Luận văn Mở rộng cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Gia Lâm

Hoạt động cho vay DNNQD cũng tăng lên. Do các doanh nghiệp được ngày càng ngày càng nhiều do nhu cầu đầu tư của công chúng ngày càng tăng. Đặc biệt những doanh nghiệp mà các giám đốc là những người trẻ tuổi họ muópn khẳng định mình trước xã hội. Mặc dù vậy các doanh nghiệp gặp không ít các khó khăn trong kinh doanh cả về điều kiện kinh tế và điều kiện pháp lý. Công việc của các đối tượng này phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên (như dịch cúm gia cầm trong năm 2005), sự biến động của tỷ giá (điều này ảnh hưởng đến các doanh nghiệp xuất nhập khẩu), biến động về giá cả . Do ảnh hưởng của các yếu tố đó thu nhập giảm dẫn đến trả nợ chậm. Các giám đốc của doanh nghiệp này đa phần là những người trẻ do vậy kinh nghiệm không cao, trình độ về các nghiệp vụ kinh doanh hầu như không có, đa phần họ vừa làm giám đốc vừa theo học các lớp quản lý doanh nghiệp ở các trường về lĩnh vực kinh tế. Và các khó khăn thuộc về bản thân ngân hàng như tài chính không mạnh, một só dự án cho vay nhưng không thu được hiệu quả cao như mong đợi Nhận biết được những khó khăn, tồn tại ngân hàng thường tổng kết, rút kinh nghiệm và đề ra phương hướng hoạt động cho các năm tiếp theo. Ngân hàng cũng đã đưa ra các biện pháp thúc đẩy như cử cán bộ đi nâng cao nghiệp vụ đặc biệt là các cán bộ trẻ. Các biệc pháp đưa ra cần được thực hiện nghiêm túc, không thể coi trọng biện pháp này mà lơ là biện pháp khác đặc biệt là các biện pháp có liên quan đến con người. Nghiên cứu các vấn đề liên quan tới việc cho vay DNNQD em đã thấy được các thưc trạng, nguyên nhân đồng thời đưa ra một vài kiến nghị. Đề án này không tránh khỏi những thiếu xót mong thầy cô thông cảm và giúp đỡ em

doc62 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1342 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Mở rộng cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Gia Lâm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoạch, đào tạo, đồng thời trực tiếp quản lý các hồ sơ của cán bộ, chế độ đối với các cán bộ nghỉ hưu thuộc chi nhánh theo quy định của pháp luật. Đề xuất, hoàn thiện và lưu trữ hồ sơ theo đúng quy định trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, nhân viên trong phạm vi phân cấp uỷ quyền của Tổng Giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam. Chấp hành công tác báo cáo thống kê, kiểm tra chuyên đề. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc giao. Phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ: Xây dựng chương trình công tác năm, quý phù hợp với chương trình công tác Kiểm tra, kiểm toán của NHNo&PTNT Việt Nam và đặc điểm cụ thể của đơn vị mình. Tuân thủ tuyệt đối sự chỉ đạo nghiệp vụ kiểm tra, kiểm toán. Tổ chức thực hiện kiểm tra, kiểm toán theo đề cương, chương trình công tác kiểm tra, kiểm toán của NHNo&PTNT Việt Nam và kế hoạch của đơn vị, kiểm toán nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh ngay tại hội sở và chi nhánh trực thuộc. Thực hiện sơ kết, tổng kết chuyên đề theo định kỳ hàng quý, 6 tháng, năm. Tổ chức giao ban hàng tháng đối với các kiểm tra viên chi nhánh ngân hàng cấp II. Tổng hợp và báo cáo kịp thời các kết quả kiểm tra, kiểm toán, việc chỉnh sửa các tồn tại thiếu sót của chi nhánh, đơn vị theo định kỳ gửi Tổ Kiểm tra, kiểm toán và Ban Kiểm tra, kiểm toán nội bộ. Hàng tháng có báo cáo nhanh về công tác chỉ đạo điều hành hoạt động kiểm tra, kiểm toán của mình gửi về Ban Kiểm tra, kiểm toán nội bộ. Tổ chức kiểm tra, xác minh, tham mưu cho Giám đốc giải quyết đơn thư thuộc thẩm quyền, làm nhiệm vụ thường trực ban chống tham nhũng, tham mưu cho lãnh đạo trong hoạt động chống tham nhũng, tham ô, lãng phí và thực hành tiết kiệm tại đơn vị mình. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng Giám đốc, Trưởng Ban Kiểm tra Kiểm toán nội bộ hoặc Giám đốc giao. Phòng thanh toán quốc tế: Thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ (mua - bán, chuyển đổi) thanh toán quốc tế trực tiếp theo quy định. Thực hiện các công tác thanh toán quốc tế thông qua mạng SWIFT NHNo&PTNT Việt Nam. Thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, bảo lãnh ngoại tệ có liên quan đến công tác thanh toán quốc tế, các dịch vụ kiều hối và chuyển tiền, mở tài khoản với khách hàng là người nước ngoài. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc giao. Phòng tin học: Tổng hợp, thống kê và lưu trữ số liệu, thông tin liên quan đến hoạt động của chi nhánh. Xử lý các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến hạch toán kế toán, kế toán thống kê, hạch toán nghiệp vụ và tín dụng. Chấp hành chế độ báo cáo, thống kê và cung cấp số liệu, thông tin theo quy định. Quản lý, bảo dưỡng và sửa chữa máy móc, thiết bị tin học. Thực hiện các nhiệm vụ được Giám đốc giao. Ngân hàng cấp II: 1. Huy động vốn: Khai thác và nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhận và tổ chức tín dụng khác dưới hình các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác trong nước và nước ngoài bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ. Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam. Việc huy động vốn có thể bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ, vàng và các công cụ khác theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam. 2. Cho vay: Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống cho các tổ chức và hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế theo phân cấp uỷ quyền. Cho vay trung hạn, dài hạn thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống cho các tổ chức, cá nhân và hộ sản xuất thuộc mọi thành phần kinh tế phân cấp uỷ quyền. Cung ứng các dịch vụ thanh toán và ngân quỹ gồm: Cung ứng các phương tiện thanh toán; Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước, thu hộ và chi hộ, thu phát tiền mặt; Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng nhà nước và của NHNo&PTNT Việt Nam. Kinh doanh các dịch vụ ngân hàng khác theo Luật các tổ chức tín dụng như thu, phát tiền mặt; mua bán vàng bạc; máy rút tiền tự động dịch vụ thẻ; két sắt, nhận bảo quản, cất giữ, chiết khấu thương phiếu và các loại giấy tờ có giá khác... và các dịch vụ ngân hàng khác được Nhà nước, NHNo&PTNT Việt Nam cho phép. Kinh doanh các nghiệp vụ ngoại hối khi được Tổng Giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam cho phép. Thực hiện hạch toán kinh doanh và phân phối thu nhập theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam. Thực hiện kiểm tra, kiểm toán nội bộ việc chấp hành thể lệ, chế độ nghiệp vụ trong phạm vi địa bàn theo quy định. Chấp hành đầy đủ các báo cáo, thống kê theo chế độ quy định và theo yêu cầu đột xuất của Giám đốc Chi nhánh NHNo&PTNT Gia Lâm. Thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền, quảng cáo, tiếp thị phục vụ nhằm phục vụ hoạt động kinh doanh và việc quảng bá thương hiệu của NHNo&PTNT Việt Nam. Thực hiện các nhiệm vụ khác được Giám đốc Chi nhánh NHNo&PTNT Gia Lâm giao. Phòng giao dịch: Huy động vốn trong nước cả nội tệ và ngoại tệ (khi được cấp trên cho phép) của mọi tổ chức dân cư, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế theo quy định về huy động vốn trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam. Nghiên cứu, tìm hiểu, giới thiệu khách hàng, phân loại khách hàng. Hướng dẫn khách hàng xây dựng phương án, dự án. Tiếp nhận và thẩm định hồ sơ xin vay của khách hàng cho chi nhánh NHNo&PTNT Gia Lâm trực tiếp quản lý, xét duyệt cho vay. Tổ chức giải ngân thu nợ, thu lãi theo hợp đồng tín dụng đã được Giám đốc Chi nhánh NHNo&PTNT Gia Lâm trực tiếp phê duyệt. Theo dõi chặt chẽ các khoản dư nợ, phân tích nợ quá hạn để chủ động thu và đề xuất phương án xử lí nợ quá hạn. Mở tài khoản tiền gửi và làm dịch vụ chuyển tiền. Đảm bảo an toàn quỹ tiền mặt, các loại chứng từ có giá, thẻ phiếu trắng các hồ sơ lưu về khách hàng và quản lí tốt tài sản trang thiết bị làm việc. Tuyên truyền, giải thích các quy định về huy động vốn và thủ tục cho vay của NHNo&PTNT Việt Nam. Thu thập ý kiến đóng góp của khách hàng về hoạt động ngân hàng phản ánh kịp thời cho Giám đốc NHNo&PTNT Gia Lâm. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc Chi nhánh NHNo&PTNT Gia Lâm giao. 2.1.3 Kết quả hoạt động kinh doanh chung Bảng 1: Tổng nguồn vốn huy động Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Tổng nguồn huy động (triệu đồng) 629.278 788.500 1.003.000 Tăng (giảm) so với năm trước (triệu đồng) 201.500 119.800 214.500 Tỷ lệ % tăng (giảm) 18 25,3 21,4 Nguồn: Phòng kinh doanh Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong những năm gần đây tăng trưởng khá đều cả về số lượng và chất lượng. Nguồn vốn tăng trưởng đều hàng năm với tốc độ trung bình khoảng 20%/năm, đặc biệt là nguồn vốn huy động từ ngoại tệ như USD tỷ lệ nguổn vốn này trong tổng nguồn tăng từ 10% lên đến 13%. Hoạt động sử dụng vốn cũng tăng trưởng khá mạnh. Doanh số cho vay tăng với tốc độ tương đương với tốc độ của nguồn vốn. Các hoạt động khác cũng phát triển như bảo lãnh hay dịch vụ thẻ. Các hoạt động này trong nhũng năm gần đây đặc biệt phát triển do nhu cầu tăng lên. Các doanh nghiệp tăng cường buôn bán với nước ngoài nên nhu cầu bảo lãnh của các doanh nghiệp này tăng lên. Việc các doanh nghiệp tăng nhu cầu bảo lãnh làm cho hoạt động thanh toán nước ngoài cũng phát triển. Hiện nay nhu cầu mở thẻ của người dân tăng cao do họ muốn người thân gửi tiền qua ngân hàng, muốn rút tiền khi đi du lịch, gửi tiền cho con cái đi học xa… 2.2 Thực trạng cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Gia Lâm 2.2.1 Khái quát về doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam Trước năm 1986, Việt Nam chỉ tồn tại DNNN và hợp tác xã. Đây là 2 loại hình tổ chức kinh tế mà lấy sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể làm nền tảng. Trong giai đoạn này sản xuất mang tính kế hoạch, sản xuất chỉ đủ dùng trong nước thậm chí còn không đủ nếu xét về mặt thực tế. Và nền kinh tế nước ta chỉ mới bắt đầu chuyển đổi nền kinh tế sau năm 1986. Mặc dù chuyển đổi nền kinh tế từ năm 1986 nhưng kinh tế chỉ thực sự chuyển đổi sau năm 1991. Đó là thời điểm đánh dấu sự sụp đổ của Cộng hoà liên bang Xô viết và các nước Đông Âu. Trước sự kiện đó Đảng ta đã chuyển hướng phát triển kinh tế. Với sự chuyển đổi kinh tế đó đã làm cho nền kinh tế phát triển nhanh chóng. Một số người bắt đầu có suy nghĩ sẽ tự mình kinh doanh. Và nhiều loại hình doanh nghiệp đã ra đời như: Công ty TNHH, Công ty Hợp danh, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp tư nhân, nhiều doanh nghiệp trong đó là DNNQD. Theo thống kê thì hiện nay trong cả nước có khoảng 200.000 DNNQD với tổng số vốn lên đến hàng trăm nghìn tỷ đồng. DNNQD chỉ được vay 20% giá trị tài sản thế chấp trong khi thủ tục định giá tài sản quá rườm rà. Chỉ các doanh nghiệp có uy tín mới được vay đến 50% giá trị tài sản thế chấp. Các doanh nghiệp này góp phần không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế. Các doanh nghiệp này đóng góp 30% tổng số vốn đầu tư vào nền kinh tế. Bên cạnh đó còn cung ứng thường xuyên một số lượng không nhỏ việc làm cho các lao động. 2.2.2 Thực trạng hoạt động cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Gia Lâm * Kết quả hoạt động cho vay Để xem xét thực trạng hoạt động cho vay DNNQD ta xem xét qua thực trạng cho vay của Ngân hàng. Trong vài năm trở lại đây Ngân hàng đã đạt được một số kết quả trong kinh doanh trở lại đây. Do ngân hàng không có hoạt động đầu tư mà chỉ có hoạt động tín dụng nên ta có thể bỏ qua hoạt động này trong khi xét hiệu quả hoạt trong vài năm gần đây. Bảng 2: Dư nợ theo kỳ hạn Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Ngắn hạn 369.000 561.200 676.000 Trung hạn 45.000 95.100 118.000 Dài hạn 162.000 113.100 93.000 Nguồn: Phòng kinh doanh Theo bảng cơ cấu dư nợ theo kỳ hạn ta nhận thấy tín dụng ngắn hạn và trung hạn tăng lên. Như tổng dư nợ trung và dài hạn tăng từ 207 tỷ năm 2003 lên 208 tỷ năm 2004 và 211 tỷ năm 2005. Mặc dù vậy tỷ lệ của dư nợ trung và dài hạn chỉ dao động từ 25% lên 27%, có thể coi đây là một tỷ lệ tương đối ổn định. Điều này có thể do nhu cầu vay để tài trợ cho tài sản lưu động tăng lên, phục vụ nhu cầu sản xuất. Do vốn của ngân hàng được hình thành chủ yếu từ nguồn tiền gửi của cá nhân, tổ chức do vậy khả năng cho vay dài hạn là không cao. Vì vậy rất ít hợp đồng vay dài hạn được chấp nhận bởi vì khách hàng gửi tiền có thể đến rút tiền bất kỳ lúc nào. Ngân hàng phải đảm bảo khả năng chi trả nên cho vay ngắn hạn thì mới có đủ tiền để khách hàng có thể rút tiền theo yêu cầu. Bảng 3: Dư nợ theo thành phần Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 DNNN 315.600 364.000 288.000 DNNQD 116.900 222.400 407.000 Loại hình khác 145.500 184.000 158.000 Nguồn: Phòng kinh doanh Doanh nghiệp Nhà nước là một trong các khách hàng thường xuyên của ngân hàng thương mại Nhà nước bởi một số dự án họ thực hiện có ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy Chính phủ chỉ định các ngân hàng thương mại cho các doanh nghiệp này vay. Rủi ro không trả được nợ các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước gần như là bằng không. Một phần các DNNN kinh doanh không hiệu quả là một trong các nguyên nhân khiến dư nợ của các doanh nghiệp này giảm. Tỷ lệ này giảm từ 54,65% năm 2003 xuống còn 47,25% năm 2004 và 33,76 % năm 2005. Bên cạnh đó Nhà nước đang tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp để nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, đồng thời một loạt các daonh nghiệp ngoài quốc doanh ra đời đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần làm cho nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp này tăng lên, dư nợ tăng từ 116 tỷ đồng năm 2003 lên 222,4 tỷ đồng năm 2004 và 407 tỷ đồng năm 2005. Nguồn thu nhập chủ yếu của các doanh nghiệp này là từ lợi nhuận kinh doanh, để đảm bảo tồn tại và phát triển họ phải chủ động trong các hoạt động kinh doanh của mình. Các DNNQD vốn hoạt động kinh doanh của họ là từ chính lợi nhuận của mình và đi vay ngân hàng còn các DNNN ngoài nguồn đi vay, lợi nhuận còn có một phần từ Ngân sánh Nhà nước. Mặc dù đã đạt được kết quả như trên nhưng vẫn còn một số tồn tại. Tỷ lệ nợ quá hạn tăng đột biến đặc biệt là trong năm 2005 lên đến 1,6% trong khi năm 2003 là 0,071%. Ngân hàng cũng gặp phải một số khó khăn do có một số đối thủ cạnh tranh: Ngân hàng Công thương Chương Dương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Công thương Bắc Hà Nội. Đây là những đối thủ có tiềm lực tài chính mạnh, có kinh nghiệm trong việc cho vay các dự án sản xuất công nghiệp, đầu tư xây dựng hạ tầng. Họ có đội ngũ cán bộ đánh giá thẩm định các dự án được đào tạo về chuyên môn. Ngân hàng Nông nghiệp Gia Lâm cũng tiến hành cho vay với các đơn vị xây dựng cầu đường, sản xuất phụ tùng cơ khí nhưng đối với dự án này rất khó đánh giá vì vậy có thể ngân hàng phải nhờ đơn vị có chuyên môn đánh giá hộ. Bên cạnh đó đội ngũ cán bộ tín dụng còn thiếu. Đến nay mỗi cán bộ tín dụng phụ trách trung bình là 2 xã do vậy không thể kịp thời kiểm tra, giám sát đầy đủ việc sử dụng vốn của các khách hàng. * Thực trạng cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh Chính sách của Nhà nước trong thời gian gần đây là các ngân hàng tạo điều kiện cho các DNNQD vay bởi đây là thành phần thúc đẩy mạnh sự phát triển của nền kinh tế. Bảng 4: Dư nợ cho vay DNNQD theo thời gian cho vay Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm2005 Ngắn hạn 93.116 153.810 314.000 Trung hạn 6.845 7.045 8.637 Dài hạn 16.939 43.591 77.363 Nguồn: Phòng kinh doanh Biểu 2: Sự thay đổi trong tỷ trọng cho vay DNNQD theo thời gian trong 2 năm 2003 và năm 2005 Kết quả kinh doanh chung ở trên cho thấy dư nợ đều tăng qua 3 năm Nhưng đã có sự thay đổi trong tỷ trọng cho vay, nếu tỷ trọng cho vay ngắn hạn năm 2003 chiếm một tỷ lệ lớn 80% thì trong năm 2005 tỷ lệ này sụt giảm không đáng kể nhưng lại có sự thay đổi giữa 2 dư nợ trung hạn và dài hạn. Về số tuyệt đối trong năm 2003 tỷ lệ cho vay ngắn hạn chỉ là 93.116 triệu đồng thì đến năm 2005 con số này lên đến 314.000 triệu đồng. Cho vay trung và dài hạn trong năm 2004 đặc biệt giảm xuống còn 50.636 triệu đồng so với con số 83.056 triệu đồng năm 2003. Điều này cho thấy cho vay trung và dài hạn trong 3 năm không có sự biến động lớn. Bảng 5: Dư nợ cho vay theo đồng tiền Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Nội tệ 89.008 178.441 357.000 Ngoại tệ (UER, USD) 27.892 28.675 43.000 Nguồn: Phòng kinh doanh Không giống với kết quả bảng dư nợ cho vay theo thời gian thì việc cho vay phân theo đồng tiền lại tăng qua các năm. Cụ thể là nội tệ tăng từ 87.891 triệu đồng năm 2003 lên 178.441 triệu đồng năm 2004 và 357.000 triệu đồng năm 2005. Như vậy là cho vay bằng VND cũng như vay bằng ngoại tệ như EUR và USD đều tăng mặc dù tốc độ tăng này không giống nhau. Tốc độ tăng của VND ổn định và đề hơn so với ngoại tệ. Điều này cũng có thể do nhu cầu nhập khẩu của các doanh nghiệp vẫn tăng nhưng giảm về số lượng mặt hàng. Nhu cầu nhập khẩu của nước ta trong thời gian qua tuy rằng vẫn tăng nhưng tốc độ giảm bởi họ có xu hướng là dùng hàng trong nước thay cho việc phải nhập từ nước ngoài. Đó cũng là một trong các chính sách của Nhà nước, khuyến khích các doanh nghiệp dùng hàng trong nước thay cho hàng nước ngoài để khuyến khích sản xuất trong nước. Bảng 6: Doanh số cho vay và tổng dư nợ Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Doanh số cho vay 115.780 210.070 460.350 Tổng dư nợ cho vay 116.900 207.116 400.000 Nguồn: Phòng kinh doanh Doanh số cho vay DNNQD của tăng đều đặn trong 3 năm. Tốc độ tăng này năm 2004 là 1,81 lần còn năm 2005 là 2,19 lần. Tỷ lệ tăng này cao so với tỷ lệ tăng của tổng dư nợ lần lượt là 1,77 và 1,96 lần. Điều này có được có thể do công tác thu nợ của ngân hàng hiệu quả làm cho tốc độ tăng dư nợ ổn định trong khi tốc độ doanh số cho vay không giảm. Bảng 7: Nợ quá hạn Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Nợ quá hạn (triệu đồng) 0 2.656 7.216 Tỷ lệ % nợ quá hạn 0 1,3 1,8 Nguồn: Phòng kinh doanh Kết quả nợ quá hạn có tốc độ tăng qua các năm. Nợ quá hạn tăng từ 0 triệu đồng năm 2003 lên 2.656 triệu đồng năm 2004 và 7.216 triệu đồng năm 2005, tốc độ tăng là 2,7 lần. Tương ứng với nó là tỷ lệ nợ quá hạn là 0%, 1,3%, 1,8%. Các khoản nợ quá hạn từ năm trước chưa được thanh toán tồn lại làm cho tỷ lệ này tăng lên. Bảng 8: Lãi suất cho vay Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Nội tệ (%/tháng) Ngoại tệ (%/năm) Nội tệ (%/tháng) Ngoại tệ (%/năm) Nội tệ (%/tháng) Ngoại tệ (%/năm) Ngắn hạn 0,75; 0,8; 0,85; 1; 1,1 3,1 1; 1,1 3,1 1,15 6,2 Trung, dài hạn 0,75; 0,8; 0,85; 0,9; 1;1,1 1,2 5 1,1; 1,2 3,1 1,15; 1,25; 1,35 6,4 Nguồn: Phòng kinh doanh Lãi suất cho vay được áp dụng chung như các các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp thuộc đối tương ưu đãi thì lãi suất được giảm khoảng 0,15% theo chính sách của Nhà nước, trong đó bao gồm các doanh nghiệp vay vốn để chuyển đổi cây trồng. Lãi suất cho vay tăng lên theo các năm là một xu hướng thường thấy trong các năm gần đây. Điều này là do chính sách kinh doanh của các ngân hàng, tăng lãi suất huy động đầu vào thì lãi suất cho vay cũng phải tăng mặc dù tốc độ tăng này là khác nhau. Để huy động được nhiều nguồn vốn ngân hàng có rất nhiều cách khác nhau mà trong đó tăng lãi suất là biện pháp dễ thấy nhất và nó tác động nhanh nhất vào khách hàng. Và một điều dễ thấy là lãi suất gửi tiền tăng thì lãi suất cho vay cũng phải tăng theo. 2.3 Đánh giá thực trạng cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Gia Lâm 2.3.1 Kết quả Hoạt động cho vay DNNQD của Ngân hàng trong thời gia qua khá hiệu quả. Điều đó thể hiện trên một số mặt sau: Tốc độ gia tăng nhanh chóng của doanh số cho vay trong 3 năm qua từ 1,81 lên 2,19 so với năm trước. Tố độ gia tăng như vậy có thể coi là khá cao. Cho vay ngắn hạn tăng nhanh hơn cho vay dài hạn. Cho vay bằng đồng ngoại tệ tăng gần 4,8 lần. Luôn chú trọng tới công tác thẩm định, kiểm tra trong và sau quá trình cho vay, hàng tháng cán bộ thẩm định lại xuống các chi nhánh trực thuộc kiểm tra việc cho vay. Đối với các cán bộ còn tín dụng trẻ chưa có kinh nghiệm thường xem xét các văn bản về quá trình tín dụng trước khi cho vay. 2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1 Hạn chế Hoạt động cho vay của ngân hàng còn hạn hẹp. Mặc dù doanh số cho vay có tốc độ tăng trưởng gần 2 lần so với năm trước nhưng quy mô và tốc độ như vậy vẫn còn thấp. Bên cạnh đó ngân hàng còn rất hạn hẹp trong phương thức cho vay. Hiện nay ngân hàng cho vay theo 2 phương thức là theo món và theo hạn mức tín dụng. Do vậy làm cho hoạt động cho vay bị hạn hẹp. Các đối tượng cho vay của ngân hàng lại bị bó hẹp trong phạm vi các doanh nghiệp trả nợ đều đặn và không có vấn đề lớn trong tình hình tài chính. Các doanh nghiệp trả nợ không đúng hạn làm cho chất lượng tín dụng chưa cao, ngân hàng còn phải gia hạn nợ nhiều lần. Trong vài năm gần đây mặc dù kinh tế đã phát triển nhưng những khó khăn vẫn còn đặc biệt là đối với các doanh nghiệp có vốn không lớn. Tình trạng khó khăn đó đã ảnh hưởng tới thu nhập của các công ty khiến cho nợ ngân hàng không trả được kịp thời. Chính điều này làm cho nợ ngân hàng tăng lên. 2.3.2.2 Nguyên nhân * Từ phía ngân hàng Nguồn vốn bị hạn chế do hiện nay ngân hàng chỉ mới huy động tiền gửi các cá nhân và tổ chức kinh tế mà chưa chú ý các biện pháp huy động khác như phát hành kỳ phiếu hoặc các chứng chỉ tiền gửi. Dịch vụ thanh toán quản lý ngân quỹ chưa phát triển nên chưa thu hút các doanh nghiệp vay vốn. Dịch vụ ngân quỹ chỉ mới dừng lại ở kiểm đếm, kiểm định tiền giả, cho thuê kết, đổi tiền rách nát. Chất lượng nguồn nhân lực không cao, hiện nay số lượng cán bộ theo học các lớp chuyên ngành về ngân hàng vẫn còn nhiều (đa phần là các cán bộ trẻ). Các cán bộ có kinh nghiệm trong việc cho vay thì lại được điều đến các chi nhánh mới mở của ngân hàng nên công việc của họ được chuyển giao cho các cán bộ trẻ. Đội ngũ cán bộ tín dụng thiếu nên việc theo dõi giám sát công tác cho vay bị hạn chế (công việc cho vay DNNQD chủ yếu diễn ra ở Chi nhánh). Thời gian của họ bị phân chia quá nhiều, họ phải theo dõi các công việc khác như cho vay tiêu dùng, bảo lãnh… Các cán bộ thẩm định còn thiếu. Hiện nay cả Chi nhánh mới có 3 cán bộ kể cả trưởng phòng. Các cán bộ thẩm định có trách nhiệm xem xét các đề nghị cho vay của các cán bộ tín dụng. Vì vậy, nhiều dự án cho vay DNNQD đã không được duyệt. Các dự án này khi không được phê duyệt ở chi nhánh sẽ chuyển sang vay ở ngân hàng khác để có thể vay vốn và tiếp tục dự án. * Từ môi trường bên ngoài Yếu tố về môi trường kinh tế là yếu tố bên ngoài đầu tiên ảnh hưởng đến cho vay DNNQD. Sự biến động của giá giá cả những năm gần đây cũng gây khó khăn không ít cho doanh nghiệp. Giá cả tăng làm chi phí đầu vào tăng làm lợi nhuận giảm trong khi vẫn phải trả lãi cho ngân hàng nên các doanh nghiệp phải lựa chọn rất nhiều lần mới đưa ra quyết định vay vốn ngân hàng hay không. Các biến động gần đây của nên kinh tế cũng gây khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp đặc biệt là các DNNQD dễ bị ảnh hưởng biến động về kinh tế. Các biến động đó là sự thay của tỷ giá đồng nội tệ, các đại dịch như cúm gia cầm, lở mồm long móng, hay như sự kiện bán phá giá tôm, cá Basa như Mỹ kiện… Bên cạnh đó môi trường kinh tế của Việt Nam nói chung và khu vực Gia Lâm nói riêng không phải là một môi trường thuận lợi. Các DNNQD mới được thành lập và các văn bản điều chỉnh pháp lý thường xuyên được bổ sung và sửa đổi nên còn rất nhiều khó khăn. Các DNNQD ra đời sớm nhất ở nước ta cũng chỉ mới được 20 năm. Vì vậy kinh nghiệm quản lý của các cán bộ quản lý của các doanh nghiệp này không cao. Mặt khác, sổ sách kế toán của các doanh nghiệp này không được chặt chẽ và rõ ràng vì vậy nhiều doanh nghiệp không đáp ứng được yêu cầu ngân hàng đưa ra. Doanh nghiệp không theo kịp sự thay đổi của các văn bản pháp lý khi mà việc chỉnh sửa này được tiến hành hàng năm, có khi chưa kịp áp dụng văn bản này đãn có văn bản mới ra đời. Việc cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD, thường đòi hỏi phải có tài sản bảo đảm hặc tài sản thế chấp bởi các rủi ro mà gặp phải không nhỏ (hệ số rủi ro của nền kinh tế Việt Nam là khá cao so với các nước khác). Nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có tài sản bảo đảm. Các DNNQD đa phần là các doanh nghiệp nhỏ, quy mô vốn không lớn, tài sản ít nên nếu mỗi lần vay đều phải bảo đảm tài sản trong khi nợ lần trước chưa trả được thì có thể không có tài sản để làm bảo đảm. Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn phải đáp ứng yêu cầu phương án sản xuất khả thi nên việc cho vay càng thêm khó khăn. Ngân hàng Nông nghiệp Gia Lâm mặc dù có một ngân hàng mẹ có quan hệ rộng nhưng lại nằm trên bàn nông thôn đa phần dân cư sống bằng nghề nông vì vậy mà hạn chế khả năng cho vay và huy động vốn. Những nguồn vay chủ yếu là để sản xuất nhỏ lẻ. Người dân đa phần lấy nghề làm ruộng làm nghề chính còn các nghề sản xuất khác không có điều kiện phát triển. Số lượng doanh nghiệp trên địa bàn không nhiều nên cũng hạn chế khả năng cho vay (ngân hàng cũng phải chia sẻ với các ngân hàng khác trong khu vực về việc cho vay các doanh nghiệp). Chương 3 Giải pháp mở rộng cho vay Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn gia lâm 3.1 Định hướng phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Gia Lâm Năm 2006 là năm mở đầu cho giai đoạn 2006 - 2010. Vì vậy đây là một năm rất quan trọng, nó sẽ quyết định tới các năm tiếp theo của giai đoạn, đây là năm mà Việt Nam cần nỗ lực nhiều hơn để có thể gia nhập kinh tế quốc tế mà gần hơn là gia nhập WTO. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là động lực cho sự phát triển của nền kinh tế đặc biệt là trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Thời kỳ này Đảng ta đã khẳng định là thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội mà muốn thực hiện được điều này cần phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, bên cạnh thành phần quốc doanh là các thành phần ngoài quốc doanh. Các DNNQD đang được tạo cơ hội để phát triển. Bởi đây là các doanh nghiệp tạo nên sự phát triển. Các doanh nghiệp này đi đầu trong việc gia nhập các lĩnh vực mới mà việc đầu tư vào nó mang rất nhiều rủi ro. Bên cạnh đó các DNNQD cũng đã góp phần không nhỏ trong việc giải quyết việc làm cho lực lượng lao động trẻ mới ra trường. Nhận thấy những điều đó và dựa trên những định hướng của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam Ngân hàng No&PTNT Gia Lâm đã xác định rằng: Tăng cường cho vay doanh nghiệp đặc biệt là các DNNQD. Tiếp tục duy trì và tăng trưởng ở mức hợp lý, đảm bảo an toàn và khả năng sinh lời. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư hiện đại hoá, đổi mới công nghệ ngân hàng phù hợp với hiện đại hoá nhằm mục đích đáp ứng đòi hỏi trong thời gian tới khi đất nước gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới. 3.2 Giải pháp * Tăng cường các biện pháp huy động vốn đầu vào Vốn là điều kiện thiết yếu để doanh nghiệp hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp cần có vốn để sản xuất ra sản phẩm. Ngân hàng cũng không phải là một ngoại lệ, ngân hàng cần có vốn thì mới tiến hành hoạt động của mình được. Vì tiền vốn là sản phẩm đầu ra của ngân hàng. Ngân hàng dùng tiền vốn này đem cho vay và thu lãi về. Tăng cường các biện pháp thu hút vốn đầu vào để tăng cường nguồn vốn cho vay đầu ra là điều quan trọng. Vậy ngân hàng cần làm gì để thu hút vốn? Ngân hàng cần cho phép khách hàng gửi tiền một nơi rút một nơi. Đây là yêu cầu rất chính đáng nên cần phải được thực hiện ngay. Như cầu đi lại của khách hàng ngày càng tăng bởi họ không chỉ có mục đích công việc mà còn du lịch. Bên cạnh đó ngân hàng cũng có thể cho phép hành thẻ thanh toán mà các thể này đòi hỏi chi phí về công nghệ phù hợp với khả năng của khách hàng và ngân hàng. Ngân hàng cần đơn giản hoá các giấy tờ và thủ tục cho khách hàng đến gửi tiền. Khách hàng sẽ không thích quá trình gửi tiền quá rườm rà, nếu vậy họ chuyển sang gửi tiền ở ngân hàng khác. Đặc biệt là Chi nhánh có 2 đối thủ cạnh tranh lớn trong khu vực như đã kể ở trên. Vì vậy quá trình này càng đơn giản càng tốt (nhưng cũng không được bỏ qua các thủ tục bắt buộc phải có). * Đa dạng hoá và sử dụng linh hoạt, phù hợp các hình thức tín dụng Mặc dù có rất nhiều cách thức cho vay vốn nhưng hiện tại Chi nhánh mới chỉ thực hiện cho vay theo 2 hình thức là: theo món và hạn mức tín dụng. Vì vậy đa dạng hoá hình thức cho vay sẽ làm cho Ngân hàng mở rộng đối tượng cho vay và tăng được dư nợ. Hiện nay xu hướng của nền kinh tế là đa dạng hoá cũng như các ngân hàng không chỉ là tổ chức tín dụng mà còn mở rộng hoạt động bằng việc thành lập các công ty chứng khoán. Tuỳ theo tình hình ngân hàng có thể thực hiện các phương thức cho vay khác nhau. Ngân hàng cần đưa ra các biện pháp hợp lý đối với các dự án. Với các dự án mà vốn vay lớn (theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng thì ngân hàng không được cho một khách hàng vay quá 15% vốn của ngân hàng), ngân hàng có thể cho vay theo hình thức trả góp. Đối với các DNNQD thì vay vốn để tài trợ dự án thường là để đầu tư cho tài sản cố định vì vậy hình thức cho vay trả góp là rất phù hợp. * Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý linh hoạt Chính sách tín dụng rất quan trọng trong việc ngân hàng cho vay doanh nghiệp nói chung và cho vay DNNQD nói riêng. Hiện nay các DNNQD muốn vay vốn phải có tài sản bảo đảm mà điều này không phải doanh nghiệp nào cũng bảo đảm được (các doanh nghiệp này quy mô vốn nhỏ) không thể mỗi lần vay đều có tài sản làm bảo đảm. Vì vậy Ngân hàng có thể tạo điều kiện đối với các doanh nghiệp đã có mối quan hệ lâu dài. Ngân hàng có thể mở rộng đối tượng cho vay đặc biệt là các doanh nghiệp mới thành lập. Các doanh nghiệp này là những khách hàng tiềm năng không chỉ đối với hoạt động cho vay mà còn với các hoạt động khác như thanh toán. Các doanh nghiệp có xu hướng xuất khẩu hàng hoá ra thị trường nước ngoài như các công ty xuất nhập khẩu hàng gốm xứ hay các doanh nghiệp vay để đổi mới công nghệ sản xuất (các doanh nghiệp gốm vay vốn để chuyển từ dùng lò than sang dùng lò gas hoặc thay đổi dây chuyền mới để sản xuất sản phẩm) vì vậy nhu cầu vay sẽ tăng. Đối với các doanh nghiệp có dư nợ lớn mà chưa thu hồi nợ được cần phải xem xét kỹ nguyên nhân gây ra. Sau khi đã có kết quả chính xác mới đi đến biện pháp xử lý. Ví dụ như các doanh nghiệp chậm thanh toán nợ do chưa nhận được tiền hàng thì có thể gia hạn nợ cho họ. Trong trường hợp này việc gia hạn nợ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp tục thu tiền bán hàng và tin tưởng vào quan hệ với ngân hàng và giữ được lâu dài. * Xây dựng chính sách khách hàng hợp lý, chủ động tìm kiếm Khách hàng được coi là thượng đế đối với mọi đối tượng tham gia kinh doanh. Trong cho vay DNNQD, các doanh nghiệp này đóng vai trò là thượng đế. Họ không tìm đến ngân hàng để vay thì ngân hàng cũng không có lợi nhuận để chi trả các khoản chi phí. Vì vậy Ngân hàng cần một chính sách hợp lý. Hiện nay các ngân hàng đều ra sức thu hút khách hàng về phía mình. Vì vậy để có thể tạo dựng quan hệ lâu dài ngân hàng cần một chính sách hợp lý. Các ngân hàng không chỉ chờ đợi khách hàng tìm đến với mình mà cần chủ động tìm đến với họ. Ngày nay khách hàng có quyền lựa chọn cho mình đối tác mang lại cho mình lợi nhiều nhất, điều này không chỉ xét trên mặt lãi suất cho vay mà còn nhiều điều khác nữa. Ngân hàng cũng có thể tăng số lượng cho vay đối với một khách hàng khi họ là những khách hàng luôn thực hiện thanh toán đầy đủ và kịp thời. Khi tạo điều kiện như vậy ngân hàng đã tạo ra mối quan hệ lâu dài với khách hàng này và thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp khác với mình. Đến nay Ngân hàng vẫn thực hiện họp Hội nghị khách hàng mỗi quý để thông báo kết quả kinh doanh trong quý đó. Đây là một hoạt động cần duy trì vì qua đó thể hiện sự tôn trọng của ngân hàng với khách hàng, họ để khách hàng thấy họ đã làm được gì đồng thời qua củng cố thêm mối quan hệ với khách hàng. Thực hiện tốt công tác chăm sóc khách hàng là điều kiện để thúc đẩy hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nó không chỉ duy trì mối quan hệ giữa doanh nghiệp và ngân hàng mà còn giải quyết những vướng mắc: thanh toán chậm, vay vốn trong khi vẫn còn nợ quá hạn… Ngân hàng cần cung cấp đầy đủ cho khách hàng các dịch vụ và những lợi ích mà họ có quyền được hưởng. Không thể chỉ vì một vài những vướng mắc phát sinh mà những lợi ích bị ảnh hưởng, điều này làm cho lòng tin của khách hàng được củng cố. Những tin tưởng lẫn nhau này sẽ khiến doanh nghiệp tiếp tục có quan hệ công việc với ngân hàng như vay vốn hoặc sẽ cố gắng trong việc thanh toán tiền vay. Bên cạnh đó ngân hàng cần quan tâm đến nguyện vong của doanh nghiệp và những khó khăn mà họ gặp phải đẻ đưa ra quyết định chính xác có tài trợ hay không? * Nâng cao công tác quản lý tổ chức đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng cán bộ tín dụng Bác Hồ đã từng nói con người là nhân tố quan trọng trong việc làm kinh tế. Vì vậy con người cần được coi trọng đặc biệt là trong điều kiện hiện nay. Mặc dù máy móc có thể thay thế con người trong một số việc nhưng con người vẫn đóng vai trò trung tâm. Con người nhập các số liệu cần thiết vào máy tính để máy tính đưa ra kết quả tính toán vì vậy khâu nhập số liệu rất quan trọng, nếu nhập sai máy tính sẽ cho ta một kết quả sai và con người có thể đưa ra kết luận sai. Cán bộ tín dụng là người những trực tiếp xem xét, quyết định, giám sát việc cho vay vì vậy cần phải có đủ trình độ. Đào tạo và đào tạo lại cán bộ tín dụng là để đáp ứng các nhu cầu đó. Bên cạnh đó công tác tuyển dụng đầu vào phải đảm bảo các tiêu chuẩn về trình độ, năng lực, … Họ phải có những kiến thức về phân tích tài chính, thẩm định dự án để có thể xem xét hồ sơ xin vay vốn của doanh nghiệp. Bên cạnh đó cũng cần phải phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp khi doanh nghiệp nộp các báo cáo này theo định kỳ. Để có thể nâng cao hiệu quả công việc ngân hàng cần chú ý đến các vấn đề sau: Thứ nhất là sắp xếp vị trí phù hợp cho từng cán bộ, điều này cần đảm bảo 2 yêu cầu là phù hợp với trình độ và khả năng của từng người, một cán bộ không có kiến thức về tín dụng không thể phụ trách việc cho vay, nếu có phụ trách được thì cũng sẽ rất vất vả trong việc tìm hiểu quy trình cho vay. Vì vậy thay vì để cho cán bộ đó Ngân hàng nên sắp xếp các cán bộ có trình độ hiểu biết về tín dụng phụ trách để họ không phải mất thời gian học hỏi, việc này không chỉ đúng với cán bộ tín dụng mà còn đúng đối với các cán bộ khác trong Chi nhánh. Khi đã đảm bảo 2 điều này hiệu quả công việc được nâng cao trong không chỉ ở tất cả các bộ phận mà còn cả trong việc cho vay DNNQD. Thứ hai là đảm bảo lợi ích cho các cán bộ. Các chế độ của cán bộ nhân viên cần được đảm bảo như thưởng, phụ cấp hàng kỳ… không nên ép buộc họ, chính điều này làm họ nhiệt tình trong công việc. Bên cạnh đó cũng cần cho họ thấy những trách nhiệm của họ, phải buộc các cán bộ chịu trách nhiệm với công việc của mình khi không hoàn thành. Vì hàng tháng các cán bộ tín dụng phải tiến hành phân tích tình hình cho vay và lập báo cáo phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua bảng phân tích tài chính. Định kỳ tổ chức học tập chuyên môn cho cán bộ để nâng cao trình độ về kế toán, phương pháp thẩm định dự án đầu tư... Đây là nhu cầu thiết yếu trong thời đại ngày nay. Thông tin thay đổi theo từng giờ, công nghệ cũng hiện đại theo thông tin vì vậy nếu không tổ chức định kỳ học tập để nâng cao trình độ sẽ không theo kịp đồng thời có nguy cơ bị các đối thủ chèn ép. * Thực hiện tốt công tác thẩm định Ngân hàng là một tổ chức tín dụng lấy hoạt động cho vay làm hoạt động chính đặc biệt là đối với các ngân hàng ở nước ta. Nhưng với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Gia Lâm không chỉ là một ngân hàng thông thường lấy việc cho vay làm hoạt động chính mà còn là một ngân hàng thuộc hệ thống ngân hàng thương mại Nhà nước. Tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh là không chỉ làm lợi cho ngân hàng mà còn làm lợi cho nền kinh tế. Chính vì vậy công tác thẩm định đóng vai trò quan trọng trong việc tăng hiệu quả kinh doanh. Đặc biệt là trong nền kinh tế hiện nay tính chất cạnh tranh ngày càng gay gắt, các ngân hàng đua nhau tăng lãi suất đầu vào để nhằm thu hút vốn để cho vay. Vì vậy các cán bộ thẩm định cần thực hiện tốt công tác thẩm định khi tiến hành cho vay. Các cán bộ này cần phải có: Thứ nhất, cán bộ thẩm định cần phải có kiến thức về nghiệp vụ kế toán doanh nghiệp. Vì họ cần phát hiện ra thủ thuật mà các doanh nghiệp thực hiện nhằm che mắt ngân hàng để được vay vốn. Thứ hai, cần phải có khả năng thẩm định dự án. Dự án có hiệu quả thì mới đem lại lợi ích cho không chỉ ngân hàng mà còn cho bản thân doanh nghiệp và nền kinh tế. Họ phải có kiến thức về lĩnh vực, sản phẩm mà doanh nghiệp định vay vốn để sản xuất: Các lĩnh vực đó có cạnh tranh gay gắt không? Sản phẩm của doanh nghiệp có đủ sức để cạnh với các sản phẩm khác hay không? Hay sản phẩm của doanh nghịêp có những ưu điểm gì mà các doanh nghiệp khác không có để có thể thu hút khách hàng?... * Mở rộng các dịch vụ khác nhằm thu hút doanh nghiệp Doanh nghiệp lựa chọn một ngân hàng làm ngân hàng giao dịch cho mình không chỉ là ngân hàng đó rất thuận lợi khi cho vay mà còn vì ngân hàng đó có nhiều dịch vụ đi kèm phát triển. Doanh nghiệp có một khoản tiền trong tài khoản ngân hàng đó là khoản tiền gửi nhằm mục đích thanh toán tiền hàng. Vậy khoản tiền gửi đó là bao nhiêu thì đủ để doanh nghiệp vừa có vốn để kinh doanh vừa có vốn để kịp thanh toán kịp thời. Ngân hàng có thể cung cấp cho doanh nghiệp dịch vụ quản lý ngân quỹ thông qua đó doanh nghiệp đảm bảo nguồn ngân quỹ vừa đủ vừa hiệu quả. Điều này có nghĩa doanh nghiệp có đủ vốn để kinh doanh mà không phải để cho đồng vốn nhàn rỗi mà luôn luôn được sử dụng để sinh lợi. Bên cạnh đó phát triển nhanh dịch vụ thanh toán. Đây là dịch vụ phục vụ cho công việc kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng. Bởi nếu dịch vụ này có tốc độ cao doanh nghiệp sẽ nhanh chóng nhận được hàng hoá nhập về, nếu tốc độ chậm thanh toán thì càng lâu nhận được hàng hoá và doanh nghiệp sẽ phải chờ đợi để có hàng sản xuất kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên vật liệu về để chế biến sản phẩm thì điều này càng quan trọng, nếu hàng chậm về thì doanh nghiệp không thể sản xuất kịp và không thể đưa hàng hoá ra thị trường kịp thời và có thể ảnh hưởng tới thu nhập cũng như lợi nhuận của doanh nghiệp. * Nâng cao chất lượng công nghệ thông tin Công nghệ là các điều kiện để thực hiện công việc hàng ngày nó bao gồm cả các biện pháp xử lý công việc, các quy trình giải quyết công việc. Vì vậy cần nâng cao chất lượng của công nghệ. Đặc biệt là công nghệ thông tin. Đây là các chương trình để xử lý thông tin hàng ngày. Như đã biết các cán bộ hàng tháng phải lập báo cáo về tình hình cho vay và mỗi quý phải tiến hành phân tích tài chính của doanh nghiệp mà mình cho vay vì vậy mà các cán bộ này cần phải được trang bị đầy đủ các thiết bị cần thiết để phục vụ công việc. Các chương trình phải đảm bảo yêu cầu về tốc độ cũng như chi phí. Một chương trình có tốc độ cao nhưng chi phí để hoạt động quá lớn không phải là sự lựa chọn, mà nó phải phù hợp với công việc của hàng ngày. Bên cạnh đó cũng cần phải nâng cao trình độ của cán bộ để họ có thể sử dụng thành thạo các chương trình phục vụ công việc hàng ngày. Các cán bộ tín dụng hàng ngày đều phải kiểm tra tài khoản giao dịch hàng ngày để biết được tình hình thanh toán nợ của các doanh nghiệp vì vậy cần nâng cao tốc độ của máy tính để họ kịp thời có số liệu. Thông qua các số liệu này đưa ra biện pháp xử lý cho kịp thời, ví dụ như như nếu chậm thanh toán thì phải giục các doanh nghiệp để họ tìm cách thanh toán. Nếu thấy họ chậm thanh toán quá lâu thì phải chuyển nợ của doanh nghiệp sang thành nợ quá hạn. Công nghệ thông tin cũng là yếu tố để các doanh nghiệp lựa chọn ngân hàng làm đối tác. Các ngân hàng mà công nghệ lạc hậu sẽ không thể là lựa chọn của doanh nghiệp. Vì vậy nâng cao chất lượng công nghệ là điều kiện để nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động cho vay nói riêng. * Tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát trong toàn Chi nhánh Hoạt động cho vay là hoạt động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Mặc dù hoạt động của ngân hàng thương mại ngoài hoạt động cho vay còn có hoạt động đầu tư vào các doanh nghiệp và các tổ chức khác để hưởng hoạt động kinh doanh. Nhưng do quy mô của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp Gia Lâm không lớn nên Chi nhánh chỉ có các hoạt động khác mà không có hoạt động đầu tư. Do tầm quan trọng của hoạt động cho vay mà việc tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát trong Chi nhánh rất quan trọng. Hiện nay công tác của Chi nhánh còn rất khó khăn do cả Chi nhánh có tất cả 3 cán bộ chịu trách nhiệm công tác kiểm tra kiểm soát. Vì vậy Chi nhánh cần thực hiện một số hoạt động sau để có thể đảm bảo công tác này: Các cán bộ tín dụng cần kiểm tra tính hợp lý và đầy đủ của các hồ sơ xin vay. Để có thể xin vay doanh nghiệp cần phải có 2 bộ hồ sơ là Hồ sơ kinh tế và Hồ sơ pháp lý. Vì vậy các cán bộ này cần phải kiểm tra cẩn thận các bộ hồ sơ này. Sau quá trình giải ngân vốn vay cần theo dõi kỹ các hoạt động sử dụng vốn. Bên cạnh đó cán bộ tín dụng cần xem xét kỹ các hoạt động này để phát hiện các dấu hiệu bất thường để báo cáo cấp trên và có biện pháp xử lý. Các cán bộ kiểm tra kiểm soát phải kết hợp với các cán bộ ở ngân hàng Cấp II và Phòng giao dịch để theo dõi các dự án, nếu phát hiện điều gì cần báo cho cán bộ theo dõi dự án đó để họ xem xét và phân tích các số liệu để đưa ra kết luận chính xác. * Thu hồi nợ quá hạn. Nợ quá hạn luôn luôn làm cho tình hình tài chính của một ngân hàng kém hiệu quả. Nó không chỉ ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh mà còn làm giảm uy tín của ngân hàng, nếu tỷ lệ nợ quá hạn cao thì vị thế của một ngân hàng bị giảm xuống trong thị trường cho vay. Vì vậy cần phải làm giảm tỷ lệ này xuống là biện pháp tăng uy tín và củng cố vị thế của ngân hàng. Ngân hàng cần tiến hành thu hồi các khoản nợ quá hạn và nợ khó đòi để làm lành mạnh tình hình tài chính, nâng cao chất lượng tín dụng bởi một phần được thể hiện qua tỷ lệ nợ quá hạn. Tiến hành phân loại các khoản nợ này để có biện pháp thu hồi nợ thích hợp. Tuỳ từng khoản nợ mà có các biện pháp khác nhau, nếu có tài sản thế chấp thì có thể siết nợ bằng tài sản thế chấp. Đối với các khoản nợ đã được siết nợ bằng tài sản thì có thể tiến hành phát mại tài sản để thu hồi vốn cho vay. Trong trường hợp tài sản này không có thị trường tiêu thụ ngân hàng có thể sử dụng vào các mục đích khác nhằm sinh lợi như cho thuê hoặc dùng làm văn phòng cho các chi nhánh mới mà Ngân hàng có dự định sẽ mở trong tương lai. 3.3 Kiến nghị * Với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam cần tạo một ra một hệ thống thông tin hiện đại để giúp đỡ cho các hoạt động của chi nhánh ngân hàng cấp dưới. Công nghệ hiện đại tạo điều kiện cho Ngân hàng giao dịch nhanh chóng hơn đáp ứng yêu cầu về thanh toán của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhập nguyên vật liệu về để sản xuất mà đối tác yêu cầu phải chuyển tiền mới gửi hàng về. Bên cạnh đó việc hiện đại hoá công nghệ thông tin là làm tăng khả năng cạnh tranh của Ngân hàng. Nhưng việc hiện đại hoá công nghệ không phải là công việc mà 1 chi nhánh có thể thực hiện bởi nó liên quan đến toàn bộ chi nhánh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thông trong cả nước. Vì vậy NHNo&PTNT Việt Nam cần phải có biện pháp để nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin cho các chi nhánh nói chung và Chi Nhánh Gia Lâm nói riêng. Khuyến khích các chi nhánh cử cán bộ đi học để nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Các loại chi phí công tác đào tạo cán bộ NHNo&PTNT Việt Nam hỗ trợ một phần. Bên cạnh đó Ngân hàng cũng cần tổ chức các lớp để nâng cao các kiến thức về thẩm đinh dự án, phân tích tài chính. Thành lập trung tâm về công nghệ kinh tế, đó là các trung tâm hỗ trợ các chi nhánh khi các dự án cho vay vượt quá khả năng thẩm định của các cán bộ chi nhánh này. Với việc thành lập trung tâm này Ngân hàng có thể tạo điều kiện cho các chi nhánh tiếp cận cho vay với các dự án mà từ trước vì lý do công nghệ các chi nhánh không thể thực hiện được. * Với Ngân hàng Thứ nhất, cử các cán bộ theo học các lớp bồi dưỡng để nâng cao trình độ. Ngân hàng cần tạo điều kiện đối với các cán bộ này. Ngân hàng cũng có thể liên hệ giúp các cán bộ nơi bồi dưỡng thông qua mối quan hệ của mình. Với việc có quan hệ với nơi bồi dưỡng cán bộ ngân hàng có thể yêu cầu họ bồi dưỡng cho cán bộ của mình những kiến thức cần thiết còn thiếu. Thứ hai, tuyển dụng thêm cán bộ về thẩm định tín dụng. Các cán bộ này cần phải có các kiến thức về tài chính, khả năng phân tích và tính nhạy bén trong công việc. Ngân hàng cần chủ động liên hệ với các trường đào tạo để có thể biết thêm chi tiết về thực trạng đào tạo hiện nay để có hướng tuyển dụng. Thông qua việc tìm hiểu này ngân hàng sẽ biết được các nhân viên mới có những kỹ năng gì và cần phải đào tạo thêm về những kiến thức gì để có thể làm việc tại chi nhánh của mình. Thứ ba, ngân hàng cần cụ thể hoá các chính sách tín dụng và chính sách khách hàng. Trong trường hợp chính sách khách hàng hợp lý là một trong các yếu tố làm cho quy mô cho vay tăng lên. Chính sách khách hàng phải lấy mục tiêu chủ động tìm kiếm khách hàng, thực hiện tốt công tác chăm sóc khách hàng... Hiện nay phương châm của các doanh nghiệp là tạo ra nhu cầu cho khách hàng chứ không chỉ là đáp ứng nhu cầu. Vì vậy các ngân hàng cũng cần chủ động tìm đến với khách hàng. Ví dụ như ngân hàng có thể cử cán bộ chủ động tìm hiểu các doanh nghiệp đang có nhu cầu vay vốn. Các điều này càng được cụ thể hoá thì càng dễ thu hút khách hàng bởi khách hàng họ muốn biết rằng các lợi ích họ có được là những gì khi họ vay vốn tại ngân hàng ngoài nguồn vốn vay. Ngân hàng cũng cần khuyến khích các nhân viên tìm tòi các biện pháp nhằm tăng vốn đầu tư hoặc các biện pháp để tiếp cận với khách hàng mới. * Với doanh nghiệp Thứ nhất, xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh cụ thể, chi tiết. Điều này không chỉ đáp ứng yêu cầu được yêu cầu của doanh nghiệp. Với doanh nghiệp một kế hoạch sản xuất cụ thể sẽ cho phép doanh nghiệp lường trước các tình huống trong sản xuất, kinh doanh đảm bảo cho thành công của kế hoạch. Với Ngân hàng kế hoạch của doanh nghiệp càng chi tiết ngân hàng càng đánh giá được tổng quát hơn về kế hoạch đó, đưa ra được các kết luận chính xác. Thứ hai, tăng cường công tác quản lý, sử dụng vốn vay có hiệu quả. Vốn có trong tay nhưng không sử dụng hiệu quả thì rất lãng phí. Vì vậy doanh nghiệp cần có các nhà quản lý có trình độ, có năng lực. Muốn làm được điều đó doanh nghiệp cần phải chú ý trong việc tuyển dụng. Thứ ba, thực hiện đầy đủ chế độ kế toán. Chế độ kế toán khoa học chính xác sẽ cho doanh nghiệp và ngân hàng biết cần điều chỉnh gì trong các khoản cho phí, càn điều chỉnh ở giai đoạn nào cho phù hợp. Một chế dộ kế toán khoa học phải bảo đảm cung cấp cho các thông tin cần thiết khi cần dùng. Bên cạnh đó thực hiện chế độ kế toán này doanh nghiệp cũng tạo ra được lòng tin với ngân hàng. Thứ tư, thành lập bộ phận lưu trữ thông tin về doanh nghiệp. Thông tin là một yếu tố quan trọng, nó đem đến cho chúng ta các cơ hội, ý kiến… Thông tin trong nền kinh tế hiện đại đóng vai trò quan trong, nó có thể trở thành vũ khí. Vì vậy yêu cầu về quản lý thông tin là rất quan trọng. Thành lập bộ phận thông tin giúp doanh nghiệp có cơ sở để tra cứu thông qua đó có thể rút ra các bài học kinh nghiệm. Thông tin được kiểm soát là một cở sở để doanh nghiệp chiếm lòng tin với ngân hàng. Một ngân hàng không thể tin tưởng doanh nghiệp mà các thông tin của nó không được kiểm soát đặc biệt là các thông tin về kế hoạch và chiến lược phát triển công ty đó. Như vậy Ngân hàng cần chú trọng tới các biện pháp có liên quan đến con người. Họ sẽ là những người tạo ra hiệu quả công việc nhưng cũng có thể là người làm cho hoạt động không tăng trưởng được. Đặc biệt phải đảm bảo đầy đủ các lới ích mà họ được hưởng (Ngân hàng là ngân hàng thuộc hệ thông ngân hàng của Nhà nước nên các chế độ chính sách vẫn được duy trì). Các bên có liên quan như NHNo&PTNT Việt Nam cũng cần tạo điều kiện để hoạt động của Ngân hàng diễn ra thuận lợi đem lại kết quả cao. Còn các doanh nghiệp thực hiện tốt các kiến nghị trên sẽ đạt kết quả trong công việc kinh doanh cũng như trong việc vay vốn trong tương lai. Kết luận Ngân hàng là một tổ chức tài chính đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế. Ngân hàng không chỉ là cầu nối giữa những người có vốn nhàn rỗi và người thiếu vốn mà còn làm trung gian rủi ro. Các doanh nghiệp được thành lập thiếu vốn có hai cách để có vốn là thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu và vay ngân hàng. Cách thứ nhất tuy rằng có thể chủ động nhưng lại rất tốn kém. Cách thứ hai tuy rằng phụ thuộc vào quyết định của ngân hàng nhưng vẫn là cách mà các doanh nghiệp thường lựa chọn. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ra đời đã làm cho tính cạnh tranh trong nền kinh tế cao hơn, mà còn đáp ứng được các nhu cầu về giải quyết công ăn việc làm của rất nhiều lao động. Nhận thức được điều đó Nhà nước đã có chính sách khuyến khích họ. Và đến lượt mình các ngân hàng cũng tạo điều kiện cho họ vay vốn để sản xuất. Với cách làm này ngân hàng không chỉ nâng cao hiệu quả kinh doanh mà còn buộc các DNNN phải thay đổi để có thể cạnh tranh trong sản xuất và vay vốn. Sau 20 năm thành lập, Ngân hàng Nông nghiệp Gia Lâm đã có những bước phát triển cơ sở vật chất được trang bị khá đầy đủ, điều kiện làm việc được nâng cao. Các hoạt thu hút vốn cũng được mở rộng. Nắm bắt tâm lý của khách hàng đến gửi tiền, ngân hàng đã đề ra chương trình gửi tiết kiệm trúng thưởng, mua ngoại tệ trúng thưởng làm làm nguồn vốn huy động tăng lên, tốc độ tăng trung bình là 18%/năm. Mặc dù đã áp dụng chính thu hút khách hàng như vậy nhưng có một số yếu tố đã làm giảm tốc độ tăng vốn huy động, trong đó phải kể đến yếu tố lạm phát, yếu tố về kinh tế xã hội hay các yếu tố năng lực về vốn. Ngân hàng tiến hành chủ yếu các hoạt động tín dụng còn hoạt động đầu tư thì không có do hạn chế về khả năng nguồn vốn. Các hoạt động khác cũng phát triển như hoạt động mua bán ngoại tệ, bảo lãnh. Đặc biệt hoạt độngcho vay các doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất và đem lại nhiều nguồn lợi nhuận. Hoạt động cho vay này sẽ càng tăng lên. Hoạt động cho vay DNNQD cũng tăng lên. Do các doanh nghiệp được ngày càng ngày càng nhiều do nhu cầu đầu tư của công chúng ngày càng tăng. Đặc biệt những doanh nghiệp mà các giám đốc là những người trẻ tuổi họ muópn khẳng định mình trước xã hội. Mặc dù vậy các doanh nghiệp gặp không ít các khó khăn trong kinh doanh cả về điều kiện kinh tế và điều kiện pháp lý. Công việc của các đối tượng này phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên (như dịch cúm gia cầm trong năm 2005), sự biến động của tỷ giá (điều này ảnh hưởng đến các doanh nghiệp xuất nhập khẩu), biến động về giá cả . Do ảnh hưởng của các yếu tố đó thu nhập giảm dẫn đến trả nợ chậm. Các giám đốc của doanh nghiệp này đa phần là những người trẻ do vậy kinh nghiệm không cao, trình độ về các nghiệp vụ kinh doanh hầu như không có, đa phần họ vừa làm giám đốc vừa theo học các lớp quản lý doanh nghiệp ở các trường về lĩnh vực kinh tế. Và các khó khăn thuộc về bản thân ngân hàng như tài chính không mạnh, một só dự án cho vay nhưng không thu được hiệu quả cao như mong đợi Nhận biết được những khó khăn, tồn tại ngân hàng thường tổng kết, rút kinh nghiệm và đề ra phương hướng hoạt động cho các năm tiếp theo. Ngân hàng cũng đã đưa ra các biện pháp thúc đẩy như cử cán bộ đi nâng cao nghiệp vụ đặc biệt là các cán bộ trẻ. Các biệc pháp đưa ra cần được thực hiện nghiêm túc, không thể coi trọng biện pháp này mà lơ là biện pháp khác đặc biệt là các biện pháp có liên quan đến con người. Nghiên cứu các vấn đề liên quan tới việc cho vay DNNQD em đã thấy được các thưc trạng, nguyên nhân đồng thời đưa ra một vài kiến nghị. Đề án này không tránh khỏi những thiếu xót mong thầy cô thông cảm và giúp đỡ em. Em xin cảm ơn! Tài liệu tham khảo 1. Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Giáo trình Ngân hàng thương mại. 2. Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ. 3. Peter Rose, Quản trị ngân hàng thương mại. 4. Luật công ty 5. Luật Doanh nghiệp tư nhân. 6. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ. 7. Luật các Tổ chức tín dụng 8. Trang Web: www.vbard.com.vn 9.trang Web: www.mdi.gov.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36448.doc
Tài liệu liên quan