Mặc dù đã thực hiện luật thuế GTGT từ năm 1999 nhưng khó khăn vẫn còn nhiều, việc xin hoàn thuế vẫn yêu cầu nhiều thủ tục, mất nhiều thời gian, nên mặc dù nhiều tháng âm thuế Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội vẫn không xin hoàn thuế được , gây khó khăn về vốn. Nhà nước cần đề ra biện pháp quản lý hữu hiệu vừa rút ngắn được thời gian xin hoàn thuế vừa hạn chế tình trạng gian lận bảo vệ những doanh nghiệp làm ăn chân chính.
Nhà nước ta đang áp dụng luật thuế GTGT đối với hang nhập khẩu nghĩa là đánh thuế vào giá trị tăng thêm ở nước ngoài của sản phẩm hàng hoá vì vậy đã vi phạm bản chất của loại thuế này là thuế gián thu, đánh vào giá trị tăng thêm của sản phẩm hàng hoá từ khâu sản xuất tới khâu tiêu dùng ở nước ta. Cùng một mặt hàng nhập khẩu nhưng khi áp mã thuế lại có nhiều mức khác nhau. Đây cũng là một vấn đề Nhà nước cần nghiên cứu , quan tâm.
Để bảo hộ và khuyến khích các ngành sản xuất trong nước phát triển , nhà nước ta áp dụng mức thuế suất tương đối cao cho những mặt hàng nhập khẩu . Tuy nhiên để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá thích hợp dần quá trình hội nhập. Nhà nước cần đưa ra mức thuế suất hợp lý hơn nữa.
Với mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng 32% như hiện nay là quá cao. Công ty TOCONTAP có tỷ suất lợi nhuận bình quân không cao. Nên sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, còn rất ít lợi nhuận để bổ sung các quĩ, không có điều kiện để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước cần điều chỉnh chính sách kịp thời để phù hợp với tình hình thực tế, khuyến khích các doanh nghiệp phấn đấu nâng cao lợi nhuận trong vài năm trở lại đây, ngành hải quan đã tích cực cải cách thủ tục hành chính tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người kinh doanh.Tuy nhiên khâu làm thủ tục hải quan vẫn còn nhiều gây không ít khó khăn và làm ảnh hưởng tới tiến độ thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
89 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1285 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lợi nhuận và các giải pháp nâng cao lợi nhuận ở công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm TOCONTAP, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong năm qua là 22,77 tức là khi bỏ ra 1 đồng vốn cố định công ty thu về là 22,77 đồng doanh thu, tăng 1,24 so với năm 2001 . So với năm 2001 hàm lượng vốn cố định là giảm đi 0,25%.
Mặc dù hiệu suất sử dụng vốn cố định của công ty năm 2002 có tăng nhưng tình hình quản lý tài sản cố định của công ty vẫn chưa được tốt thể hiện ở chỗ vẫn có tài sản cố định chưa dùng đến như là nhà kho trong T.P Hồ Chí Minh. Như vậy chứng tỏ công ty đã không sử dụng triệt để vốn kinh doanh của mình, vẫn còn tình trạng lãng phí vốn.
Trong năm 2002 số dư bình quân vốn lưu động của công ty là 127.141.500.798 đồng, số vòng quay vốn lưu động bình quân là 2,27 lần/1năm, số ngày luân chuyển bình quân là 160 ngày/1vòng điều này chứng tỏ tình hình sử dụng vốn lưu động của công ty trong năm qua không tốt bằng 2001(số vòng quay vốn lưu động bình quân là 2,85 lần/1năm,số ngày luân chuyển bình quân là 126ngày/1vòng). Tình hình quản lý các khoản phải thu không tốt bằng năm trước thể hiện khoản phải thu vào năm 2002 đã tăng lên trong đó khoản phải thu của khách hàng chiếm một tỷ trọng khá lớn vào cuối năm 2002 phải thu của khách hàng là 62.413.887.477 đồng chiếm 49,25% tổng vốn lưu động điều này thể hiện công ty đã lới lỏng chính sách tín dụng với khách hàng, đã để cho khách hàng chiếm dụng vốn quá lớn làm giảm tốc độ luân chuyển của vốn lưu động.
6.Đánh giá chung về kết quả hoạt động sản xuất kinhdoanh và tình hình thực hiện lợi nhuận đạt được của công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm TOCONTAP
Kết quả kinh doanh sản xuất của công ty và tình hình thực hiện lợi nhuận trong 2 năm 2001 và 2002 đạt được ưu điểm và còn tồn tại những hạn chế, cụ thể dưới đây:
*Ưu điểm:
-Công ty đã xây dựng chiến lược kinh doanh ngày càng hợp lý hơn. Hoạt động ngoại thương không chỉ bị chi phối bởi môi trường kinh tế trong nước mà còn bị ảnh hưởng rất mạnh mẽ từ sự biến động của tình hình thế giới. Qua 45 năm tồn tại và phát triển với nhiều thăng trầm và đúc rút không ít kinh nghiệm, công ty thấy rằng xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý có ý nghĩa quan trọng như thế nào đối với sự phát triển và sinh lời của công ty. Tiến hành xây dựng chiến lược kinh doanh trên cơ sở kết quả kinh doanh trong những năm gần đây và khái quát tình hình kinh tế trong nước và quốc tế. Xây dựng chiến lược xuất nhập khẩu theo từng khu vực thị trường, có chính sách ưu đãi hợp lý đối với các khách hàng làm ăn lâu dài, thường xuyên đối với công ty...
-Đã ngày càng hoàn thiện cơ chế quản lý của công ty và thực hiện tốt hơn công tác tài chính. Công ty làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra và bảo vệ nội bộ. Sau khi ba đoàn thanh tra kiểm tra về cơ bản Công ty chấp hành tốt chính sách và pháp luật. Thực hiện tốt qui chế dân chủ ở đơn vị. Một năm hai lần công khai tài chính trước toàn thể cán bộ công nhân viên vào dịp tổng kết 6 tháng và cả năm, một tháng một lẫn công khai tài chính trước đội ngũ trưởng phòng, phó phòng vào dịp giao ban định kỳ. Mọi việc liên quan đến đời sống của CBCNV đều do đoàn chủ trì và quyết định.
-Công ty đã áp dụng cơ chế khoán trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Mục đích khoán là tạo môi trường pháp lý cần thiết để các đơn vị chủ động, đưa ra biện pháp tích cực, thích ứng với cơ chế thị trường, giải quyết tốt nhất những vấn đề phát sinh trong quá trình kinh doanh và để phát huy sức lao động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của người lao động nhằm hoàn thiện và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kinh tế xã hội của Công ty.
Tiền lương khoán theo hiệu quả kinh doanh được xác định trên cơ sở phần trăm của khoản chênh lệch giữa tổng thu và tổng chi (chưa kể lương).
Tỷ lệ áp dụng là 45%.
Công thức: V= (tổng thu- tổng chi) x 45%
Trong đó: Tổng thu là tất cả các khoản thực thu được trong kỳ từ bán hàng hoặc dịch vụ. Tổng chi là tất cả các khoản chi phí của đơn vị từ khi mua hàng đến khi bán hàng ra ( trừ lương) kể cả chi phí quản lý, phí trực tiếp phân bổ, 15% BHXH, 2% BHYT, 2% kinh phí công đoàn.
Để hỗ trợ các phòng kinh doanh lấy lại thị trường xuất khẩu cũ và mở rộng thị trường xuất khẩu mới, Công ty đã có nhiều biện pháp khuyến khích giúp đỡ các phòng ban như đại diện chào hàng, tiền gửi hàng mẫu, phí tiếp khách cho hàng xuất khẩu không hạch toán vào các phòng cung cấp, cập nhật thông tin cho các phòng nghiệp vụ về tình hình kinh tế thế giới, tình hình giá cả trên thị trường, tập quán thương mại của các quốc gia khuyến khích các phòng dự hội chợ chào hàng xuất khẩu, phòng nào có khó khăn thì trực tiếp báo cáo Giám Đốc để cùng xử lý.
- Công ty đã tổ chức sắp xếp lực lượng lao động một cách hợp lý hơn.
Trong thời gian qua Công ty sát nhập phòng XNK 5 và phòng XNK 8 để nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK.
Công ty có quy định giải thể các phòng kinh doanh hoặc miễn trách nhiệm trưởng phòng, phó phòng nếu các đơn vị nhận khoán 6 tháng bị thua lỗ liên tục mà không có hướng khắc phục, không có kế hoạch bù các khoản lỗ, không nộp đủ nghĩa vụ với nhà nước và với công ty, không bảo đảm thu nhập tối thiểu cho người lao động.
Đối với đội ngũ kinh doanh mạnh dạn lựa chọn đội ngũ cán bộ trẻ, khoẻ, có trình độ được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ ngành ( 100% các đồng chí trưởng phòng và chức vụ tương đương đều tốt nghiệp đại học ngoại thương và đại học khác).
Ưu tiên sử những cán bộ nhanh nhạy, có trình độ nghiệp vụ, liên tục đào tạo lại đội ngũ cán bộ để bước đầu đảm nhiệm và thích ứng được với cơ chế thị trường.
Đối với những cán bộ không còn khả năng để thích ứng với cơ chế mới, Công ty sẽ giải quyết tối ưu cho cả hai bên.
Công ty có kế hoạch tuyển thêm lao động mới đáp ứng nhu cầu kinh doanh hiện nay.
- Công ty thường xuyên phát động thi đua, hàng tháng có thưởng kèm theo kim ngạch cho từng cá nhân làm công tác kinh doanh và đều đặn có thưởng theo qúy cho cá nhân và phòng để động viên mọi người làm việc.
Năm 2002 bình quân thu nhập khối kinh doanh là 2 triệu đồng, của khối quản lý là 1,55 triệu đồng, của khối sản xuất là 1,5 triệu đồng.Bình quân thu nhập của toàn công ty là 1,82 triệu đồng.
Cán bộ công nhân viên được tạo điều kiện tham gia công tác đoàn thể, như năm 2002 và 2003 đoàn thể của công ty đi thi văn nghệ của Bộ đã dành được rất nhiều giải thưởng, tổ chức tốt các ngày kỷ niệm truyền thống, có chế độ thăm hỏi nhân viên ốm đau, hiếu hỉ... Một năm một lần tổ chức cho CBCNV đi nghỉ mát, chi tiền quần áo , mua đầu máy karaoke để làm phong phú đời sống tinh thần cho người lao động.
Chế độ khen thưởng hợp lý đã tạo ra không khí làm việc phấn khởi, toạ điều kiện nâng cao tinh thần trách nhiệm của mọi người trước nhiệm vụ được giao đồng thời thúc đẩy cán bộ công nhân viên tìm mọi biện pháp nâng cao kết quả sản xuất kinh doanh.
- Trong năm qua Công ty đã tích cực khai thác, thăm dò tìm kiếm thị trường. Nhận thấy công tác thị trường là cực kỳ quan trọng, trong tình hình kinh tế hiện nay Công ty đã lăn lộn để có thể mở rộng thị trường. Ngoài những thị trường quen thuộc như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Pháp, Đức, Malaysia... công ty đã khai thác mở rộng sang Anh, Bungary, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập và một số thị trường Nam Mỹ và là một trong những doanh nghiệp đầu tiên đã xuất khẩu được hàng thủ công mỹ nghệ vào thị trường Mỹ. Song thực tế, hàng của Công ty là hàng tạp phẩm, hàng thủ công làm bằng tay là chủ yếu theo kiểu gom nên giá trị không cao . Công ty cũng đã xuất khẩu cao su sang Đức, Hàn Quốc, Achentina nhưng cũng chỉ là bước thâm nhập thị trường, chưa phát triển mạnh bởi sự bấp bênh và cạnh tranh về giá cả trong và ngoài nước. Công ty còn bị ảnh hưởng bởi chính sách điều hành kinh tế và sự cạnh tranh trong kinh doanh nhất là với Trung Quốc.
Để góp phần nâng cao lợi nhuận Công ty đã đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của mình như : Cho thuê tài sản cố định chưa cần dùng, tham gia đầu tư liên doanh, sản xuất gia công chổi quét sơn, con lăn tường, sử dụng hết vốn bằng cách tham gia vào thị trường tài chính, thông qua hoạt động mua bán trái phiếu, tín phiếu... ngoài hoạt động kinh doanh chính là hoạt động XNK trực tiếp Công ty còn thực hiện XNK uỷ thác, tái xuất, chuyển khẩu, hàng đổi hàng...
*Hạn chế: Bên cạnh những thành tựu còn có những hạn chế sau:
-Thường thì công ty chỉ nhập khẩu khi có đơn đặt hàng nhưng trong vài năm gần đây do cơ chế thị trường đòi hỏi sự năng động, táo bạo trong kinh doanh công ty đã nhập một số mặt hàng từ nước ngoài để chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước ( như ôtô, máy nóng lạnh, ...), và lợi nhuận từ hoạt động này thu được rất đáng kể. Do xu hướng kinh doanh trong nền kinh tế hiện nay ngày càng khốc liệt, công ty luôn phải đương đầu với nhiều đối thủ kinh doanh cùng lĩnh vực, cùng mặt hàng, đặc biệt với nhập lậu thuế, những mặt hàng liên doanh sản xuất trong nước được nhà nước khuyến khích sản xuất, do đó giá cả rẻ hơn rất nhiều, cho nên hàng nhập khẩu của công ty trong năm qua tiêu thụ chậm, chi phí cho quảng cáo, cho nhân viên bán hàng nhiều, cho nên phí bán hàng cả năm đã tăng lên so với năm 2001. Điều này sẽ làm tăng chi phí ảnh hưởng đến lợi nhuận nhập khẩu nói riêng và lợi nhuận của toàn bộ công ty nói chung
-Bên cạnh đó thì tình hình sử dụng vốn của công ty chưa hợp lý và đạt hiệu quả chưa cao, cụ thể là hiện nay công ty có một số tài sản cố định chưa cần dùng như nhà kho đem cho thuê lấy lãi, chủ yếu là T.P Hồ Chí Minh. Về kho bãi của công ty ở xa cơ quan, hiện nay đang trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm , làm tăng chi phí bảo quản, tăng chi phí do hàng hoá bị hư hỏng.
-Công ty đã quản lý chưa tốt vốn lưu động, đã để tình trạng hàng tồn kho quá lớn như hiện nay, làm cho vòng quay của vốn giảm.
-Công ty vốn chưa chú trọng tới chiến lược Marketing tiếp cận thị trường tiêu thụ. Công ty mới chỉ dừng lại ở mức độ khái quát chung về việc nghiên cứu tình hình kinh tế thế giới, tình hình giá cả thị trường, tìm hiểu về kinh tế pháp luật và tập quán thương mại của các nước.
-Việc quản lý chi phí của công ty là chưa tốt, nhiều chi phí phát sinh mà không có chứng từ hợp lệ. Các chi phí về dịch vụ mua ngoài, tiền nước, tiền điện, fax, internet còn quá cao. Việc tổ chức quá trình mua vào bán ra và quản lý hàng chưa hợp lý đã làm tăng chi phí không đáng có trong năm 2002 vừa qua. Các phòng còn lãng phí các chi phí giao nhận vận chuyển, các chi phí khác trong việc thực hiện hợp đồng.
Trên cơ sở xem xét , tìm hiểu, nắm bắt tình hình thực tế của công ty trong quá trình thực tập, em xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng lợi nhuận đối với công ty XNK Tạp Phẩm Hà Nội (TOCONTAP) trong thời gian tới.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận ở công ty TOCONTAP
I/Kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm tới
Năm 2003 có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, là năm “bản lề” thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005. Phát huy kết quả đạt được trong năm 2002, với khí thế mới toàn thể CBCNV cty trên dưới một lòng, đoàn kết nhất trí, nỗ lực phấn đấu vì sự phát triển phồn vinh của cty trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Trong năm 2003 cty tập trung phấn đấu nhằm vào các mục tiêu sau đây:
-Kim ngạch xuất nhập khẩu : 24.000.000 USD
Trong đó xuất khẩu : 7.000.000 USD
nhập khẩu : 17.000.000 USD
-Doanh số : 225 tỷ đồng
-Nộp ngân sách : 34 tỷ đồng
-Lợi nhuận : 02 tỷ đồng
-Thu nhập bình quân :1,8 triệu đ/ng/tháng
*Để thực hiện các mục tiêu nêu trên công ty cần tập trung giải quyết các vấn đề có tính định hướng sau:
Một là: củng cố và mở rộng thị trường ngoài nước để tăng kim ngạch xuất khẩu. Bên cạnh những thị trường đang thực hiện như Canada, Acgentina, Anh, Iraq, Singapore, Malaysia... cần mở rộng các thị trường mới ở châu Phi, Trung cận đông, các nước láng giềng như Lào, Campuchia. Cần có biện pháp cụ thể để hỗ trợ xí nghiệp mỳ ăn liền ở Lào phát triển sản xuất và xuất khẩu có hiệu quả. Xí nghiệp TOCAN có thêm biện pháp đưa sản phẩm sang thị trường Mỹ và các nước khác. Đối với thị trường Trung Quốc, đây là một thị trường rộng lớn có kinh nghiệm, cty cố gắng tìm liên doanh liên kết để cùng kinh doanh và cùng xuất khẩu, tìm những cty có thế mạnh để học tập và phát triển.
Hai là: Chủ động gắn bó với các cơ sở sản xuất trong nước để đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu phù hợp với nhu cầu thị hiếu luôn thay đổi của thế giới, tạo ra những mặt hàng có giá thành rẻ chất lượng cao, tạo sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu.
Ba là: Tiếp tục đổi mới công tác quản lý, không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng nhanh vòng quay vốn. Năm 2003 phấn đấu chu kỳ luân chuyển vốn bình quân của cty là 60 ngày, giảm thêm số dư nợ bình quân và đặc biệt là giảm tối đa số dư nợ quá hạn của các khách hàng nội địa. Coi đây là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hoạt độngcủa các phòng kinh doanh.
Bốn là: Thực hiện nghiêm chỉnh khẩu hiệu “không buôn lậu, không gian lận thương mại”, luôn bảo vệ sự trong sạch của tên tuổi TOCONTAP trên thương trường.Kiên quyết xử lý những cán bộ vi phạm quy định của cty, tiếp tục thực hiện cơ chế khoán của cty để thể hiện rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng người lao động.
Năm là: Chuẩn bị mọi điều kiện để thực hiện cổ phần hoá theo quy định của Nhà nước. Sớm thành lập bộ phận nghiên cứu các qui định của Nhà nước về cổ phần hoá, tổ chức việc học tập nghiên cứu chính sách cổ phần hoá trong toàn cty.
Sáu là: Tiếp tục làm tốt công tác bồi dưỡng , đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực kinh doanhcủa đội ngũ cán bộ cty để đáp ứng với nhu cầu hội nhập quốc tế. Củng cố các tổ chức trực thuộc cty như hai chi nhánh Hải Phòng, T.P HCM, xí nghiệp Lào, TOCAN để đáp ứng yêu cầu mới .
Bảy là: Chăm lo xây dựng cơ sở Đảng, các tổ chức quần chúng, thực hiện tốt quy chế dân chủ, công khai, quan tâm các mặt hoạt động khác làm cho đời sống vật chất tinh thần của CBCNV trong gia đình TOCONTAP luôn luôn hoà thuận, yên vui, vì sự phát triển của cty và hạnh phúc của mỗi thành viên.
II/Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình kinh doanh của công ty
1/Những thuận lợi
Công ty TOCONTAP là một doanh nghiệp lớn của Nhà nước, đã có nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Công ty đã xác lập mối quan hệ buôn bán với trên 70 nước.
Công ty có bộ máy quản lý hành chính tương đối gọn, có ban lãnh đạo năng động sáng tạo dám nghĩ, dám làm.
Đội ngũ cán bộ dầy dặn kinh nghiệm, liên tục phấn đấu phát huy tính chủ động sáng tạo, sử dụng linh hoạt mọi phương thức kinh doanh.
Bước sang cơ chế thị trường, Công ty được trao quyền tự chủ kinh doanh đủ kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thực sự gắn liền với trách nhiệm và quyền lợi của mỗi cá nhân trong doanh nghiệp. Ban lãnh đạo đã đề ra được cơ chế quản lý kinh doanh đúng hướng, tự chủ tiết kiệm cụ thể là đã đưa ra một cơ chế khoán hợp lý, điều đó đã khuyến khích được người lao động thông qua việc kiểm soát bằng cơ chế để phát triển kinh doanh, tận dụng triệt để trí tuệ tài năng, nguồn vốn sở trường của từng bộ phận để tăng lợi nhuận cho Công ty tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho người lao động.
Công ty đã đa dạng hoá các loại hình kinh doanh. Công ty không chỉ kinh doanh xuất nhập khẩu mà còn đầu tư hợp tác liên doanh xây dựng nhà máy chế biến mỳ ăn liền ở CHDCND Lào, gia công hàng xuất khẩu mặt hàng chổi quét sơn con lăn tường liên doanh với Canada, cho thuê tài sản, tham gia vào thị trường tài chính thông qua hoạt động mua bán trái phiếu tín phiếu. Nhờ vậy mà Công ty đã nâng cao hiệu quả sử dụng của đồng vốn , hạn chế tổn thất xảy ra trong quá trình sử dụng vốn, tăng tốc độ vòng quay vốn.
Hoà cùng xu thế hội nhập trên toàn thế giới, hiện nay Vịêt Nam là thành viên của hiệp hội các nước ASEAN và AFTA. Đây là những cố gắng ở tầm vĩ mô, nhằm mang lại cho các doanh nghiệp trong nước nhất là doanh nghiệp xuất nhập khẩu cơ hội mở rộng thị trường, tìm kiếm bạn hàng đối tác kinh doanh để tận dụng tối đa lợi thế này. Công ty đã thành lập một tổ xây dựng chiến lược kinh doanh XNK cho năm 2003 và do Tổng giám đốc phụ trách trực tiếp. Tích cực thâm nhập vào các thị trường mới thông qua hình thức triển lãm hội chợ. Có chính sách phù hợp với từng bạn hàng.
Ban lãnh đạo luôn quan tâm đến đời sống vật chất tinh thần của người lao động , nội bộ Công ty đoàn kết nhất trí phấn đấu hoàn thành và vượt kế hoạch đề ra. Các năm trước đây Công ty kinh doanh có lãi song cũng mới chỉ đủ nộp thuế vốn. Nhưng từ năm 1999 không những công ty kinh doanh có lãi mà còn được trích lập các quĩ phát triển sản xuất, dự phòng tài chính, trợ cấp mất việc làm, quĩ khen thưởng và quĩ phúc lợi. Năm 2002 công ty đạt doanh thu 288.237 triệu đồng ( giảm 4.093 triệu đồng so với năm 2001)nhưng lợi nhuận sau thuế đạt 1.438 triệu đồng ( tăng so với năm 2001) chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của công ty năm sau tăng lên so với năm trước.
Công ty thực hiện tốt qui chế dân chủ, công khai. Khối đoàn kết giữa Đảng- Chính quyền- Công đoàn rất chặt chẽ luôn cùng nhau bàn bạc và quyết định. Đặc biệt qua vụ án 177 tỷ đồng thể hiện sự đoàn kết trong lãnh đạo, Đảng uỷ và tập thể CBCNV.
Các phòng ban trong công ty luôn lấy cơ chế khoán là một thước đo để thể hiện sự đóng góp của từng CBCNV. Công ty thực hiện thưởng phạt phân minh, công bằng.
Toàn thể CBCNV luôn yêu quí công ty, coi công ty là nhà của mình. Thương hiệu công ty sẽ là lẽ sống của mọi người, đó cũng là yếu tố tinh thần quan trọng để vượt khó khăn.
2.Những khó khăn
TOCONTAP là một doanh nghiệp lớn của Nhà nước, đóng vai trò chủ đạo trong lĩnh vực ngoại thương nhưng Công ty đã gặp không ít khó khăn trong quá trình hoạt động, trong số đó có cả những khó khăn chủ quan và khách quan mang lại.
Trong thời gian qua Công ty vẫn kinh doanh trong tình trạng bạn hàng và mặt hàng trong và ngoài nước vẫn chưa ổn định. Vì vậy công ty phải chịu áp lực rất lớn từ các thành viên kinh doanh khác đặc biệt là trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Bên cạnh đó Công ty XNK tạp phẩm Hà Nội chủ yếu là kinh doanh dịch vụ, mà trong cơ chế mới yêu cầu về mối quan hệ đòi hỏi ngày càng rộng thì mới có thể tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường. Ngoài bạn hàng, nguồn hàng cũng là yếu tố quyết định sự thành bại trong kinh doanh. Hiện tại Công ty chưa có cơ sở sản xuất hay chưa gắn chặt với các đơn vị sản xuất chuyên sản xuất hàng xuất khẩu cho Công ty do vậy mà Công ty vẫn chưa tìm được thị trường trong nước qua kinh doanh XNK.
Đặc điểm hàng hoá kinh doanh của Công ty là hàng tạp phẩm giá trị hàng quá nhỏ. Ngoài ra công ty không phải là một trong những đầu mối của hàng nông sản dệt may giày dép. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Công ty là chổi quét sơn chiếm 50% kim ngạch xuất khẩu, song vẫn chỉ là hàng gia công là chính, lại không được ổn định bởi sự cạnh tranh khốc liệt với thị trường Trung Quốc. Một số mặt hàng xuất khẩu khác như thủ công mỹ nghệ,gốm sứ, mây tre, văn phòng phẩm nhưng kim ngạch chưa ổn định, không cao. Cũng như hàng xuất khẩu, hàng nhập khẩu của Công ty phần lớn là hàng tạp phẩm nhỏ nhặt, không có mặt hàng đầu mối nào. Để đảm bảo doanh số và tạo việc làm, công ty đã tiếp nhận những hợp đồng trị giá rất nhỏ chỉ vài ngàn USD Công ty vẫn chưa xác định được khu vực kinh doanh chính của mình. Mặc dù có quan hệ buôn bán với trên 70 nước nhưng hầu như chỉ mang tính chất tạm thời, kim ngạch XNK nhỏ.
Nhìn chung hoạt động kinh doanh XNK của Công ty có ổn định, hoạt động với hình thức tự doanh là chính, và nhập khẩu hơn hẳn xuất khẩu, biện pháp đứng ra nhận uỷ thác XNK chỉ là biện pháp trước mắt vì khi các đơn vị sản xuất trưởng thành trong lĩnh vực này thì cơ hội đứng ra nhận XNK sẽ không còn.
Sau 5 năm áp dụng cơ chế khoán kinh doanh, các mặt tích cực có thể nhận rõ, tuy nhiên không thể thừa nhận xu hướng chuyên sâu ngày càng lu mờ, hợp tác cùng phát triển bị coi nhẹ. Xu hướng muốn loại trừ nhau phát triển không lành mạnh trong Công ty chủ yếu là tranh nhau cùng một mặt hàng, tranh khách, tranh bán cái đã có, chưa tích cực tìm bạn hàng mới, thị trường mới. Đây chính là mặt trái của cơ chế khoán trong kinh doanh. Tiếp tục phát huy mặt tích cực hạn chế tiêu cực trong cơ chế khoán là điều mà ban lãnh đạo Công ty cần nghiên cứu giải quyết.
Trước kia từng là một trong số những doanh nghiệp độc quyền trong lĩnh vực XNK nhưng hiện nay chính phủ ban hành nghị định 57/CP cho phép mọi thành phần được trực tiếp kinh doanh XNK đã lấy đi thế mạnh của công ty.
Toàn cầu hoá, song song với việc đem lại những vận hội mới trong kinh doanh là những thách thức, cạnh tranh gay gắt. Mặc dù Việt Nam đã là thành viên chính thức của ASEAN và AFTA nhưng Công ty vẫn chưa thực sự tìm kiếm được bạn hàng trong khu vực, chưa thực sự khai thác được thế mạnh này. Cơ hội sẽ không xuất hiện hai lần và nếu không biết tận dụng nó sẽ trở thành rủi ro với doanh nghiệp.
Công ty chưa sử dụng hiệu quả nguồn lực, đặc biệt là tài sản cố định, mà chủ yếu là cho thuê để lấy lãi.
Công ty chưa có kế hoạch cụ thể cho việc sử dụng đội ngũ cán bộ. Mặc dù đội ngũ cán bộ của công ty lớn, có kinh nghiệm như cần đào tạo thêm tin học và ngoại ngữ... để phù hợp với tình hình mới. Còn có công nhân lao động bị ảnh hưởng bởi tính cao cấp, thiếu năng động, ỷ lại ,còn hiện tượng “sáng cắp ô đi chiều cắp ô về”.
II. Một số kiến nghị nhằm nâng cao lợi nhuận của công ty XNK tạp phẩm Hà Nội.
45 năm trưởng thành và phát triển, Công ty XNK tạp phẩm Hà Nội đã không ngừng phấn đấu vượt qua mọi khó khăn thử thách để hoàn thành nhiệm vụ.
Bên cạnh những thành tích đạt được, Công ty vẫn còn không ít những tồn tại đòi hỏi ban lãnh đạo và tập thể công nhân viên Công ty phải có biện pháp khắc phục kịp thời nhằm đảm bảo cho Công ty hoạt động có hiệu quả trong những năm tiếp theo.
Trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội , qua nghiên cứu tìm hiểu thực trạng hoạt động kinh doanh, em xin đưa ra một số ý kiến đề xuất hy vọng sẽ góp phần nâng cao lợi nhuận của Công ty.
1Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Khi nền kinh tế chưa chuyển đổi sang cơ chế thị trường vốn kinh doanh của công ty được Nhà nước bao cấp toàn bộ, khi công ty cần vốn có thể xin thêm hoặc vay của ngân hàng với lãi xuất thấp. Hiện nay phương thức cấp phát vốn không còn nữa, vốn kinh doanh chủ yếu của công ty là vốn tự có được bổ xung dần qua nhiều năm hoạt động kinh doanh và vốn vay của ngân hàng. Do đó doanh nghiệp luôn phải đối mặt với thị trường, tính rủi ro của đồng vốn trong quá trình vận động cao hơn, nếu làm ăn không tốt sẽ dẫn tới tình trạng thua lỗ, hoặc bị phá sản. Muốn kinh doanh có hiệu quả, công ty phải không ngừng quản lý giám sát đồng vốn một cách chặt chẽ hơn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh được đưa mục tiêu hàng đầu, sao cho hoạt động kinh doanh với một lượng vốn nhất định nhưng thu được lợi nhuận nhiều nhất. Vì vậy muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ta phải đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
1.1Nâng cao hiệu quả sử dụng của tài sản cố định.
Hiện nay công ty có một số tài sản cố định chưa cần dùng ( nhà, kho..) đem cho thuê lấy lãi, chủ yếu là ở thành phố Hồ Chí Minh. Đây không phải là giải pháp hữu hiệu trong kinh doanh , Công ty nên có biện pháp linh hoạt hơn để đưa số tài sản này vào phục vụ hoạt động kinh doanh, từ đó đưa chi nhánh ở phía Nam hoạt động hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, công ty nên cải tạo lại trụ sở 36 Bà Triệu, có thể xây BUILDING để cho thuê vì các phòng trong công ty rất ít mà nếu có xây thì chỉ sử dụng tối đa là 3 tầng, số phòng còn lại cho thuê có thể mỗi tháng cũng thu được hơn 50 triệu đồng.
Với đặc thù kinh doanh của Công ty, kho bãi đóng vai trò rất quan trọng, công ty cần lập kế hoạch sử dụng tài sản này một cách hợp lý hơn, nâng cấp cải tạo và xây dựng mới để giữ an toàn cho hàng hoá cả về số lượng và chất lượng từ đó giảm chi phí bảo quản, giảm chi phí do hàng hoá bị hư hỏng...Nhất là cần phải nâng cấp xí nghiệp TOCAN vì trong năm 2002 vừa qua tình hình nước úng ngập kéo dài , phải điều chuyển bố trí lại sản xuất, làm cho cuối năm bị thiếu hụt nguyên liệu trầm trọng.
Kho của Công ty ở xa cơ quan, hiện nay đang trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng. Anh chị em không quản làm đêm và các ngày lễ, ngày nghỉ làm việc với tinh thần trách nhiệm cao đảm bảo xuất nhập hàng hoá kịp thời, có thái độ phục vụ tốt đối với khách hàng. Công ty cần có quy chế khen thưởng khuyến khích động viên họ đưa ra các biện pháp sử dụng kho bãi một cách có hiệu quả song song với việc tăng cường trách nhiệm vật chất.
TOCONTAP đã sớm hiện đại hoá công tác quản lý hành chính của mình bằng việc trang bị máy vi tính phục vụ hoạt động văn phòng. Tuy vậy máy vi tính chỉ mới giữ vai trò rất khiêm tốn là thay thế máy chữ, giải trí, gửi e-mail. Vốn đầu tư cho loại trang thiết bị này không phải là nhỏ. Phải làm gì để biến nó thực sự trở thành một công cụ phục vụ đắc lực cho hoạt động kinh doanh . Tiếp tục đầu tư mới, hiện đại hoá hay trên nền tảng cái đã có nâng cấp để sử dụng. Nên chăng ban lãnh đạo cần phải xây dựng một kế hoạch chi tiết cả về máy móc và nhân lực. Các máy tính chỉ trở nên hữu ích khi chúng được kết nối với nhau bao gồm cả kết nối nội bộ và kết nối toàn cầu. Nhờ đó mà việc quản lý hành chính sẽ diễn ra thuận lợi hơn, truy cập cũng như tìm kiếm thông tin dễ dàng hơn, cùng với một đội ngũ có trình độ tin học, máy vi tính đã đang và sẽ trở thành “chìa khoá vàng” của cánh cổng tương lai giúp Công ty hoà nhập với thế giới. Thêm vào đó là việc sử dụng điện thoại , Công ty nên làm một tổng đài nội bộ để có thể kết nối các máy diện thoại trong công ty , như thế thì các phòng trong công ty gọi cho nhau sẽ không mất tiền, đây cũng là vấn đề sẽ tiết kiệm rất nhiều cho Công ty, vì mỗi phòng XNK trung bình mỗi tháng mất khoảng từ 5-6 triệu đồng cho chi phí điện thoại.
1.2Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Vốn lưu động là một bộ phận tài sản quan trọng của doanh nghiệp việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là một trong những nhân tố quyết định hiệu quả kinh doanh chung của doanh nghiệp.
Công ty cần tổ chức sử dụng vốn một cách hiệu quả , không lãng phí bằng cách tăng cường công tác quản lý tài chính dựa trên cơ sở những qui định , qui chế tài chính đề ra , triệt để tiết kiệm chi phí , lập kế hoạch gắn với thị trường... Điều quan trọng nhất vẫn là phải tìm mọi cách tăng vòng quay của vốn xuống chỉ còn nhỏ hơn 3 tháng/1 vòng thông qua việc đưa ra những chính sách tín dụng hợp lý hơn cho từng khách hàng hay nói một cách khác là phải giải quyết tốt các khoản công nợ.
Bán chịu hàng hoá là một phương thức thúc đẩy tốc độ tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp, nhưng trước khi quyết định có cung cấp tín dụng hàng hoá cho khách hàng hay không? Công ty cần đánh giá vị thế tín dụng của khách hàng đồng thời phải thường xuyên thu thập thông tin về tư cách tín dụng của khách hàng, thông qua phân tích báo cáo tài chính, phỏng vấn trực tiếp , từ ngân hàng hay cơ quan quản lý của Nhà nước.
Thực hiện tốt việc thu hồi công nợ sẽ giúp Công ty tăng nhanh vòng quay của vốn, trong thời gian tới Công ty cần đẩy mạnh việc thu hồi công nợ bằng cách theo dõi chặt chẽ thời hạn chiếm dụng vốn của Công ty. Điều này làm cho vốn của Công ty giảm đi dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn cũng giảm. Các biện pháp giúp công ty thu hồi công nợ là:
+Đề ra thời hạn tín dụng cụ thể đối với từng khách hàng sao cho thời hạn mà công ty cho khách hàng hưởng luôn nhỏ hơn thời hạn tín dụng mà nhà cung cấp cho Công ty hưởng và thời hạn đó có thể chấp nhận được với tốc độ lạm phát.
+Tiền phạt do vi phạm hợp đồng tín dụng phải luôn lớn hơn so với lợi ích thu được do vi phạm hợp đồng
+áp dụng chính sách chiết khấu với tỷ lệ thoả đáng nhằm khuyến khích khách hàng thanh toán nhanh, đúng hạn.
Căn cứ vào tình hình kinh doanh mà Công ty nên tính toán các khoản phải trả sao cho hợp lý để giữ uy tín với bạn hàng, ngân hàng và tránh rủi ro cho Công ty.
Công ty cần phải tận dụng những khoản tín dụng được hưởng như khoản phải trả nhà cung cấp, khoản khách hàng trả trước đồng thời cũng tính đến lãi xuất phải trả những khoản nợ ngắn hạn để sao cho Công ty luôn có lợi hơn những khoản tín dụng mà Công ty cung cấp cho khách hàng.
-Lựa chọn phương thức thanh toán an toàn thuận lợi nhất, tránh tình trạng bị bạn hàng nước ngoài từ chối thanh toán hoặc dây dưa trong việc thanh toán tìên hàng xuất khẩu, nhập khẩu.
-Vì công ty thường xuyên giao dịch qua ngân hàng ngoại thương Việt Nam do vậy công ty nên chú trọng giao dịch thanh toán với những khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng có quan hệ với Vietcombank để nhờ ngân hàng nơi công ty mở tài khoản can thiệp khi có vướng mắc trong thanh toán. Bên cạnh đó luôn theo dõi sát sao, đốc thúc khách hàng thanh toán các khoản nợ đúng hạn để công ty đủ vốn thu mua hàng kịp thời phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu, tránh tình trạng bị khách hàng chiếm dụng vốn. Ngoài ra công ty nên đưa ra mức lãi thanh toán chậm hợp lý đối với khách hàng nhằm hạn chế việc thanh toán dây dưa để đẩy vòng quay của vốn lưu động nhanh hơn nữa, đạt hiệu quả cao nhất trong kinh doanh.
2. Đẩy mạnh công tác marketing
Đánh giá được tầm quan trọng của công tác thị trường thời kỳ hiện nay, ban giám đốc mà đặc biệt là phòng tổng hợp đã tích cực giúp đỡ các phòng kinh doanh nghiên cứu tình hình kinh tế thế giới, tình hình giá cả thị trường, tìm hiểu về luật kinh tế pháp luật và tập quán thương mại của các nước... nhưng chỉ mới dừng lại ở mức độ khái quát chung vì vậy mỗi đơn vị kinh donh nên chọn ra một người có năng lực giao tiếp, có trình độ chuyên môn đứng ra đảm nhận công tác Marketing về nhóm ngành chủ yếu mà đơn vị mình chuyên kinh doanh.
Ngoài việc chú trọng theo dõi diễn biến giá cả của các mặt hàng ở thị trường trong và ngoài nước, cán bộ làm công tác marketing cần phải đưa ra những dự báo chính xác về xu hướng biến động của thị trường trên cơ sở nắm bắt nhu cầu tiêu dùng, phân tích đánh giá khả năng cạnh tranh của hàng hoá, tính ổn định và khả năng cung ứng của các nhà cung cấp dưới sự chi phối của các qui luật kinh tế thị trường, và sự điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Qua đó các cán bộ nghiệp vụ đề ra chính sách mua bán hàng hoá một cách hiệu quả nhất phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó tham mưu cho trưởng phòng xây dựng kế hoạch lấy lại thị trường xuất khẩu đã mất, kết hợp chặt chẽ với phòng tổng hợp như sách , báo , báo cáo tổng kết, Internet...
Tiếp tục cử các đoàn cán bộ đi nước ngoài để nghiên cứu và thâm nhập thị trường, tạo dựng mối quan hệ mật thiết nới các tham tán thương mại của Việt Nam đặt tại nước ngoài thường xuyên tích cực tham gia các hội chợ , triển lãm do Bộ Thương Mại tổ chức để giới thiệu về mình, giới thiệu về các chủng loại sản phẩm hàng hoá của công ty nhằm ký kết hợp đồng mới , tìm kíêm đối tác kinh doanh mới.
Trong những năm tiếp theo, để tạo bạn hàng lâu dài và ổn định tạo thế vững chắc cho hoạt động xuất nhập khẩu, Công ty có thể triển khai theo một số hướng sau:
-Mở rộng thị trường SNG đặc biệt là Nga, ngoài hình thức trả nợ, tạo thời cơ để nắm chắc thị trường cơ bản và lâu dài này.
-Củng cố và phát triển thị trường EEC, cố gắng mở rộng thị trường sang Đức và các nước Châu Âu khác. Đối với thị trường Hà Lan cần giữ vững và phát triển.
-Đối với thị trường Châu Mỹ , ngoài mục tiêu nắm chắc thị trường Canada, cần phát hiện tìm kiếm nhu cầu tại thị trường Mỹ . Tìm cách thâm nhập sâu hơn nữa vào thị trường Nam Mỹ trong đó có các nước Brazil, Achentina, Chile, Urugoay. Khu vực Trung Mỹ và Caribe cần làm tốt với thị trường Cu-Ba để tạo thế thuận lợi cho việc đột phá vào thị trường này.
-Hợp tác với các thị trường trong khu vực trong đó có thị trường Đông Nam á và đặc biệt là Trung Quốc. Tranh thủ các khoản viện trợ và cho vay hàng hóa của các nước phát triển để đi vào thâm nhập thị trường Châu Phi. Đột phá vào thị trường Li Băng để tạo bàn đạp cho các thị trường ở tiểu lục địa này.
Xuất nhập khẩu là hoạt động chính của công ty nhưng cũng không nên vì vậy mà Công ty coi nhẹ việc xúc tiến, quảng cáo và yểm trợ bán hàng, hàng nhập khẩu của Công ty chủ yếu là tư liệu tiêu dùng, để góp phần thúc đẩy tốc độ tiêu thụ hàng hoá Công ty nên phối hợp với các nhà sản xuất, và các đại lý phân phối hàng nhập khẩu , đưa ra các chương trình quảng cáo, giới thiệu sản phẩm , song song với hoạt động khuyến mại, khuếch trương mặt hàng, gợi mở nhu cầu từ đó thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với sản phẩm. Thông qua các đại lý phân phối hàng nhập khẩu. Nắm bắt nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng để đưa ra cơ cấu hàng nhập khẩu hợp lý.
3.Phát triển mở rộng liên doanh, liên kết.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động liên doanh ngày càng phát triển và được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau như liên doanh theo cổ phần, liên doanh theo hợp đồng, vụ việc... Bởi vì liên doanh sẽ giúp cho doanh nghiệp tận dụng được mọi nguồn lực sẵn có và san sẻ bớt khó khăn rủi ro cho các đối tác liên doanh như khó khăn về vốn, công nghệ, cũng như giảm bớt sự đối đầu trong kinh doanh. Hơn nữa kết quả hoạt động này được chia trên cơ sở “ Lãi cùng hưởng, lỗ cùng chịu” đã phần nào tăng độ an toàn của vốn đầu tư. Nhưng nguyên nhân cơ bản khiến cho Công ty nên phát triển hoạt động liên doanh của mình là do: hoạt động kinh doanh của Công ty chủ yếu là cung cấp dịch vụ, thực hiện lưu thông hàng hoá đưa hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Công ty chưa có cơ sở sản xuất ổn định cung cấp nguồn hàng đảm bảo cho xuất khẩu., hoặc nếu có thì hiện giờ mới chỉ ở qui mô nhỏ sản xuất gia công theo đơn đặt hàng cầm chừng. Tuy tổ chức tốt khâu quản lý chất lượng hàng hoá trong lưu thông nhưng chất lượng phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp sản xuất hàng hoá đó. Sau cùng, Nhà nước đã ban hành nghị định cho phép các đơn vị, tổ chức cá nhân được phép tiến hành hoạt động xuất nhập khẩu những mặt hàng không thuộc diện quản lý Nhà nước, đã lấy đi rất nhiều bạn hàng của Công ty, biện pháp xuất nhập khẩu uỷ thác chỉ là tạm thời khi các doanh nghiệp sản xuất chưa trưởng thành trong lĩnh vực ngoại thương.
Vậy phải làm gì để khắc phục tình trạng trên. Câu trả lời hợp lý nhất ở đây là Công ty cần mở rộng hoạt động liên doanh liên kết hơn nữa. Công ty sẽ thu được rất nhiều lợi lộc khi thực hiện hoạt động này. Đơn cử như, bằng kinh nghiệm và sự thành thạo trong lĩnh vực ngoại thương, các đối tác sẽ hết sức tin tưởng để giao cho Công ty thực hiện những hợp đồng xuất nhập khẩu của đơn vị liên doanh ( từ nhập khẩu dây chuyền, thiết bị nguyên liệu phục vụ cho sản xúât đến sản phẩm đem xuất khẩu...). Vô hình chung Công ty đã tạo được những đơn vị chuyên cung cấp hàng xuất khẩu cho mình. Thêm vào đó Công ty được cử cán vộ quản lý hoạt động sản xuất của đơn vị liên doanh, từ đó tác động chất lượng hàng hoá , qui cách của hàng hoá phục vụ tốt hơn cho xuất khẩu.
Liên doanh , liên kết đã giúp Công ty tận dụng được khoa học kỹ thuật từ phía bạn, cái mà Vịêt Nam hiện nay đang cần và rất thiếu.Năm 2000 xí nghiệp TOCAN liên doanh với Canada đã xuất khẩu được một máy nghiền nhựa sang Canada và tận dụng cơ khí trong nước để sản xuất chế biến sợi theo thiết kế nước ngoài để đáp ứng nhu cầu sản xuất trong nước. Đây là hoạt động công ty nên duy trì và phát triển, không những góp phần nâng cao lợi nhuận cho Công ty mà còn tăng thu ngoại tệ, chuyển giao công nghệ thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Tóm lại: liên doanh, liên kết đem lại bạn hàng đã mặt nào ổn định, thực hiện phương châm “buôn có bạn, bán có phường” tránh cho Công ty phải chịu áp lực mạnh mẽ từ môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay.
4. Phấn đấu tiết kiệm chi phí
Để góp phần hạ thấp chi phí kinh doanh, thì việc quản lý chi phí phải được tiến hành kiểm tra thường xuyên hơn, giám đốc tình hình thực hiện kế hoạch chi phí kinh doanh, đặc biệt là đối với khoản mục chi phí chiếm tỷ trọng lớn . Các khoản chi phí phải có chứng từ hợp lệ mới được chấp nhận thanh toán. Công ty cần phải phấn đấu hạ thấp chi phí dịch vụ mua ngoài , tiền nước, tiền điện, điện thoại , fax, internet. Đồng thời Công ty cũng nên tổ chức tốt quá trình mua vào, bán ra và quản lý hàng hợp lý để giảm tối đa các khoản chi phí không đáng có. Thực hiện cơ chế khoán tại công ty chỉ mang tính chất nội bộ không phải của Nhà nước. Do vậy năm 2002 vừa qua các phòng chưa chủ động tiết kiệm chi phí giao nhận , vận chuyển, các chi phí khác trong việc thực hiện hợp đồng sang năm tiếp theo kế toán cần theo dõi sát sao hơn các chi phí này. Tránh tình trạng tham ô lãng phí để góp phần nâng cao lợi nhuận cho Công ty thì các khoản chi phí có giá trị lớn cần báo cáo giám đốc xét duyệt.
5. Hoàn thiện công tác quản lý tài chính của công ty
Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội có qui mô lớn, lại phân bố trên địa bàn rộng nên tổ chức công tác kế toán tài chính theo mô hình tập trung như hiện nay là chưa phù hợp. Hình thức tổ chức bộ máy kế toán tập trung này có ưu điểm là giúp ban lãnh đạo Công ty nắm được kịp thời tòan bộ thông tin về hoạt động của toàn Công ty. Sự chỉ đạo công tác tài chính kế toán được thống nhất , chặt chẽ, tổng hợp số liệu và thông tin kịp thời , tạo điều kiện trong phân công lao động , trong nâng cao trình độ, chuyên môn hoá lao động, trong trang bị ứng dụng phương tiện kỹ thuật... Tuy nhiên hình thức này lại có nhược điểm lớn nhất là tạo ra khoảng cách về không gian và thời gian giữa nơi xảy ra thông tin và nơi thu thập, xử lý và tổng hợp thông tin nên tác động ngược trở lại gây khó khăn cho công tác quản lý. Thông tin thường bị chậm so với thời điểm lập báo cáo tài chính do không có số liệu đầy đủ từ các chi nhánh chuyển lên.
Vì vậy, Công ty nên nghiên cứu để các chi nhánh và xí nghiệp TOCAN hạch toán độc lập. Bằng cách này một mặt sẽ giảm bớt khối lượng công việc quản lý trực tiếp cho các lãnh đạo cấp trên, mặt khác sẽ tránh được sự ỷ lại , phát huy được sự chủ động, năng động, tự hạch toán , tự chịu trách nhiện của các đơn vị.
Bên cạnh đó, các phòng kinh doanh còn chưa chú ý tới tính hợp pháp của chứng từ. Do đó phòng kế toán cần quản lý chặt chẽ hơn, có phương án hướng dẫn các phòng nghiệp vụ lập chứng từ sao cho hợp lệ và hợp lý, tổ chức ghi chép và lưu hồ sơ có khoa học hơn để tạo điều kiện thuận lợi cho kiểm toán nội bộ và công tác thanh tra kiểm tra của Nhà nước.
Là một công ty có qui mô lớn, việc quản lý tài chính gặp rất nhiều khó khăn. Để bộ máy quản lý tài chính hoạt động có hiệu quả. Công ty nên chú trọng hơn nữa tới công tác kiểm toán nội bộ cũng như thường xuyên quan tâm tới công tác kiểm toán nội bộ, công tác phân tích hoạt động kinh doanh để có được những thông tin chính xác kịp thời , phục vụ cho yêu cầu quản lý doanh nghiệp.
Trong khối kinh doanh vẫn còn bất hợp lý về thu nhập , nguyên nhân chủ yếu là do các phòng nghiệp vụ chưa nhận thấy yếu kém thực sự của mình, không lường trước hiệu quả kinh doanh cuối cùng mà vẫn tạm ứng lương cao.
Ngoài ra để ngăn chặn nguy cơ bị chiếm dụng vốn, phòng tài chính kế toán phải thường xuyên kiểm tra, kiểm soát các phương án kinh doanh đã được giám đốc duyệt, đối chiếu chứng từ giúp các đơn vị hoạch toán chính xác. Bên cạnh đó phải xây dựng quy chế, giám sát việc sử dụng vốn, bảo lãnh vay vốn ngân hàng và nắm chắc chu trình chu chuyển vốn. Công ty qui định, việc vay trả dứt khoát phải được thể hiện bằng khế ước, trong khế ước phải ghi rõ lãi suất trách nhiệm hoàn trả vốn của người vay. Kế ước là một văn bản quan trọng mang tính pháp lý không mang tính hình thức. Vì vậy khi đã ký vay vốn thì mọi trách nhiệm phải được thực hiện đúng khế ước đã ký. ( Công ty tính lãi suất 0,8%/tháng). Ngoài ra công ty còn có những qui định chặt chẽ hơn nữa để bảo toàn vốn vay và gắn trách nhiệm cho từng cá nhân cụ thể như:
Mỗi thương vụ kinh doanh theo phương thức nào là do phòng nghiệp vụ quyết định. Những phương án nào có công nợ dứt khoát phải có ý kiến của phòng tài chính kế toán ( trưởng phòng hoặc phó phòng) trước khi đưa lên giám đốc duyệt. Mức ký quỹ cho từng hợp đồng phải bằng qui định của Ngân hàng trong từng thời kỳ. Đặc biệt đối với hàng uỷ thác thì không được dưới mức qui định của Ngân hàng.
Phương án phải đúng với thực tế, tính toán đầy đủ mọi yếu tố và phương pháp tiến hành. Khi phương án đã được duyệt phòng nghiệp vụ có trách nhiệm thực thi đúng phương án đã xây dựng nếu việc không thực hiện đúng những qui định trong phương án và những đóng góp của phòng quản lý vào phương án, để xảy ra tổn thất thì cán bộ mặt hàng và trưởng phòng nghiệp vụ phải tự giải quyết và khắc phục hậu quả.
Những phương án đã ghi tự doanh, phòng nghiệp vụ phải thực sự quản lý hàng hóa, tự thuê kho. Thu tiền đến đâu giao hàng đến đấy, hợp đồng thuê kho phải ghi rõ trách nhiệm bảo quản hàng hoá của người thuê kho. Thủ tục xuất kho phải có chữ ký của bên xuất hàng. Phải xuất hoá đơn tài chính cho người nhận hàng.
Những thương vụ đã được ghi khoán gọn số lãi phải nộp có nghĩa là phòng nghiệp vụ được tự chủ xử lý đầu vào và đầu tư ra tự nộp thuế, tự vay vốn hoàn trả đúng khế ước và nộp lãi theo kế hoạch đã được duyệt.
Cán bộ kế toán theo dõi mặt hàng và trưởng phòng kế toán có trách nhiệm thu hồi vốn, lãi theo đúng khế ước qui định, báo cáo kịp thời và có biện pháp xử lý những trường hợp ứ đọng vốn, quá hạn. Nếu do quản lý lỏng lẻo, không nhắc nợ dẫn đến vốn bị chiếm dụng, vốn không thu hồi được hoặc không kiểm tra phát hiện kịp thời, báo cáo sai sự thật, để các đơn vị thực hiện sai chính sách chế độ quản lý tài chính của Nhà nước, qui định của Công ty làm thất thoát tiền vốn, thất thu khoản nộp, tính sai các khoản lương, chi phí, chi vượt phương án dẫn đến tổn thất hoặc thua lỗ thì trưởng phòng kế toán và những cán bộ có liên quan phải chịu trách nhiệm trước giám đốc và liên đới chịu trách nhiệm với phòng nghiệp vụ.
Những phương án được duyệt sau khi có cơ chế khoán nếu phương án, hợp đồng của phòng nào xảy ra nợ quá hạn, Công ty sẽ đình chỉ không tiếp tục cho phòng đó vay vốn để thực hiện kinh doanh những lô hàng sau cho đến khi giải quyết xong nợ quá hạn.
Hàng tự doanh hay uỷ thác thì cán bộ nghiệp vụ mặt hàng có trách nhiệm thu đủ tiền thuế của khách, thực hiện hợp đồng đúng đủ, kịp thời theo qui định của Nhà nước, nếu khoán trắng cho khách hàng tự nộp, xảy ra gian lận thuế, không nộp bị phạt nộp chậm thì cán bộ mặt hàng phải đền bù. Công ty không chi tiền cho các loại tiền phạt (phạt thuế, phạt lưu kho...) phòng tài chính kế toán có chức năng thường xuyên đối chiếu số tồn kho sổ sách và tồn kho thực tế.
Hàng tháng, các bộ phận kinh doanh được tạm ứng một khoản tiền chi phí cần thiết cho kinh doanh theo bản dự tính cho phí như công tác phí, phí giao dịch, chi phí văn phòng phẩm,... và các chi phí khác nếu cần. Cuối tháng, đem chứng từ về phòng kế toán để quyết toán tài chính của tháng trước. Công ty thu đủ lợi nhuận vốn, lãi vay vốn, chi phí quản lý, tạm ứng... Số còn lại đơn vị chỉ được thanh toán khi có chứng từ hợp lệ.
6.Hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế tài chính của nhà nước.
Mặc dù đã thực hiện luật thuế GTGT từ năm 1999 nhưng khó khăn vẫn còn nhiều, việc xin hoàn thuế vẫn yêu cầu nhiều thủ tục, mất nhiều thời gian, nên mặc dù nhiều tháng âm thuế Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội vẫn không xin hoàn thuế được , gây khó khăn về vốn. Nhà nước cần đề ra biện pháp quản lý hữu hiệu vừa rút ngắn được thời gian xin hoàn thuế vừa hạn chế tình trạng gian lận bảo vệ những doanh nghiệp làm ăn chân chính.
Nhà nước ta đang áp dụng luật thuế GTGT đối với hang nhập khẩu nghĩa là đánh thuế vào giá trị tăng thêm ở nước ngoài của sản phẩm hàng hoá vì vậy đã vi phạm bản chất của loại thuế này là thuế gián thu, đánh vào giá trị tăng thêm của sản phẩm hàng hoá từ khâu sản xuất tới khâu tiêu dùng ở nước ta. Cùng một mặt hàng nhập khẩu nhưng khi áp mã thuế lại có nhiều mức khác nhau. Đây cũng là một vấn đề Nhà nước cần nghiên cứu , quan tâm.
Để bảo hộ và khuyến khích các ngành sản xuất trong nước phát triển , nhà nước ta áp dụng mức thuế suất tương đối cao cho những mặt hàng nhập khẩu . Tuy nhiên để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá thích hợp dần quá trình hội nhập. Nhà nước cần đưa ra mức thuế suất hợp lý hơn nữa.
Với mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng 32% như hiện nay là quá cao. Công ty TOCONTAP có tỷ suất lợi nhuận bình quân không cao. Nên sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, còn rất ít lợi nhuận để bổ sung các quĩ, không có điều kiện để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước cần điều chỉnh chính sách kịp thời để phù hợp với tình hình thực tế, khuyến khích các doanh nghiệp phấn đấu nâng cao lợi nhuận trong vài năm trở lại đây, ngành hải quan đã tích cực cải cách thủ tục hành chính tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người kinh doanh.Tuy nhiên khâu làm thủ tục hải quan vẫn còn nhiều gây không ít khó khăn và làm ảnh hưởng tới tiến độ thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Kết luận
Lợi nhuận được coi là một trong những đòn bẩy kinh tế có hiệu lực nhất kích thích mạnh mẽ các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường luôn quan tâm đến lợi nhuận. Nó là nguồn tài chính quan trọng để thực hiện tái sản xuất, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao đời sống của người lao động trong doanh nghiệp.
Trên đây là tình hình thực hiện kế hoạch lợi nhuận đã và đang được áp dụng tại công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội- TOCONTAP. Các biện pháp phấn đấu để tăng lợi nhuận của công ty bước đầu đã đem lại kết quả đáng khích lệ.
Bên cạnh những thuận lợi và thành tích đạt được, công ty vẫn còn gặp phải không ít những khó khăn tồn tại trong vấn đề tăng lợi nhuận đòi hỏi công ty phải không ngừng nỗ lực cố gắng phấn đấu hơn nữa để đạt hiệu qủa trong hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao lợi nhuận của mình. Làm thế nào tăng được lợi nhuận là vấn đề “nóng bỏng” mà hiện nay được hầu hết các doanh nghiệp quan tâm nên trong qúa trình thực tập em đã mạnh dạn nghiên cứu và đưa ra một số ý kiến đề xuất nhỏ bé để công ty xem xét vận dụng, nhằm nâng cao lợi nhuận cho công ty trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay.
Do trình độ và thời gian có hạn, những vấn đề trình bày trong bài viết này chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót hạn chế. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và ban lãnh đạo của công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội - TOCONTAP để giúp em hoàn thành luận văn được tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên: Đặng Thu Trang
K35-E1- TMQT
Lời nói đầu 1
Hà Nội, tháng 5 năm 2003 2
K35-E1-TMQT 2
Chương I: Những lý luận chung về lợi nhuận. 3
I/Lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 3
1.Doanh nghiệp. 3
1.1Khái niệm : 3
1.2Đặc trưng của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường . 4
2/Lợi nhuận của doanh nghiệp 4
2.1Khái niệm: 4
2.2Kết cấu lợi nhuận . 8
2.2.1Lợi nhuận từ hoạt động SXKD : 9
*Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh chính 9
*Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh phụ 9
2.2.2Lợi nhuận hoạt động tài chính 13
2.2.3Lợi nhuận hoạt động bất thường 13
2.3Tỷ suất lợi nhuận .(TSLN) 15
2.3.1Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu 15
2.3.2Tỷ suất lợi nhuận trên vốn (doanh lợi vốn) 16
2.3.3Tỷ suất lợi nhuận chi phí 17
2.4Vai trò của lợi nhuận 17
*Vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp 17
*Đối với Nhà nước 20
II. Những biện pháp nâng cao lợi nhuận trong doanh nghiệp . 22
1/ý nghĩa của việc nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp 22
2.Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp 23
2.1Các nhân tố khách quan: 24
2.2Các nhân tố chủ quan 26
2.3 Những nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp . 28
+Cơ cấu hàng hoá kinh doanh xuất nhập khẩu 29
3.Các biện pháp nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp 31
Tổng lợi nhuận = Tổng thu nhập - Tổng chi phí 31
3.1Các biện pháp làm tăng doanh thu của doanh nghiệp 31
3.2Các biện pháp hạ thấp của doanh nghiệp 34
Chương II:Tình hình thực hiện lợi nhuận ở công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm TOCONTAP 37
I/Những điểm khái quát về công ty 37
1/Lịch sử và quá trình hình thành,phát triển cuả TOCOTAP: 37
2.Cơ cấu tổ chức bộ máy,chức năng và nhiệm vụ hiện tại của công ty: 38
2.1/Chức năng và nhiệm vụ của công ty: 38
2.2/Tổ chức bộ máy quản lý của công ty: 42
Mô hình cơ cấu tổ chức của công ty: 42
Tổ chức phân phối lợi nhuận và tích luỹ lợi nhuận. 44
Lập báo cáo kế toán tài chính đúng hạn. 44
II/Tình hình kinh doanh ở công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm TOCONTAP 45
1.Thực trạng về môi trường kinh doanh của công ty 45
1.1Môi trường kinh doanh quốc tế 45
1.2Môi trường kinh doanh trong nước 45
1.3Môi trường kinh doanh của công ty 46
2. Tình hình xuất nhập khẩu của công ty năm 2001 và 2002 49
2.1 Tình hình nhập khẩu của công ty năm 2001 và 2002 : 49
Bảng 1: Tình hình nhập khẩu của Công ty TOCONTAP năm 2001-2002 49
Bảng 2: Tình hình nhập khẩu của Công ty TOCONTAP năm 2001-2002 50
Bảng 3: Tình hình nhập khẩu của Công ty TOCONTAP năm 2001-2002 51
2.2 Tình hình xuất khẩu của công ty năm 2001 và 2002: 54
Bảng 4: Tình hình xuất khẩu của Công ty TOCONTAP năm 2001-2002 54
Bảng 5: Tình hình xuất khẩu của Công ty TOCONTAP năm 2001-2002 55
Bảng 6: Tình hình xuất khẩu của Công ty TOCONTAP năm 2001-2002 56
III.Tình hình thực hiện lợi nhuận của công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội (TOCONTAP) trong hai năm gần đây ( 2001-2002) 57
Bảng 7:Kim ngạch thực hiện của các phòng: 60
5.Tỷ suất lợi nhuận của công ty 65
Bảng 10:TSLN của công ty XNK tạp phẩm TOCONTAP (2001-2002) 66
Bảng11: Hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty năm 2002 67
6.Đánh giá chung về kết quả hoạt động sản xuất kinhdoanh và tình hình thực hiện lợi nhuận đạt được của công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm TOCONTAP 68
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận ở công ty TOCONTAP 72
I/Kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm tới 72
II/Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình kinh doanh của công ty 73
1/Những thuận lợi 73
2.Những khó khăn 74
II. Một số kiến nghị nhằm nâng cao lợi nhuận của công ty XNK tạp phẩm Hà Nội. 76
1Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh 76
1.1Nâng cao hiệu quả sử dụng của tài sản cố định. 77
1.2Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. 78
2. Đẩy mạnh công tác marketing 79
3.Phát triển mở rộng liên doanh, liên kết. 80
4. Phấn đấu tiết kiệm chi phí 81
5. Hoàn thiện công tác quản lý tài chính của công ty 82
6.Hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế tài chính của nhà nước. 84
Kết luận 86
Em xin chân thành cảm ơn! 86
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0090.doc