thị Hằng) Lễ cúng cơm (Ảnh: Phan Thị Hằng)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLV2010_SP_PhanThiHang.pdf
Tài liệu liên quan