Luận văn Luật quốc tịch và các chế định liên quan đến quốc tịch

MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 Chương 1:KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUỐC TỊCH 4 1.1 Lý luận chung về quốc tịch và luật quốc tịch 4 1.1.1 Quốc tịch 4 1.1.2 Luật quốc tịch 7 1.2 Quá trình hình thành và phát triển luật quốc tịch Việt Nam . 8 1.2.1 Sơ lược về luật quốc tịch Việt Nam qua các thời kỳ 8 1.2.2 Những nội dung cơ bản của luật quốc tịch Nam 1998 . 11 Chương 2:CÁC CHẾ ĐỊNH LIÊN QUAN ĐẾN QUỐC TỊCH . 14 2.1 Xác lập quốc tịch Việt Nam theo luật quốc tịch Việt Nam 14 2.1.1 Xác lập quốc tịch Việt Nam theo sự sinh đẻ 15 2.1.2 Xác lập quốc tịch Việt Nam theo sự gia nhập . 21 2.1.3 Xác lập quốc tịch Việt Nam do trở lại quốc tịch Việt Nam . 31 2.1.4 Xác lập quốc tịch Việt Nam theo các căn cứ khác . 33 2.2 Mất quốc tịch Việt Nam theo Luật quốc tịch Việt Nam 37 2.2.1 Mất quốc tịch Việt Nam do thôi quốc tịch Việt Nam . 37 2.2.2 Mất quốc tịch Việt Nam do bị tước quốc tịch Việt Nam 40 2.2.3 Mất quốc tịch Việt Nam theo các trường hợp khác 42 2.3 Các vấn đề khác liên quan đến quốc tịch 43 2.3.1 Quốc tịch của con chưa thành niên . 43 2.3.2 Quốc tịch của con chưa thành niên khi cha mẹ bị tước . 44 2.3.3 Quốc tịch của con nuôi chưa thành niên 46 2.3.4 Nguyên tắc một quốc tịch trong luật quốc tịch Việt Nam . 49 2.3.2 Hạn chế tình trạng không quốc tịch 59 2.4 Những giải pháp đề xuất kiến nghị 61 PHẦN KẾT LUẬN 66

pdf73 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1970 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Luật quốc tịch và các chế định liên quan đến quốc tịch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chức cho trẻ học tiếng Việt. Với những hình thức trên chỉ nhằm vào mục ñích là cho Cha mẹ ñẻ có thể tìm hiểu thông tin về con. Việc cha mẹ ñẻ muốn biết thông tin về con, luật Việt Nam không cấm, luật nước ngoài cũng không cấm. Thậm chí, một số nước còn khuyến khích cho trẻ biết nguồn gốc và ñến một ñộ tuổi nhất ñịnh, họ cho về thăm lại Việt Nam . Theo luật Việt Nam, một ñứa trẻ ñi làm con nuôi nhà khác trên lãnh thổ Việt Nam thì vẫn giữ quan hệ với cha mẹ ñẻ. Cả cha mẹ ñẻ, cha mẹ nuôi ñều có quyền, nghĩa vụ với con và ñứa con cũng có quyền, nghĩa vụ với cả cha mẹ ñẻ và cha mẹ nuôi, nhất là quyền thừa kế. Nhưng theo luật các nước nói chung, khi ñứa trẻ ñã ñi làm con nuôi nước khác thì phải chấm dứt quan hệ pháp lý với cha mẹ ñẻ. Họ không có quyền gì về pháp lý với ñứa trẻ nữa. Hiện nay, Việt Nam và các nước nhận ñứa trẻ làm con nuôi có thỏa thuận cho phép trẻ ñược giữ quốc tịch Việt Nam ñến khi ñủ 18 tuổi. Lúc này, ñứa trẻ ñủ nhận thức ñể lựa chọn, nếu nước nhận nuôi không cho phép hai quốc tịch thì ñứa trẻ có quyền chọn quốc tịch.18 Nhằm bảo hộ cho trẻ em là công dân nước mình, pháp luật Việt Nam quy ñịnh trẻ em vẫn giữ quốc tịch Việt Nam cho ñến khi 18 tuổi thì ñứa trẻ này có quyền lựa chọn quốc tịch cho mình, hoặc giữ quốc tịch Việt Nam hoặc thay ñổi theo cha mẹ nuôi. ðiều này có thể ñược xem là hợp lý nhưng trong trường hợp ñứa trẻ là người nước ngoài ñược công dân Việt Nam nhận là con nuôi thì phải thay ñổi quốc tịch thành quốc tịch Việt Nam như quy ñịnh tại Khoản 2 ðiều 30 Luật quốc tịch việt Nam năm 1998 như sau: “Trẻ em là người nước ngoài ñược công dân Việt Nam nhận làm con nuôi thì có quốc tịch Việt Nam, kể từ ngày ñược cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam công nhận việc nuôi con nuôi”. Pháp luật Việt Nam mặc nhiên thừa nhận trẻ có quốc tịch Việt Nam trong trường hợp này, trong khi ñó tại Khoản 1 ñiều 30 Luật lại quy ñịnh trẻ em là công dân Việt Nam ñược người có quốc tịch nước ngoài nhận là con nuôi thì vẫn giữ quốc tịch Việt Nam. Vì mục ñích bảo hộ cho trẻ em là người Việt Nam pháp luật nước ta thừa nhận ñứa trẻ này vẫn giữ quốc tịch cho ñến khi nào ñứa trẻ ñó có ñủ quyền xin thôi quốc tịch Việt Nam ñể nhập quốc tịch nước ngoài theo quốc tịch của cha mẹ nuôi.N ếu pháp luật nước ta hướng tới mục ñích bảo hộ thì pháp luật nước ngoài cũng sẽ hướng tới mục ñích ñó mà bảo vệ cho công dân nước mình bằng cách cũng có những quy ñịnh tương tự như pháp luật Việt Nam thì ñứa trẻ ñó sẽ có hai quốc tịch, gây nên những khó khăn trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ ñối với cả hai nước mà ñứa trẻ ñó mang quốc tịch. ðiều này có thể tạo nên mâu thuẫn lớn trong luật pháp của nước nhận con nuôi và nước cho con nuôi. Có thể hai nước quy ñịnh chồng chéo lên nhau sẽ tạo nên xung ñột về pháp luật của nhau dẫn ñến tình trạng nhiều quốc tịch. Tất nhiên, việc quy ñịnh như vậy luật pháp cũng có cái lý 18 riêng, ñó là sự thừa nhận trách nhiệm của mình ñối với cá nhân ñược nhận làm con nuôi, Nhà nước ta xem ñứa trẻ ñó là công dân Việt Nam và sẽ có những chính sách bảo hộ tốt nhất cho ñứa trẻ cũng như tại khoản 1 ñiều này nếu như luật Việt Nam quy ñịnh ñứa trẻ vẫn giữ quốc tịch Việt Nam khi ñược người nước ngoài nhận làm con nuôi thì có thể luật nước nhận làm con nuôi cũng có thể quy ñịnh ñứa trẻ sẽ có quốc tịch nước ñó ngay từ lúc hoàn tất thủ tục nhận làm con nuôi nên tình trạng hai quốc tịch là không tránh khỏi. Nhưng xét về mặt thực tế thì việc quy ñịnh như vậy tạo nên sự khó khăn trong xu hướng hòa nhập hiện nay, nếu chúng ta ñã quy ñịnh trẻ em Việt Nam ñược người nước ngoài nhận làm con nuôi vẫn giữ quốc tịch Việt Nam thì chúng ta cũng cần ñi theo nguyên tắc có qua có lại, là cho phép trẻ em người nước ngoài ñược người Việt Nam nhận làm con nuôi vẫn giữ quốc tịch nước ngoài theo sự lựa chọn của họ. Khi một ñứa trẻ là người nước ngoài ñược cha mẹ mà một người là công dân Việt Nam, còn người kia là người nước ngoài nhận làm con nuôi, thì ñược nhập quốc tịch Việt Nam theo ñơn xin nhập quốc tịch Việt Nam của cha mẹ nuôi và ñược miễn các ñiều kiện quy ñịnh tại khoản 1 ðiều 20 của Luật này. Cũng giống như các trường hợp khác, khi cha mẹ có sự khác biệt về quốc tịch thì quốc tịch của con sẽ do sự thỏa thuận bằng văn bản của cha và mẹ. Và việc nhập quốc tịch này không bị hạn chế bởi các quy ñịnh về ñiều kiện nhập quốc tịch Việt Nam. 2.3.4 Nguyên tắc một quốc tịch trong luật quốc tịch Việt Nam Vấn ñề hai quốc tịch Thông thường, mỗi người chỉ có một quốc tịch, nhưng trong thực tiễn hiện nay vẫn còn có người hưởng hai quốc tịch hay thậm chí nhiều hơn nữa. Sở dĩ có hiện tượng như vậy là vì: Có sự xung ñột pháp luật của các nước về cách thức hưởng và mất quốc tịch; Khi một người chuyển từ quốc tịch nước này sang quốc tịch nước khác, ñã ñược nhận quốc tịch mới, nhưng chưa thôi quốc tịch cũ; Do kết hôn hoặc nhận làm con nuôi. Chẳng hạn, một người phụ nữ kết hôn với người nước ngoài, theo pháp luật nước mình thì người ñó vẫn giữ nguyên quốc tịch, trong khi ñó pháp luật của nước mà người chồng có quốc tịch lại quy ñịnh người phụ nữ ñó ñương nhiên mang quốc tịch của người chồng. Trong trường hợp trên, người phụ nữ sẽ rơi vào tình trạng hai quốc tịch. Có cả những trường hợp mà một cá nhân mang quốc tịch của nhiều nước khác nhau nhưng không phụ thuộc vào ý chí của cá nhân họ mà phụ thuộc vào quy ñịnh pháp luật của nước mà quy ñịnh cho họ việc có quốc tịch, mà ñôi khi việc có quốc tịch của các nước ñó là hoàn toàn ngoài ý muốn. Ví dụ trường hợp một phụ nữ Pháp kết hôn với một ñàn ông Venezuela, trong một chuyến du lịch, họ sinh 1 bé gái. Theo quy ñịnh của pháp luật 2 nước Pháp và Venezuela 'lấy quốc tịch theo huyết thống của cha mẹ', tất nhiên con gái của họ mang quốc tịch 2 nước. Nhưng cháu bé gái lại ra ñời trên một chiếc máy bay của công ty hàng không Mexico, theo quy ñịnh quốc tịch của Mexico, bất kể ñứa bé nào dù ra ñời trên máy bay, tàu thuyền của họ, ñều ñược coi là người Mexico. Và chiếc máy bay này ñang bay trên bầu trời nước Anh, cũng theo quy ñịnh của luật quốc tịch nước Anh, bất kể ai ra ñời trên nước Anh hay trên các khu vực thuộc ñịa khác, ñều là công dân nước Anh. Do vậy, cháu bé gái này sẽ mang quốc tịch của cả 4 nước: Pháp, Venezuela, Mexico và Anh.19 Như vậy, hai quốc tịch là tình trạng pháp lý của một người cùng một lúc có hai quốc tịch của hai nước. Tình trạng này rất phức tạp cả hai nước liên quan ñều coi người có hai quốc tịch là công dân nước mình và do vậy có quyền ñòi hỏi người ñó thực hiện mọi nghĩa vụ công dân của mình, kể cả nghĩa vụ quân sự. Tình trạng hai quốc tịch trái với tính chất duy nhất của chủ quyền quốc gia. Do vậy, pháp luật hầu hết các nước ñều không công nhận tình trạng một công dân có hai hay nhiều quốc tịch. Nhiều nước có luật cấm công dân từ bỏ quốc tịch trong bất cứ trường hợp nào. Một số nước có luật không cho phép công dân từ bỏ quốc tịch, ngoại trừ trường hợp họ phải nộp ñơn xin hủy bỏ quốc tịch. Người song tịch ñôi khi họ rơi vào những trường hợp khó khăn, chẳng hạn như việc họ sống ở nước này nhưng phải có trách nhiệm thi hành nghĩa vụ quân sự ở nước khác. Những nước có vấn ñề này là Ai Cập, Hy Lạp, Iran, Li Băng, Syria và hầu hết các nước ở trung Âu và ðông Âu. 20 Trong thực tiễn quốc tế hiện nay, ñối với những người có hai quốc tịch, các nước thường áp dụng nguyên tắc quốc tịch hữu hiệu. Theo nguyên tắc này, những người có hai quốc tịch ñược coi là công dân của nước mà người ñó sinh sống nhiều nhất hoặc thực tế gắn bó nhiều nhất. Hiện nay, do tình trạng không bình thường của vấn ñề hai quốc tịch, nhiều nước ñã ký kết các ñiều ước quốc tế hai hay nhiều bên ñể ngăn 19 20 ngừa, giảm bớt hoặc xoá bỏ những trường hợp hai quốc tịch. Theo các ñiều ước quốc tế, những người có hai quốc tịch có quyền tự do chọn lựa quốc tịch của một trong hai nước ký kết. Những người có hai quốc tịch mà chưa lựa chọn cho mình một quốc tịch nào thì ñược coi là công dân của nước mà người ñó cư trú thường xuyên (nguyên tắc quốc tịch hữu hiệu). Pháp luật về quốc tịch của các nước quy ñịnh rất khác nhau về việc thừa nhận một cá nhân ñược có một quốc tịch hay cùng một lúc có ñược nhiều quốc tịch. ðiều dó ñã dẫn ñến tình trạng nhiều người có cùng lúc hai hay nhiều quốc tịch nhưng cũng có nhiều người không có quốc tịch nào. Nhiều nước quy ñịnh rõ ràng, chặt chẽ nguyên tắc một người chỉ mang một quốc tịch như Cộng hòa nhân dân Trung hoa, Cộng hòa dân chủ Lào, Nhật Bản….). Nhiều nước hoặc công khai thừa nhận một người có cùng lúc nhiều quốc tịch, hoặc do các quy ñịnh trong pháp luật trong pháp luật về quốc tịch của họ tất yếu dẫn ñến tình trạng một người sẽ mang nhiều quốc tịch cùng một lúc, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của họ như Cộng hòa Pháp, Canada, Campuchia…không quy ñịnh người nhập quốc tịch của họ phải từ bỏ quốc tịch mà người ñó ñang có, cũng không quy ñịnh công dân nước mình khi nhập quốc tịch của nước khác phải thôi quốc tịch của mình. Trên thực tế, mâu thuẫn pháp luật giữa các nước có thể dẫn ñến tình trạng một người mang nhiều quốc tịch. Tình trạng một người cùng một lúc mang nhiều quốc tịch gây không ít khó khăn cho hoạt ñộng quản lý và bảo vệ công dân của Nhà nước. ðể bảo vệ và thực hiện chủ quyền quốc gia, các nước từ lâu ñã hết sức quan tâm và hạn chế tình trạng nhiều quốc tịch. Trong bản ðịnh ước Lahay ngày 12/4/1930, các nước thành viên tham gia ñã ñạt ñược sự nhất trí cao trong việc cố gắng làm giảm bớt càng nhiều càng tốt những trường hợp mang nhiều quốc tịch.21 Nguyên tắc một quốc tịch trong Luật quốc tịch năm 1998 của Việt Nam Luật Quốc Tịch Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 1998 không thừa nhận chế ñộ hai quốc tịch, theo ñó, tại ðiều 3 Luật quốc tịch năm 1998 quy ñịnh rõ: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam”. ðây là nguyên tắc xuyên suốt, ñược ghi nhận trong các văn bản pháp luật liên quan ñến vấn ñề quốc tịch của Nhà nước ta. Tuy nhiên, ñể xác ñịnh một người có 21 Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam,Trường ðại học luật Hà Nội, năm 2005, trang 252 quốc tịch Việt Nam hay không (nghĩa là người ñó có phải là công dân Việt Nam hay không) thì phải căn cứ vào các quy ñịnh của Luật Quốc tịch Việt Nam. Theo quy ñịnh của Luật Quốc tịch Việt Nam, thì người thuộc một trong các trường hợp sau ñây là người có quốc tịch Việt Nam: Cha mẹ là công dân Việt Nam, ñược sinh ra ở Việt Nam hoặc ở nước ngoài; Cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam, còn người kia là người không có quốc tịch hoặc có mẹ là công dân Việt Nam còn cha không rõ là ai, ñược sinh ra ở Việt Nam hoặc ở nước ngoài; Cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam, còn người kia là công dân nước ngoài, mà ñược sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam hoặc khi sinh ra cha mẹ ñều có nơi thường trú ở Việt Nam, trừ trường hợp cha mẹ chọn quốc tịch khác; Cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam, còn người kia là công dân nước ngoài mà ñược sinh ra ở ngoài lãnh thổ Việt Nam mà cha mẹ nhất trí chọn quốc tịch Việt Nam; Ðược sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà cha mẹ ñều là người không quốc tịch và có nơi thường trú ở Việt Nam; Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi và trẻ em ñược tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam mà không rõ cha mẹ là ai; Người ñược trở lại quốc tịch Việt Nam; Người nước ngoài hoặc người không quốc tịch, ñược Nhà nước Việt Nam cho nhập quốc tịch Việt Nam hoặc ñược nhận làm con nuôi khi còn nhỏ mà cha mẹ nuôi hoặc một trong cha mẹ nuôi là công dân Việt Nam; Trẻ em là công dân Việt Nam ñược người nước ngoài nhận làm con nuôi nhưng vẫn giữ quốc tịch Việt Nam; Người có quốc tịch Việt Nam theo quy ñịnh của ñiều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia; ðã nhập một quốc tịch khác nhưng chưa ñược Chủ Tịch Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cho thôi quốc tịch Việt Nam hay tước quốc tịch Việt Nam (ñiều 23, 24 và 32); Người ñã có quốc tịch Việt Nam mà bị mất quốc tịch Việt Nam, thôi quốc tịch Việt Nam, bị hủy bỏ quyết ñịnh cho nhập quốc tịch Việt Nam, bị tước quốc tịch Việt Nam thì không còn là công dân Việt Nam. Luật Quốc Tịch Việt Nam không thừa nhận quốc tịch thứ hai mà người Việt có thể có ñược cho ñến khi ñược phép từ bỏ hay bị tước quốc tịch Việt Nam. Do ñó, dù có thêm quốc tịch khác tịch, thì người có quốc tịch Việt Nam này vẫn ñược nhà nước Việt Nam ứng xử như là công dân của mình khi về Việt Nam, nếu họ tham gia các quan hệ pháp lý với tư cách là công dân Việt Nam thì họ sẽ ñược hưởng các quyền công dân giống như những người công dân khác trong nước, và phải có nghĩa vụ công dân như pháp luật Việt Nam quy ñịnh. Chẳng hạn như quyền bầu cử của công dân Việt Nam cư trú và làm việc ở nước ngoài trở về Việt Nam trước ngày bầu cử, có thể ñược thực hiện như sau: Công dân Việt Nam cư trú và làm việc ở nước ngoài trở về Việt Nam trước ngày bầu cử ñến Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, nơi ñăng ký thường trú hoặc tạm trú xuất trình hộ chiếu có ghi quốc tịch Việt Nam ñể ñược ghi tên vào danh sách cử tri và nhận thẻ cử tri. Theo quy ñịnh của pháp luật, trong thời gian lập danh sách cử tri; công dân có quyền bầu cử ñại biểu Quốc hội ñều ñược ghi tên vào danh sách cử tri. Mỗi cử tri chỉ ñược ghi tên vào danh sách ở một nơi mình thường trú hoặc tạm trú. Công dân Việt Nam công tác, lao ñộng, học tập, du lịch, thăm người thân hoặc ñịnh cư ở nước ngoài trở về Việt Nam trong khoảng thời gian từ sau khi danh sách cử tri ñã ñược công bố ñến trước thời ñiểm bắt ñầu bỏ phiếu 24 giờ, thì ñến Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, nơi ñăng ký thường trú hoặc tạm trú xuất trình hộ chiếu có ghi quốc tịch Việt Nam ñể ñược ghi tên vào danh sách cử tri và nhận thẻ cử tri. Nếu xét thấy công dân có ñủ ñiều kiện bầu cử theo quy ñịnh của pháp luật thì Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn ghi tên công dân ñó vào danh sách cử tri và phát thẻ cử tri cho họ ñể tham gia bầu cử ñại biểu Quốc hội.22 Pháp luật quốc tịch Việt Nam trong các thời kỳ luôn tôn trọng nguyên tắc một quốc tịch. Tuy nhiên việc thực hiện ñiều này thật khó khăn. Tình trạng nhiều quốc tịch hiện nay còn khá phổ biến do chưa mất quốc tịch nước này ñã có quốc tịch nước khác, do trẻ em sinh ra mang quốc tịch theo “quyền nơi sinh” và cả “quyền huyết thống”, do quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài…Tình trạng này trái với tính duy nhất và thống nhất của chủ quyền quốc gia ñối với công dân, gây ra những phức tạp rắc rối trong quan hệ giữa các nước. ðối với người có hai quốc tịch thì cả hai nước ñều coi người ñó là công dân của mình và do ñó có quyền ñòi hỏi người ñó thực hiện nghĩa vụ công dân, ñồng thời thực hiện bảo hộ ngoại giao. Có nhiều phức tạp xảy ra khi cả hai nước ñều bảo hộ cùng một người ở nước ngoài hoặc bảo hộ trong các trường hợp người ñó phạm pháp ở nước sở tại mà người ñó là công dân. Ở nước ta nguyên tắc một quốc tịch ñã ñược nêu ra từ Nghị quyết số 1043/NQ/UBTVQH ngày 8/2/1971 và lại ñược khẳng ñịnh tại Luật quốc tịch năm 1998. Tuy vậy, việc quy ñịnh còn chung chung và áp dụng có phần chưa triệt ñể. Thậm chí quy ñịnh của Nghị ðịnh số 37-HðBT ngày 5/2/1990 của Hội ñồng bộ trưởng còn nói rất rõ: 22 cu/10999885/304/- Việt Báo-Công dân Việt Nam ở nước ngoài ñược quyền bầu cử. “Những công dân Việt Nam ñồng thời có quốc tịch khác (do chưa mất quốc tịch Việt Nam mà ñã vào quốc tịch khác hoặc do xung ñột giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài sinh ra), khi ở nước ngoài ñược Nhà nước Việt Nam bảo hộ phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế, khi ở Việt Nam ñược ñối xử như mọi công dân Việt Nam”. Theo quy ñịnh ñó thì nguyên tắc một quốc tịch ñược quy ñịnh tại ðiều 3 Luât quốc tịch Việt Nam dường như bị phủ nhận. Nghiên cứu Luật Quốc tịch của một số quốc gia khác cho thấy có sự khác biệt với Luật Quốc tịch của Việt Nam. Ví dụ, theo quy ñịnh của nước Pháp, người xin gia nhập quốc tịch không cần phải xin thôi quốc tịch họ ñang có. Bởi vậy, nhiều người là công dân Việt Nam khi ñến làm ăn, sinh sống và ñược nhập quốc tịch của nước này vẫn giữ quốc tịch Việt Nam. Những người này khi trở về Việt Nam sinh sống có nguyện vọng ñược cấp Giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam. Nếu áp dụng nguyên tắc một quốc tịch thì khó có thể ñáp ứng yêu cầu ñó, do ñó gây khó khăn cho họ. Nhưng nếu cấp thì lại trái với nguyên tắc một quốc tịch ñược quy ñịnh trong Luật Quốc tịch. Hiện nay, cộng ñồng người Việt Nam ở nước ngoài ñã lên ñến gần ba triệu người. Do ñó, ngoài việc thực hiện các chủ trương, chính sách hỗ trợ, tạo ñiều kiện thuận lợi cho họ ổn ñịnh cuộc sống, hoà nhập vào xã hội nước sở tại, thì việc bảo vệ quyền và lợi ích chính ñáng của những người này cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Theo luật pháp và tập quán quốc tế, một quốc gia có quyền thi hành mọi biện pháp cần thiết ñể bảo vệ quyền và lợi ích chính ñáng của công dân nước mình trên lãnh thổ của quốc gia khác. ðây ñược gọi là bảo hộ ngoại giao ñối với công dân trong quan hệ quốc tế. Trên cơ sở chủ quyền quốc gia và thực hiện quyền bảo hộ ngoại giao trong quan hệ quốc tế, ðiều 5 của Luật Quốc tịch (1998) quy ñịnh: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền lợi chính ñáng của người Việt Nam ở nước ngoài. Các cơ quan nhà nước ở trong nước, cơ quan ñại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm thi hành mọi biện pháp cần thiết, phù hợp với pháp luật của nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế ñể thực hiện sự bảo hộ ñó”. Tuy nhiên, xét về nội dung, quy ñịnh này khó có thể áp dụng ñược một cách tuyệt ñối, bởi theo nguyên tắc của luật pháp quốc tế, một quốc gia chỉ có quyền bảo hộ ngoại giao ñối với công dân của mình, trừ những trường hợp ñặc biệt. Theo ñó, Việt Nam cũng chỉ có thể bảo hộ cho công dân Việt Nam ở nước ngoài chứ không có quyền bảo hộ ñối với công dân của nước khác, trừ trường hợp có thoả thuận với quốc gia liên quan. Trong khi ñó, theo khoản 3 ðiều 2 của Luật Quốc tịch thì “người Việt Nam ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người Việt Nam ñang thường trú hoặc tạm trú tại nước ngoài”. Như vậy, người Việt Nam ở nước ngoài gồm hai nhóm rõ rệt, ñó là “công dân Việt Nam” và “người gốc Việt Nam”. ðối với nhóm công dân Việt Nam thì Việt Nam mặc nhiên có ñầy ñủ cơ sở pháp lý ñể bảo hộ. Còn ñối với nhóm là người gốc Việt Nam ñang cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài thì cho ñến nay, chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể. Theo suy luận và căn cứ vào sự phân loại tại ðiều 6 và ðiều 7 của Luật Quốc tịch có thể hiểu, người gốc Việt Nam ở nước ngoài là người trước kia ñã từng có quốc tịch Việt Nam, nhưng vì lý do nào ñó mà không còn quốc tịch Việt Nam nữa, chẳng hạn như, ñã ñược nhập quốc tịch nước ngoài và ñược thôi quốc tịch Việt Nam, trường hợp này Việt Nam không thể bảo hộ, mà quyền bảo hộ ngoại giao phải do quốc gia mà hiện họ ñang là công dân thực hiện. Bên cạnh ñó, trường hợp người Việt Nam ñã nhập quốc tịch nước ngoài nhưng vẫn chưa thôi quốc tịch Việt Nam thì Việt Nam cũng rất khó bảo hộ, bởi nước sở tại sẽ tuyên bố ñây là công dân của họ, họ có quyền bảo hộ ngoại giao và không cho Việt Nam tiến hành bảo hộ, mặc dù ñây là “người Việt Nam ở nước ngoài” theo ðiều 5 của Luật Quốc tịch. Với những trường hợp người Việt Nam ở nước ngoài ñã mất quốc tịch Việt Nam nhưng chưa ñược nhập quốc tịch nước ngoài thì việc bảo hộ ngoại giao cũng rất khó tiến hành. Bởi về mặt pháp lý, họ không phải là công dân Việt Nam. Tuy nhiên, trường hợp này rất ít gặp, vì ngoài trường hợp mất quốc tịch do bị tước quốc tịch, thì những trường hợp mất quốc tịch do ñược thôi quốc tịch, mất quốc tịch theo ñiều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia và các truờng hợp khác ñược quy ñịnh tại ðiều 23 của Luật Quốc tịch thì Việt Nam ñã ñảm bảo ñến mức tối ña cho công dân sau khi mất quốc tịch Việt Nam sẽ có ñược quốc tịch của quốc gia khác, hạn chế tình trạng người không quốc tịch.23 Tuy nhiên, theo dự thảo luật quốc tịch mới thì ðiều 5 theo luật quốc tịch năm 1998 là việc Bảo hộ ñối với người Việt Nam ở nước ngoài và theo ðiều 4 dự thảo cũng quy ñịnh việc Bảo hộ ñối với công dân Việt Nam ở nước ngoài nhưng có một số ñiểm thay ñổi như sau: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền lợi chính ñáng của công dân Việt Nam ở nước ngoài”. Như vậy, theo quy 23 htpt://www.smartraveller.gov.au/tips/dualnat_vietnamese.html-Ths. Cao Nhất Linh - Giảng viên Khoa Luật–ðH Cần Thơ-Cần sửa ñổi Luật Quốc tịch nhằm ñảm bảo tính khả thi. ñịnh của dự thảo thì việc bảo hộ chỉ ñược thực hiện trong phạm vi những ñối tượng là công dân Việt Nam, quy ñịnh này thật sự mang tính khả thi trên thực tế hơn, ñơn giản là một nhà nước chỉ có thể bảo hộ cho công dân của nước mình khi họ tồn tại ở bất kỳ nơi ñâu, quyền bảo hộ cho một người trước ñây ñã có quốc tịch Việt Nam nhưng ñã thôi quốc tịch Việt Namvà trở thành công dân của nước ngoài hay người không quốc tịch ñược gọi dưới tên là “người gốc Việt Nam” thì Nhà nước Việt Nam không thể thực hiện quyền bảo hộ. Do vậy, theo quy ñịnh của dự thảo lần này sẽ ñảm bảo tính khả thi trên thực tế nhiều hơn so với luật quốc tịch Việt nam năm 1998. Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998, trãi qua hơn 9 năm thực hiện và theo thống kê của Bộ Tư pháp thì tính từ tháng 1-1999 ñến tháng 12-2007 ñã có 2.232 người ñược cấp giấy chứng nhận quốc tịch Việt Nam và con số này ñang có chiều hướng tăng trong những năm gần ñây, nhất là khi Việt Nam gia nhập WTO. Chỉ tính riêng trong 2 năm 2006 - 2007, con số này là trên 1.000 người. Trong ñó, số người xin giấy chứng nhận quốc tịch Việt Nam , chủ yếu là người Việt Nam ñang ñịnh cư ở nước ngoài (chiếm trên 80%). Bên cạnh ñó, số người xin nhập quốc tịch Việt Nam cũng lên tới 674 người và ñã giải quyết cho 231 người. Ngoài ra, trong 9 năm qua cũng có tới 61.460 người xin thôi quốc tịch Việt Nam ñể nhập quốc tịch nước ngoài, chủ yếu là người Việt Nam ñang ñịnh cư ở nước ngoài (chiếm 99,6%), còn lại là công dân Việt Nam ñang thường trú ở trong nước. 24 Theo ñánh giá của Bộ Tư pháp, sau 9 năm thực hiện luật này, công tác quốc tịch ñã có những bước phát triển mới, ñáp ứng ñược yêu cầu quản lý nhà nước về quốc tịch cũng như yêu cầu của người dân trong và ngoài nước về vấn ñề quốc tịch. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện luật này cũng ñã bộc lộ nhiều hạn chế như: thời gian giải quyết các hồ sơ về quốc tịch còn kéo dài quá thời hạn, các thủ tục pháp lý về việc xin nhập, thôi quốc tịch vẫn còn rườm rà và bất hợp lý. ðáng chú ý, việc thực hiện nguyên tắc một quốc tịch triệt ñể như quy ñịnh tại ðiều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 “Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam” ñã không ñáp ứng ñược nguyện vọng của ñại ña số kiều bào Việt Nam ñang sinh sống và làm việc tại nước ngoài, nhất là trong hoàn cảnh vị thế và uy tín của Việt Nam trên thế giới ngày càng ñược khẳng ñịnh và nâng cao. Do 24 ần Lan-Sửa ñổi bổ sung Luật Quốc tịch: Có thay ñổi nguyên tắc “một quốc tịch” ñó, hầu hết ý kiến của các cơ quan chức năng ñều thống nhất cần thiết phải sửa ñổi Luật Quốc tịch năm 1998, trong ñó việc sửa ñổi ðiều 3 của luật hiện hành ñược quan tâm hơn cả. Theo ñó, có 2 hướng ñược ñề xuất, bãi bỏ nguyên tắc một quốc tịch triệt ñể hoặc vẫn giữ nguyên nhưng sửa ñổi theo hướng mềm dẻo và linh hoạt hơn. Có nhiều ý kiến cho rằng, nên bãi bỏ nguyên tắc một quốc tịch, sau ñó giải quyết các vấn ñề khác phát sinh bằng những quy ñịnh khác ở trong luật, cũng như các văn bản dưới luật. Việc thực hiện nguyên tắc một quốc tịch hiện nay cũng ñang gây ra nhiều khó khăn trong việc quản lý người xuất nhập cảnh, nhất là những người có 2 hộ chiếu. Tuy nhiên, việc sửa ñổi luật này lại có nhiều quan ñiểm khác nhau, nếu bỏ nguyên tắc một quốc tịch mà thực hiện nguyên tắc 2 quốc tịch sẽ có nhiều vấn ñề nảy sinh liên quan tới quyền công dân mà chúng ta khó có thể giải quyết ñược. Chẳng hạn người Việt Nam ñịnh cư ở nước ngoài vừa có quốc tịch Việt Nam vừa có quốc tịch của nước sở tại thì chúng ta sẽ quản lý việc thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm công dân Việt Nam của họ như nghĩa vụ quân sự, lao ñộng công ích, thuế, bầu cử sẽ giải quyết như thế nào cho hợp lý. Do ñó việc bỏ hẳn nguyên tắc một quốc tịch hay chỉ sửa ñổi thì phải căn cứ trên nhiều lợi ích khác nhau, trong ñó lợi ích quốc gia phải ñược ñặt lên hàng ñầu, ñồng thời phải cũng phù hợp ñược với thực tiễn nhất. 25 Với khoảng gần 3 triệu người ñang sinh sống và làm việc ở khoảng 80 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. ðồng bào ra nước ngoài sinh sống vì những lý do, hoàn cảnh khác nhau nhưng vẫn là một bộ phận không thể tách rời và là một nguồn lực của cộng ñồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước. Trong 3 triệu người Việt Nam ở nước ngoài, ña phần ñã và sẽ nhập quốc tịch nước ngoài nhưng ai cũng mong muốn ñược giữ quốc tịch Việt Nam. Người Việt Nam dù ở ñâu vẫn mong muốn gắn bó với quê hương. Nhiều người từ bỏ quốc tịch Việt Nam do luật pháp bắt buộc, họ buộc phải thôi quốc tịch Việt Nam ñể nhập quốc tịch nước ngoài, nhưng họ vẫn giữ “quốc hồn” Việt Nam. Họ muốn gắn bó với Tổ quốc, dù là thế hệ thứ nhất, thứ hai, hay thứ ba26. Nhưng về nguyên tắc thì luật quốc tịch năm 1998 chỉ công nhận công dân Việt Nam chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam và trước 25 m&ID=7451-Hồng Thuý-Muốn giữ quốc tịch Việt Nam, phải ñăng ký ñịnh kỳ. 26 ần Lan-Sửa ñổi bổ sung Luật Quốc tịch: Có thay ñổi nguyên tắc “một quốc tịch”? tình hình chung của thế giới về vấn ñề quốc tịch khuyến cáo các nước giữ nguyên tắc một quốc tịch cho công dân, nhưng vẫn thừa nhận công dân của một nước có thể có nhiều quốc tịch nếu không làm phương hại ñến lợi ích của quốc gia và không ảnh hưởng tiêu cực ñến quan hệ với các quốc gia khác. Tuy nhiên, pháp luật quốc tịch Việt Nam không thừa nhận hai quốc tịch vì nếu thừa nhận một cá nhân có hai quốc tịch sẽ dẫn ñến vi phạm pháp luật do chính Nhà nước mình ñề ra và dẫn ñến nhiều khả năng tranh chấp trong việc bảo hộ công dân của nước mình khi cá nhân ñó có hai quốc tịch. Nhưng thực tế hiện nay thì hiện tượng hai quốc tịch là không thể tránh khỏi và trong khi nhu cầu cần có hai quốc tịch của người Việt Nam ngày càng nhiều và Việt Nam ñang ñứng trước thời ñiểm sửa ñổi, bổ sung Luật quốc tịch năm 1998. Với vấn ñề hai quốc tịch hay vẫn giữ nguyên nguyên tắc một quốc tịch của Việt Nam hình thành có tính lâu ñời ñang có nhiều tranh luận và dẫn tới những ñề xuất khác nhau về giải quyết vấn ñề một quốc tịch nhưng tựu chung gồm các hướng sau ñây: Cho công dân Việt Nam ñược có hai quốc tịch (Việt Nam và một nước khác).; Một quốc tịch triệt ñể (nếu nhập quốc tịch nước ngoài thì ñương nhiên mất quốc tịch Việt Nam); Hai quốc tịch nghĩa là có tịch Việt Nam và linh ñộng một số ñiểm cho Việt kiều khi ñã nhập quốc tịch nước ngoài ñược phép có lại quốc tịch Việt Nam. Theo tình hình thực tế thì phần lớn người Việt Nam ra nước ngoài ñịnh cư do nhu cầu làm ăn. Khi lớn tuổi ai cũng muốn quay trở về lại quê hương của mình. ðây là vấn ñề tình cảm. Nhiều người khi nhập quốc tịch nước ngoài họ hoàn toàn không muốn từ bỏ quốc tịch gốc của mình, nhưng vì nhiều lý do khác nhau như việc thực hiện quyền và nghĩa vụ ñối với nước sở tại và nước mà họ gọi là quê hương buộc họ phải từ bỏ quốc tịch cũ ñể có quốc tịch tại nước mà mình sinh sống cho ñược thuận tiện. Nhiều người Việt Nam sinh sống tại nước ngoài mong muốn không từ bỏ quốc tịch Việt Nam trong khi vẫn giữ quốc tịch ở nước ngoài. Trên thực tế, có nhiều người Việt Nam ñịnh cư ở nước ngoài chưa từ bỏ quốc tịch Việt Nam. Do ñiều kiện phải tìm công ăn việc làm và ñể ñược ñối xử bình ñẳng với công dân các nước sở tại, nhiều bà con ñã nhập quốc tịch của nước sở tại ñó. Trong khi ñó Luật Quốc tịch hiện tại quy ñịnh công dân Việt Nam chỉ ñược có một quốc tịch. Khi mang quốc tịch Việt Nam, bà con sẽ ñược hưởng những quyền lợi nhưng cũng phải thực hiện những nghĩa vụ của một công dân. Tuy nhiên, do ñịnh cư ở nước ngoài, với những ñiều kiện sinh sống khác biệt sẽ xảy ra trường hợp người Việt ñịnh cư ở nước ngoài không thể thực hiện ñược tất cả những nghĩa vụ giống như công dân ở trong nước như nghĩa vụ quân sự, nộp thuế…27 Theo dự thảo Luật quốc tịch sửa ñổi thì nguyên tắc một quốc tịch không còn ñược quy ñịnh nữa, chính vì thế Luật Quốc tịch sắp sửa ñổi cũng sẽ phải xem xét mở rộng những quy ñịnh ñối với trường hợp kiều bào ñược quốc gia sở tại cho phép nhập quốc tịch mà không phải từ bỏ quốc tịch gốc thì ra sao, nếu muốn xác nhận trở lại quốc tịch Việt Nam thì ñược tạo ñiều kiện thế nào. Trong trường hợp ở những nước yêu cầu phải bỏ quốc tịch gốc thì bà con sẽ phải cân nhắc, tính toán. Hiện nay ðảng, nhà nước ta ñã có những chính sách thông thoáng, cởi mở như việc miễn thị thực, mua nhà... cho Việt kiều, tạo sự yên tâm cho bà con gắn bó với quê hương.28 Nếu như sửa ñổi Luật quốc tịch mà bỏ nguyên tắc một quốc tịch thì Nhà nước phải giải quyết các hệ quả pháp lý phát sinh như quyền ñược ñi về trong nước tự do, ñược mua nhà gắn với quyền sử dụng ñất… của người mang quốc tịch Việt Nam. Nhưng khó có thể yêu cầu họ về nước thực hiện nghĩa vụ ñóng thuế, nghĩa vụ quân sự và một loạt các nghĩa vụ công dân khác. Trên mặt thực tế thì pháp luật quốc tế cho thấy chưa có quốc gia nào tuyên bố thừa nhận hai quốc tịch, và ngay cả trong pháp luật về quốc tịch dự thảo của Việt Nam cũng không tìm thấy ñiểm nào ủng hộ vấn ñề hai quốc tịch, việc công nhận một cá nhân có ñược hai quốc tịch rất hạn chế chỉ bao gồm một số ñối tượng nhất ñịnh không phải bất kỳ ai có nhu cầu hai quốc tịch ñều ñược chấp nhận, có thể nói rằng về mặt pháp lý Việt Nam vẫn tôn trọng nguyên tắc một quốc tịch. 2.3.2 Hạn chế tình trạng không quốc tịch Không quốc tịch là tình trạng pháp lý của một người không mang quốc tịch của một quốc gia nào cả. Nguyên nhân của tình trạng này là có thể do thôi ñược quốc tịch cũ nhưng chưa ñược nhập quốc tịch mới hoặc do xung ñột về pháp luật quốc tịch giữa các quốc gia trong việc xác lập quốc tịch cho ñứa trẻ mới sinh ra. Theo quy ñịnh tại 27 Pháp Luật TPHCM-Việt kiều muốn giữ quốc tịch Việt Nam 28 Theo Pháp Luật TPHCM-Việt kiều muốn giữ quốc tịch Việt Nam Khoản 2 ðiều 2 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998, “người không quốc tịch là người không có quốc tịch Việt Nam và cũng không có quốc tịch nước ngoài”. Trên thế giới và tại Việt Nam thực tế có một số người không mang một quốc tịch nào cả. Có nhiều nguyên nhân dẫn ñến tình trạng này, ví dụ, do chiến tranh họ bị kẹt tại nước khác không thể trở về nơi mang quốc tịch gốc, tiếp sau ñó hộ chiếu hết hạn mà ñại sứ quán hoặc cơ quan ñại diện ngoại giao của họ tại nước sở tại không thừa nhận quốc tịch, trong khi họ cũng không có nguyện vọng hoặc có nguyện vọng nhưng chưa ñược nước sở tại cho nhập quốc tịch, hoặc bị tước quốc tịch theo quy ñịnh pháp luật, tình trạng ñó dẫn ñến hệ quả pháp lý là những người này không mang một quốc tịch nào và họ ñược gọi là người không quốc tịch. Hoặc trong trường hợp như theo quy ñịnh của pháp luật Việt Nam không thừa nhận việc trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà có cha, mẹ hoặc chỉ có mẹ và cha mẹ ñều là người không quốc tịch nhưng tạm trú tại Việt Nam thì trẻ em này cũng không có quốc tịch…, tuy nhiên, theo quy ñịnh tại ðiều 8 Luật Quốc tịch Việt Nam hiện hành thì: “Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tạo ñiều kiện cho trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam ñều có quốc tịch và những người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam ñược nhập quốc tịch Việt Nam”. Mặc dầu pháp luật Việt Nam có quy ñịnh rõ là sẽ tạo ñiều kiện cho những ñối tượng trên có ñược quốc tịch Việt Nam nhưng trên thực tế pháp luật về quốc tịch hiện hành không có quy ñịnh rõ rằng việc tạo ñiều kiện này sẽ ñược thực hiện như thế nào cũng như chưa có một cơ sở pháp lý vững chắc nào bảo ñảm cho việc có và nhập quốc tịch Việt Nam theo quy ñịnh trên. Trên thực tế, nước ta cũng có khá nhiều người không có quốc tịch ñặc biệt ở các tỉnh phía Nam tương ñối nhiều. Trong những năm qua, do nhiều yếu tố khách quan cũng như chủ quan, việc ñề xuất các biện pháp giải quyết cho số cư dân này nhập quốc tịch Việt Nam chưa ñược mạnh dạn ñề xuất. ðiều ñó ảnh hưởng rất lớn ñến quyền lợi và nghĩa vụ công dân của bộ phận cư dân này. Bên cạnh ñó, do ñặc ñiểm nước ta trong những năm gần ñây có sự ñiều chỉnh ñường biên giới với các nước láng giềng, dẫn ñến có những bộ phận dân cư là công dân nước ngoài ñang sinh sống ổn ñịnh trên lãnh thổ nước ta muốn có quốc tịch Việt Nam, nhưng việc giải quyết vấn ñề này rất chậm vì phải theo thủ tục nhập quốc tịch trong khi các ñiều kiện, thủ tục nhập quốc tịch Việt Nam rất phức tạp 29. Nhiều người do nhiều nguyên 29 -Vũ HồngThuý-Website Chính Phủ-Hạn chế tình trạng không quốc tịch. nhân như không biết chữ hoặc không có khả năng thực hiện các thủ tục nhập quốc tịch Việt Nam nên họ vẫn tiếp tục sinh sống tại Việt Nam trong khi bản thân họ không ñược hưởng bất cứ quyền lợi nào cho cá nhân mình. Do ñó dù pháp luật có quy ñiều kiện cho nhập quốc tịch Việt Nam nhưng họ vẫn không thể nhập ñược quốc tịch do không thõa mãn ñược yêu cầu mà pháp luật ñặt ra. Thay vì tạo ñiều kiện chúng ta nên quy ñịnh cho trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam ñều có quốc tịch và những người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam ñược có hoặc nhập quốc tịch Việt Nam. Có như thế thì sẽ dễ dàng hạn chế tình trạng không quốc tịch trên lãnh thổ Việt Nam và mọi người mới dễ dàng thực hiện quyền và nghĩa vụ hơn như quy ñịnh tại dự thảo luật quốc tịch mới quy ñịnh tại ðiều 7 về việc hạn chế tình trạng không quốc tịch như sau: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tạo ñiều kiện cho trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam ñều có quốc tịch và những người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam ñược có hoặc nhập quốc tịch Việt Nam theo quy ñịnh của Luật này”. Nếu quy ñịnh tại ðiều 7 dự thảo ñược thông qua sẽ tạo ñiều kiện thuận lợi khá nhiều cho một số bộ phận dân cư sống trên lãnh thổ Việt Nam không có quốc tịch Việt Nam sẽ có ñược quốc tịch Việt Nam mà không vướng phải các ñiều kiện nhập quốc tịch phức tạp như trước ñây ñồng thời ñây cũng là một giải pháp góp phần hạn chế tình trạng không quốc tịch như hiện nay. 2.4 Những giải pháp ñề xuất kiến nghị Làm cho mọi người ý thức rõ về tầm quan trọng của quốc tịch trong ñời sống xã hội và pháp lý. Quốc tịch của mỗi cá nhân ñều gắn liền với nhân thân của cá nhân ñó và quốc tịch chính là cơ sở pháp lý vững chắc tạo nên mối quan hệ giữa một nhà nước Việt Nam với một cá nhân mang quốc tịch Việt Nam. Khi một cá nhân có quốc tịch Việt Nam thì việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy ñịnh cho họ một cách triệt ñể, nhưng ngược lại, nếu một cá nhân sống trên lãnh thổ Việt Nam mà không mang quốc tịch Việt Nam thì họ chỉ ñược thực hiện một số hành vi về quyền và nghĩa vụ hạn chế hơn so với người bản xứ. Trong trường hợp người không mang quốc tịch Việt Nam mà có quốc tịch nước ngoài mà sống trên lãnh thổ Việt Nam trong một thời gian ngắn thì quyền và nghĩa vụ ñố với họ ít quan trọng hơn tình trạng một người hoàn toàn không có quốc tịch của một nước nào mà sống trên lãnh thổ Việt Nam mang tính lâu dài. ðặc biệt là tình trạng này hiện có rất nhiều trên lãnh thổ Việt Nam, chủ yếu là các vùng gần biên giới, những người không quốc tịch này sống trên lãnh thổ Việt Nam từ rất lâu nhưng lại có một số người không có khuynh hướng nhập quốc tịch Việt Nam. Việc không nhập quốc tịch Việt Nam có thể là do họ không phải vì họ không mong muốn nhập quốc tịch Việt Nam mà do họ không ý thức ñược tầm quan trọng của quốc tịch ñối với bản thân mình. Họ không hiểu rằng, quyền của họ trên lãnh thổ Việt Nam là rất hạn chế, họ không có một số quyền cơ bản nhất ñịnh của công dân. Ngay cả người bản xứ như người Việt cũng có thể chưa hiểu hết nội dung của pháp luật về quốc tịch và những vấn ñề xoay quanh quyền và nghĩa vụ khi có quốc tịch Việt Nam. Chính vì thế, muốn giảm bớt tình trạng không quốc tịch cho một số người như hiện nay cần phải tổ chức những cuộc tuyên truyền làm chọ mọi người hiểu rõ sự cần thiết phải có quốc tịch vận ñộng các ñối tượng có ñủ ñiều kiện nhập quốc tịch Việt Nam thì xin gia nhập quốc tịch Việt Nam ñể thực hiện triệt ñể hơn các quyền cơ bản của một công dân khi sống trên lãnh thổ Việt Nam. Pháp luật cần phải thật sự tạo ñiều kiện thuận lợi cho người không có quốc tịch ñược có quốc tịch và trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà cha, mẹ không ñủ ñiều kiện xác lập quốc tịch ñược có quốc tịch Việt Nam. Pháp luật về quốc tịch không thừa nhận trong trường hợp trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà có cha mẹ hoặc mẹ là người không quốc tịch mà tạm trú tại Việt Nam có quốc tịch Việt Nam, mà chỉ quy ñịnh “tạo ñiều kiện cho trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam ñều có quốc tịch” nhưng quy ñịnh này chỉ mang tính chung chung không cụ thể, không có cơ sở pháp lý vững chắc chứng minh rằng ñứa trẻ này sẽ có quốc tịch Việt Nam nếu như rơi vào trường hợp nói trên, nếu như ñi bằng con ñường xác lập quốc tịch cho ñứa trẻ này thông qua ðiều 19 của Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998, xác ñịnh theo quốc tịch của trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ em ñược tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam, ñể có ñược quốc tịch Việt Nam thì thật sự không hợp lý vì về mặt thực tế ñứa trẻ này vẫn có ñủ cha mẹ hoặc có mẹ nên nó không phải là ñứa trẻ bị bỏ rơi, ñiều này sẽ vi phạm về mặt ñạo ñức xã hội nhưng nếu không xác ñịnh quốc tịch cho ñứa trẻ theo quy ñịnh trên thì ñứa trẻ sẽ trở thành người không quốc tịch. Chính vì thế, pháp luật quốc tịch nước ta nên thật sự tạo ñiều kiện cho những trường hợp như thế này, thừa nhận cho trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam trong trường hợp trên sẽ có quốc tịch Việt Nam thay vì tạo ñiều kiện như theo quy ñịnh hiện hành. Còn ñối với trường hợp người không có quốc tịch Việt Nam sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam từ rất lâu nhưng vẫn chưa nhập ñược quốc tịch Việt Nam do chưa thỏa mãn ñược các ñiều kiện nhập quốc tịch theo quy ñịnh của pháp luật Việt Nam thì Nhà nước cần nên có những quy ñịnh cụ thể hơn ñể hỗ trợ cho họ trong việc nhập quốc tịch Việt Nam. Theo quy ñịnh của pháp luật quốc tịch hiện hành thì ñiều kiện buộc phải có khi nhập quốc tịch Việt Nam là: Có năng lực hành vi dân sự ñầy ñủ theo quy ñịnh của pháp luật Việt Nam; Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; tôn trọng truyền thống, phong tục, tập quán của dân tộc Việt Nam; Biết tiếng Việt ñủ ñể hoà nhập vào cộng ñồng xã hội Việt Nam; ðã thường trú ở Việt Nam từ năm năm trở lên; Có khả năng bảo ñảm cuộc sống tại Việt Nam. Trong các ñiều kiện trên thì ñiều kiện khó thỏa mãn nhất của những ñối tượng là người không quốc tịch chủ yếu là chứng chỉ chứng minh trình ñộ tiếng việt theo yêu cầu của thông tư 09 của Bộ Giáo dục và ðào tạo - Bộ Tư pháp. Nếu pháp luật về quốc tịch chỉ yêu cầu “Biết tiếng Việt ñủ ñể hoà nhập vào cộng ñồng xã hội Việt Nam” mà không yêu cầu về trình ñộ về chứng chỉ thì khả năng các ñối tượng này nhập ñược quốc tịch Việt Nam là rất lớn, hầu hết người không quốc tịch sống trên lãnh thổ Việt Nam vướng phải vấn ñề này mặc dầu khả năng về trình ñộ tiếng Việt trong giao tiếp hằng ngày của họ là rất tốt nhưng do ñiều kiện sống còn khó khăn hay vì một nguyên nhân khách quan nào ñó họ không thể có ñược chứng chỉ về trình ñộ tiếng Việt theo yêu cầu của pháp luật Việt Nam, cho nên yêu cầu này ñã gây phiền hà và không khả thi trên thực tế. Trong khi ñó pháp luật về quốc tịch Việt Nam chỉ quy ñịnh miễn chứng chỉ trình ñộ tiếng việt cho một số ñối tượng cụ thể ñược quy ñịnh tại khoản 2 ðiều 20, trong quy ñịnh ñó không có ñối tượng là người không quốc tịch như thế này. Vì thế, nếu luật quốc tịch Việt Nam ñã tạo ñiều kiện cho những người này có quốc tịch Việt Nam thì nên miễn cho họ ñiều kiện này hoặc không ñòi hỏi họ phải có chứng chỉ trình ñộ tiếng Việt khi họ chứng minh ñược là bản thân mình biết tiếng việt ñủ ñể hòa nhập vào cuộc sống cộng ñồng tại Việt Nam. ðơn giản hóa các thủ tục hành chính trong việc giải quyết các vấn ñề liên quan ñến quốc tịch. Hiện nay, trình tự thủ tục giải quyết các vấn ñề liên quan ñến quốc tịch rất phức tạp, thời gian giải quyết lâu, lại qua nhiều khâu trung gian. Một ví dụ cụ thể như trong trình tự, thủ tục giải quyết hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam tại cấp tỉnh thì trong thời hạn 04 tháng, kể từ ngày Sở Tư pháp nhận ñủ hồ sơ hợp lệ Ủy ban nhân dân cấp tỉnh mới ñạo Sở Tư pháp, thẩm tra hồ sơ, trình ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, kết luận và ñề nghị Bộ Tư pháp về việc giải quyết hồ sơ ñó. Kế sau ñó là thời gian ñể giải quyết hồ sơ ñó mất vài tháng. Như vậy, một hồ sơ ñể xin nhập quốc tịch Việt Nam ñược giải quyết trong một thời gian khá dài, ñiều này gây ra nhiều khó khăn cho người xin nhập quốc tịch Việt Nam. Còn ñối với người xin thôi quốc tịch Việt Nam cũng thế, thủ tục phức tạp, thời gian kéo dài sẽ làm cho người xin thôi quốc tịch mất ñi một số cơ hội cho bản thân tại nước mà họ xin nhập quốc tịch nên thời gian giải quyết cho các vấn ñề này cần phải ñược rút ngắn hơn, tạo ñiều kiện tối ña cho người có nhu cầu. Tạo ñiều kiện cho kiều bào ở nước ngoài có lại ñược quốc tịch Việt Nam. Người gốc Việt Nam ở nước ngoài dù là người ñã thôi quốc tịch Việt Nam hoặc là người có quan hệ huyết thống với người có quốc tịch Việt Nam thì vẫn ñược xem là người Việt Nam. Và khi ñã ñược xem là người Việt Nam thì tất nhiên mỗi người trong số họ cũng có mối quan hệ gắn bó với Việt Nam với tổ quốc Việt Nam và có thể họ luôn mong muốn góp công, góp sức của mình cho sự phát triển của Nhà nước Việt Nam. Một người sống xa tổ quốc thì ít nhiều gì cũng hướng về tổ quốc của mình luôn muốn nuôi dưỡng, phát huy tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, giữ gìn truyền thống văn hóa và hướng về cội nguồn, dòng tộc, gắn bó với gia ñình, quê hương. Trong số những người Việt sống ở nước ngoài nhiều người ñã có những ñóng góp về tinh thần, vật chất và cả xương máu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất ñất nước. Nhưng do thực tế cuộc sống hoặc ñiều kiện nào ñấy buộc họ phải rời bỏ Việt Nam sang nước khác sinh sống và mất ñi quốc tịch Việt Nam, nhưng họ lúc nào cũng hướng về quê hương và luôn mong mỏi có lại quốc tịch Việt Nam ñể thực hiện ñầy ñủ hơn trách nhiệm của một công dân ñối với Nhà nước Việt Nam. Nhiều người sau thời gian sống xa tổ quốc muốn hồi hương về Việt Nam sinh sống và xác lập lại quốc tịch Việt Nam ñã mất nhưng theo các quy ñịnh của pháp luật Việt Nam thì việc xác lập quốc tịch này gặp nhiều khó khăn vấn ñề ñặt ra là họ phải từ bỏ quốc tịch nước ngoài mà họ ñang có, trong khi ñó, nhiều người một mặt muốn nhập quốc tịch Việt Nam nhưng không muốn mất ñi quốc tịch nước ngoài ñiều này là một vướng mắc khi làm các thủ tục nhập quốc tịch Việt Nam. Cho nên, pháp luật quốc tịch Việt Nam cần phải tạo ñiều kiện cho những ñối tượng thật sự muốn có lại quốc tịch Việt Nam ñược có lại quốc tịch Việt Nam mà không buộc phải từ bỏ quốc tịch nước ngoài mà họ ñang có. PHẦN KẾT LUẬN  ðể ñược gọi là công dân của Nhà nước Việt Nam thì trước hết một cá nhân phải có quốc tịch của nhà nước Việt Nam. Và khi có quốc tịch của Nhà nước Việt Nam thì cá nhân ñó sẽ có ñầy ñủ quyền và nghĩa vụ của một công dân. Quốc tịch và quyền công dân là hai yếu tố gắn liền với nhau, nếu không có quốc tịch của một nhà nước mà cá nhân ñó ñang sinh sống thì cá nhân ñó sẽ không có quyền công dân tại nước ñó, bởi quốc tịch là một chế ñịnh pháp lý thể hiện mối quan hệ hai chiều tương ứng lẫn nhau giữa một bên là Nhà nước và một bên là công dân. ðể có quốc tịch của một nước không hẳn chỉ dựa trên các nguyên tắc nguyên thủy cố hữu mà còn nhiều hình thức khác. Nếu không có quốc tịch bằng con ñường huyết thống hoặc nơi sinh thì một cá nhân vẫn có quốc tịch của một nước có thể bằng nhiều con ñường khác như dựa trên sự thỏa thuận giữa các nước về việc xác lập quốc tịch hoặc bằng con ñường xin gia nhập... Dù có quốc tịch của một nước bằng bất cứ hình thức nào miễn là hợp pháp thì sẽ ñược gọi là công dân của Nhà nước ñó và sẽ có ñầy ñủ tất cả các quyền và nghĩa vụ của một công dân. Ở Việt Nam kể từ ngày Chủ Tịch Hồ Chí Minh tuyên bố ñộc lập khai sinh ra Nhà nước Việt Nam thì quyền con người ñược khẳng ñịnh, quốc tịch Việt Nam cũng ñược hình thành. Pháp luật về quốc tịch Việt Nam hình thành từ năm 1945 gắn liền cùng với nền ñộc lập dân tộc, qua các thời kỳ lịch sử phát triển và qua các lần sửa ñổi, bổ sung năm 1988, năm 1998 thì Luật quốc tịch Việt Nam ñã ñáp ứng kịp thời nhu cầu thực tế qua từng năm ñổi mới và xu hướng phát triển chung của thế giới. Cũng giống như các nước khác pháp luật về quốc tịch Việt Nam cũng quy ñịnh các trường hợp có quốc tịch và mất quốc tịch Việt Nam và các vấn ñề khác có liên quan ñến quốc tịch. Nhưng do hoàn cảnh lịch sử của ñất nước và chế ñộ chính trị mà các quy ñịnh cũng có một số ñiểm khác nhau. Tuy vậy, pháp luật quốc tịch của Việt Nam là một văn bản pháp lý hoàn chỉnh quy ñịnh các trình tự thủ tục phù hợp với từng thời kỳ phát triển của Nhà nước Việt Nam. Văn bản pháp lý gần ñây nhất là Luật quốc tịch năm 1998, ñây là một văn bản khá toàn diện so với các văn bản từ 1945 ñến 1988. Mỗi một văn bản là một quá trình thể hiện sự phát triển của chế ñộ lập pháp tuy khác nhau nhưng tựu chung lại vẫn nhằm vào mục ñích bảo vệ chủ quyền quốc gia và ñộc lập dân tộc. Trong bài luận văn này người viết chủ yếu chỉ dựa trên Luật quốc tịch năm 1998 cùng với các văn bản có liên quan ñề làm rõ các quy ñịnh về pháp luật quốc tịch của Việt Nam. Nội dung nghiên cứu chủ yếu là quá trình hình thành và phát triển của Luật quốc tịch Việt Nam qua các thời kỳ và các chế ñịnh về xác lập quốc tịch và mất quốc tịch ñồng thời trình bày một số quan ñiểm về nguyên tắc một quốc tịch trong Luật quốc tịch năm 1998 của Việt Nam cùng một số ñiểm mới của dự thảo Luật quốc tịch ñang trong thời ñiểm sửa ñổi bổ sung. Trong việc phân tích các quy ñịnh của pháp luật quốc tịch Việt Nam người viết cũng có một số ñề xuất cá nhân xoay quanh các vấn ñề như ñơn giản hóa các thủ tục hành chính trong việc giải quyết các vấn ñề liên quan ñến quốc tịch, ñồng thời hiện nay ở Việt Nam có một số người rơi vào tình trạng không có quốc tịch và không có khả năng ñể xin nhập quốc tịch Việt Nam và trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà cha, mẹ lại là người không quốc tịch tạm trú trên lãnh thổ Việt Nam do vậy, nhà nước cần nên tạo những chính sách những ñiều kiện thật thuận lợi cho những ñối tượng này có ñược quốc tịch Việt Nam. ðồng thời ñó, nhà nước cần phải giải quyết tốt nhất các yêu cầu của kiều bào Việt Nam sinh sống ở nước ngoài có nguyện vọng xin trở lại quốc tịch Việt Nam mà bản thân những ñối tượng này vẫn muốn giữ lại quốc tịch nước ngoài mà họ ñang có. ðối với bộ phận dân cư trong nước mà ñặc biệt là ñối tượng người không quốc tịch trên lãnh thổ Việt Nam cần có biện pháp cụ thể giúp cho họ hiểu hơn tầm quan trọng của việc có quốc tịch từ ñó họ có ý thức hơn trong việc xin nhập quốc tịch Việt Nam, có như thế mới giải quyết tốt ñược tình trạng nhiều người không quốc tịch như hiện nay. ðối với bản thân thì ñây chỉ là một số ñiều ñược nhận thấy qua quá trình tìm hiểu về Luật quốc tịch và quốc tịch Việt Nam và ñề xuất, có thể chưa mang tính khoa học nhưng ñó là những gì mà bản thân ñúc kết ra ñược qua một thời gian tìm hiểu về vấn ñề quốc tịch và các chế ñịnh quốc tịch trong luật quốc tịch Việt Nam. Việt Nam hiện nay ñang ñứng trước xu hướng hòa nhập cùng với các nước trên thế giới, trong khi ñó Luật quốc tịch năm 1998 ñược xây dựng nên với tư duy còn khá cảnh giác trước tình hình gián ñiệp làm nguy hại ñến nền ñộc lập dân tộc. Trong hoàn cảnh mới của ñất nước thì tư duy ñó ñã trở nên lỗi thời không thể ñáp ứng cho nhiều vấn ñề mới phát sinh trong lĩnh vực quốc tịch hiện tại, do ñó, Việt Nam ñang ñứng trong thời ñiểm sửa ñổi Luật quốc tịch năm 1998 cần ban hành những chính sách toàn diện hơn ñể ñáp ứng tình hình chung của trong nước và xu hướng chung của thế giới, tuy nhiên, mọi vấn ñề trong quá trình xây dựng cũng nên phù hợp với tính dân tộc. TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Hiến pháp nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 sửa ñổi năm 2001. 2. Bộ Luật Dân sự Việt Nam 2005. 3. Luật quốc tịch năm 1998. 4. Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988. 5. Luật Bảo vệ và chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2005 6. Sắc lệnh số 53 ngày 20-10-1945 quy ñịnh quốc tịch Việt Nam 7. Nghị ñịnh số 104/1998/Nð/CP ngày 31.12.1998 của Chính phủ quy ñịnh chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam. 8. Thông tư số 09/1999/TT/TP-QT ngày 07.04.1999 của Bộ Tư pháp hướng dẫn việc cấp giấy chứng nhận không có quốc tịch Việt Nam. 9.Thông tư liên tịch số 09/1998/TTLT/BGD&ðT-BTP ngày 31.12.1998 của liên Bộ Giáo dục và ðào tạo và Tư pháp hướng dẫn việc cấp giấy chứng nhận trình ñộ Tiếng Việt cho người nước ngoài xin nhập quốc tịch Việt Nam. 10. Quyết ñịnh số 875/TTg của Thủ tướng ngày 21/11/1996 về việc giải quyết cho công dân Việt Nam ñịnh cư ở nước ngoài hồi hương về Việt Nam, người hồi hương 11. Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989. 12. Giáo trình Luật Hiến Pháp Việt Nam, NXB ðại học quốc gia Hà Nội năm 1999. 13. Giáo trình Luật Hiến Pháp Việt Nam, NXB Công An Nhân Dân, 1997. 14. Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam,Trường ðại học luật Hà Nội, năm 2005. 15 Tập bài giảng Tư pháp quốc tế- Khoa luật –Trường ñại học Cần Thơ, năm 2002 Bài làm còn ñược tham khảo trên các trang web spx =53&topicid=8092 ?uP_root=me&cmd=item&ID=7451

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLU7852T QU7888C T7882CH Vamp192 Camp193C CH7870 2727882NH LIamp202N QUAN amp272.PDF
Tài liệu liên quan