MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chính sáchThư viện Sách, Mỗi Ngày Một Cuốn Sách đối ngoại của Đảng là biểu hiện cụ thể của chính sách đối nội trên phạm vi quốc tếluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Quan Hệ Quốc Tế, phản ánh quan điểm, lập trường của Đảng và lợi ích của cách mạng Việt NamThư Viện Điện Tử Trực Tuyến Việt Nam.
Chính sách đối ngoại có vị trí hết sức quan trọng trong hệ thống chính sách của Đảng. Sau vấn đề phòng thủ, ngoại giao là một vấn đề cốt yếu cho một nước độc lập. Từ những ngày đầu sau Cách mạng tháng Tám, hoạt động ngoại giao đã góp phần quan trọng trong cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựngluận văn - báo cáo - tiểu luận chuyên ngành Xây Dựng chế độ dân chủ nhân dân. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đấu tranh ngoại giao có tác dụng nâng cao địa vị của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên trường quốc tế, cô lập ngày càng cao độ kẻ thù. Cuối cùng, bằng đấu tranh ngoại giao kết hợp với thắng lợi quân sự trên chiến trường, chúng ta đã buộc thực dân Pháp phải cam kết công nhận các quyền dân tộcluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Dân Tộc Học cơ bản của nhân dân ba nước Đông Dương.
Chặng đường đấu tranh đầy gay go, phức tạp giữa hai thời điểm gắn với hai Hiệp định (6/3/1946 và 21/7/1954) đánh dấu những bước trưởng thành của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cũng chính là thắng lợi của đường lối đối ngoại do Đảng và Nhà nước ta đề ra.
Bởi vậy, nghiên cứu đấu tranh ngoại giao từ tháng 3/1946 đến tháng
7/1954 để làm rõ đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chính phủ trong kháng chiến chống Pháp là điều cần thiết.
Việc nghiên cứu quá trình đấu tranh ngoại giao từ Hiệp định sơ bộ (3/1946) đến Hiệp định Giơnevơ (7/1954) không chỉ có ý nghĩa khoa học, mà còn có giá trị thực tiễn sâu sắc. Thông qua việc nghiên cứu đấu tranh ngoại
giao từ tháng 3/1946 đến tháng 7/1954, chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho đấu tranh ngoại giao trong sự nghiệp cách mạng hiện nay.
Đi sâu tìm hiểu đấu tranh ngoại giao trong kháng chiến chống thực dân Pháp còn giúp cho công tác giảng dạy phần lịch sửluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Lịch Sử dân tộc ở nhà trường phổ thông đạt chất lượng tốt hơn.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề: "Mặt trận ngoại giao từ tháng 3-1946 đến tháng 7-1954" làm đề tài Luận vănCung cấp luận văn cách ngành Thạc sĩLuận văn thạc sĩ các ngành Sử học.
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
MỞ ĐẦU . 1
1. Lý do chọn đề tài . 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài . 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu . 4
3.2. Phạm vi nghiên cứu 5
3.3. Nhiệm vụ của đề tài 5
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệutài liệu trực tuyến, tài liệu điện tử, thư viện tài liệu . 5
4.1. Phương pháp nghiên cứu 5
4.2. Nguồn tài liệu . 5
5. Đóng góp của đề tài . 6
6. Bố cục của đề tài . 6
Chương 1. ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO TRONG NHỮNG THÁNG ĐẦU SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
(9/1945 - 3/1946) . 7
1.1. Tầm quan trọng của đấu tranh ngoại giao 7
1.2. Quá trình đấu tranh ngoại giao dẫn đến Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3 năm 1946 10
1.3. Ý nghĩa của Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3 năm 1946 . 25
Chương 2. HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM
TỪ SAU NGÀY 6/3/1946 ĐẾN NĂM 1953 . 30
2.1. Từ sau ngày 6/3/1946 đến ngày 19/12/1946 30
2.2. Từ sau ngày 19/12/1946 đến n 38
2.3. Từ năm 1950 đến năm 1953 . 56
Chương 3. ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO TẠI HỘI NGHỊ GIƠNEVƠ NĂM 1954 VỀ CHẤM DỨT CHIẾN
TRANH LẬP LẠI HOÀ BÌNH Ở ĐÔNG DƯƠNG . 68
3.1. Hoàn cảnh lịch sử dẫn tới Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương . 68
3.2. Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương (8/5 - 21/ 7/ 1954) . 74
3.2.1. Mục đích cuộc đàm phán 74
3.2.2. Tiến trình cuộc đàm phán 77
3.2.3. Nội dung cơ bản của Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương 84
3.3. Ý nghĩa Hiệp định Giơnevơ . 87
KẾT LUẬN 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO . 97
123 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3735 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Mặt trận ngoại giao từ tháng 3 - 1946 đến tháng 7 - 1954, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huộc vào Mĩ. Điều đó có lợi cho Liên Xô trong
khuyến khích tham gia vào quá trình hoà dịu ở châu Âu.
Liên Xô sau Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Triều Tiên, diễn biến Đông
Dương sau Điện Biên Phủ và sự chuyển hoá lực lượng trong chính giới Pháp
ngày càng có lợi cho hoà bình kết thúc chiến tranh, đã thấy rõ khả năng đi đến
một thoả hiệp kết thúc chiến tranh. Liên Xô cho rằng đem lại hoà bình Đông
Dương phù hợp với mong muốn của Liên Xô cũng như phong trào thế giới
chống chiến tranh đòi hoà bình.
Sau chiến tranh Triều Tiên, Mĩ tích cực lập tuyến phòng thủ ở châu Á
(bao gồm Đông Bắc Á, Đông Nam Á, Nam Thái Bình Dương và Tây Bắc Á) để
đối phó với ảnh hưởng của Liên Xô, Trung Quốc và hệ quả của thắng lợi của ý
nghĩa to lớn của cuộc kháng chiến Việt Nam và Đông Dương. Mĩ lợi dụng sự
suy yếu của đồng minh, nhất là Pháp đang trong cơn nguy khốn vì chiến tranh để
ràng buộc đồng minh vào liên minh châu Âu do Mĩ chi phối và tham gia vào
hoạt động phòng thủ chung ở châu Á - Thái Bình Dương.
Điều lo ngại nhất của Mĩ về Đông Dương là trong lúc Mĩ dính líu ngày
càng sâu vào chiến tranh để viện trợ cho Pháp, Quốc hội Mĩ không đồng tình
với việc can thiệp trực tiếp bằng lực lượng quân sự. Trong khi đó, Pháp trong
tình trạng khốn quẫn dễ sẵn sàng rời bỏ Đông Dương và để "mất Đông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
77
Dương vào tay Trung Quốc, Liên Xô" - điều mà Mĩ xem là hoàn toàn trái với
lợi ích kinh tế, chính trị và an ninh trong chiến lược của Mĩ. Chủ trương của
Mĩ là vừa đe doạ để mở rộng chiến tranh, vừa tăng cường nắm vững và củng
cố nguỵ quân, nguỵ quyền chuẩn bị điều kiện để Mĩ sớm thay Pháp ở Đông
Dương. Mĩ muốn kéo dài chiến tranh để Pháp và Việt Nam cùng suy yếu,
thuận lợi cho việc Mĩ vào Đông Dương.
Đối với cuộc đàm phán ở Giơnevơ, Mĩ ngăn cản Pháp, Anh và phe ta
sớm đi đến thoả hiệp kết thúc chiến tranh. Mĩ tỏ ra không hài lòng về Hội
nghị, doạ bỏ không tham gia cuộc đàm phán để gây sức ép chống lại xu
hướng chủ hoà ở Pháp.
Như vậy, vào thời điểm đầu năm 1954, vì mục tiêu, ý đồ chiến lược khác
nhau, các nước lớn phương Tây cũng như các nước bạn bè phe ta và cả Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà đều tán thành ở mức độ khác nhau việc triệu tập Hội
nghị quốc tế ở Giơnevơ để bàn giải pháp kết thúc chiến tranh ở Đông Dương.
3.2.2. Tiến trình cuộc đàm phán
Cuộc đàm phán ở Giơnevơ phản ánh xu thế hoà hoãn giữa hai bên. Hội
nghị được triệu tập theo đề nghị của Liên Xô, được các nước phương Tây
chấp thuận. Đây là Hội nghị quốc tế đầu tiên về Đông Dương với sự tham gia
của các nước lớn Đông - Tây. Hội nghị diễn ra trong bối cảnh bước đầu có
hoà dịu Đông - Tây sau chiến khi chiến tranh Triều Tiên đã lắng dịu và quân
đội viễn chinh Pháp ở Việt Nam đang trong cơn hấp hối.
Thành phần tham dự Hội nghị gồm 9 đoàn, trong đó có 5 nước lớn (Mĩ,
Anh, Pháp, Liên Xô và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa) và 4 bên khác được
gọi là các chính phủ hữu quan (Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và ba chính
quyền "liên kết" với Pháp ở Lào, Việt Nam và Campuchia). Điều đáng chú ý
là Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tham dự cuộc họp ở Giơnevơ về vấn đề
Triều Tiên với tư cách là một bên tham chiến, thì ở Hội nghị bàn về vấn đề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
78
Đông Dương, họ tham gia với tư cách là nước lớn ở châu Á. Đây là lần đầu
tiên Trung Quốc có được vị trí như vậy, nhất là một hội nghị quốc tế đặt trong
khuôn khổ quan hệ các nước lớn, để giải quyết vấn đề hoà bình và an ninh mà
thế giới quan tâm.
Vào thời điểm các nước lớn đi đến quyết định triệu tập Hội nghị
Giơnevơ, ta cho rằng đó là "một thắng lợi của phe hoà bình, dân chủ tiến lên
một bước để làm dịu bớt căng thẳng thế giới". Ngày 10/4/1954, trong báo cáo
trước Quốc hội về chủ trương của ta đối với Hội nghị Giơnevơ, Phó Thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã nhấn mạnh lập trường của nhân dân và Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà về vấn đề lập lại hoà bình ở Đông Dương là:
hoà bình, độc lập, thống nhất và dân chủ.
Ban Bí thư Trung ương Đảng họp trong hai ngày 1 và 2/5/1954 đã chỉ
ra rằng: ta không đánh giá quá cao Hội nghị Giơnevơ, nhưng không nên bỏ lỡ
cơ hội, phải tranh thủ dư luận và tranh thủ làm cho Hội nghị Giơnevơ có thể
bắt đầu để đi đến cuộc gặp gỡ sau.
Sau thắng lợi Đông Xuân 1953-1954, qua phân tích tình hình Đông
Dương và thế giới, Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (7/1954) đã nhận định:
Những thắng lợi đó đã làm cho lực lượng so sánh ta và địch biến chuyển có
lợi cho ta nhưng chưa phải biến chuyển căn bản có tính chất chiến lược, vì
vậy, nếu đế quốc Mĩ trực tiếp tham gia chiến tranh Đông Dương thì lực lượng
so sánh giữa ta và địch sẽ có thể thay đổi không có lợi cho ta. Đồng thời
Trung ương cũng nhấn mạnh: Đế quốc Mĩ đang trở thành kẻ thù chính, trực
tiếp của nhân dân Đông Dương và Mĩ là trở lực chính ngăn cản việc lập lại
hoà bình ở Đông Dương.
Trong quá trình chỉ đạo đoàn ta ở Giơnevơ, Chính phủ ta đã đề ra
những chủ trương quan trọng:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
79
- Phương châm đấu tranh của ta tại Hội nghị là: "Tích cực, chủ động,
linh hoạt, chắc chắn".
- Ta tham gia Hội nghị với ba phương án: yêu cầu tối cao của ta là
tranh thủ đi đến một hiệp định về toàn bộ, nếu không được thì cố gắng tranh
thủ ký một số điều khoản về đình chiến. Nếu hiệp định đình chiến không đạt
được thì cố gắng tranh thủ một hội nghị sau lại bàn.
Hội nghị phải tập trung giải quyết 4 vấn đề lớn trong một giải pháp kết
thúc chiến tranh:
- Vấn đề đình chiến và khu vực tập kết;
- Vấn đề hoà bình, độc lập, thống nhất và dân chủ;
- Vấn đề quân sự, chính trị trong mối quan hệ giữa ba nước Đông
Dương và giữa ba nước này với bên ngoài;
- Vấn đề quan hệ với nước Pháp.
- Ngoài ra, ta còn kiên trì lập trường: Quân đội nước ngoài phải rút hết
khỏi Việt Nam, Lào và Campuchia; không có căn cứ quân sự nước ngoài nào
ở ba nước; quân đội Pháp chia từng bước rút hết khỏi Đông Dương; Pháp và
các nước khác phải thừa nhận và tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, Lào và
Campuchia; quan hệ giữa các nước Đông Dương với bên ngoài phải dựa theo
nguyên tắc tôn trọng độc lập, bình đẳng, hai bên cùng có lợi và tuỳ tình hình
từng nước mà định ra việc đình chỉ chiến sự, tổ chức tổng tuyển cử tự do để
thành lập Chính phủ thống nhất ở mỗi nước. Ta cũng nêu ra đòi hỏi phải có
đại diện của lực lượng kháng chiến Lào và Campuchia tham dự Hội nghị.
Cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán giữa hai bên diễn ra gay gắt. Có thể
khái quát thành ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: Từ khi khai mạc Hội nghị ngày 8/5 đến ngày 19/6/1954.
Nội dung chính là các đoàn dự Hội nghị trình bày lập trường của mình trong
vấn đề kết thúc chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
80
Ngay trong ngày khai mạc Hội nghị, ông Biđôn (Bidault), Trưởng phái
đoàn Pháp đã phát biểu nêu lên giải pháp 5 điểm của phía Pháp:
1. Tập kết quân đội hai bên vào các vùng quy định;
2. Giải pháp các lực lượng dân quân du kích;
3. Trao trả tù binh và dân thường bị bắt;
4. Kiểm soát quốc tế;
5. Đình chỉ chiến sự
Lập trường của Pháp lúc này là muốn Hội nghị chỉ giải quyết vấn đề
quân sự để đạt đến mục đích đình chỉ chiến sự, mà không nói gì đến vấn đề
chính trị và khăng khăng đòi tách vấn đề Lào, Campuchia ra khỏi vấn đề Việt
Nam, đòi Việt Nam đơn phương rút khỏi Lào, giải giáp lực lượng dân quân,
du kích, trao trả tù binh, lập cơ quan kiểm soát quốc tế ở Lào và Campuchia.
Ngày 10/5/1954, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã trình bày lập
trường đàm phán của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên cơ sở hoà bình, độc
lập, thống nhất và dân chủ, đồng thời đề ra giải pháp 8 điểm cho việc chấm
dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam và Đông Dương.
1. Pháp công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt
Nam, Lào và Campuchia.
2. Ký một hiệp định về rút quân đội nước ngoài ra khỏi Việt Nam,
Campuchia và Lào trong thời hạn do các bên tham chiến ấn định. Trước khi
rút quân, đạt thoả thuận về nơi đóng quân của lực lượng Pháp hay Việt Nam
trong một số khu vực hạn chế;
3. Tổ chức tổng tuyển cử tự do trong ba nước nhằm thành lập chính phủ
duy nhất cho mỗi nước;
4. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố ý định xem xét việc tự nguyện
gia nhập Liên hiệp Pháp và những điều kiện của việc gia nhập đó. Các Chính
phủ Campuchia và Lào cũng ra những tuyên bố tương tự.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
81
5. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Campuchia và Lào thừa nhận các
quyền lợi kinh tế, văn hoá của nước Pháp ở ba nước. Sau khi các Chính phủ
duy nhất được thành lập, các quan hệ kinh tế và văn hoá được giải quyết theo
đúng nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi;
6. Hai bên cam kết không truy tố những người hợp tác với đối phương
trong thời gian chiến tranh;
7. Trao tù binh;
8. Các biện pháp nói trên sẽ được thực hiện sau khi đình chỉ chiến sự.
Pháp và ba nước Đông Dương ký hiệp định về từng nước trên cơ sở dưới đây:
a. Ngừng bắn trên toàn Đông Dương đồng thời với việc điều chỉnh các
lãnh thổ và khu vực mà các bên chiếm giữ;
b. Ngừng việc đưa thêm quân đội mới, vũ khí và đạn dược vào Đông
Dương;
c. Thiết lập một hệ thống kiểm soát của Uỷ ban Liên hợp gồm các đại
diện của các bên tham chiến.
Đề nghị của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có tính toàn diện cả về quân
sự và chính trị, nhấn mạnh đến việc Pháp và các nước khác phải thừa nhận
chủ quyền, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào,
Campuchia, quân đội nước ngoài phải rút khỏi ba nước Đông Dương, coi đó
là cơ sở quan trọng nhất cho giải pháp kết thúc chiến tranh, lập lại hoà bình ở
Đông Dương.
Dư luận nước Pháp, Anh và các nước Đông Âu, châu Á cho đó là lập
trường ôn hoà có nguyên tắc, góp phần quan trọng thúc đẩy cuộc đàm phán
đi đến kết quả. Vì vậy, Chủ tịch Hội nghị đưa ra quyết định lấy bài phát biểu
của Trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và đoàn Pháp làm cơ sở cho
cuộc thảo luận tại Hội nghị về một giải pháp kết thúc chiến tranh Đông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
82
Dương. Nghĩa là vấn đề quân sự và chính trị sẽ được thảo luận song song tại
cuộc đàm phán.
Cuộc đấu tranh ở Giơnevơ trong giai đoạn đầu còn chịu nhiều tác động
của các sự kiện đáng chú ý khác. Sau Điện Biên Phủ, ta tấn công và giải
phóng nhiều khu vực, tỉnh, thành quan trọng ở đồng bằng Bắc Bộ. Ngày
25/5/1954, tướng Nava (Navarre) được Chính phủ Pháp trao cho quyền quyết
định việc tổ chức phòng thủ hoặc rút khỏi Hà Nội khi cần để tránh một Điện
Biên Phủ thứ hai. Ngày 27/5 và 16/6/1954, đoàn Trung Quốc trình bày 6 điểm
về đình chỉ chiến sự ở ba nước Đông Dương, chưa đề cập mặt chính trị của
giải pháp. Ngày 3/6/1954, cuộc họp quân sự cấp cao Anh, Mĩ, Pháp tại
Oasinhtơn kết thúc mà không tìm ra phương thức giúp Pháp về quân sự ở
Đông Dương. Thủ tướng Chu Ân Lai có cuộc gặp quan trọng với Ngoại
trưởng Pháp Biđôn (Bidault) và Ngoại trưởng Anh Êđen bên lề Hội nghị vào
ngày 16 và 17/6/1954. Đáng chú ý là ngày 14/6/1954, Mĩ báo cho Pháp biết
thời cơ để Mĩ can thiệp vào Đông Dương đã qua rồi và ngày 18/6/1954, Ngô
Đình Diệm được đưa lên làm Thủ tướng thay thế Chính phủ Bảo đại thân
Pháp.
Giai đoạn II: Là thời kỳ các Trưởng đoàn về nước báo cáo và trao đổi
bên ngoài hội nghị. Bắt đầu từ ngày 20/6-10 đến ngày 7/1954, Hội nghị làm
việc ở cấp chuyên viên và đạt được kết quả kỹ thuật về vấn đề thương binh ở
Điện Biên Phủ... Thời gian này diễn ra một sự kiện chính trị ở Pháp là việc
Chính phủ Lanien bị đổ (12/6/1954) và Măngđét Phrăng (Mendes France) lên
thay đã có cuộc trao đổi ý kiến quan trọng với Thủ tướng Chu Ân Lai (tại
Bécnơ, Thuỵ Sĩ). Cuộc họp cấp cao giữa Thủ tướng và Ngoại trưởng Anh với
Tổng thống và Ngoại trưởng Mĩ tại Oasinhtơn ngày 24/6/1954 bàn về vấn đề
Đông Dương đã đề ra 7 điều kiện về một thoả thuận đình chiến ở Việt Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
83
và Đông Dương, trong đó nhấn mạnh điều kiện dành cho phương Tây, phần
lãnh thổ phía Nam và một vùng ổn định của phía kháng chiến; tự do di cư.
Ngay sau chuyến thăm Ấn Độ của Thủ tướng Chu Ân Lai, tuyên bố về 5
nguyên tắc chung sống hoà bình Trung - Ấn ra đời.
Cuộc gặp giữa Thủ tướng Chu Ân Lai và Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn ra
tại Liễu Châu (Trung Quốc) từ ngày 3 đến 5/7/1954. Hai bên đã trao đổi ý
kiến thẳng thắn và toàn diện về những vấn đề trong giải pháp kết thúc chiến
tranh ở Đông Dương, nhất là vấn đề phân vùng tập kết, giới tuyến quân sự
tạm thời và thời hạn của cuộc tổng tuyển cử để thống nhất hai miền.
Như vậy là, giai đoạn II của Hội nghị, thông qua thương lượng và bàn
cãi gay go bên ngoài Hội nghị, đã tạo cơ sở chung của cả hai phía cho việc
tiến đến thoả hiệp cuối cùng.
Giai đoạn III: Kết thúc cuộc thương lượng, bắt đầu từ ngày 11 đến
ngày 20/7/1954. Đây là thời kỳ đấu tranh gay go nhất, quyết định nhất của
cuộc đàm phán, tập trung vào những vấn đề trọng yếu như phân vùng tập kết,
giới tuyến quân sự tạm thời, rút quân đội nước ngoài khỏi Đông Dương, thời
hạn tổng tuyển cử, vấn đề đình chiến ở Campuchia và Lào... Nổi bật trong các
cuộc đàm phán đa phương hoặc tay đôi để tháo gỡ những vấn đề bế tắc là các
cuộc gặp gỡ và thảo luận giữa Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Thủ tướng
Pháp Măngđét Phrăng trong các ngày 13, 16 và 19/7/1954. Lúc này, Mĩ cũng
quay trở lại với diễn đàn Hội nghị. Giôn Xmít (John Smith), Thứ trưởng
Ngoại giao Mĩ thay Ngoại trưởng Đalét (J.F.Dulles) làm Trưởng đoàn.
Qua 10 ngày đấu tranh, bàn cãi gay go ở các diễn đàn khác nhau, những
vấn đề then chốt gay cấn được tháo gỡ bằng những thoả hiệp của cả hai phía.
Đêm 20, rạng ngày 21/7/1954, Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh,
lập lại hoà bình ở Đông Dương được ký kết. Đoàn Mĩ không tham gia ký kết,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
84
nhưng đã ra một bản tuyên bố riêng cam kết tôn trọng những điều khoản của
Hiệp định.
3.2.3. Nội dung cơ bản của Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh,
lập lại hoà bình ở Đông Dƣơng
Hiệp định Giơnevơ gồm các văn bản với những nội dung chủ yếu sau đây:
a. Văn bản được coi là quan trọng nhất thể hiện sự nhất trí của các
Đoàn tham gia Hội nghị là "Tuyên bố cuối cùng của Hiệp định Giơnevơ".
Tuyên bố gồm 13 điều, lược trích như sau:
1. Hội nghị được chứng nhận các bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở
Cao Miên, Lào và Việt Nam.
2. Hội nghị tin tưởng việc thi hành bản tuyên bố và các Hiệp định đình
chỉ chiến sự sẽ làm cho Cao Miên, Lào, Việt Nam từ nay có thể đảm nhận độc
lập, chủ quyền hoàn toàn của mình.
3. Hội nghị chứng nhận tuyên bố của hai Chính phủ Cao Miên và Lào
về việc để tất cả mọi công dân tham gia tổng tuyển cử tự do tiến hành trong
năm 1955.
4. Hội nghị chứng nhận những điều khoản cấm đưa vào Việt Nam
quân đội, nhân viên quân sự ngoại quốc, cũng như vũ khí đạn dược; chứng
nhận những tuyên bố của Chính phủ Cao Miên và Lào chỉ yêu cầu viện trợ
quân sự, nhân viên, huấn luyện viên trong phạm vi cần thiết để bảo vệ lãnh
thổ hiệu quả.
5. Hội nghị chứng nhận về Hiệp định về Việt Nam khẳng định rằng
không được thành lập căn cứ quân sự nước ngoài ở hai miền, không tham gia
liên minh quân sự; chứng nhận những tuyên bố của hai Chính phủ Cao Miên
và Lào nói rằng sẽ không ký kết bất cứ hiệp định nào với nước khác buộc họ
phải tham gia một khối liên minh quân sự không phù hợp với nguyên tắc của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
85
Hiến chương Liên hợp quốc, hoặc nếu hiệp định đó buộc họ phải lập những
căn cứ quân sự nước ngoài khi mà an ninh hai nước đó không bị đe doạ.
6. Hội nghị chứng nhận rằng mục đích căn bản của Hiệp định về Việt
Nam là cách giải quyết các vấn đề quân sự để đình chỉ chiến sự và giới tuyến
quân sự chỉ có tính chất tạm thời, hoàn toàn không thể coi là một ranh giới về
chính trị hay về lãnh thổ.
7. Hội nghị tuyên bố đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề
chính trị, thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ; cuộc tổng tuyển cử tự do sẽ tổ chức tháng 7 năm 1956; kể từ
ngày 20 tháng 7 năm 1955, hai bên sẽ gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó.
8. Phải để cho tất cả mọi người Việt Nam tự do lựa chọn vùng họ muốn
sinh sống.
9. Ở Bắc và Nam Việt Nam, Lào và Cao Miên không được báo thù
những người đã hợp tác với một trong hai bên trong chiến tranh.
10. Hội nghị chứng nhận tuyên bố của Chính phủ Pháp khẳng định việc
sẵn sàng rút quân đội Pháp khỏi Cao Miên, Lào và Việt Nam, trừ trường hợp
do thoả thuận hai bên, một số có thể ở lại những điểm nhất định trong thời
gian nhất định.
11. Hội nghị chứng nhận tuyên bố của Chính phủ Pháp sẽ tôn trọng độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Cao Miên, Lào và Việt Nam.
12. Trong quan hệ với Cao Miên, Lào, Việt Nam mỗi nước tham gia
hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của nhau và không can thiệp vào nội trị của các nước đó.
13. Các nước tham gia hội nghị sẽ tham khảo ý kiến nhau về mọi vấn
đề mà Ban giám sát và kiểm soát quốc tế chuyển tới, nhằm nghiên cứu những
biện pháp cần thiết bảo đảm tôn trọng các hiệp định đình chỉ chiến sự.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
86
b. Qua cuộc đấu tranh gay gắt trong các cuộc thương lượng chính thức
và tại hành lang của Hội nghị, các bên đã đi đến ký được bản Hiệp định về
đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào và Cao Miên.
Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam có 6 chương với 47 điều
khoản, các chương gồm các vấn đề lớn:
- Giới tuyến quân sự tạm thời và khu phi quân sự gồm 9 điều khoản,
trong đó quy định việc Quân đội nhân dân Việt Nam tập kết ở phía Bắc, quân
đội Liên hiệp Pháp ở phía Nam giới tuyến, với một khu phi quân sự; thời hạn
di chuyển hoàn toàn lực lượng hai bên không vượt quá 300 ngày.
- Nguyên tắc và cách thức thi hành hiệp định, gồm 6 điều khoản, trong
đó theo nguyên tắc ngừng bắn trên toàn cõi Đông Dương, sự đình chỉ chiến sự
phải đồng thời trên toàn cõi Việt Nam.
- Cấm đưa thêm quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí đạn dược mới, căn
cứ quân sự, gồm 5 điều khoản, trong đó cấm không được đưa thêm vào Việt
Nam quân đội đội và nhân viên quân sự, vũ khí, dụng cụ chiến tranh, tuy
nhiên cho phép thay thế ngang cấp, một thay một; cấm không được lập căn cứ
quân sự ngoại quốc, không gia nhập liên minh quân sự, không bị sử dụng để
gây lại chiến tranh hoặc phục vụ cho một chính sách xâm lược.
- Tù binh và thường dân bị giam giữ, gồm một điều khoản, quy định tất
cả tù binh và thường dân Việt, Pháp hoặc quốc tịch khác bị giam giữ từ đầu
chiến tranh sẽ được tha trong vòng 30 ngày.
- Mục linh tinh, gồm 6 điều khoản, trong đó quy định Tư lệnh hai bên
trừng phạt những người thuộc quyền mình làm trái điều khoản hiệp định; cho
phép các chuyên viên liên quan vào trong vùng của phía bên kia lấy thi hài
của quân nhân hoặc tù binh chết...
- Ban Liên hợp và Ban Quốc tế ở Việt Nam, gồm 17 điều khoản, trong
đó quy định thành lập một Ban Liên hợp, với một số đại biểu bằng nhau của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
87
Bộ Tổng tư lệnh hai bên; thành lập một Ban Quốc tế giám sát và kiểm soát
thực hiện hiệp định gồm các nước Ấn Độ, Ba Lan, Canađa, với số đại biểu
bằng nhau, do Ấn Độ làm Chủ tịch.
c. Ngoài ra, còn có các tuyên bố đơn phương của Pháp về việc sẵn sàng
rút quân khỏi ba nước Đông Dương và tôn trọng độc lập, chủ quyền của ba
nước Việt - Miên - Lào; của Vương quốc Lào về việc không tham gia chính
sách xâm lược; của Vương quốc Campuchia về việc bảo đảm quyền tự do của
công dân Miến Điện trong phiên họp bế mạc, chiều ngày 21/7, các Trưởng
đoàn của Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam đã đưa ra tuyên bố riêng.
Đại diện của Chính phủ Hoa Kỳ cũng ra tuyên bố cam kết Mĩ sẽ
không dùng vũ lực phá hoại các Hiệp định và 12 điều đầu tiên của Tuyên
bố chung, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và sẽ xem mọi hành
động xâm lược mới là vi phạm các Hiệp định và đe doạ hoà bình và an ninh
quốc tế. Tại Washington, ngày 21/7, Tổng thống Mĩ Aixenhao tuyên bố:
"Tôi không có gì phê phán cái đã làm được ở Giơnevơ bởi vì tôi không có
một giải pháp thay thế".
Như vậy là Hiệp định đình chỉ chiến sự - những văn bản duy nhất được
ký kết và tuyên bố cuối cùng do các bên tham gia hội nghị thoả thuận trong
hai ngày 20 và 21/7 cùng với các tuyên bố đơn phương tôn trọng Hiệp định
của Chính phủ Mĩ, Pháp, Liên Xô, Trung Quốc đã tạo thành khung pháp lý
của Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương.
Nhân dịp kết thúc Hội nghị, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Thủ
tướng Pháp M.France đã trao đổi các công hàm về các quan hệ giữa hai nước
Việt - Pháp trong thời gian tới.
3.3. Ý NGHĨA HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
88
Với nội dung trên, Hiệp định Giơnevơ về "chấm dứt chiến tranh, lập
lại hoà bình ở Đông Dương" được dư luận rộng rãi trên thế giới hoan
nghênh, làm cho dư luận thế giới thấy được quyết tâm giành độc lập, tự do
của nhân dân ta, đồng thời cũng nhận rõ thiện chí hoà bình, lòng mong muốn
giải quyết xung đột bằng biện pháp hoà bình thông qua thương lượng của
Đảng và Nhà nước ta.
Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (7/1954) cho rằng: do tình hình mới ở
trong nước và thế giới hiện nay, Hội nghị hoàn toàn đồng ý với đường lối của
Hồ Chủ tịch và Bộ Chính trị trong thời gian vừa qua: dùng phương pháp
thương lượng để lập lại hoà bình ở Đông Dương.
Sau khi Hiệp định được ký kết, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định ý
nghĩa to lớn của giải pháp đã đạt được ở Giơnevơ, đồng thời nêu lên những
nhân tố đưa đến thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương.
Trong lời kêu gọi ngày 22/7/1954, Hồ Chủ tịch nêu rõ: "Hội nghị
Giơnevơ đã kết thúc. Ngoại giao ta đã thắng lợi to...
Chúng ta giành được thắng lợi to lớn cũng là do nhân dân các nước
bạn, nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới ủng hộ cuộc
đấu tranh chính nghĩa của ta" [64, tr.321].
Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta (9/1954) nhận định:
Hội nghị Giơnevơ đã đi đến thoả thuận lập lại hoà bình ở Đông Dương, đã ký
kết hiệp định đình chiến ở Việt Nam, Lào và Campuchia... Thắng lợi to lớn đã
kết thúc ách thống trị của thực dân Pháp ở miền Bắc, làm cho nhân dân miền
Bắc được hoàn toàn giải phóng, tạo nên những điều kiện thuận lợi cho công
cuộc hoà bình kiến thiết nước Việt Nam sau này...
Tại Đại hội Đảng lần thứ III (9/1960), Báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã khẳng định: Việc lập lại hoà bình ở Đông Dương,
hoàn toàn giải phóng miền Bắc Việt Nam và đặt cơ sở pháp lý cho việc thống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
89
nhất nước Việt Nam là một thắng lợi của nhân dân ta, đồng thời là một thắng
lợi của phe xã hội chủ nghĩa, hoà bình và dân chủ trên thế giới. Nó phản ánh
tình hình lực lượng so sánh ở Đông Dương và trên thế giới lúc bấy giờ. Thắng
lợi to lớn đó không những tạo ra khả năng để thực hiện hoà bình thống nhất
nước ta trên cơ sở độc lập và dân chủ, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho
cuộc cách mạng ở miền Bắc tiến lên một giai đoạn mới.
- Tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ III (14/1/1964) Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã phân tích: "Sau kháng chiến, đến Hội nghị Giơnevơ năm 1954, lúc
đó thì ngoại giao của ta thành quốc tế rồi. Ta đã có Liên Xô, Trung Quốc và
các anh em khác giúp đỡ. Lúc đó, trong nước ta thắng, nên ngoài nước cũng
thắng, nó ảnh hưởng lẫn nhau... Hồi đó, nếu ta không nhận hoà bình thì tức
là mắc mưu Mĩ. Tất nhiên thắng lợi thu được cũng là do mình có Điện Biên
Phủ, ngoài ra, lại còn có sự giúp đỡ của các nước anh em nữa" [45, tr.11].
Đánh giá một cách toàn diện và khách quan về Hiệp định Giơnevơ năm
1954, tháng 11/1988, Thường vụ Đảng uỷ quân sự Trung ương đã nêu một số
kết luận như sau:
Với Hiệp định Giơnevơ 1954, tuy ta chưa hoàn thành mục tiêu giải
phóng cả nước, nhưng đã đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng; đánh bại đế
quốc Pháp, giải phóng miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành hậu phương vững
mạnh, chuẩn bị điều kiện để tiến hành cuộc kháng chiến chống Mĩ sau này.
Đây là một thắng lợi vĩ đại của một nước nhỏ đánh thắng một đế quốc to,
thắng lợi oanh liệt của cuộc chiến tranh nhân dân đầu tiên ở nước ta do Đảng
lãnh đạo. Thắng lợi đó góp phần phát triển cách mạng Lào và Campuchia, cổ
vũ phong trào giải phóng dân tộc, mở đầu quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực
dân cũ trên thế giới...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
90
Ta ký Hiệp định Giơnevơ là đúng lúc, kết thúc kháng chiến chống Pháp
là phù hợp, phản ánh đúng so sánh lực lượng ta, địch trên chiến trường và
hoàn cảnh quốc tế lúc đó. Vì lúc này, về phía địch, thực dân Pháp tuy thất bại
lớn, nhưng còn lực lượng và đứng sau là đế quốc Mĩ đang có mưu đồ trực tiếp
can thiệp vào chiến tranh Đông Dương. Còn ta lúc đó tuy đang thắng to,
nhưng cũng có những khó khăn mới, chưa đủ điều kiện tiếp tục chiến tranh để
giải phóng cả nước. Trên trường quốc tế, các nước anh em, trong đó có Liên
Xô và Trung Quốc, đều muốn có hoà bình để xây dựng đất nước và đều muốn
cuộc chiến tranh ở Đông Dương đi tới một giải pháp .
Đặt Hiệp định Giơnevơ trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, phân tích
vấn đề theo quan điểm toàn diện và phát triển, Chủ tịch Hồ Chí Minh thẳng
thắng nhận xét: "... có người thấy thắng luôn, muốn đánh bừa, đánh đến cùng,
họ chỉ thấy cây không thấy rừng, chỉ thấy Pháp rút mà không thấy âm mưu
của chúng; chỉ thấy Pháp không thấy Mĩ, thiên về tác chiến, xem khinh ngoại
giao" [64, tr.318].
Như lịch sử đã chứng minh, Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương có ý
nghĩa to lớn trong việc thúc đẩy tiến trình đấu tranh của nhân dân ta cho tự
do, độc lập, hoà bình.
Một là, Hiệp định đã ghi nhận thắng lợi to lớn có tính bước ngoặt của
cuộc đấu tranh kiên cường của nhân dân ta, vì độc lập, tự do của dân tộc. Nó
xác nhận trên phạm vi quốc tế sự thất bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm
lược quy mô lớn của đế quốc hùng mạnh, được ghi nhận trong lịch sử như
một bước mở đầu có tính quyết định cho sự sụp đổ hoàn toàn hệ thống thực
dân trên quy mô toàn cầu. Đồng thời, nó có tác dụng trực tiếp ngăn chặn âm
mưu can thiệp, tăng cường mở rộng chiến tranh, dùng chiến tranh và đe doạ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
91
vũ lực để thúc ép, lôi kéo các nước độc lập dân tộc vào các liên minh quân sự,
chính trị, đặt các nước này dưới các ô bảo vệ của Mĩ và phương Tây, gây đối
đầu căng thẳng trong quan hệ quốc tế, phục vụ cho yêu cầu chiến lược của Mĩ
và phương Tây.
Hai là, Hiệp định Giơnevơ là một giải pháp đồng bộ về chính trị và
quân sự. Nó vượt ra ngoài ý đồ ban đầu của các nước lớn định giới hạn
Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương trong khuôn khổ một hiệp định ngừng
bắn đơn thuần.
Ba là, ở Hội nghị Giơnevơ, ta gặp nhiều hạn chế về khuôn khổ đàm
phán và phương thức thương lượng. Có một số vấn đề chưa thống nhất
được giữa các đoàn của các nước anh em; chưa có kinh nghiệm trong đàm
phán đa phương nhất là với các nước lớn; chưa thấu hiểu hết ý định chiến
lược của họ khi bước vào cuộc thương lượng nên có lúc chưa phát huy hết
tính chủ động, độc lập tự chủ trong quá trình đàm phán. Song nhờ kiên trì
phấn đấu và với sách lược linh hoạt, ta đã đạt được những yêu cầu cơ bản,
buộc các nước lớn phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và
quyền tự quyết dân tộc.
Hơn nữa, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, gắn liền với hệ thống
xã hội chủ nghĩa trở thành căn cứ địa vững chắc cho cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ ở miền Nam, đồng thời là hậu phương quan trọng để làm nghĩa vụ
quốc tế đối với Lào và Campuchia.
Ý nghĩa to lớn của Hiệp định Giơnevơ là đã buộc quân đội nước ngoài
phải rút hết khỏi Đông Dương và ghi nhận các nước trên bán đảo này sẽ
không tham gia liên minh quân sự với bên ngoài. Điều đó chẳng những tạo
lập được môi trường hoà bình ổn định cho việc tái thiết Đông Dương sau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
92
chiến tranh mà còn đưa đến làm thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho xu
hướng đấu tranh vì độc lập tự do, hoà bình ở mỗi nước Đông Dương.
Đặt Hiệp định Giơnevơ trong bối cảnh lúc đó, khi trả lời phỏng vấn của
tờ: "Nhật báo công nhân Anh" về Hiệp định Giơnevơ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh: "Tôi cho rằng những điều khoản quan trọng nhất là: phải tôn
trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và lãnh thổ toàn vẹn của nước Việt
Nam; không nước nào được lập căn cứ quân sự ở nước Việt Nam; Việt Nam
không liên minh quân sự với bất kỳ nước nào; thi hành quyền tự do dân chủ,
tạo điều kiện thuận lợi để lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền Nam Bắc
đặng đi tới thực hiện thống nhất nước nhà" [64, tr.458].
Hiệp định Giơnevơ đã tạo ra những tiền đề cơ bản về pháp lý quốc tế
để nhân dân ta bước vào cuộc chiến đấu trong giai đoạn mới, giành thắng lợi
quyết định trong sự nghiệp chống Mĩ cứu nước vĩ đại sau này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
93
KẾT LUẬN
1. Đấu tranh ngoại giao trong thời kỳ từ tháng 3/1946 đến tháng 7/1945
phản ánh lợi ích của dân tộc Việt Nam, phục vụ cuộc đấu tranh vì độc lập tự
do vì hoà bình và dân chủ.
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hoà hiếu, nhân đạo và hoà bình,
có ý thức sâu sắc về chủ quyền quốc gia, hữu nghị với các nước láng giềng,
khiêm nhường với nước lớn. Trước những thế lực xâm lược lớn mạnh, ông
cha ta đã kết hợp việc giành thắng lợi về quân sự, kết hợp với giải pháp ngoại
giao để kết thúc chiến tranh.
Với ngọn cờ độc lập dân tộc và ý chí "Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", Đảng và Hồ Chí Minh
luôn ý thức đầy đủ về các quyền dân tộc cơ bản; yêu chuộng hoà bình, nhưng
kiên quyết chống chiến tranh xâm lược; phát huy cao độ tinh thần độc lập tự chủ,
đồng thời coi trọng đoàn kết quốc tế; hữu nghị với các nước láng giềng, khéo léo
trong quan hệ với các nước lớn; cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược,
bình tĩnh trong những lúc nguy nan; biết lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ
thù, phân hoá kẻ thù, nhân nhượng có nguyên tắc với kẻ thù, vừa đánh vừa đàm.
2. Đấu tranh ngoại giao trong thời kỳ từ tháng 3/1946 đến tháng 7/1954
gắn liền với cách tư duy và hoạt động đối ngoại của Hồ Chí Minh. Không chỉ
là người đặt nền móng cho ngoại giao Việt Nam thời hiện đại, Chủ tịch Hồ
Chí Minh còn đích thân đứng ra đảm nhiệm việc tổ chức và thực hiện nhiệm
vụ ngoại giao trong những tháng đầu cực kì khó khăn. Người xác định rõ
quan hệ giữa Việt Nam và thế giới, giữa dân tộc và thời đại: Tinh thần yêu
nước và tinh thần quốc tế liên hệ khăng khít với nhau. Vì lẽ đó, ta vừa ra sức
kháng chiến, vừa tham gia phong trào ủng hộ hoà bình thế giới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
94
Bằng những hoạt động tích cực và tư duy nhạy bén, sáng tạo, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã góp phần làm xoay chuyển vận nước trong lúc nguy nan,
từng bước cải thiện quan hệ quốc tế, gắng sức vận dụng những điểm tương
đồng, khai thác mọi khả năng có thể để tìm kiếm bạn đồng minh trong những
điều kiện lịch sử vô cùng phức tạp, từng bước tiến đến thắng lợi cuối cùng.
3. Từ tháng 3/1946 đến tháng 7/1954 là một chặng đường phát triển của
đấu tranh ngoại giao Việt Nam, được mở đầu bằng việc kí Hiệp định sơ bộ và
kết thúc bằng việc kí Hiệp định Giơnevơ. Đó là chặng đường đấu tranh đầy
gay go, phức tạp, đánh dấu thắng lợi từng bước của mặt trận ngoại giao.
Trong buổi đầu, thế và lực của ta còn non yếu, do vậy trên bàn đàm phán,
chúng ta chưa buộc được kẻ thù công nhận nền độc lập. Trên văn bản pháp lí,
chúng chỉ thừa nhận nước Việt Nam là một quốc gia tự do nằm trong khối
Liên hiệp Pháp. Hơn 8 năm sau, với những thắng lợi giành được, thế và lực
của ta đã mạnh lên, buộc kẻ thù phải kí vào một văn bản có tính pháp lí quốc
tế, cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ba nước Đông
Dương là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Một nửa nước
ta được hoàn toàn giải phóng và chuyển sang làm cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa, trở thành chỗ dựa vững chắc cho cuộc cách mạng giải phóng miền
Nam, tiến tới thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà.
4. Đấu tranh ngoại giao từ tháng 3/1946 đến 7/1954 có tác dụng vô
cùng to lớn:
- Góp phần phá thế bị bao vây cô lập, mở rộng quan hệ quốc tế
Trong tình thế bị bao vây từ sau Cách mạng tháng Tám đến năm 1949,
chính sách đối ngoại của Đảng đã hướng về các nước trong khu vực Đông
Nam Á và Nam Á (nhất là Thái Lan, Miến Điện và Ấn Độ), tạo điều kiện giữ
được liên hệ với nước ngoài, chuyển được các tin tức thế giới về trong nước
và những thông tin về cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đến với một
số bạn bè quốc tế, cử được các đoàn đại biểu tham dự hội nghị quốc tế.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
95
Sau cách mạng Trung Quốc thành công, trong bối cảnh quốc tế có
nhiều sự thay đổi, chính sách đối ngoại của Đảng có nhiều sự điều chỉnh,
hướng mạnh về hệ thống xã hội chủ nghĩa, chủ động đề ra phương hướng
phối hợp với phong trào cách mạng của nhân dân Trung Quốc chống tàn quân
Tưởng Giới Thạch ở biên giới Việt Nam - Trung Quốc, tranh thủ sự công
nhận về mặt nhà nước; tranh thủ giúp đỡ của Trung Quốc, giành thắng lợi
trong chiến dịch Biên giới, phá thế bị bao vây cô lập; từ đó càng mở rộng
quan hệ với các nước và các lực lượng đồng minh bên ngoài; kết hợp với sự
kháng chiến trong nước với phong trào đấu tranh chung của nhân dân thế giới
và nhân dân Pháp.
- Góp phần buộc chủ nghĩa đế quốc phải công nhận các quyền dân tộc
cơ bản của Việt Nam
Cuộc đấu tranh của nhân dân ta nhằm mục tiêu giành các quyền dân
tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và vẹn toàn lãnh thổ.
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo cuộc đấu tranh kiên trì
bền bỉ, khi bằng những biện pháp nhân nhượng, khi buộc phải tiến hành
chiến tranh, qua nhiều cuộc tiếp xúc với các thế lực thù địch, đều nhất quán
ở nguyên tắc cao nhất là không vi phạm chủ quyền dân tộc. Bằng sự kết
hợp đấu tranh quân sự, chính trị kết hợp với đấu tranh ngoại giao, cuối
cùng chúng ta đã buộc kẻ thù phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ.
5. Đấu tranh ngoại giao từ tháng 3/1946 đến tháng 7/1954 đã cho Đảng
ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu:
- Luôn luôn giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với đoàn kết quốc tế.
- Biết lợi dụng mâu thuẫn hàng ngũ kẻ thù, tranh thủ bạn đồng minh,
làm thay đổi so sánh lực lượng theo hướng có lợi cho ta.
- Biết giành thắng lợi từng bước.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
96
- Phải biết kết hợp chặt chẽ với đấu tranh quân sự và đấu tranh chính
trị. Thực tế lịch sử cho thấy không thể đơn thuần dùng ngoại giao để giành
thắng lợi. Thắng lợi trên bàn thương lượng tuỳ thuộc vào thắng lợi trên chiến
trường. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao có tính tích cực chủ động, góp phần
tăng thế và lực cho cách mạng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
97
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Archimedes L.A.Patti (2001), Tại sao Việt Nam, Nxb Đà Nẵng.
2. Ban Ký sự lịch sử, (1985), Trận đánh 30 năm, Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
3. Ban Chỉ đạo biên soạn Lịch sử Chính phủ (2004), Lịch sử Chính phủ
Việt Nam 1945 - 1955, Hà Nội.
4. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương, (1975), Cách mạng tháng
Tám, Nxb Sự thật, Hà Nội.
5. Ban Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1996), Tổng kết
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - Thắng lợi và bài học, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (1996), Từ Đà Lạt đến Pari, Nxb Hà Nội.
7. Bộ Ngoại giao: Đấu tranh ngoại giao trong cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân (1945-1954), tập I, Tài liệu lưu hành nội bộ.
8. Bộ Nội vụ, Viện Khoa học công an (1993), Lịch sử biên niên về cuộc đấu
tranh bảo vệ an ninh trật tự ở Việt Nam, Tập I (1945-1954), Hà Nội, mã
số 93-071-006.
9. Bộ Quốc phòng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1965), Lịch sử cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), tập I, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
10. Nguyễn Đình Biên (2002), Ngoại giao Việt Nam (1945-2000), Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Lương Bích, Ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ phong kiến,
tài liệu lưu hành nội bộ, lưu tại Học viện Quan hệ Quốc tế.
12. Biettinggiơ (1967), Xung quanh hội nghị Phôngtenblô, Newyork,
Trích đăng trong Tạp chí Tổ quốc, tháng 5/1985.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
98
13. Trường Chinh (1975), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt
Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.
14. Trường Chinh (1965), Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
15. Chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945-1975) (2000), Thắng lợi và
bài học, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.
16. Các tài liệu Lầu năm góc, tập 1, Beacon Press, Bston, Bản dịch lưu tại
Thư viện Quân đội.
17. Lê Duẩn (1970), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ
nghĩa xã hội tiến lên giành thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 1, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 9, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 10, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 11, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 12, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
99
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 13, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 14, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 15, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
30. Trần Hữu Đính (1990), Tiếp xúc Việt - Mĩ năm 1945, Tạp chí Nghiên
cứu Lịch sử, số 4.
31. Nguyễn Kiên Giang (1961), Việt Nam năm đầu tiên sau Cách mạng
tháng Tám, Nxb Sự thật, Hà Nội.
32. Võ Nguyên Giáp (1974), Những năm tháng không thể nào quên, quyển
II, Nxb Quân Đội, Hà Nội.
33. Võ Nguyên Giáp (1997), Tư tưởng Hồ Chí Minh và Con đường Cách
mạng Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Võ Nguyên Giáp (1994), Những chặng đường lịch sử, Nxb Chính trị
Quốc gia Hà Nội.
35. Võ Nguyên Giáp (2001), Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, Nxb Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
36. Gra (Yvơ) (1979), Lịch sử của chiến tranh Đông Dương, Bản dịch lưu
tại Thư viện Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam.
37. Lê Mậu Hãn (1995), Đảng Cộng sản Việt Nam, Các Đại hội và Hội
nghị Trung ương, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
38. Lê Mậu Hãn (1993), Chiến lược đại đoàn kết hợp tác với các nước
Đông Nam Á của Hồ Chí Minh, Quan điểm lịch sử và triển vọng, Tạp
chí Lịch sử Đảng, số 3.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
100
39. Lê Văn Hiến (1995), Nhật kí của một Bộ trưởng, tập I, Nxb Đà Nẵng.
40. Lê Văn Hiến (1995), Nhật kí của một Bộ trưởng, tập II, Nxb Đà Nẵng.
41. Vũ Quang Hiển (2005), Tìm hiểu chủ trương đối ngoại của Đảng thời
kỳ 1945-1954, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Học viện Quan hệ quốc tế (1990), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác
ngoại giao, Nxb Sự thật, Hà Nội.
43. Học viện Quan hệ Quốc tế (2001), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự
nghiệp giành độc lập tự do (1945-1975) Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
44. Học viện Quan hệ Quốc tế (1985), Thắng lợi có tính thời đại và cuộc đấu
tranh trên mặt trận đối ngoại của nhân dân ta, Nxb Sự thật, Hà Nội.
45. Học viện Quan hệ Quốc tế (1994), Bác Hồ nói về ngoại giao, Hà Nội.
46. Học viện Quan hệ quốc tế (1995), Hội thảo khoa học 50 năm ngoại
giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội.
47. Trịnh Vương Hồng, Nguyễn Minh Đức (1993), Hồ Chí Minh với quan
hệ Việt - Mĩ, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6.
48. Vũ Dương Huân (2001), Công tác đối ngoại với sự nghiệp cứu
nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tư
tưởng Hồ Chí Minh về dựng nước và giữ nước, Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
49. Vũ Dương Huân (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
50. Henri Nava (1956), Đông Dương hấp hối, Nxb Plon, Paris, bản dịch lưu
tại Thư viện Quân đội.
51. Nguyễn Văn Khoan (1992) Sự thật lịch sử, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1.
52. Đinh Xuân Lâm (1993), Tư tưởng đoàn kết và chiến lược đại đoàn kết
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 3.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
101
53. Đinh Xuân Lâm (1990), Thắng lợi ngoại giao đầu tiên có tính chất quyết
định của chính quyền cách mạng (1945-1946), Tạp chí Khoa học Đại
học Tổng hợp Hà Nội, số 6-7.
54. Lênin (V.I) (1977), Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Maxcơva.
55. Lênin (V.I) (1977), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Maxcơva.
56. Nguyễn Thành Lê (1990), "Dĩ bất biến ứng vạn biến" thể hiện chiến lược
kiên định, sách lược linh hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và
Nhà nước ta trong cuốn: Chủ tịch Hồ Chí Minh, người chiến sĩ kiên
cường của phong trào giải phóng dân tộc và phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, Nxb Thống tin lý luận, Hà Nội.
57. Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946 - 1960 (2000), Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
58. Lưu Văn Lợi (1996), Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam (1945-1995),
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
59. Nguyễn Phúc Luân (2001), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp
giành độc lập tự do (1945 - 1975), Nxb Chính trị, Hà Nội.
60. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
61. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
62. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
63. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
64. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
65. Hồ Chí Minh (1970), Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật,
Hà Nội.
66. Nguyễn Xuân Minh (2006), Lịch sử Việt Nam 1945 - 2000, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
67. Nguyễn Dy Niên (2002), Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
102
68. Philip Đơvile (1993), Pari - Sài Gòn - Hà Nội, Nxb Hồ Chí Minh.
69. Trịnh Quốc Quang (1950), Hội nghị Việt - Pháp Phongtenơblô tháng 7-
1946, tập II, Nxb Văn hoá.
70. Nguyễn Duy Trinh (1979), Mặt trận ngoại giao thời kỳ chống Mĩ cứu
nước (1965 - 1975), Nxb Sự thật, Hà Nội.
71. Văn kiện Đảng về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(1986), Nxb Sự thật, Hà Nội.
72. Văn kiện nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tập 18A, Phòng Lưu trữ, Bộ
Ngoại giao
73. Văn kiện quân sự của Đảng 1945 - 1950 (1976), Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội.
74. Viện Sử học (2005), Lịch sử Việt Nam (9/1945 - 1950), Hà Nội.
75. Viện Sử học (1997), Nửa thế kỷ nhìn lại ngày toàn quốc kháng chiến
19/12/1946 - 19/12/1996, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
76. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1994), Lịch sử cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp (1945 - 1954), tập I, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
77. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1994), Lịch sử cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp (1945 - 1954), tập II, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
103
PHụ LụC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
104
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
105
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
106
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
107
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
108
HIỆP ĐỊNH SƠ BỘ
Một bên là Chính phủ Cộng hoà Pháp do ông Xanhtơni (Sainteny),
người thay mặt và có uỷ nhiệm chính thức của Thuỷ sư đô đốc Đácgiăngliơ
(Georges Thierry d' Argenlieu), Thượng sứ Pháp thụ nhiệm uỷ quyền các
Chính phủ Cộng hoà Pháp, làm đại diện.
Một bên là Chính phủ Cộng hào Việt Nam do Cụ Chủ tịch Hồ Chí
Minh, và đặc uỷ viên của Hội đồng các Bộ trưởng là ông Vũ Hồng Khanh,
làm đại biểu.
Hai bên đã thoả thuận về các khoản sau này:
1. Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Cộng hoà là một quốc
gia tự do có Chính phủ của mình, Nghị viện của mình, quân đội của mình, tài
chính của mình, và là một phần tử trong Liên bang Đông Dương ở trong khối
Liên hiệp Pháp. Về việc hợp nhất ba "kỳ", Chính phủ Pháp cam đoan thừa
nhận, nhưng quyết định của nhân dân trực tiếp phán quyết.
2. Chính phủ Việt Nam tuyên bố sẵn sàng thân thiện tiếp đoán quân đội
Pháp khi nào quân đội ấy chiểu theo các hiệp định quốc tế đến thay thế quân
đội Trung Hoa. Một hiệp định phụ khoản đính theo Hiệp định sơ bộ này sẽ
định rõ cách thức thi hành công việc thay thế ấy.
3. Các điều khoản kể trên sẽ được tức khắc thi hành. Sau khi ký hiệp
định, hai Chính phủ lập tức quyết định mọi phương sách cần thiết để đình chỉ
ngay cuộc xung đột, để giữ nguyên quân đội hai bên tại vị trí hiện thời và để
gây một bầu không khí êm dịu cần thiết cho việc mở ngay cuộc điều đình thân
thiện và thành thực. Trong cuộc điều đình ấy sẽ bàn về:
a. Những liên lạc ngoại giao của Việt Nam với nước ngoài.
b. Chế độ tương lai của Đông Dương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
109
c. Những quyền lợi kinh tế và văn hoá của Pháp ở Việt Nam.
Các thành phố Hà Nội, Sài Gòn, Pari có thể được chọn làm nơi hội họp
cuộc Hội nghị.
Làm tại Hà Nội, ngày 6 tháng 3 năm 1946.
HỒ CHÍ MINH VŨ HỒNG KHANH XANHTƠNI
Báo Cứu quốc, số 180
Ngày 8-3-1946
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
110
PHỤ KHOẢN
Đính theo Hiệp định sơ bộ của Chính phủ Cộng hào Pháp
và Chính phủ Việt Nam
Hai Chính phủ kể trong bản Hiệp định sơ bộ đã thoả thuận các khoản
sau này:
1. Những lực lượng quân đội bị thay thế quân đội Trung Hoa sẽ gồm
có:
a. 10.000 quân Việt Nam với các sĩ quan Việt Nam thuộc quyền điều
khiển của các nhà chức trách quân sự Việt Nam.
b. 15.000 quân Pháp, trong số đó đã kể số lính Pháp hiện nay đã đóng
trong cõi Việt Nam ở phía Bắc vĩ tuyến 16.
15.000 lính Pháp ấy phải là những người Pháp chính tông, trừ những
đội phụ trách canh phòng tù binh Nhật Bản.
Tổng cộng các lực lượng kể trên sẽ đặt dưới quyền của Tư lệnh Pháp
do các đội viên Việt Nam cộng tác.
Khi các đội quân Pháp đã đổ bộ, một hội nghị tham mưu gồm các đại
biểu của Bộ tư lệnh Pháp và Bộ tư lệnh Việt Nam sẽ định rõ sự tiến triển,
sự du nhập và cách sử dụng các đội quân Pháp và các đội quân Việt Nam
đã kể trên.
Sẽ lập ra những Uỷ ban binh vụ Pháp - Việt ở tất cả các cấp quân đội
để chuyên việc liên lạc binh sĩ Pháp và Việt Nam theo tinh thần cộng tác
thân hữu.
2. Những đội quân Pháp dùng để thay thế quân đội Trung Hoa sẽ chia
ra làm 3 hạng:
a. Những đội phụ trách việc canh phòng tù binh Nhật Bản - Các đội
này sẽ rút về Pháp ngay khi nào nhiệm vụ của họ đã xong, nghĩa là sau khi tù
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
111
binh Nhật Bản đã được đem ra khỏi xứ này; dù sao thời gian ấy không được
quá 10 tháng.
b. Những đội quân cùng với quân đội Việt Nam phụ trách về việc công
an và phòng vệ đất nước Việt Nam - Cứ mỗi năm một phần năm (1/5) các đội
quân sẽ về Pháp để quân đội Việt Nam thay thế. Vậy trong 5 năm, quân đội
Việt Nam sẽ thay thế toàn số quân đội Pháp này.
c. Những đội quân phụ trách việc phòng vệ các căn cứ hải và không
quân - Thời hạn của nhiệm vụ giao cho các đội này sẽ do các cuộc hội nghị
sau quyết định.
3. Ở các nơi đồn trú có quân đội Pháp và quân đội Việt Nam đóng giữ,
những khu vực riêng biệt cho đôi bên sẽ được định rõ.
4. Chính phủ Pháp cam đoan không dùng các tù binh Nhật vào những
việt có mục đích quân sự.
Làm tại Hà Nội, ngày 6 tháng 3 năm 1946
HỒ CHÍ MINH VŨ HỒNG KHANH XANHTƠNI
Báo Cứu quốc, số 180
Số 180, ngày 8-3-1946
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
112
NHỮNG THOẢ THUẬN GIỮA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI ĐÔ ĐỐC
ĐÁCGIĂNGLIƠ TẠI CUỘC HỘI KIẾN TRÊN VỊNH HẠ LONG NGÀY 24
THÁNG 3 NĂM 1946
1. Vào độ trung tuần tháng 4, một đoàn phái bộ đại biểu Quốc hội Việt
Nam sẽ đi Pháp để tỏ tình thân thiện giữa Quốc hội và nhân dân Việt Nam đối
với Quốc hội và nhân dân Pháp.
2. Cũng trong thời gian đó, sẽ có một phái bộ chừng độ 10 người từ
Pháp qua Việt Nam để cùng đại biểu Việt Nam sửa soạn các tài liệu cần thiết.
3. Đến hạ tuần tháng 5, phái bộ ta sẽ qua Pháp để mở cuộc đàm phán
chính thức.
Báo Cứu quốc
Số 204, ngày 2-4-1946
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
113
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
114
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
115
Cổng chào của Việt kiều đón đoàn Quốc hội nước VNDCCH ngày 27-4-1946
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
116
Thư của đồng chí G. Đuyciô, Bí thư ban chấp hành Đảng cộng sản Pháp
gửi Trưởng đoàn Phạm Văn Đồng ngày 2-5-1946
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
117
Binh lính người Việt Nam Paris mit tinh phản đối chính sách chia rẽ
của thực dân Pháp, ngày 21-4-1946
Cuộc đón đoàn đại biểu Quốc hội nước VNDCCH tại Macxây, ngày 5-5-1946
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
118
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
119
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doc28.pdf