Trong thời gian thực tập tại Công ty Giầy Thuỵ Khuê, được tiếp xúc với thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh, qua tìm hiểu nghiên cứu về tình hình thực hiện lợi nhuận của công ty trong năm qua, nhận thấy tình hình hoạt động kinh doanh của công ty là ổn định và khá tốt, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số vấn đề cần nhanh chóng tháo gỡ để đưa công ty hoạt động tốt hơn, qua đó, em đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp chủ yếu với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận của công ty trong thời gian tới.
84 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1327 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Lợi nhuận và các phương hướng, biện pháp chủ yếu nâng cao lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm ở Công ty Giầy Thuỵ Khuê, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phí lại càng trở nên quan trọng hơn. Chi phí sản xuất kinh doanh có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận thu được của doanh nghiệp, trong những điều kiện các yếu tố khác không đổi, chi phí này tăng lên sẽ làm lợi nhuận giảm đi và ngược lại. Do vậy, quản lý chi phí và giá thành luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm của tất cả các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Giảm được chi phí, hạ giá thành sản phẩm đồng nghĩa với phấn đấu giảm chi phí cá biệt của doanh nghiệp và tăng lợi nhuận.
Theo kết quả ở biểu 03, giá thành toàn bộ năm 2001 là 55.686.471 nghìn đồng, tăng lên so với năm 2000 là xấp xỉ 4.319.000 nghìn đồng, với tỷ lệ tương ứng là 8,41%. Trong đó, giá vốn hàng bán là xấp xỉ 47.600.000 nghìn đồng, tăng lên 3.818.460 nghìn đồng, với tỷ lệ tương ứng là 8,72% so với năm 2000. Việc sản xuất tăng lên dẫn đến tăng tổng giá thành là điều dễ hiểu. Do vậy, để có kết luận chính xác hơn về điều này, chúng ta sẽ xem xét giá thành toàn bộ tính cho 1 triệu đồng doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
Qua số liệu ở biểu 07 cho thấy, chi phí nguyên vật liệu tính cho một triệu đồng doanh thu là 0,4753 nghìn đồng, giảm đi 0,0162 nghìn đồng so với năm 2000, tương ứng với tỷ lệ là 2%. Đây là một dấu hiệu đáng mừng, cho thấy việc quản lý nguyên vật liệu của công ty ngày càng có hiệu quả hơn.
Nguyên vật liệu phục vụ cho qúa trình sản xuất bao gồm các loại vải bạt, vải phin, xo màn, đế kép, mút xốp và các loại hoá chất như cacbonat, kẽm, bột màu, paraphin, các chất xúc tác...Đối với khâu thu mua nguyên vật liệu, công ty có nhiều thuận lợi, các đơn vị cung cấp nguyên vật liệu chính cho công ty thường là Công ty dệt 19-5, Công ty cao su Sài Gòn, Đế Minh Đức...Việc cung cấp luôn đảm bảo kịp thời và dự trữ hợp lý với giá cả hầu như không có sự biến động gì lớn. Do vậy, đối với phần nguyên vật liệu chính, công ty có sự quản lý khá chặt chẽ. Nguyên vật liệu tồn kho tính đến thời điểm 31/12/2001 là 5.230.470 nghìn đồng, giảm so với đầu năm khoảng 14%, công ty vẫn đảm bảo đủ nguyên liệu phục vụ sản xuất trong quý I năm sau. Do sản xuất trên dây chuyền hiện đại, đồng bộ nên đảm bảo tiết kiệm và hiệu quả nguyên vật liệu, hạn chế tối đa tình trạng trạng lãng phí vật tư. Hơn nữa, do quản lý tốt tình hình sản xuất ở các phân xưởng, xí nghiệp cộng với ý thức trách nhiệm cao của công nhân sản xuất đã giảm được tình trạng phế liệu, phế thải phải tái chế. Có thể kết luận, đối với khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, công ty quản lý rất tốt, cần được duy trì và phát huy trong những kỳ kinh doanh tiếp theo.
Đối với khoản mục chi phí nhân công trực tiếp năm 2001 là 0,2131 nghìn đồng, tăng lên là 0,0083 nghìn đồng với tỷ lệ tương ứng là 1%.
Trong kỳ, do các đơn đặt hàng tăng lên, để đảm bảo giữ đúng tiến độ sản xuất, công ty đã tuyển thêm 275 lao động mới, kèm theo đó là chế độ tiền lương và trợ cấp lao động. Do đặc thù của công ty là có số lượng lao động nữ chiếm lớn, nên trong năm, công ty phải giải quyết nhiều trường hợp nghỉ theo chế độ như thai sản, con ốm... Điều này cũng có ảnh hưởng đến số ngày làm việc và tình hình sản xuất của công ty. Bên cạnh đó, công ty cũng quan tâm, từng bước cải thiện đời sống cho công nhân bằng cách nâng cao thu nhập cho người lao động. Do vậy, trong kỳ, chi phí về nhân công có sự tăng nhẹ. Xét trên khía cạnh xã hội, đây cũng là điều đáng khích lệ đối với công ty.
Đối với khoản mục chi phí sản xuất chung có tăng đôi chút, đạt 0,1311 nghìn đồng, tăng 0,0083 nghìn đồng, với tỷ lệ là 1%. Chi phí sản xuất chung tăng lên chủ yếu do việc khấu hao máy móc thiết bị, đặc biệt đối với tài sản thuê tài chính. Trong kỳ, công ty có tiến hành mua sắm máy móc, đầu tư chiều sâu cho nồi hấp giầy, nồi hơi đốt điện...Việc đổi mới này tuy làm tăng chi phí nhưng về lâu dài hiệu qủa hoạt động của công ty được nâng cao.
Như vậy, do có sự tăng nhẹ ở một số khoản mục đã làm cho giá thành của công ty tăng lên, đạt con số 0,8195 nghìn đồng, tăng thêm 0,0004 nghìn đồng với tỷ lệ là 0,247%. Do vậy, có ảnh hưởng đến lợi nhuận thực hiện trong kỳ theo chiều hướng không tốt.
Năm 2001, tổng giá thành sản xuất của công ty xấp xỉ 47.590.000 nghìn đồng, chiếm tỷ trọng 81,94% trong doanh thu tiêu thụ, so với năm trước đạt tỷ trọng 81,92%. Như vậy có thể thấy, tổng giá thành sản xuất có sự tăng nhẹ 0,02%. Con số này không lớn lắm, tuy nhiên cũng có sự ảnh hưởng đến lợi nhuận, vì khi giá thành tăng lên thì lợi nhuận sẽ giảm đi. Công ty cần quản lý giá thành tốt hơn nữa. Bản chất của quản lý giá thành là quản lý chi phí, tức là quản lý giới hạn của chi phí cho phép sản xuất ra một sản phẩm. Điều này có nghĩa là công ty cần xây dựng và thực hiện tốt hơn nữa việc sản xuất theo định mức chi phí đề ra.
Chi phí bán hàng: Năm 2001, chi phí này là 2.247.488 nghìn đồng, tăng thêm 190.750 nghìn đồng, với tỷ lệ tương ứng là 9,27%. Xét trên 1 triệu đồng doanh thu, khoản chi phí này có sự tăng lên không đáng kể, đạt 0,0387 nghìn đồng, tăng 0,0002 nghìn đồng, với tỷ lệ tương ứng là 0,032%. Trong khoản mục chi phí bán hàng thì chi phí cho việc trả lương cho nhân viên bán hàng, chi phí quảng cáo thường chiếm tỷ trọng lớn. Nhưng đối với Công ty Giầy Thuỵ Khuê, vì sản phẩm được phía nước ngoài bao tiêu, thì việc gia tăng chi phí bán hàng là điều không cần thiết, (trong điều kiện hiện tại). Về lâu dài, khi thực hiện chào hàng trực tiếp, khoản mục này cần được lập kế hoạch cụ thể, chi tiết và phân bổ hợp lý những khoản chi lớn để tránh biến động giá thành.
Đối với khoản mục chi phí quản lý doanh nghiệp: Về số tuyệt đối, năm 2001, khoản chi phí này là 5.840.073 nghìn đồng, tăng thêm 309.622 nghìn đồng, với tỷ lệ tương ứng là 5,6%. Xét trên 1 triệu đồng doanh thu, khoản chi phí này có sự giảm nhẹ, đạt 0,1006 nghìn đồng, giảm 0,0029 nghìn đồng, với tỷ lệ 0,279%. Điều này cho thấy bộ máy quản lý của công ty là rất tốt, công tác quản lý chi phí và giá thành của công ty là hợp lý.
Như vậy, giá thành toàn bộ giảm đi 0,0023 nghìn đồng, có tác động tích cực đến lợi nhuận thực hiện của doanh nghiệp. Có thể thấy, tình hình giá thành sản phẩm không có nhiều biến động lớn, việc quản lý chi phí của công ty là khá tốt. Đây là điểm tốt của công ty cần được duy trì và phát huy hơn nữa trong thời gian tới.
Tiếp theo chúng ta sẽ xem xét nhiệm vụ hạ giá thành của công ty trong năm qua.
Phần tiếp theo, ta sẽ xem xét đến việc quản lý và sử dụng vốn của công ty trong năm qua.
2.2.2.3/Tình hình quản lý và sử dụng vốn của Công ty Giầy Thuỵ Khuê năm 2001.
Vốn sản xuất của công ty được chia làm hai loại: Vốn lưu động và vốn cố định. Trước tiên, chúng ta sẽ xem xét tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động của công ty.
Hiệu quả sử dụng vốm lưu động.
Biểu 08 cho thấy, vòng quay vốn lưu động năm 2001 là 1,31 vòng/năm, tương ứng với số ngày chu chuyển là 274,8 ngày, tăng 0,05 vòng/năm, rút ngắn 10,9 ngày so với năm 2000 ( năm 2000 là 1,26 vòng/năm, với kỳ chu chuyển là 285,7 ngày).
Số dư bình quân các khoản phải thu là trên 19.000.000 nghìn đồng, tăng 1.387.716 nghìn đồng, với tốc độ tăng tương ứng là 7,88%. Đây là số vốn mà công ty bị các đơn vị khác chiếm dụng một cách hợp pháp. Vốn này còn nằm lại ở các đơn vị khách hàng một phần là do công ty thực hiện theo hợp đồng, giá trị hợp đồng được thanh toán vào một thời điểm đã thoả thuận trước, thường là một thời gian sau khi giao hàng. Nếu so sánh thời điểm đầu năm 2001 với cuối năm, ta thấy các khoản phải thu giảm trên 1.800.000 nghìn đồng (trong đó chủ yếu là phải thu khách hàng) thì rõ ràng công tác quản lý các khoản phải thu của công ty là khá tốt, quy mô vốn bị chiếm dụng được thu hẹp.
Ngược lại, nguồn vốn chiếm dụng của công ty là khá lớn. Tính đến 31/12/2001, số phải trả người bán là trên 26.000.000 nghìn đồng, phải trả công nhân viên xấp xỉ 1.700.000 nghìn đồng, phải trả khác xấp xỉ 21.000.000 nghìn đồng. Việc sử dụng những nguồn này đem lại cho công ty lợi ích là không phải trả chi phí sử dụng vốn. Tuy nhiên, bù vào đó, khả năng rủi ro kinh doanh lại cao, hệ số thanh toán nợ ngắn hạn của công ty tại thời điểm 1/1/2001 là 0,63% và cuối năm 31/12/2001 là 0,64%, nhìn chung là khả năng thanh toán yếu. Hơn nữa, việc công ty thanh toán đúng hạn các khoản nợ trên sẽ đảm bảo uy tín cho công ty, trả lương đúng kỳ cho cán bộ công nhân viên sẽ giúp cho họ trang trải cuộc sống và tái sản xuất sức lao động, từ đó khuyến khích thúc đẩy sản xuất.
Giá trị hàng tồn kho bình quân năm 2001 là 23.915.359 nghìn đồng, tăng trên 2.000.000 nghìn đồng, tương ứng với tỷ lệ là 9,45%, trong đó, chiếm đại bộ phận là thành phẩm (63,53%), nguyên vật liệu chiếm 20,46%.
Doanh thu bình quân ngày của công ty là 161.083 nghìn đồng, tăng 12.874 nghìn đồng so với năm 2000, tương ứng với tỷ lệ là xấp xỉ 8,7%. Thời hạn thu hồi nợ bình quân là xấp xỉ 118 ngày, giảm 0,86 ngày so với năm 2000, cho thấy công tác thu hồi nợ là khá tốt. Có thể nói, việc doanh thu tiêu thụ bình quân ngày tăng lên vừa do ảnh hưởng của doanh thu tiêu thụ tăng lên, đồng thời cũng là kết quả của những nỗ lực trong công tác thu hồi nợ.
Nhìn chung, việc quản lý vốn lưu động của công ty là hiệu quả hơn so với năm trước, điều đó góp phần làm gia tăng lợi nhuận thực hiện trong kỳ.
Hiệu quả sử dụng vốn cố định.
Vốn cố định bình quân của công ty năm 2001 là 42.410.497 nghìn đồng, tăng thêm 1.713.425 nghìn đồng, với tỷ lệ tương ứng là 4,21%, điều này cho thấy quy mô vốn của doanh nghiệp đã tăng lên.
So với năm trước, hiệu suất sử dụng vốn cố định đã tăng lên 4,3%, đạt 1,37. Điều này có nghĩa là 1 đồng vốn cố định tham gia vào sản xuất tạo ra xấp xỉ 0,014 đồng doanh thu thuần, nhiều hơn năm trước là 0,0006 đồng. Có thể nói, công ty sử dụng vốn cố định ngày càng hiệu quả hơn. Điều này càng được sáng tỏ hơn khi doanh lợi vốn cố định của công ty năm 2001 là 1,74%, tăng 0,18% so với năm trước.
Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định, phần dưới đây, chúng ta sẽ xem xét tình hình tăng giảm tài sản cố định tại công ty.
Trong năm 2001, công ty đã tiến hành mua sắm và đổi mới máy móc thiết bị, đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật như: tiếp tục hoàn thiện dự án P (xây dựng phòng thí nghiệm cơ lý hoá), nghiên cứu chế thử cao su đế nhẹ có chất lượng cao cho các loại giầy vải, cải tiến móc treo giầy lò hấp, nghiên cứu cải tiến bộ giá đính kim tuyến trên cao su sống, cải tiến công nghệ ép cao su hai màu trên logo. Ngoài ra còn tiến hành trang bị bộ máy vi tính thiết kế mẫu mới để tìm hiểu nắm bắt thị hiếu người tiêu dùng, từ đó có thể cho ra các mãu mới. Bên cạnh đó, công ty còn tiến hành đầu tư chiều sâu cho nồi hấp giầy, nồi hơi đốt điện, máy gập uốn và hàng trăm máy may nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Biểu 09 cho thấy rõ tình hình tăng giảm tài sản cố định tại công ty.
Như vậy, tình hình quản lý và sử dụng vốn cố định của công ty luôn được nâng cao, công ty dã sử dụng ngày càng có hiệu quả hơn các tài sản của mình, không chỉ ở vốn lưu động mà con đối với cả vốn cố định, tài sản cố định, điều này giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty có những chuyển biến tích cực.
Về cơ bản, tình hình quản lý hai loại vốn trên ở công ty là tốt, điều đó góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở công ty. Cụ thể, hiệu quả sử dụng vốn được phản ánh khái quát trong biểu 10.
Do luận văn chỉ giới hạn trong phạm vi lợi nhuận và tình hình thực hiện lợi nhuận tiêu thụ sản phẩm nên các chỉ tiêu trong biểu 10 chỉ tính đến lợi nhuận ròng từ hoạt động sản xuất kinh doanh, mà không xét đến ảnh hưởng từ các hoạt động tài chính và hoạt động bất thường.
Trong năm 2001, vốn sản xuất kinh doanh bình quân của công ty là 86.734.771 nghìn đồng, tăng thêm 3.679.521 nghìn đồng so với năm 2000, với tỷ lệ tương ứng là 4,43%. Trong đó, vốn lưu động tăng nhanh hơn chút so với vốn cố định. Cụ thể, vốn lưu động bình quân là 44.324.274 nghìn đồng, tăng thêm 1.966.097 nghìn đồng, với tỷ lệ tương ứng là 4,64%, vốn cố định bình quân là 42.410.497 nghìn đồng, tăng thêm là 1.713425 nghìn đồng với tỷ lệ là 4,21%. Sở dĩ có điều này là do, trong những năm gần đây, công ty đã tập trung đổi mới máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, nay đã đi vào thế ổn định, hiện công ty tập trung cho đầu tư vào tài sản lưu động.
Các chỉ tiêu doanh lợi nhìn chung đều tăng lên, doanh lợi vốn sản xuất kinh doanh tăng 0,08%, đạt 0,85%, trong đó doanh lợi vốn lưu động đạt 1,66%, tăng 0,16%, doanh lợi vốn cố định đạt 1,74%, tăng lên 0,18% so với năm 2000.
Để đo lường hiệu quả hoạt động của công ty, không thể không nói đến doanh lợi vốn chủ sở hữu. Đây là một chỉ tiêu khá quan trọng, phản ánh khả năng sinh lời của đồng vốn chủ sở hữu. Chỉ tiêu này chịu tác động của nhiều nhân tố: doanh lợi doanh thu; vòng quay tổng vốn và hệ số nợ được tổng kết qua phương trình du-pont.
Một trong các nhân tố tác động đến doanh lợi vốn chủ sở hữu là hệ số nợ. Trong cơ cấu nguồn vốn của công ty, nợ phải trả chiếm xấp xỉ 88%. Về mặt lý thuyết, việc tận dụng nguồn vốn này sẽ đem lại cho doanh nghiệp nhiều cái lợi: thứ nhất chi phí sử dụng vốn vay là thấp nhất trong các loại hình tài trợ vốn, thứ hai, hệ số nợ có tác dụng khuyếch đại doanh lợi vốn chủ sở hữu, trong điều kiện doanh nghiệp có khả năng tạo ra tỷ suất lợi trước thuế và lãi vay lớn hơn lãi vay phải trả (chi phí sử dụng vốn).
Khảo sát tác động của hệ số nợ đến doanh lợi vốn chủ sở hữu, ta xem xét phương trình dupont:
P’c=doanh lợi doanh thu X vòng quay tổng vốn X 1/(1-Hv).
P’c=0,0127 X 0,66 X 1/(1-0,879)
P’c= 7,02%%
Vòng quay tổng vốn của công ty nhìn chung là thấp, chưa đạt 1 vòng/năm, nhưng nhờ hệ số nợ khuyếch đại doanh lợi vốn chủ sở hữu, nên chỉ tiêu này vẫn đạt khá cao là 7,02%
Để thấy rõ điều này, ta có thể đặt giả thiết Hv của công ty là 0,7 (70%). Khi đó, P’c=2,8%. Như vậy, khi Hv giảm đi 20,36% thì doanh lợi vốn chủ sở hữu giảm đi 60,11%, dễ dàng nhận thấy tốc độ giảm của doanh lợi vốn chủ sở hữu lớn hơn rất nhiều so với tốc độ giảm của hệ số nợ. Rõ ràng, ảnh hưởng của hv đến doanh lợi vốn chủ sở hữu là rất lớn, và Công ty Giầy Thuỵ Khuê đã tận dụng được điều đó. Đây quả là một điều đáng khích lệ đối với công ty.
2.2.3/Một số biện pháp chủ yếu nhằm phấn đấu tăng lợi nhuận mà Công ty Giầy Thuỵ Khuê đã áp dụng trong năm 2001.
Với bề dày kinh nghiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, thực hiện kế hoạch đặt ra đối với các mục tiêu đã định, trong năm 2001, nhằm thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh, gia tăng lợi nhuận, công ty đã nỗ lực thực hiện một số biện pháp sau:
Một là: Tích cực tìm kiếm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Trong năm 2001, doanh thu của công ty đã tăng 8,67% so với năm trước. Đây là một cố gắng lớn của công ty trong việc duy trì các mối quan hệ làm ăn với các bạn hàng cũ trên 20 quốc gia trên thế giới, đồng thời tiếp tục tìm kiếm mở rộng thị trường hơn nữa, doanh thu xuất khẩu của công ty tăng 13,36% so với năm trước. Không chỉ mở rộng thị trường xuất khẩu, mà thị trường trong nước cũng được quan tâm đáng kể. Để có được những thành tích đó, công ty đã xúc tiến các hoạt động nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bán hàng, tham gia hàng loạt các cuộc triển lãm trên khắp đất nước, điều này góp phần đưa sản phẩm của công ty đi xa hơn, trải rộng hơn.
Hai là: Thực hiện các chính sách nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá chủng loại mẫu mã sản phẩm.
Công ty đã thực hiện đúng các chính sách đề ra là Công ty Giầy Thuỵ Khuê cam kết cung cấp nhiều sản phẩm có chất lượng cao, thoả mãn yêu cầu của khách hàng. Việc đầu tư máy móc thiết bị làm tiền đề cho kế hoạch nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty. Trong năm 2001, bên cạnh những sản phẩm truyền thống, công ty đã nghiên cứu, cho ra đời nhiều loại giầy mẫu mã mới, kiểu dáng đẹp, phù hợp với thị hiếu mới. Mặt khác, công ty cũng chú trọng xây dựng mối quan hệ với các đơn vị cung cấp nguyên vật liệu cho công ty nhằm đảm bảo số lượng cũng như chất lượng cho công ty trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Ba là: Nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động nhằm tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
Trong năm qua, cùng với việc tuyển dụng thêm 275 lao động mới, công ty còn mở các lớp đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, luyện tay nghề, thi nâng bậc cho 657 công nhân lao động, thi sáng kiến, cải tiến kỹ thuật ứng dụng cho sản xuất và quản lý. Mặt khác, công ty cũng tiến hành bố trí lại lực lượng lao động, tạo sự hài hoà, hợp lý trong từng công đoạn sản xuất.
Không những thế, công ty còn cử, động viên khuyến khích 19 đồng chí đi học tại các trường Cao đẳng, Đại học. Cũng trong năm qua, công ty đã giới thiệu 45 công đoàn viên ưu tú đi dự lớp đối tượng Đảng. Đảng uỷ công ty đã trình lên Quận uỷ Tây Hồ xem xét và kết nạp cho 10 đồng chí có đủ tiêu chuẩn được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Đồng thời, đề bạt 02 cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức vào cương vị lãnh đạo ở các bộ phận chủ chốt.
2.2.4/Một số vấn đề còn tồn tại trong hoạt động sản xuất kinh doanh cần tiếp tục giải quyết để phấn đấu tăng lợi nhuận của Công ty Giầy Thuỵ Khuê.
Như đã trình bày ở trên, trong năm 2001, Công ty Giầy Thuỵ Khuê đã có những thành tích đáng khích lệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn tồn tạt một số vấn đề cần tiếp tục giải quyết để đưa công ty hoạt động hiệu quả hơn nữa. Những tồn tại cơ bản là:
Công ty chưa chú trọng khai thác thị trường nội địa. Trong năm qua, tuy sản lượng và doanh số bán đã có những tín hiệu khả quan, nhưng những gì đạt được vẫn còn ở mức khá khiêm tốn so với năng lực và tiềm năng của công ty. Đặc biệt khi hiện nay, sản phẩm của công ty liên tục đạt danh hiệu “Hàng Việt Nam chất lượng cao”, sản phẩm được người tiêu dùng yêu thích, nhưng thị phần trong nước lại quá thấp, điều này đã để sản phẩm của các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái lan... tràn ngập thị trường. Nếu so sánh về chất lượng thì sản phẩm của Công ty không kém, thậm chí về giá lại rẻ hơn rất nhiều, nhưng sản phẩm vẫn chưa có chỗ đứng xứng đáng trên thị trường nội địa. Một lý do nữa là do kiểu dáng và mẫu mã sản phẩm chưa thực sự phù hợp với thị hiếu khách hàng, đặc biệt đối với sản phẩm giầy da cao cấp. Trong những năm tới đây, khi gia nhập AFTA, việc chiếm thị phần trong nước lại càng trở nên khó khăn hơn. Do đó, công ty cần có kế hoạch phù hợp và kịp thời để chiếm giữ khách hàng nội địa, không để thua trên “sân nhà”.
Việc sử dụng vốn kinh doanh tuy có hiệu quả hơn so với năm trước, nhưng vẫn còn thấp. Vòng quay vốn kinh doanh chỉ đạt 0,67 vòng/năm, chưa đạt một vòng trên năm. Điều này cho thấy tuy rằng việc kinh doanh của công ty luôn có lãi, song công ty cần phải có các biện pháp kịp thời và đồng bộ để nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn. Bên cạnh đó, trong những năm tới đây, cần tiến hành đổi mới, đầu tư máy móc thiết bị hiện đại để nâng cao năng lực cạnh tranh. Đặc biệt đối với loại sản phẩm giày da cao cấp, để có thể tăng nhanh thị phần trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu, thì cần phải có những dây chuyền sản xuất hiện đại, đồng bộ. Điều này đòi hỏi công ty cần nỗ lực hơn nữa trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Chưa có sự chuyển biến mạnh trong việc chuyển đổi phương thức gia công sang phương thức mua bán trực tiếp. Đây không chỉ là chiến lược của riêng công ty mà là chiến lược chung của toàn ngành giầy da, tuy nhiên, cho đến nay, nó vẫn chưa có hiệu quả nhiều. Song song với việc gia công, sản phẩm của công ty luôn bị ép giá, hơn nữa có nhiều hợp đồng lại xuất khẩu thông qua nước thứ ba, điều này làm giảm hiệu quả xuất khẩu rất nhiều. Việc chuyển sang phương thức mua bán trực tiếp mới chỉ ở những bước đi ban đầu, do đó đòi hỏi công ty phải xây dựng một chiến lược phù hợp cho “bước nhảy” quan trọng này.
Trên đây là một số vấn đề tồn tại cơ bản đang đặt ra cho công ty hướng giải quyết, đồng thời đó cũng là cơ sở cho việc đề ra các biện pháp để nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng lợi nhuận ở Công ty Giầy Thuỵ Khuê sẽ được trình bày ở chương III.
Chương III
Một số ý kiến đề xuất về phương hướng biện pháp tăng lợi nhuận ở Công ty Giầy Thuỵ Khuê.
3.1/ Định hướng phát triển của công ty trong thời gian tới.
Đối với ngành giầy da nói chung, và Công ty Giầy Thuỵ Khuê nói riêng, thách thức không còn xa nữa trong tiến trình hội nhập AFTA từ nay đến 2006, sản phẩm giày da sẽ đưa vào danh mục giảm thuế, hơn nữa, việc xuất khẩu sẽ đối mặt với nhiều khó khăn về tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn môi trường và thay đổi thị hiếu. Không chỉ vậy, việc Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết đem lại không chỉ riêng công ty những cơ hội và thách thức mới trong việc thâm nhập vào thị trường “khó tính” này.
Với kinh nghiệm bề dày nhiều năm hoạt động, cộng thêm sự quyết tâm của Ban lãnh đạo công ty, đoàn thể công nhân viên, Công ty Giầy Thuỵ Khuê đặt quyết tâm vượt qua mọi thách thức để đưa công ty làm ăn có hiệu quả và ngày càng phát triển.
Cụ thể trong thời gian tới, công ty sẽ thực hiện đẩy mạnh công tác khoa học kỹ thuật, không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm để mở rộng thị phần trong nước và nước ngoài. Trong năm tới, phòng kỹ thuật, phòng kế hoạch – xuất nhập khẩu, phòng kinh doanh cần phối hợp chặt chẽ với 2 xí nghiệp gia công để nắm bắt quy trình công nghệ sản xuất các loại giày dép của nước bạn, từ đó, bộ phận tạo mẫu của công ty sẽ tiến hành sản xuất thử nghiệm, tiến tới sản xuất đại trà khi sản phẩm đã được khách hàng chấp nhận.
Thực hiện chuyển mạnh phương thức sản xuất gia công sang phương thức mua bán trực tiếp.
Đảm bảo tăng năng suất lao động, tăng chất lượng sản phẩm và mức tăng trưởng là 15% trở nên.
Để có thể thực hiện được những kế hoạch nêu trên, công ty cần phải xây dựng các chiến lược kinh doanh, đề ra các biện pháp cụ thể và thực thi một cách hiệu quả.
3.2/Một số biện pháp chủ yếu nhằm phấn đấu tăng lợi nhuận ở Công ty Giầy Thuỵ Khuê.
Trên con đường phát triển kinh doanh, Công ty cần nắm bắt xu thế thời đại, và nhanh chóng chuyển đổi phương thức sản xuất. Qua thời gian tìm hiểu thực tế và phân tích tình hình thực hiện lợi nhuận tại công ty, em xin mạnh dạn đề ra một số phương hướng và biện pháp nhằm phấn đấu tăng lợi nhuận ở công ty trong phần dưới đây.
3.2.1/Biện pháp thứ nhất: Tăng cường đầu tư, đổi mới kết hợp sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị để nâng cao năng lực sản xuất cũng như năng suất lao động của công ty.
Các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật diễn ra trên thế giới đã và đang tác động sâu sắc đến cuộc sống con người, và các doanh nghiệp là những nơi được tiếp xúc với nhiều nhất với các tiến bộ khoa học công nghệ. Do vậy, nếu ứng dụng được các công nghệ mới vào sản xuất sẽ giảm được các khoản chi phí liên quan đến quá trình sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đầu tư, đổi mới tài sản cố định, máy móc thiết bị đã lạc hậu, cũng như nâng cấp sửa chữa các máy móc hiện có vì thế đã trở thành một nhiệm vụ thường xuyên của doanh nghiệp.
Đối với việc đầu tư đổi mới tài sản cố định, công ty có thể đi theo hai hướng: mua mới hoặc thuê tài chính. Trong trường hợp mua mới, công ty có thể huy động vốn từ lợi nhuận để lại, vay ngân hàng...Việc huy động vốn từ nguồn nào cần phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng nhiều yếu tố: chi phí sử dụng vốn, tình hình tài chính, độ an toàn của dự án, và lợi ích thu được. Bên cạnh đó, công ty cần thận trọng trong việc tìm kiếm các đối tác có đủ năng lực, uy tín trong việc cung cấp các thiết bị có chất lượng cao, cần cử cán bộ kỹ thuật có chuyên môn, có trách nhiệm trong việc chọn mua máy móc thiết bị.
Ngoài ra công ty có thể thực hiện đổi mới máy móc thiết bị theo hình thức thuê tài chính. Đây là một hình thức còn khá mới mẻ ở Việt Nam, song nó đã cho thấy ưu thế riêng có. Thuê tài chính giúp cho công ty không phải huy động vốn tập trung tức thời nguồn vốn lớn, do vậy, với một số vốn nhỏ, công ty vẫn có được các thiết bị tiên tiến, hiện đại để mở rộng sản xuất kinh doanh. Như thế, công ty mới có thể chớp được các cơ hội kinh doanh mà không phải chờ đợi đến khi đủ vốn, hoặc thế chấp như đối với tín dụng ngân hàng. Tuỳ theo điều kiện cụ thể mà công ty có thể lựa chọn một trong hai hình thức thuê tài chính là “thuê ba bên” hay ‘bán và tái thuê”.
Một vấn đề quan trọng khác là làm sao công ty có thể vừa chọn được công nghệ vừa hiện đại, vừa phù hợp với khả năng tài chính, cũng như các điều kiện cụ thể khác của công ty. Tình trạng nhập khẩu những máy móc thiết bị đã lạc hậu do thải loại từ các nước phát triển hơn đã gây ra nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất. Để tránh tình trạng này, công ty nên thận trọng trong công tác giao dịch, kiểm tra chất lượng máy móc thiết bị, chế độ bảo dưỡng, bảo hành và các dịch vụ khác sau bán hàng, thậm chí cần đến sự giúp đỡ, tư vấn của các công ty tư vấn và chuyển giao công nghệ trong những trường hợp cần thiết.
Đối với các tài sản hiện có, việc bảo dưỡng, sửa chữa thường xuyên, định kỳ là rất cần thiết. Điều này đòi hỏi công ty phải bố trí đội ngũ công nhân sửa chữa tay nghề cao, tích cực và có trách nhiệm. Về mặt tài chính cần tính toán, dự trữ đủ vốn, quan trọng hơn phải xác định được hiệu quả của việc sửa chữa đó. Nếu chi phí sửa chữa bỏ ra mà lớn hơn giá trị còn lại của thiết bị thì việc sửa chữa là không hiệu quả, và công ty tốt hơn là nên thanh lý mua mới tài sản khác.
Song song với công tác sửa chữa, bảo dưỡng, việc nâng cao tay nghề, trình độ và trách nhiệm của công nhân lao động cũng rất quan trọng. Việc đầu tư mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn, tổ chức các cuộc họp báo cáo kinh nghiệm, huấn luyện kỹ thuật trên máy móc trực tiếp, hay tổ chức các cuộc thi tay nghề trong phạm vi phân xưởng, xí nghiệp, kết hợp với các hình thức khen thưởng, biểu dương xứng đáng các cá nhân, tập thể có thành tích tốt trong sản xuất là diều cần thiết nên làm, đồng thời có các biện pháp khuyến khích công nhân phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật.
3.2.2/Biện pháp thứ hai: Nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn nhất định. Sử dụng vốn có hiệu quả có nghĩa là làm cho lợi nhuận thu được trên một đồng vốn bỏ ra ngày càng nhiều hơn. Qua sự phận tích ở chương II, ta thấy, hiệu quả sử dụng vốn của công ty có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, nó vẫn còn ở mức thấp. Yêu cầu đặt ra đối với công ty là cần phải nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng các loại vốn.
Vốn kinh doanh bao gồm 2 loại: vốn lưu động và vốn cố định. Đối với mỗi loại vốn này cần có các biện pháp khác nhau để nâng cao hiệu quả sử dụng.
Trước hết, đối với vốn lưu động.
Vòng quay vốn lưu động năm 2001 là 1,31 vòng/năm, tăng 0,06 vòng/năm so với năm trước. Nhưng nhìn chung là chưa đáng kể, chỉ tăng 4,3%. Ta đã biết vòng quay vốn phụ thuộc vào hai yếu tố: Doanh thu thuần và vốn lưu động tham gia vào sản xuất kinh doanh. Như vậy, để tăng vòng quay vốn thu cần phải tăng doanh thu thuần. Làm được điều này, công ty cần tăng nhanh doanh thu tiêu thụ, giảm tối thiểu các khoản giảm trừ doanh thu như: giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại.
Để tăng doanh thu tiêu thụ, công ty cần làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm; duy trì quan hệ với các bạn hàng truyền thống, đẩy mạnh tìm kiếm khách hàng mới, mở rộng thị phần...Để thực hiện được điều này, công ty cần làm tốt những công tác sau:
Một là: Huy động tối đa tài sản cố định tham gia vào sản xuất, khai thác tối đa công suất thiết kế của máy móc thiết bị. Bên cạnh đó, cần nhanh chóng nhượng bán, thanh lý các tài sản cố định không cần dùng cũng như đã lạc hậu. Làm như vậy, hiệu quả sử dụng tài sản cố định, vốn cố định cũng như doanh lợi vốn cố định chắc chắn được nâng cao.
Hai là: Cần có kế hoạch cụ thể đối với việc dự trữ hàng tồn kho, cần tính toán sao cho hàng tồn kho không quá nhiều: nguyên vật liệu, chi phí sản xuất dở dang, thành phẩm..., nhưng luôn phải đảm bảo tiến độ sản xuất cũng như cung ứng hàng hoá theo đơn đặt hàng. Tình hình thị trường luôn có sự biến động không ngừng, do vậy, để hướng tới phương pháp quản trị hàng tồn kho bằng không là điều không thể thực hiện. Vì thế, việc hợp đồng chặt chẽ với các đơn vị cung cấp nguyên vật liệu kịp thời sẽ giúp công ty có được một khoản vốn để sử dụng vào việc khác cũng như giảm được chi phí lưu kho và chi phí thực hiện hợp đồng.
Ba là: Quản lý tốt công tác thu hồi nợ. Theo số liệu tính toán trong biểu 02, tại thời điểm đầu năm, khoản phải thu chiếm tỷ trọng là trên 20% trong tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn, song đến 31/12/2001 thì con số này là 40%. Như vậy có thể thấy, tuy rằng trong kỳ công ty đã tiến hành thu hồi bớt nợ, nhưng các khoản phải thu phải thu phát sinh thêm trong năm là khá lớn, và vẫn còn đang bị chiếm dụng. Điều này tất có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty. Dù trong điều kiện kinh doanh hiện nay, việc công ty cấp tín dụng cho các đối tác là điều cần thiết, nhưng đối với Công ty Giầy Thuỵ Khuê, các khách hàng là các đối tác liên kết, công ty chỉ thực hiện gia công và nhận công, thì việc gia hạn và cung cấp tín dụng là rất hạn chế, công ty cần có biện pháp tốt hơn nữa trong việc thu hồi nợ. Để thực hiện điều này, công ty cần:
Thực hiện chế độ khuyến khích đối với những khách hàng trả tiền đúng hạn và trước hạn như chiết khấu, tặng quà hay các hình thức đãi ngộ thoả đáng khác.
Có sự phân loại, theo dõi sát xao các loại nợ cần thu hồi như nợ chưa đến hạn, nợ đến hạn, nợ quá hạn, nợ không có khả năng thu hồi để có các biện pháp thu hồi phù hợp.
Chủ động các biện pháp thu hồi nợ: Chuẩn bị các chứng từ thích hợp, cần thiết đối với các khoản nợ sắp đến hạn, đối với các khoản nợ quá hạn, cần linh hoạt các biện pháp: gia hạn thêm thời gian trả nợ, thu trước một phần nợ...
Phạt vi phạm hợp đồng trong những trường hợp cần thiết.
Có các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong thanh toán: yêu cầu đặt cọc, tạm ứng trước một phần giá trị hợp đồng...
Khi ký hợp đồng cần có sự ràng buộc chặt chẽ về quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên để tránh những rủi ro không đáng có.
Bốn là: Cần tăng tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu.
Hiện nay nguồn vốn chủ sở hữu của công ty chiếm khoảng 12,5%, đây là một con số còn khiêm tốn. Điều này có nghĩa là hệ số nợ của công ty là khá lớn, xấp xỉ 87,5% tại thời điểm 31/12/2001, và kéo theo hệ số thanh toán hiện thời của công ty thấp, chỉ đạt 0,64 lần. Điều này có thể khiến cho tình hình tài chính của công ty dễ gặp rủi ro, gây tâm lý bất an cho các đối tác làm ăn.
Để tình hình tài chính của công ty có thể lành mạnh hơn, công ty cần tích cực tìm kiếm các nguồn vốn chủ sở hữu như: sử dụng tối đa lợi nhuận để lại; sử dụng linh hoạt các loại quỹ như quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi theo nguyên tắc sử dụng có hiệu quả và hoàn trả đúng hạn; nguồn vốn liên doanh, liên kết, vay vốn của người lao động trong công ty.
3.2.3/Biện pháp thứ ba: Nâng cao và giữ vững thị trường tiêu thụ nội địa, bên cạnh việc duy trì thị trường nước ngoài.
Chúng ta đều biết, đối với mỗi doanh nghiệp, việc mở rộng thị phần tiêu thụ luôn là vấn đề quan trọng, đặc biệt trong tình hình kinh doanh hiện nay, các công ty luôn có sự cạnh tranh gay gắt về chất lượng, giá cả, phương thức kinh doanh...Việc duy trì và tìm kiếm thị trường tiêu thụ mới đang đặt ra cho công ty nhiều vấn đề cần giải quyết, nó không thể chỉ thựchiện trong một thời gian ngắn đã đạt ngay kết quả như mong muốn, cần phải có kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn. Để có thể làm được điều này, công ty cần thực hiện một số biện pháp sau:
Một là: Nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm, chinh phục khách hàng bằng sản phẩm chất lượng và giá thành thấp.
Cơ chế thị trường đã tạo ra một luồng sinh khí mới cho các doanh nghiệp. Doanh nghiệp có quyền tự chủ kinh doanh, tự chủ lựa chọn các dự án đầu tư có lợi nhất, lựa chọn các sản phẩm đem lại lợi ích kinh tế cao nhất. ở tất cả các lĩnh vực, không riêng ngành giầy da, đều có sự cạnh tranh gay gắt. Cũng như các công ty khác, Công ty Giầy Thuỵ Khuê không phải là không có đối thủ cạnh tranh. Người tiêu dùng lâu nay không chỉ biết đến Giầy Thuỵ Khuê, bên cạnh đó, còn có giầy Ngọc Hà, giầy Thượng Đình...Để tạo cho mình chỗ đứng trong thị trường nội địa và đẩy mạnh xuất khẩu, không còn cách nào khác là phải nâng cao chất lượng sản phẩm, song song với nó là việc nâng cao uy tín doanh nghiệp, uy tín cho sản phẩm.
Hai là: Tạo sự đột phá trong thiết kế mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm.
Ngày nay, cuộc sống người dân Việt Nam đã được cải hiện hơn rất nhiều. Thay vào nhu cầu được “ăn no mặc ấm” là nhu cầu “ăn ngon mặc đẹp”, đặc biệt đối với người phụ nữ nói chung, nhu cầu làm đẹp đã trở nên không thể thiếu. Do đó, song song với việc cung cấp sản phẩm có chất lượng thì một điều quan trọng nữa là phải có kiểu dáng đẹp, tính thẩm mỹ cao.
Hiện nay, các sản phẩm của công ty tuy đã có những cách điệu mới nhưng vẫn chưa đủ để gây sự chú ý. Trong thời gian tới, để có thể tạo ra những đột phá mới trong cải tiến mẫu mã, công ty cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Quan tâm, đúng mức, hợp lý đến việc nghiên cứu, tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, tiến hành sản xuất thử, đưa sản phẩm mới ra thị trường, đồng thời theo dõi phản ứng của khách hàng. Sau khi sản xuất thử đạt kết quả khả quan mới đem sản xuất đại trà, vẫn tiếp tục theo dõi nhu cầu thị trường để có những cải tiến, thích ứng hơn cho các sản phẩm tiếp theo. Đây là một công tác rất quan trọng, nếu làm tốt, công ty có thể thu hẹp được khoảng cách đối với người tiêu dùng, và dễ dàng chinh phục khách hàng.
Tổ chức các cuộc thi thiết kế mẫu, tìm tòi phát hiện các ý tưởng sáng tạo mới trong nội bộ công ty: bộ phận thiết kế mẫu, công nhân sản xuất...khi khả năng tài chính của công ty còn hạn chế. Bộ phận thiết kế cần năng động, sáng tạo, nắm bắt xu hướng tiêu dùng mới, trên cơ sở đó biến những ý tưởng sáng tạo thành hiện thực. Đồng thời có sự kết hợp với công nhân sản xuất.Bởi một lý do hết sưc đơn giản, công nhân sản xuất là những người trực tiếp làm ra sản phẩm, do đó họ hiểu hơn ai hết những ưu điểm cũng như sự bất tiện hoặc chưa hợp lý khi sử dụng sản phẩm. Bất cứ một ý tưởng nào cũng có thể trở thành sáng kiến có tính khả thi cao. Nếu tận dụng được điều này không chỉ giúp cho công ty tiết kiệm một khoản chi phí lớn mà còn tận dụng triệt để hiệu quả nguồn nhân lực tiềm năng chưa được khai thác...Về lâu dài, khi tình hình tài chính cho phép có thể mở rộng quy mô các hoạt động trên, bởi trong kinh tế thị trường, sản phẩm luôn phải thay đổi, luôn phải được cải tiến. Người tiêu dùng sẽ để ý đến công ty nhiều hơn khi sản phẩm của công ty luôn có những cải tiến bất ngờ và hiệu quả.
Xây dựng uy tín về nhãn hiệu sản phẩm trong lòng người tiêu dùng, khi đã biết đến chất lượng và uy tín của doanh nghiệp, khách hàng sẽ tự tìm đến với công ty. Trong môi trường kinh doanh hiện nay, thương hiệu sản phẩm đã trở nên ngày càng quan trọng hơn, nó khẳng định vị thế của công ty trên thương trường và là ranh giới thị phần với các sản phẩm khác. Người tiêu dùng đã biết đến cái tên Giầy Thuỵ Khuê, nhưng mới chỉ dừng lại ở những sản phẩm giầy vải xuất khẩu, giầy bảo hộ lao động...Do vậy, cần phải thay đổi cái nhìn và nhận thức của khách hàng về sản phẩm của công ty. Nhưng để có được điều này, công ty cần xây dựng một chiến lược phát triển ngay từ bây giờ.
Thứ ba: Xây dựng chiến lược Marketing đồng bộ, hiệu quả trong việc thâm nhập, mở rộng thị phần tiêu thụ.
Ngày nay, không ai có thể phủ nhận vai trò của Marketing trong việc mở rộng thị phần tiêu thụ, nó ngày càng trở nên quan trọng, thậm chí giữ vai trò then chốt. Dù sản phẩm của công ty có tốt đến đâu, có đẹp đến đâu mà người tiêu dùng không biết đến thị cũng không thể tiêu thụ mạnh được, trong khi các đối thủ luôn dẫn đầu trong việc đưa sản phẩm phổ biến ra công chúng. Do vậy, công ty cần chú ý hơn đến vấn đề này.
Trong hệ thống chiến lược chung của doanh nghiệp bao gồm nhiều bộ phận khác nhau như chiến lược tổ chức sản xuất, chiến lược tổ chức con người, chiến lược tài chính và chiến lược marketing chiếm một vị trí then chốt.
Chiến lược marketing xác định vấn đề sản phẩm - thị trường, tác động đến các chiến lược khác. Nó liên kết giữa các yếu tố bên trong với các điều kiện bên ngoài thị trường của doanh nghiệp, và hướng đến các mục tiêu quan trọng của doanh nghiệp, mà một trong những mục tiêu quan trọng không thể thiếu là nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Chiến lược chung marketing bao gồm hệ thống các chiến lược bộ phận: Chiến lược sản phẩm, chiến lược giá cả, chiến lược phân phối và chiến lược xúc tiến yểm trợ. Làm tốt các chiến lược trên sẽ giúp cho doanh nghiệp có một vị thế vững chắc và an toàn trong kinh doanh, đồng thời thu được lợi nhuận cao.
Đối với chiến lược sản phẩm, công ty cần xác định rõ sản phẩm nào sẽ cung ứng ra thị trường nội địa, thị trường xuất khẩu...sản phẩm cần thiết phải cải tiến các chi tiết gì, cơ cấu chủng loại sản phẩm như thế nào...
Đối với chiến lược giá cả: Công ty cần xác định đường lối chính sách định giá. Trên cơ sở tình hình chi phí và thị trường cụ thể, xác định nên các chiến lược định giá hoà vốn, chiến lược sử dụng giá để cạnh tranh...
Đối với chiến lược phân phối: Công ty cần tổ chức hệ thống phân phối sao cho đạt hiệu quả cao nhất, trong đó xác định các kênh phân phối, người trung gian, các hệ thống cơ sở vật chất để thực hiện chức năng phân phối hàng hoá trên thị trường.
Đối với chiến lược xúc tiển yểm trợ: Công ty cần tiến hành các hoạt động xúc tiến bán hàng, thông tin quảng cáo, thiết lập khách hàng...
Cụ thể hơn cần phải thực hiện:
Mở rộng các đại lý bán hàng, hệ thống các cửa hàng giới thiệu sản phẩm trên khắp đất nước, đặc biệt ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh...Điều này không chỉ đem sản phẩm đến tay người tiêu dùng ở khắp nơi trong nước, mà còn cho thấy sự lớn mạnh không ngừng của công ty trong việc phổ biến sản phẩm ra công chúng. Một điều nữa, tuy nhỏ nhưng không phải là không có tác dụng: ngày nay, hoạt động du lịch đang rất phát triển, khách nước ngoài biết đến Việt Nam nhiều hơn. Họ đến Việt Nam để tham quan, và còn để giao lưu văn hoá. Một du khách người Nhật đã nói rằng: đến Việt Nam không thể không may một chiếc áo dài, hay mua một vài đôi dép san-dan, vì nó rất rẻ. Như vậy rõ ràng là tuy chưa phải độc đáo, nhưng giầy dép Việt Nam vẫn mang đến cho khách hàng một sự lựa chọn. Vậy tại sao chúng ta lại không lưu tâm đến điều này?
Tham dự các hội chợ, triển lãm trên ở tỉnh lớn (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh...) như: triển lãm hàng Việt Nam chất lượng cao, hội chợ hàng tiêu dùng, hội chợ xuân...Đây là con đường ngắn nhất để đưa sản phẩm tiếp cận với khách hàng, và qua đó có thể thu thập các ý kiến, phản ứng của khách hàng về sản phẩm của công ty. Các hoạt động này ngày càng thu hút được sự chú ý không chỉ của các công ty, giới kinh doanh, mà còn thu hút đông đảo khách hàng. Qua những hoạt động này, công ty có thể có được những đơn đặt hàng mới, khách hàng mới, tìm hiểu thị hiếu tiêu dùng mới, đưa thương hiệu sản phẩm gần hơn với người tiêu dùng...Rõ ràng công ty sẽ có được những cái lợi không chỉ đo bằng tiền, mà là hiệu quả lâu dài
Chiến lược tiếp thị, khuyến mại, khuyến mãi đặc biệt đối với khách hàng, các đại lý nhằm thu hút sự quan tâm của họ đối với sản phẩm của công ty, và khuyến khích các đại lý hoạt động hiệu quả hơn. Đây là những hoạt động không thể thiếu trong cơ chế hoạt động mới như hiện nay. Người tiêu dùng đã quen với các chương trình khuyến mại của các công ty dưới rất nhiều hình thức hấp dẫn. Và theo tâm lý chung, họ sẽ lựa chọn sản phẩm nào có các hình thức khuyến mại hấp dẫn.
Đẩy mạnh công tác quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, đài, báo chí, pa-nô, áp phích, các băng rôn, khẩu hiệu..., trong tình hình nay, khi tài chính chưa cho phép công ty tiến hành quảng cáo trên truyền hình thì vẫn có các phương tiện quảng cáo khác rẻ mà lại hiệu quả để công ty lựa chọn.
Thực hiện biện pháp này không chỉ một sớm chiều có thể làm được và phát huy ngay tác dụng, do đó, công ty cần xây dựng chiến lược lâu dài, phù hợp với tình hình cụ thể của công ty trong từng giai đoạn. Một điều quan trọng nữa là việc thực hiện nó đòi hỏi một khoản chi phí rất lớn, hơn nữa, điều này có thể làm giá thành sản phẩm tăng lên, công ty cần có kế hoạch xây dựng ngân sách ngay từ bây giờ.
3.2.4/Biện pháp thứ tư: Đẩy mạnh chuyển đổi từ phương thức gia công xuất khẩu sang phương thức mua bán trực tiếp.
Đây không chỉ là cách thức làm ăn phù hợp với đường lối phát triển chung của ngành giầy da, mà còn đảm bảo cho công ty có thể phát triển và bền vững trong tiến trình hội nhập.
Từ trước đến nay, công ty chỉ chủ yếu thực hiện gia công cho phía nước ngoài, thực hiện xuất khẩu qua trung gian. Đều này đã khiến công ty gặp không ít khó khăn ví như tình trạng ép giá, không chủ động đàm phán trong việc xây dựng chính sách giá...Vì thế, để có thể tiếp tục phát triển cao hơn, công ty không thể không thực hiện chuyển đổi phương thức làm ăn, và các giải pháp cụ thể cho vấn đề này là:
Thứ nhất: Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, phát triển thị trường. Tuy rằng công ty thực hiện gia công xuất khẩu là chủ yếu, song khi thực hiện mua bán trực tiếp, mọi việc vẫn còn là thách thức, khó khăn không dễ vượt qua. Thị trường quốc tế ngày càng đòi hỏi gay gắt hơn các vấn đề về tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn an toàn môi trường, và thị hiếu luôn thay đổi. Vì vậy, công tác nghiên cứu thị trường nước ngoài vẫn là một điều không thể thiếu. Tuy nhiên, công ty có một lợi thế là uy tín và chất lượng sản phẩm, hơn nữa còn được cấp chứng chỉ ISO 9001 phiên bản 2000 nên sẽ là một bước thuận lợi trong việc đàm phán, ký kết hợp đồng với các đối tác nước ngoài. Làm tốt công tác này sẽ giúp công ty dễ dàng tiếp mở rộng trường nước ngoài và đưa sản phẩm tiêu thụ rộng rãi hơn
Thứ hai: Thực hiện tìm kiếm khách hàng mới bên cạnh việc duy trì quan hệ với các bạn hàng truyền thống.
Khách hàng luôn là mục tiêu hướng tới của các doanh nghiệp, có được nhiều khách hàng mới, các doanh nghiệp mới có thể tiêu thụ nhiều hơn khối lượng sản phẩm. Có thể nói “khách hàng là thượng đế”, “khách hàng là ân nhân”, do vậy, việc tìm kiếm khách hàng là rất quan trọng, doanh nghiệp không thể chờ đợi khách hàng tìm kiếm sản phẩm của mình, mà ngược lại, họ phải đưa sản phẩm của mình đến với khách hàng, cả khách hàng hiện thực và khách hàng tiềm năng (những người sẽ sử dụng sản phẩm của công ty trong tương lai). Để có được điều này, công ty cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
Mở các chi nhánh giao dịch, của hàng giới thiệu sản phẩm tại những nước công ty đang hoạt động và đạt sản lượng, doanh số bán cao, đồng thời tại các thị trường mà công ty đang hướng tới, ví dụ như Anh, Pháp, Nhật Bản, Đài Loan, và thị trường tiềm năng và mới mẻ: Mỹ.
Cử các chuyên gia, thợ lành nghề sang học hỏi kinh nghiệm, cách thức vận hành, sản xuất các sản phẩm tiên tiến của nước bạn. Nâng cao trình độ quản lý cho các cán bộ chủ chốt của công ty để học hỏi cách thức hoạt động, điều hành công ty cho phù hợp với xu thế làm ăn mới.
Tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế, từ đó đưa sản phẩm dần thâm nhập vào thị trường nước ngoài, để họ biết đến sản phẩm của công ty.
Quảng cáo về sản phẩm trên các phương tiện truyền thông sao cho chi phí hợp lý mà hiệu quả cao. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, internet đã trở nên phổ biến thì việc biến nó thành một công cụ quảng bá sản phẩm sẽ rất hữu hiệu, hơn nữa, chi phí lại rẻ.
Để có thể thực hiên được giải pháp này, công ty cần có kế hoạch lâu dài. Trước mắt, công ty cần giữ vững nhịp độ sản xuất - tiêu thụ như hiện nay, đồng thời cần chú trọng lựa chọn các mặt hàng chiến lược, tạo uy tín trong ngoài nước, tập trung thiết kế, chế thử mẫu mã để có thể chủ động chào hàng và tự tổ chức sản xuất, tiêu thụ mà không phụ thuộc vào phía nước ngoài.
Có thể nói, việc chuyển đổi phương thức hoạt động mới đòi hỏi sự nỗ lực và đoàn kết của toàn bộ công ty, đặc biệt là ban lãnh đạo công ty. Không chỉ vậy, còn cần đến sự quan tâm, hỗ trợ từ phía Nhà nước thông qua các chính sách, cơ chế điều hành...nhưng trước hết vẫn là chủ quan từ phía công ty. Do vậy, không còn cách nào khác, công ty phải xây dựng một chiến lược hoàn chỉnh, đồng bộ ngay từ bây giờ. Làm được điều này sẽ giúp cho công ty có một chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước và nước ngoài, đồng thời phát triển bền vững, lâu dài.
3.2.5/Biện pháp thứ năm: Tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận theo hướng chuyển đổi loại hình doanh nghiệp.
Với chủ chương của Đảng và Nhà nước sẽ tiến hành cổ phần hoá hầu hết các doanh nghiệp nhà nước. Thực tế cho thấy các doanh nghiệp Nhà nước sau khi cổ phần hoá thường có hướng làm ăn hiệu quả hơn, vì lúc đó quyền lợi trở nên “sát sườn” đối với người lao động – những người chủ của công ty. Do vậy, họ toàn tâm toàn ý cống hiến hết mình vì công ty và cũng chính là vì bản thân họ. Như vậy, trong thời gian tới, công ty nên có kế hoạch cổ phần hoá công ty. Điều này là phù hợp với thời cuộc mới của xã hội.
Trên đây là một số ý kiến đề xuất của cá nhân tác giả về một số phương hướng và biện pháp gia tăng lợi nhuận để công ty tham khảo nhằm nâng cao lợi nhuận, nâng cao hiệu quả hoạt động trong những năm tới. Do năng lực còn hạn chế nên rất mong nhận được sự phê bình, góp ý của các cô chú, các anh chị trong công ty.
Kết luận
Trong thời gian thực tập tại Công ty Giầy Thuỵ Khuê, được tiếp xúc với thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh, qua tìm hiểu nghiên cứu về tình hình thực hiện lợi nhuận của công ty trong năm qua, nhận thấy tình hình hoạt động kinh doanh của công ty là ổn định và khá tốt, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số vấn đề cần nhanh chóng tháo gỡ để đưa công ty hoạt động tốt hơn, qua đó, em đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp chủ yếu với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận của công ty trong thời gian tới.
Do trình độ và thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong được sự giúp đỡ, chỉ bảo của các Thầy, Cô giáo trong bộ môn cùng các cô chú trong công ty.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo Nguyễn Minh Hoàng, cùng các Thầy cô giáo trong bộ môn Tài chính doanh nghiệp, cảm ơn Ban lãnh đạo công ty cũng như các cô chú trong, anh chị trong phòng Tài chính – kế toán ...đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt thời gian thực tập và hoàn thành đề tài này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2002
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Khánh Thuỷ.
Tài liệu tham khảo
Cẩm nang Quản trị tài chính doanh nghiệp- Arthur Young- Nhà xuất bản tổng hợp An Giang-1989
2.Luật doanh nghiệp-Nhà xuất bản chính trị quốc gia-1999
3.Phân tích hoạt động kinh tế– Trường Đại học tài chính kế toán Hà Nội- Nhà xuất bản tài chính-1997
4.Quản trị Tài chính doanh nghiệp- Trường Đại học Tài chính- Kế toán Hà Nội- Nhà xuất bản tài chính-2000
5. Giáo trình Kế toán tài chính- Trường Đại học Tài chính- Kế toán Hà Nội- Nhà xuất bản Tài chính- 1999
6.Giáo trình Marketing- Trường Đại học Tài chính- Kế toán Hà Nội- Nhà xuất bản Tài chính- 1996
7.Các tạp chí tài chính- Nhà xuất bản tài chính
8.Luận văn tốt nghiệp các khoá trước.
Mục lục
Lời nói đầu
Chương I/Những lí luận cơ bản về lợi nhuận
1.1/Lợi nhuận và doanh lợi của doanh nghiệp
1.1.1/Lợi nhuận của doanh nghiệp
1.1.1.1/Khái niệm và nội dung cơ bản
1.1.1.2/Phương pháp xác định lợi nhuận
1.1.2/Doanh lợi
1.1.2.1/Doanh lợi vốn
1.1.2.2/Doanh lợi giá thành
1.1.2.3/Doanh lợi doanh thụ tiêu thụ sản phẩm
1.2/Sự cần thiết phấn đấu tăng lợi nhuận của doanh nghiệp trong điều kiện kinh doanh hiện nay
1.2.1/Xuất phát từ vai trò của lợi nhuận đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
1.2.2/Xuất phát từ tình hình thực hiện lợi nhuận của các doanh nghiệp nước ta trong cơ chế quản lý kinh tế cũ
1.2.3/Xuất phát từ yêu cầu của việc phát huy quyền tự chủ tài chính và tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ chế quản lý kinh tế mới
1.3/Một số phương hướng, biện pháp chủ yếu tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp trong điều kiện sản xuất kinh doanh như hiện nay
1.3.1/Biện pháp thứ nhất: Tăng số lượng và chất lượng của sản phẩm sản xuất và tiêu thụ trong kỳ
1.3.2/Biện pháp thứ hai: Hạ giá thành sản phẩm
1.3.3/Biện pháp thứ ba: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
ChươngII: Tình hình thực hiện lợi nhuận tiêu thụ ở Công ty Giầy Thuỵ Khuê năm 2001
2.1/Khái quát về tình hình tổ chức quản lý kinh doanh ở Công ty Giầy Thuỵ Khuê
2.1.1/Quá trình hình thành và phát triển Công ty Giầy Thuỵ Khuê
2.1.2/Phương hướng, nhiệm vụ kinh doanh
2.1.3/Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh
2.1.3.1/Quy mô kinh doanh
2.1.3.2/Đặc điểm sản phẩm và quy trình công nghệ
2.1.3.3/Hình thức tổ chức sản xuất Công ty Giầy Thuỵ Khuê
2.1.4/Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý kinh doanh và bộ máy kế toán tài chính
2.2/Một số nét chủ yếu về lợi nhuận và các biện pháp phấn đấu tăng lợi nhuận ở Công ty GIầy Thuỵ Khuê
2.2.1/Những thuận lợi – khó khăn chủ yếu đối với hoạt động của công ty Giầy Thuỵ Khuê trong điều kiện kinh doanh hiện nay
2.2.2/Kết quả sản xuất kinh doanh và tinh hình thực hiện lợi nhuận của Công ty Giầy Thuỵ Khuê năm 2001
2.2.2.1/Tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của Công ty Giầy Thuỵ Khuê năm 2001
2.2.2.2/Tình hình quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm
2.2.2.3/Tình hình quản lý và sử dụng vốn của Công ty Giầy Thuỵ Khuê năm 2001
2.2.3/Một số biện pháp chủ yếu nhằm phấn đấu tăng lợi nhuận mà Công ty Giầy Thuỵ Khuê đã áp dụng năm 2001
2.2.4/Một số vấn đề còn tồn tại trong hoạt động sản xuất kinh doanh cần tiếp tục giải quyết để phấn đấu tăng lợi nhuận của Công ty Giầy Thuỵ Khuê
Chương III/Một số ý kiến đề xuất về phương hướng, biện pháp tăng lợi nhuận ở Công ty Giầy Thuỵ Khuê
3.1/Định hướng phát triển Công ty trong thời gian tới
3.2/Một số phương hướng, biện pháp chủ yếu phấn đấu nhằm tăng lợi nhuận ở Công ty Giầy Thuỵ Khuê
3.2.1/Biện pháp thứ nhất: Tăng cường đầu tư, đổi mới kết hợp với sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị để nâng cao năng lực sản xuất cũng như năng suất lao động của công ty
3.2.2/Biện pháp thứ hai: Nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
3.2.3/Biện pháp thứ ba: Nâng cao và giữ vững thị trường tiêu thụ nội địa, bên cạnh việc duy trì thị trường nước ngoài
3.2.4/Biện pháp thứ tư: Đẩy mạnh chuyển đổi từ phương thức gia công xuất khẩu sang phương thức mua bán trực tiếp
3.2.5/Biện pháp thứ năm: Tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận theo hướng chuyển đổi loại hình doanh nghiệp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34284.doc