Luận văn Mở rộng cho vay đối với hộ nghèo của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt nam

Luận văn đã khái quát được các vấn đề lý thuyết về cho vay đối với hộ nghèo, đối chiếu vào hoạt động cụ thể của NHCSXH Việt nam, đánh giá quá trình mở rộng cho vay đối với hộ nghèo của ngân hàng, qua đó mạnh dạn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng hơn nữa cho vay hộ nghèo của ngân hàng. Cho vay đối với hộ nghèo của NHCSXH là vấn đề không đơn giản về cả lý thuyết và thực tiễn, vừa mang tính thời sự lại vừa mang tính lâu dài. Tác giả mong muốn nhận được các ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo, những người quan tâm đến vấn đề này để đề tài được tiếp tục hoàn thiện hơn nữa.

doc94 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1440 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Mở rộng cho vay đối với hộ nghèo của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i. Trên đây là ba trong nhiều hạn chế ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay đối với hộ nghèo ở NHCSXHVN. Để khắc phục những hạn chế này không chỉ cần nỗ lực từ phía ngân hàng mà còn cần đến vai trò quản lý của các cơ quan có thẩm quyền. Chương 3 GiảI pháp mở rộng cho vay đối với hộ nghèo ở ngân hàng chính sách xã hội việt nam 3.1. Chiến lược xoá đói giảm nghèo của NHCSXH Việt nam trong thời gian tới Theo chuẩn nghèo của Chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia áp dụng cho giai đoạn 2000-2005, đầu năm 2000, Việt nam có khoảng 2,8 triệu hộ nghèo, chiếm 17,2% tổng số hộ trong cả nước (cả nước có khoảng 16,3 triệu hộ). Trong giai đoạn tới (2006-2010), Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ LĐ, TB&XH xây dựng chuẩn nghèo theo hướng tiếp cận dần với chuẩn nghèo quốc tế thì dự kiến hộ thuộc diện đói nghèo giai đoạn này chiếm khoảng 30% tổng số hộ (khoảng 4,9 triệu hộ). Hơn nữa, theo tính toán, những người vẫn nghèo tới năm 2010 ở Việt Nam chính là bộ phận “rất khó thoát nghèo”, khoảng 37% người nghèo sẽ là dân tộc thiểu số, trong khi các dân tộc thiểu số chỉ chiếm có 13% dân số, đồng thời, rất nhiều trong số hộ nghèo sẽ là những hộ di cư ra thành thị. Bảng 4: Dự tính tình trạng nghèo đói của Việt nam tới năm 2010 Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chuẩn quốc tế (%) Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chuẩn quốc gia (%) Số hộ nghèo theo tiêu chuẩn quốc gia (triệu hộ) 30 17 2,7 30 17 2,7 29 25 4 27 23 3,7 25 24 3,4 22 19 3,1 19 16 2,6 Nguồn: Dự báo của NHCSXH. Với những yêu cầu của thực tế đặt ra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, dưới sự chỉ đạo của các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt với tâm huyết và lòng nhiệt tình của những cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo, NHCSXH đã nỗ lực phấn đấu, từng bước vượt khó khăn, phấn đấu hoàn thành chương trình và mục tiêu kế hoạch năm 2003. Trong thời gian tới, NHCSXH tiếp tục phát huy vai trò của nguồn vốn chính sách xã hội là chiếc cầu để đưa người nghèo chuyển từ kinh tế tự cung, tự cấp đi sang sản xuất hàng hoá theo kinh tế thị trường. Vốn hiện đang là vấn đề quan trọng nhất của ngân hàng. NHCSXH đã tính toán nhu cầu vốn của hộ nghèo trong giai đoạn tới (2005-2010) trong điều kiện số hộ nghèo và nhu cầu vay có sự gia tăng so với hiện tại. Theo tính toán của ngân hàng, so với dư nợ bình quân hiện nay là 2,9 triệu đồng/hộ, mức cho vay tối đa thông thường là 7-10 triệu đồng/hộ thì mức cho vay tối đa dự kiến trong thời gian tới ở mức 15-20 triệu đồng/hộ và dư nợ bình quân là 7 triệu đồng/hộ. Đồng thời, ngân hàng cũng tính toán dựa trên mục đích sử dụng vốn của hộ nghèo không chỉ cho hoạt động sản xuất kinh doanh mà sẽ cho vay tăng lên đối với các nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của hộ như: thuốc chữa bệnh, nước sinh hoạt, sửa nhà, tiền học cho con cái… Trước tình hình đó, ngân hàng cần mở rộng các hình thức huy động vốn trong xã hội và tranh thủ các nguồn vốn từ nước ngoài. NHCSXH hình thành và phát triển các công cụ để huy động được các nguồn lực trong toàn dân, đảm bảo sự nghiệp xóa đói giảm nghèo trở thành sự nghiệp của toàn xã hội. Tiến tới từng bước thực hiện bản chất vốn có của một trung gian tài chính là “đi vay để cho vay” với phương châm trước mắt coi trọng các nguồn vốn có lãi suất thấp và coi trọng công tác thu nợ - thu lãi, nâng cao dần vòng quay vốn để ngày càng nhiều hộ nghèo được tiếp cận với vốn của ngân hàng. Triệt để khai thác mọi nguồn vốn trong dân cư nhằm tiến dần đến sự độc lập tương đối trong hoạt động của ngân hàng. Qua đó, đảm bảo sự bền vững và ổn định trong hoạt động của ngân hàng, để vốn của ngân hàng đến với hộ nghèo càng nhiều và càng lâu dài càng tốt. Đồng thời, nâng cao vị thế của ngân hàng trong hệ thống tài chính của đất nước và trong con mắt của các tổ chức nước ngoài. NHCSXH tiến tới là tổ chức tín dụng đầu tiên bền vững thật sự, cung cấp tín dụng cho người nghèo một cách hiệu quả. Về dư nợ cho vay hộ nghèo, ngân hàng tính toán trên cơ sở dự tính về nhu cầu vốn của hộ nghèo tới năm 2010: dư nợ cho vay bình quân là từ 4-7 triệu đồng/hộ, tổng dư nợ cho vay hộ nghèo đạt 9.500 tỷ đồng đến 18.000 tỷ đồng. Căn cứ vào nhu cầu của hộ nghèo để cho vay vốn nhằm đảm bảo nguyên tắc vốn đến tay người cần vốn, đạt hiệu quả kinh tế, chính trị và xã hội. Để làm được điều này, trong thời gian tới, NHCSXH cấp cơ sở sẽ phối hợp chặt chẽ với các tổ chức liên quan tại địa phương để tiến hành thu thập thông tin, đánh giá và phân tích khách hàng, trên cơ sở đó, tổng hợp và xây dựng kế hoạch cho vay và huy động vốn. Thực tế cho thấy, việc thiếu thông tin về khách hàng nhiều khi được xem như là một nguyên nhân vì sao hộ nghèo không dám vay vốn ngân hàng và vì sao họ được coi là những khách hàng vay bấp bênh nhất. Mặt khác, ngân hàng kiên quyết không để bất kỳ người nào, tổ chức nào xâm tiêu tiền vốn của ngân hàng. Đối với các trường hợp có khả năng trả nợ nhưng cố tình chây ỳ, NHCSXH kết hợp với cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương có các biện pháp thích hợp, kể cả biện pháp cưỡng chế để thu hồi nợ. Đảm bảo nguồn vốn xóa đói giảm nghèo được bảo toàn và phát triển. Tổ chức triển khai tốt hơn các hoạt động tuyên truyền, quảng bá về NHCSXH qua các phương tiện thông tin đại chúng nhằm tạo dựng lòng tin với nhân dân về một địa chỉ tin cậy, một mô hình trung gian tài chính đúng đắn, bạn đồng hành của người nghèo trên con đường xóa đói giảm nghèo. Qua đó, từng bước cải thiện tình hình huy động vốn của ngân hàng trên thị trường. Ban lãnh đạo NHCSXH đang xây dựng chiến lược hoạt động của ngân hàng theo hai giai đoạn. Hiện ngân hàng đang ở giai đoạn một với đặc trưng là chủ yếu dựa vào nguồn vốn ưu đãi, lãi suất thấp để cho vay với lãi suất ưu đãi đến các đối tượng chính sách. Giai đoạn hai là giai đoạn mà NHCSXH đã cơ bản hoàn thành được nhiệm vụ cho vay xóa đói giảm nghèo và cần thiết phải tự đứng vững trên đôi chân của mình, từng bước khẳng định vị thế của ngân hàng trên thị trường tài chính. Theo đó, vốn để cho vay của ngân hàng là từ các nguồn tự huy động trên thị trường từ các tổ chức kinh tế và cộng đồng dân cư theo cơ chế lãi suất thị trường kết hợp với nguồn hỗ trợ từ Nhà nước và địa phương. Về các đối tượng cho vay, ngoài những đối tượng chính sách, ngân hàng còn tiếp tục cho vay các hộ đã thoát nghèo tiến tới làm giàu. Cơ chế lãi suất trên cơ sở tính đủ các chi phí cần thiết. Để có thể cạnh tranh với các NHTM khác, NHCSXH tiếp tục duy trì và mở rộng một số chính sách ưu đãi như: (i) ưu đãi về điều kiện vay vốn thông qua tăng mức cho vay tối đa không phải thế chấp tài sản (ii) tư vấn miễn phí đối với khách hàng đến vay vốn (iii) đơn giản hoá thủ tục vay vốn…Kết hợp chặt chẽ với các tổ chức ở địa phương để hỗ trợ hộ nghèo sử dụng vốn vay hiệu quả, tránh thất thoát và lãng phí vốn. 3.2. Giải pháp mở rộng cho vay đối với hộ nghèo ở NHCSXH Việt nam Thứ nhất, đa dạng hóa các nguồn vốn của ngân hàng: Việc huy động vốn đối với một trung gian tài chính bình thường đã là không dễ, đối với NHCSXH còn khó hơn nhiều. Nhưng khi mà nhu cầu về vốn cho vay các đối tượng chính sách đang ngày càng tăng thì có một kế hoạch huy động vốn phù hợp, đầy đủ và kịp thời là không thể thiếu của ngân hàng. Trong giai đoạn đầu mới đi vào hoạt động, khi mà ngân hàng vẫn đang thực hiện cho vay theo lãi suất ưu đãi thấp hơn lãi suất huy động vốn hiện nay của các NHTM thì việc huy động vốn theo lãi suất thị trường là không đơn giản. Do vậy, trong thời gian tới, ngân hàng cần tiếp tục tập trung huy động các nguồn vốn có lãi suất thấp. Các nguồn vốn ngân hàng có được từ cho, tặng, tiền gửi tự nguyện không phải trả lãi hoặc lãi suất thấp. Xóa đói giảm nghèo là sự nghiệp có tính chất xã hội hóa, là nhiệm vụ thường xuyên của các cấp chính quyền, đoàn thể, các cơ quan, tổ chức và cá nhân. NHCSXH nên phát động các phong trào, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến để tranh thủ các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng, vốn quyên góp, ủng hộ, tiền gửi không lấy lãi của các cơ quan, tổ chức và cá nhân. Các khoản tiết kiệm trong cộng đồng người nghèo cũng cần được ngân hàng quan tâm hơn. Nguồn này tuy không lớn nhưng là vốn ổn định và có chi phí thấp (theo tính toán của NHCSXH lãi suất nguồn này vào khoảng 0,26%/tháng). Để huy động được nguồn này, ngân hàng quy định bắt buộc đối với tất cả các thành viên trong Tổ tiết kiệm và vay vốn phải thực hiện đóng góp tiết kiệm ban đầu và tiết kiệm định kỳ hàng tháng, khoản tiền này được hưởng lãi suất không kỳ hạn (0,15%/tháng). Cuối cùng, NHCSXH đẩy mạnh huy động vốn từ các tổ chức nước ngoài như vốn ODA (lãi suất từ 0,06%-0,17%/tháng, thời gian sử dụng dài, có thời gian ân hạn), vốn cấp theo các dự án… Về lâu dài, các nguồn vốn theo lãi suất thị trường sẽ quyết định khả năng bền vững của ngân hàng. Để huy động được các nguồn vốn này thì NHCSXH phải chấp nhận cạnh tranh với các NHTM khác để chiếm lĩnh thị phần, tức là các vấn đề về lãi suất huy động, phương thức huy động, năng lực, uy tín của ngân hàng sẽ là yếu tố quyết định. ít ai có tiền nhàn rỗi lại chịu gửi vào NHCSXH trong khi lãi suất của các tổ chức khác cao hơn rất nhiều. Tuy vậy, thực tế cũng cho thấy rằng, lãi suất chỉ là một trong hàng loạt yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu về các dịch vụ tiết kiệm. Các yếu tố khác bao gồm: sự an toàn, tính thuận tiện, bảo hiểm tiền gửi, quyền lợi của người gửi tiền được xác định rõ ràng... cũng quan trọng không kém trong việc thu hút tiền tiết kiệm của khách hàng. Song, NHCSXH dường như vẫn chưa quan tâm đúng mức đến những khía cạnh này, công cụ huy động không đa dạng, thiếu độ tin cậy đối với khách hàng, thiếu khả năng tiếp cận, hoạt động quảng cáo nghèo nàn và thiếu tinh thần trách nhiệm là những yếu tố hạn chế khả năng huy động tiết kiệm của ngân hàng. Khi ngân hàng tiếp xúc với khách hàng chỉ là những người đi vay thì họ thường bỏ qua thông tin hữu ích về hành vi tiết kiệm của những khách hàng này. Những thông tin đó có thể giúp đánh giá độ tin cậy đối với khách hàng tốt hơn. Hơn nữa, người đi vay sẽ có nhiều khả năng trả nợ đúng hạn hơn và người cho vay phải có trách nhiệm cao hơn đối với việc thu hồi vốn cho vay khi họ biết rằng vốn có được là từ những người hàng xóm láng giềng chứ không phải từ Chính phủ hay các nguồn tài trợ giàu có. Hình thức huy động vốn thông qua mở tài khoản tiền gửi thanh toán cũng nên được ngân hàng xém xét. Tiền gửi thanh toán của khách hàng là nguồn vốn rẻ nhất đối với ngân hàng. Đặc biệt đối với các hộ làm kinh tế ở vùng sâu, xa, những nơi cách xa với thị trường tiêu thụ hàng hoá thì việc sử dụng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí và thời gian của họ. Tuy nhiên, để thực hiện được thì đòi hỏi ngân hàng phải có Trung tâm thanh toán, tham gia vào hệ thống thanh toán liên ngân hàng, áp dụng các công nghệ mới và hiện đại, tạo được niềm tin trong khách hàng về sự an toàn, bí mật và thuận tiện của hệ thống thanh toán đó. NHCSXH nên thiết kế và áp dụng hình thức tài khoản tiền gửi không kỳ hạn với nhiều mức lãi suất khác nhau tuỳ thuộc vào số dư trên tài khoản của khách hàng. Điều quan trọng đối với khách hàng là lãi suất phải dương và tiền của họ không bị giảm giá trị vì lạm phát. Việc ngân hàng không giới hạn mức số dư tối thiểu sẽ thu hút được nhiều khách hàng vì trên thực tế khách hàng chỉ đến gửi tiền tại ngân hàng khi họ có một số tiền tương đối, thường là lớn và họ vốn không có thói quen hoặc cảm thấy ngại khi gửi tiết kiệm những món tiền nhỏ vì nhiều ngân hàng cũng miễn cưỡng khi tiếp nhận số tiền nhỏ. Sản phẩm này sẽ kết hợp được nhiều điểm lợi như: khả năng rút tiền dễ dàng (không kỳ hạn), mức lãi suất tăng dần (khuyến khích tiết kiệm), có tính hấp dẫn cao đối với người nghèo (không quy định số dư tối thiểu) và các đối tượng khách hàng khác. Đồng thời, các sản phẩm tiền gửi khác biệt nhau về lãi suất và kỳ hạn sẽ khuyến khích khách hàng tìm kiếm sự cân bằng hợp lý giữa lợi nhuận của các khoản tiền gửi với sự ưa thích về tính thanh khoản. Nhu cầu vốn trung và dài hạn của NHCSXH là rất lớn, trong khi đó ngân hàng được phép phát hành trái phiếu ra thị trường. Do vậy, ngân hàng nên sớm có kế hoạch triển khai việc phát hành trái phiếu trung và dài hạn có sự bảo lãnh của Chính phủ. Thiết nghĩ, nếu NHCSXH phát hành trái phiếu ra thị trường nhằm mục tiêu huy động vốn cho sự nghiệp xóa đói giảm nghèo, đồng thời trái phiếu đó lại được sự bảo lãnh của Chính phủ thì chắc chắn sẽ được đông đảo dân chúng hưởng ứng tham gia. Một nguồn vốn mà NHCSXH đang bỏ qua là vay vốn từ Bảo hiểm xã hội. Theo tính toán, ngân hàng có thể vay khoảng 1.000 tỷ đồng từ BHXH trong thời gian khoảng 60 tháng. Các hình thức khuyến khích người gửi tiền như phát hành xổ số, trao giải thưởng, tặng quà... đã tỏ ra rất thành công trong việc khuyến khích tăng tiết kiệm tại các nước đang phát triển, nên các hình thức này cũng cần được NHCSXH nghiên cứu, xem xét. Ví dụ trường hợp của Ngân hàng nhân dân Inđonexia sau khi khảo sát đã thấy rằng người gửi tiết kiệm thích có cơ hội nhận được quà khi họ mở tài khoản tiết kiệm nên ngân hàng đã thực hiện trao các phần thưởng may rủi cho mỗi một sản phẩm tiết kiệm của họ. Các hình thức sổ xố cần được thiết kế theo hướng khuyến khích tiền gửi không kỳ hạn cũng như tiền gửi trung và dài hạn. Các nỗ lực huy động tiết kiệm cần được hỗ trợ bởi quá trình quảng cáo, trong đó nhấn mạnh đến: khả năng tiếp cận dễ dàng, đơn giản, tính an toàn của khoản tiền gửi (ở nhiều nước khách hàng thỉnh thoảng được tới xem két sắt nơi tiền của họ được giữ), dễ rút tiền khi cần thiết…Bộ mặt của ngân hàng thông qua việc trang trí ở Hội sở, các chi nhánh và cách thức đón tiếp khách hàng của nhân viên ngân hàng cũng có tác động quan trọng đến việc đánh giá của khách hàng về tiềm lực của ngân hàng. Hiện nay, khi mà NHCSXH chỉ mới thành lập đến các phòng giao dịch ở cấp huyện thì có thể áp dụng hình thức ngân hàng lưu động thông qua việc cử nhân viên ngân hàng định kỳ đến tận các thôn, bản để giới thiệu sản phẩm và thu tiền tiết kiệm…NHCSXH có thể tham khảo áp dụng hình thức khoán mức tiền tiết kiệm huy động được từng thời kỳ đối với mỗi cán bộ ngân hàng tại các chi nhánh như đã được áp dụng đối với hệ thống NHNo. Qua đó sẽ kích thích tính năng động, tự chủ của các chi nhánh, cán bộ. Nếu chi nhánh huy động được đủ vốn với chi phí thấp thì sẽ được trích một phần vào thu nhập của chi nhánh. Cuối cùng, ngân hàng nên quan tâm đến hình thức truyền miệng vì đây là hình thức quảng cáo đơn giản mà hiệu quả nhất. Để đảm bảo tính xác thực trong việc truyền miệng, dịch vụ huy động tiết kiệm phải đúng hạn, chu đáo và trung thực. Tiền của các hộ nghèo là tiền họ kiếm được từ mồ hôi và nước mắt, nếu ngân hàng mất uy tín một lần thì việc lôi kéo hộ đó đến với ngân hàng lần sau sẽ không dễ dàng. Thứ hai, từng bước xoá bỏ chính sách cho vay theo lãi suất ưu đãi Lãi suất là giá cả quan trọng nhất của nền kinh tế, là tín hiệu định hướng cho các quyết định đầu tư. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về lãi suất cho vay ưu đãi đối với hộ nghèo, tựu chung lại có hai quan điểm: Thứ nhất, cho vay theo lãi suất ưu đãi đặc biệt, thấp hơn lãi suất huy động trên thị trường. Quan điểm này cho rằng, hộ nghèo và các đối tượng chính sách nói chung là có khó khăn về tài chính, đang ở những vùng, những lĩnh vực kinh tế cần được ưu tiên đầu tư nên phải sử dụng công cụ lãi suất để kích thích đầu tư, giảm bớt khó khăn về tài chính. Do dó cho vay với lãi suất càng thấp càng tốt. Thứ hai, cho vay theo lãi suất thị trường để giúp người vay quen dần với sân chơi bình đẳng trong nền kinh tế thị trường, kinh tế hàng hoá, mặt khác giúp giảm nhẹ gánh nặng cho NSNN và đảm bảo tính bền vững cho các tổ chức tín dụng cho vay, phù hợp với xu hướng hội nhập khu vực và hội nhập quốc tế. Hai quan điểm trên đều có những mặt tích cực và mặt đúng của nó, vấn đề là vận dụng trong điều kiện nào cho phù hợp. Quan điểm thứ nhất là quan điểm truyền thống, lãi suất được coi là phù hợp với các khoản cho vay đối với hộ nông dân nghèo là chúng cần được giữ ở mức thấp để thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp và hỗ trợ người nghèo ở nông thôn. Tuy nhiên, một điều trở nên rõ ràng trong những năm đầu thập kỷ 70 là những món vay với lãi suất thấp đã gặp khó khăn ở hầu hết các nước đang phát triển. Những khó khăn này không phải do những vấn đề điển hình của riêng từng nước mà do chính sách lãi suất thấp, các khoản tín dụng rẻ tỏ ra không làm tăng sản lượng nông nghiệp hoặc khuyến khích việc áp dụng các công nghệ nông nghiệp mới và thường không đến được tay các hộ nông dân nghèo, làm cho tình trạng nghèo đói ngày càng trở nên trầm trọng. Hơn nữa, lãi suất thấp thường đánh giá thấp khả năng tự chủ tài chính của người cho vay và ngăn cản việc huy động tiết kiệm tự nguyện của các tổ chức tài chính do lãi suất huy động tiết kiệm thấp dẫn đến khả năng làm triệt tiêu nhiều nguồn tiết kiệm gây thiếu hụt vốn cho vay dẫn đến không đủ nguồn lực cung cấp cho người nghèo. Do vậy, chính sách cho vay ưu đãi luôn đi kèm với chính sách hạn chế tín dụng. Nếu các món ưu đãi không được phân bổ cho các ngành, lĩnh vực ưu tiên và không có sự kiểm soát chặt chẽ sẽ gây ra lãng phí trong sử dụng các nguồn lực. Cho vay với lãi suất ưu đãi tạo nên lượng cầu quá tải và có thể dẫn đến hình thức phân chia khẩu phần thông qua quan hệ cá nhân giữa khách hàng và cán bộ tín dụng. Cuối cùng, lãi suất cho vay ưu đãi quá mức cần thiết và vượt quá khả năng của NSNN thì gánh nặng tài chính sẽ đè lên vai Nhà nước. Ngược lại, nếu cho vay theo lãi suất thị trường thì trong thời kỳ đầu, hộ nghèo sẽ gặp nhiều khó khăn về tài chính vì trong sân chơi của nền kinh tế thị trường, họ là người yếu thế hơn cả, do vậy vấn đề kích thích đầu tư cho vùng nghèo, lĩnh vực cần ưu tiên sẽ không thực hiện được. Do vậy, đối với hộ nghèo, trong thời kỳ đầu cần phải được vay vốn theo lãi suất ưu đãi nhưng ưu đãi ở mức độ nào thì cần phải tính toán cho hợp lý và trong tương lai cần phải hướng họ theo lãi suất thị trường. Tuy nhiên, trước hết, vị trí của lãi suất ưu đãi trong công thức trên cần phải được điều chỉnh lại như sau: Lãi sất huy động vốn trên thị trường < lãi suất cho vay ưu đãi < lãi suất cho vay trên thị trường. Theo tính toán, lãi suất ưu đãi hiện nay chủ yếu ở mức 0,5%/tháng, nếu điều chỉnh lên mức 0,6%/tháng, cao hơn lãi suất huy động vốn hiện nay của các NHTM, thì với mức tăng 0,1%/tháng này và với mức dư nợ năm 2003 là khoảng 12.000 tỷ đồng thì trong một năm, NHCSXH tăng thu được 144 tỷ đồng, NSNN sẽ giảm được 1/3 số vốn cấp bù cho NHCSXH. Mặt khác, với tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế trong 6 tháng đầu năm 2004 đạt 7,2% (1,2%/tháng), nếu vẫn duy trì lãi suất 0,5%/tháng có nghĩa là lãi suất thực của ngân hàng bị âm trong nhiều tháng qua. Mức lãi suất điều chỉnh này có thể giúp ngân hàng huy động vốn thông qua tiền gửi của dân cư do đã có thể cạnh tranh về lãi suất với các NHTM khác. Một lần nữa cần nhắc lại rằng hộ nghèo hoàn toàn có thể chấp nhận vay vốn ngân hàng với lãi suất cao hơn mức lãi suất cho vay hiện nay của ngân hàng vì hộ quan tâm nhiều hơn đến khả năng và lượng vốn được vay chứ không phải chỉ có lãi suất vay. Thực tế các chương trình cho vay đối với hộ nghèo hiện đang được tiến hành bởi các tổ chức quốc tế đều áp dụng lãi suất thị trường, thậm chí cao hơn lãi suất của các NHTM, ở mức từ 1,5% đến 1,7%/tháng và tỷ lệ hoàn trả vốn vay rất cao. NHNo với đối tượng khách hàng là các hộ nông dân cũng thực hiện cho vay theo lãi suất thị trường (lãi suất thỏa thuận), kết quả là dư nợ cho vay của ngân hàng vẫn không ngừng tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước và khách hàng đảm bảo được hiệu quả trong sử dụng vốn vay. Đó là chưa kể đến lãi suất cho vay tư nhân tại khu vực nông thôn miền Bắc từ 2-3%/tháng, miền Nam từ 5-10%/tháng mà nhiều hộ vẫn phải vay và trả nợ đúng hạn. Nhìn chung, chưa có hộ nghèo nào từ chối vốn của ngân hàng cho vay với lãi suất thị trường. Sau khi đã ổn định hoạt động, việc xây dựng một chính sách lãi suất đảm bảo sự bền vững về tài chính cho ngân hàng cần được NHCSXH quan tâm. Trong khi đó kinh nghiệm của mô hình thành công trong việc cung cấp tín dụng cho nguời nghèo ở các nước trên thế giới chỉ ra rằng: Lãi suất cho vay đối với người nghèo cần được quyết định dựa trên hai nguyên tắc có liên quan mật thiết tới nhau: (i) chúng phải được thiết lập trên cơ sở lãi suất thị trường như là cơ sở quan trọng nhất cho sự tồn tại của tổ chức, và (ii) chúng phải được phân loại dựa theo chi phí và các dịch vụ được cung cấp. Tất cả các tổ chức tài chính phải tự chủ được trong việc quyết định lãi suất, lãi suất không được bao cấp, nếu có hỗ trợ từ bên ngoài, tiền trợ cấp có thể được dùng vào việc đào tạo và xây dựng tổ chức, chứ không nên dùng cho bao cấp về lãi suất cho vay. Lãi suất thị trường cần phải bao gồm 4 thành phần: chi phí vốn, chi phí giao dịch hay quản lý, thành phần rủi ro (dự trữ cho nợ khó đòi) và lợi nhuận dự kiến thu được. Việc xóa bỏ trợ cấp và nới lỏng các quy định về lãi suất là điều kiện tiên quyết để NHCSXH hoạt động bền vững. Tuy nhiên, việc này không thể thực hiện được ngay một lúc, cần có lộ trình thích hợp. Bước đầu tiên là NHCSXH phải tách bạch được các bộ phận trong lãi suất cho vay của ngân hàng, cụ thể lãi suất huy động, chi phí bù đắp rủi ro và các chi phí quản lý khác. Lãi suất trong thời gian tới phải bù đắp lãi suất huy động vốn và chi phí bù đắp rủi ro, còn Nhà nước sẽ cấp bù các chi phí quản lý khác của ngân hàng. Sau một thời gian, mức độ bao cấp về chi phí sẽ giảm dần, mức giảm này sẽ được tính vào thành phần của lãi suất cho vay. Thứ ba, các biện pháp đảm bảo cho việc hoàn trả vốn vay đầy đủ và đúng hạn Mục tiêu của ngân hàng là đưa vốn đến được với càng nhiều hộ nghèo càng tốt. Cho dù ngân hàng có sử dụng bao nhiêu biện pháp để huy động vốn đi chăng nữa thì cũng không đủ nếu vốn cho vay của ngân hàng không được bảo toàn và phát triển. Việc cho vay của NHCSXH nói chung và các trung gian tài chính nói riêng sở dĩ được coi là ưu việt hơn bất kỳ hình thức trợ cấp hay cấp phát vốn nào chính là ở tính chất quay vòng của khoản vốn, vốn cho vay được trả lại ngân hàng và vốn đó lại dùng cho những người khác vay. Hộ nghèo được hưởng rất nhiều ưu đãi so với các đối tượng khác khi vay vốn ở NHCSXH. Chẳng hạn ưu đãi về lãi suất, về mức vốn vay, về thủ tục vay… nên việc đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn vốn vay là điều tất nhiên hộ nghèo phải tuân thủ. Đồng thời, xây dựng cho hộ nghèo ý thức hoàn trả vốn vay đúng hạn và đầy đủ sẽ có tác dụng nâng cao tinh thần trách nhiệm của hộ khi sử dụng vốn, lựa chọn cách sử dụng vốn có hiệu quả để có tiền trả nợ ngân hàng. NHCSXH có thể tham khảo một số biện pháp sau: Cho vay đối với hộ nghèo của NHCSXH là cho vay không cần tài sản thế chấp nhưng phải trên cơ sở thiết lập tổ Tiết kiệm và vay vốn. Tổ này bao gồm những hộ nghèo có cùng hoàn cảnh, sống gần nhau tại các thôn, xóm, có từ 3 đến 50 thành viên tư nguyện tham gia. Tổ có quy ước cộng đồng trách nhiệm về vay vốn và trả nợ ngân hàng, được UBND xã công nhận và cho phép hoạt động. Hình thức này được áp dụng từ NHNg đến khi là NHCSXH sau này. Về nguyên tắc, cho vay thông qua Tổ tiết kiệm và vay vốn là sử dụng sức ép của những thành viên trong tổ thay thế cho tài sản thế chấp vì các thành viên không muốn bỏ rơi các thành viên khác hoặc không muốn phả chịu bất kỳ hình phạt nào vì sự chậm trả. Trong trường hợp nếu có một thành viên gặp khó khăn và không có khả năng hoàn trả vốn vay thì các thành viên khác phải chịu trách nhiệm hoàn trả phần vốn vay, nếu không thì khoản vay của cả tổ sẽ bị coi là quá hạn. Tuy nhiên, tại NHCSXH hiện nay, vai trò bảo lãnh của Tổ tiết kiệm và vay vốn vẫn chưa được phát huy trong việc nâng cao khả năng hoàn trả của các thành viên trong tổ. Dù một phần lãi suất cho vay hộ nghèo được NHCSXH chia cho Tổ để thúc đẩy hoạt động hỗ trợ của tổ đối với ngân hàng, song khi xảy ra tình trạng không trả được nợ đến hạn thì ngân hàng vẫn là bên chịu tất cả rủi ro. Do vậy, một đề xuất ở đây là NHCSXH nên đề nghị Chính phủ cần xem xét, cân nhắc về tư cách pháp nhân của các tổ, nhóm. Điều này sẽ cho phép ngân hàng cho vay các nghèo qua tổ nhóm với tư cách pháp lý đầy đủ, xác định rõ quyền lợi và trách nhiệm của các tổ chức này. Trên thực tế, trước đây NHNo đã thành công trong việc sử dụng nhóm để lợi dụng một số đặc điểm của cộng đồng dân cư tại các làng và xã, qua đó gây sức ép trả nợ đối với khách hàng vay vốn hơn là vì mục đích giảm chi phí hoạt động hay giảm khối lượng công việc cho các cán bộ tín dụng. Trong một số trường hợp, NHNo đã đình chỉ cho vay cả nhóm khi một số thành viên khác trong nhóm không trả được nợ. Điều này buộc một số thành viên của nhóm phải trả thay cho những người chây ì không trả nợ. Hiện nay NHCSXH đang áp dụng phương thức thu hồi gốc một lần vào cuối thời hạn tín dụng. Hình thức này có vẻ phù hợp với những hoạt động theo mùa của hộ vay, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên, sẽ gây ra rủi ro mất vốn đối với ngân hàng nếu vụ mùa bị thất bát dẫn đến mất mùa. Trên thực tế các chương trình tín dụng có khả năng thu hồi vốn cao cho thấy hoàn trả định kỳ là phương pháp thích hợp hơn so với hoàn trả một lần. Số tiền mà hộ nghèo phải hoàn trả mỗi kỳ bao gồm cả gốc và lãi và là một khoản tiền cố định. Tất nhiên, ngân hàng cũng phải tính toán cẩn thận thời điểm hình thành thu nhập để khách hàng có nguồn trả nợ, tránh tính trạng nợ chồng chất. Nhờ đó, hộ có kế hoạch trả nợ cụ thể và dễ dàng trả nợ ngân hàng hơn là trả một khoản tiền lớn một lúc. Đồng thời, đến cuối thời hạn tín dụng, số tiền hộ tiết kiệm được sẽ lớn hơn vì nợ đã được trả gần hết trong kỳ, làm vốn cho kỳ sản xuất tiếp theo. Về phía ngân hàng có thể thu hồi vốn nhanh hơn, đồng thời sẽ tận dụng và nâng cao được trách nhiệm của các Tổ tiết kiệm và vay vốn trong thu hồi nợ cho ngân hàng. Các tổ chức tài chính nên khuyến khích người vay hoàn trả định kỳ hơn là thực hiện hoàn trả một lần vào cuối kỳ vay, đặc biệt là vì các nông hộ nghèo luôn gặp phải khó khăn khi nắm giữ các khoản tiền tiết kiệm nhỏ. Thêm vào đó, ngân hàng cũng nên có cơ chế khuyến khích hoàn trả đối với những hộ hoàn trả đúng hạn như cho vay với lượng vốn lớn hơn ở kỳ hạn sau. Kinh nghiệm cho vay hộ nghèo tại các nước trong khu vực và các chương trình thí điểm của các NGO cho thấy tỷ lệ hoàn trả khi áp dụng phương pháp hoàn trả định kỳ thường rất cao (trên 95%). Ngoài các biện pháp về nghiệp vụ, để thu hồi vốn vay và nâng cao trách nhiệm của hộ vay vốn, NHCSXH có thể áp dụng một vài biện pháp tác động vào uy tín của hộ trong cộng đồng. Nhìn chung, khách hàng sẽ hoàn trả món vay nếu họ cảm thấy uy tín của mình bị suy giảm trước gia đình, bạn bè và hành xóm. Ngân hàng có thể lợi dụng điều này thông qua việc nêu tên trên báo chí, đài phát thành hay tại các cuộc họp của địa phương những hộ chưa trả tiền vay. Cuối cùng, NHCSXH cần xem xét xoá bỏ việc khoanh nợ và xoá nợ cho các hộ không có điều kiện trả đối với các món cho vay của ngân hàng. Có thể thay thế bằng hình thức đảo nợ hoặc giãn nợ cho các đối tượng này. Đảm bảo triệt để nguyên tắc ‘có vay có trả’, tránh tình trạng các hộ nghèo cố tình hoặc hiểu nhầm là vốn vay của ngân hàng không cần hoàn trả. Đối với các hộ đến hạn nhưng không trả được nợ thì cán bộ ngân hàng phối hợp với Tổ tiết kiệm và vay vốn cần tìm hiểu rõ nguyên nhân hộ không trả được nợ và có biện pháp cụ thể đối với những hộ này. Có thể cho hộ vay thêm để khắc phục khó khăn nhưng nợ cũ vẫn phải trả, kết hợp với tư vấn cho hộ cách làm ăn có hiểu quả hơn. Cuối cùng, đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ và tâm huyết với sự nghiệp xóa đói giảm nghèo. Trong lĩnh vực ngân hàng nói chung và NHCSXH nói riêng, vấn đề con người là vấn đề quan trọng nhất, quyết định sự thành công của mọi nhiệm vụ. Cán bộ của NHCSXH trong thời gian tới sẽ tăng lên rất nhiều để đáp ứng nhu cầu cho vay tới càng nhiều hộ nghèo càng tốt. Tuy nhiên, ngân hàng cần quan tâm đến sự không đồng đều về trình độ của cán bộ để có những hướng đào tạo thích hợp. Cán bộ tín dụng cũng như cán bộ quản lý cần được đào tạo sơ lược về ngân hàng, tài chính và đặc biệt phải nhận thức được rằng ngươì nghèo cũng có thể tiết kiệm, vay vốn và hoàn trả đầy đủ. Các kết quả khảo sát và kinh nghiệm thực tế cần được trao đổi, phổ biến nhằm thay đổi thực trạng thiếu lòng tin khi tiến hành giao dịch đối với người nghèo. Để có thể thay đổi được nhận thức về người nghèo thì không chỉ trang bị cho cán bộ những kiến thức cơ bản mà bản thân họ phải có sự tâm huyết đối với công việc của mình. Trong công tác cho vay, cán bộ tín dụng phải tuân thủ đầy đủ các bước cần thiết theo quy chế cho vay trong quá trình thẩm định, xét duyệt và theo dõi khoản vay. Việc cán bộ tín dụng thường xuyên đến thăm khách hàng sẽ giúp đảm bảo rằng khách hàng vẫn đang duy trì hoạt động kinh doanh hay không và mức độ hoàn trả món vay như thế nào. Qua đó, có quyền không cho vay đối với những hộ nghèo không đủ điều kiện hoặc có nghi ngờ về việc lập danh sách của địa phương gửi lên. Cần tăng cường năng lực thẩm định các món vay nhỏ và quy trình thẩm định cũng nên được hoàn thiện hơn nữa. Cần soạn thảo các bảng tham khảo nhanh về doanh thu và chi phí dưới hình thức của một danh sách kiểm tra đối với từng hoạt động sản xuất khác nhau như: chăn nuôi, trồng trọt và các hoạt động kinh tế thông thường khác. Kết quả công viêc của cán bộ tín dụng được đánh giá bởi những tiêu thức: dư nợ; nợ quá hạn, khả năng thu hồi món vay, uy tín, và số ngày làm việc; trong khi đó số khách hàng mà một cán bộ tín dụng quản lý lại không được coi là một tiêu thức đã dẫn đến tình trạng cán bộ tín dụng thích các món vay lớn hơn là việc gia tăng số lượng món vay nhỏ trong tổng dư nợ của họ, điều này sẽ cản trở cho vay đồi với hộ nghèo vốn chỉ vay các món nhỏ. Đối với công tác huy động tiết kiệm, việc tuyển thêm nhân viên nên tập trung tìm những người ở địa phương, quen thuộc với phong tục, văn hoá địa phương và dễ dàng gặp khách hàng khi cần thiết. Theo kết quả các cuộc nghiên cứu cho thấy, định hướng khách hàng tốt và hoà đồng về văn hoá là nhân tố quan trọng tạo nên sự thành công trong hoạt động huy động tiết kiệm. Việc mở rộng màng lưới cần phải gắn với việc tiêu chuẩn hoá tổ chức cũng như sắp xếp biên chế của ngân hàng. Ví dụ, cần xác định các tiêu chí giới hạn về số lượng khoản cho vay, khối lượng giao dịch hàng ngày, số lượng sổ sách chứng từ mà một mỗi cán bộ tín dụng, kế toán, và thủ quỹ phải xử lý, thực hiện nhằm tránh tình trạng tình trạng quá tải như hiện nay. Để đưa vốn đến tận tay hộ nghèo, ngoài các cán bộ của ngân hàng còn có mạng lưới các Tổ tiết kiệm và vay vốn và sự tham gia của các tổ chức chính trị, xã hội, góp phần quan trọng giúp đỡ ngân hàng lựa chọn đối tượng được vay vốn. NHCSXH cần có một chiến lược cụ thể về việc xây dựng, nâng cao năng lực cho đối tác địa phương trong việc thực hiện, quản lý vốn cho vay và huy động tiết kiệm. Đây là công tác vô cùng quan trọng, góp phần quyết định đến hiệu quả cho vay của ngân hàng. NHCSXH một mặt tận dụng khả năng vận động quần chúng của các tổ chức này, mặt khác cần có chương trình đào tạo, tập huấn tại các xã, huyện, tỉnh về các nghiệp vụ ghi chép sổ sách, tuyên truyền lợi ích của tiết kiệm, của việc thu hồi vốn vay đầy đủ và đúng hạn…Tác động cũng như hiệu quả của hệ thống tín dụng sẽ được cải thiện rõ rệt nếu như cán bộ của các tổ chức xã hội được đào tạo đầy đủ về các hoạt động kinh tế mà là đối tượng tài trợ chủ yếu của các khoản vay, ví dụ: trồng trọt, chăn nuôi gia súc, gia cầm, và cả những hoạt động phi nông nghiệp có tạo thu nhập. Điều này có thể được thực hiện trên cơ sở phối hợp với cơ quan khuyến nông. NHCSXH cần có các biện pháp để nâng cao tinh thần trách nhiệm của các đối tượng này trong quá trình hỗ trợ ngân hàng đánh giá và lựa chọn hộ được vay vốn được chính xác và trong công tác thu hồi vốn cho vay tại địa phương. Trên thực tế, các đối tượng này vẫn được hưởng một phần lãi suất cho vay nên cũng phải có trách nhiệm san sẻ rủi ro mất vốn với ngân hàng. Đồng thời, có chế độ thưởng hoặc phụ cấp cho các đối tượng này nếu họ hoàn thành tốt việc thu hồi vốn tại địa phương, chấp hành nghiêm chỉnh sổ sách kế toán…để khuyến khích họ làm việc tốt hơn. Chừng nào mà NHCSXH còn cho vay không có tài sản thế chấp và chưa mở rộng được mạng lưới hoạt động của mình thì vai trò của các Tổ tiết kiệm và vay vốn và các tổ chức chính trị xã hội vẫn không thể thiếu được đối với ngân hàng. Hình thức ủy thác thông qua NHNo cần được NHCSXH xem xét và đánh giá lại hiệu quả giải ngân vốn. NHCSXH nên tập trung vào việc bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ cộng tác viên là các tổ chức chính trị, xã hội vì về lâu dài, đây mới là nguồn lực hỗ trợ chủ yếu cho hoạt động của ngân hàng. 3.3. Kiến nghị nhằm mở rộng cho vay đối với hộ nghèo tại NHCSXH Việt nam Thứ nhất, tập trung sức nâng cao năng lực tài chính cho NHCSXH để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vay vốn của hộ nghèo và các đối tượng chính sách. Bộ Tài chính chủ trì cùng Bộ Kế hoạch, đầu tư, NHNN trình Thủ tướng Chính phủ biện pháp tăng vốn Điều lệ cho ngân hàng, hiện nay vốn điều lệ của NHCSXH chỉ mới đạt khoảng 30% mức vốn dự kiến. Theo tính toán nhu cầu vốn của ngân hàng, trong vòng 3 năm tới, ít nhất mỗi năm NSNN cần cấp thêm 1.000 tỷ đồng bổ sung vào vốn Điều lệ cho NHCSXH, nhất là trong điều kiện hiện nay ngân hàng không có Quỹ bổ sung vốn điều lệ. Trong thời gian tới, vốn cho vay của NHCSXH sẽ vẫn phụ thuộc chủ yếu vào nguồn từ NHNN nên NHNN cần nghiên cứu và sớm có cơ chế cho vay vốn đối với NHCSXH với lượng vốn lớn, theo lãi suất và các điều kiện ưu đãi để giúp ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách. Song, cũng cần học tập kinh nghiệm đối với NHCS tại các nước đang phát triển cho thấy, tài trợ của Chính phủ và NHNN cho những chi phí chuẩn bị cho ngân hàng tăng trưởng, mở rộng cũng như việc thành lập tổ chức và nâng cao khả năng lên một số mức độ nhất định trong hoạt động của ngân hàng có vai trò vô cùng quan trọng. Sau khi đã ổn định hoạt động, NHCSXH cần xác lập lại mối quan hệ giữa Chính phủ với ngân hàng trong hỗ trợ các đối tượng chính sách. Cả ngân hàng lẫn Chính phủ đều theo đuổi những mục tiêu nhất định, trong đó có những mục tiêu giống và không giống nhau. Để đảm bảo nguồn tài trợ từ Chính phủ được kết hợp hiệu quả với nguồn ngân hàng tự huy động, cần thông qua ký kết các hợp đồng giữa ngân hàng và Chính phủ. Hợp đồng bao gồm cam kết cho vay của ngân hàng cho các đối tượng theo yêu cầu của Chính phủ. Chính phủ có thể cấp vốn, tham gia cho vay một phần, còn lại là ngân hàng cho vay. Hợp đồng cần xem xét rủi ro và xác định cơ chế bù đắp. Lãi suất cho vay cụ thể được tính toán dựa trên kết cấu các loại vốn tham gia và chi phí của chúng. Nếu phần vốn của Chính phủ lớn, lãi suất cho vay có thể thấp và ngược lại. Như vậy, trong giai đoạn đầu khi ngân hàng mới đi vào hoạt động, tỷ trọng phần vốn của Chính phủ lớn thì lãi suất cho vay sẽ thấp. Khi ngân hàng đã ổn định hoạt động thì tỷ trọng vốn của Chính phủ sẽ giảm dần và thay thế bằng nguồn ngân hàng tự huy động trên thị trường. Khi đó, mục tiêu của Chính phủ đạt được mà ngân hàng vẫn có được sự độc lập trong hoạt động cho vay của mình. Chính phủ cho phép NHCSXH từng bước thực hiện cho vay theo lãi suất thị trường đối với các đối tượng chính sách. Các món cho vay của ngân hàng nhỏ, chi phí quản lý lớn, rủi ro món vay cao nên không thể duy trì lâu dài lãi suất cho vay ưu đãi. Hơn nữa, vấn đề đáng quan tâm nhất đối với hộ nghèo là điều kiện vay vốn và thời điểm được nhận vốn, mức vay, thời hạn và số lần được vay vốn chứ không phải là lãi suất món vay. Chính phủ đang theo đuổi chính sách tự do hoá tài chính, song, các biểu hiện như: thực hiện cho vay người nghèo với lãi suất ưu đãi; tạo ra kênh dẫn vốn riêng cho người nghèo không trên cơ sở thương mại; thực hiện các chương trình tín dụng theo chỉ định; đối xử khác nhau với những tổ chức tài chính nông thôn khác nhau...vẫn là biểu hiện của chính sách kiềm chế tài chính. Do vậy, mặc dù sự tiếp cận của người nghèo tới tín dụng đã được cải thiện nhiều, nhưng cho tới nay vẫn chưa có trung gian tài chính nào cung cấp tín dụng cho người nghèo một cách hiệu quả và bền vững. Chính phủ phải có các biện pháp để NHCSXH về lâu dài sẽ trang trải được các chi phí của mình. UBND các tỉnh, huyện trình HĐND dành một phần vốn ngân sách địa phương từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi trong kế hoạch hàng năm để tăng vốn cho NHCSXH trên địa bàn. Đối với các địa phương có khả năng, cần bổ sung thêm vốn uỷ thác cho ngân hàng quản lý, cho vay theo các điều kiện chỉ định của địa phương nhưng vẫn đảm bảo quy trình nghiệp vụ của ngân hàng, đảm bảo quay vòng vốn. Bộ Kế hoạch, đầu tư và Bộ Tài chính cần tạo điều kiện cho ngân hàng tiếp cận và tìm kiếm các nguồn vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế, các NGO…Trong hoàn cảnh uy tín của NHCSXH vẫn chưa được các tổ chức quốc tế công nhận thì các cơ quan quản lý Nhà nước (Chính phủ) đứng ra bảo lãnh cho ngân hàng vay hoặc tiếp nhận vốn của các tổ chức này. Nhìn chung, NHCSXH và các NGO đều hoạt động vì sự nghiệp xóa đói giảm nghèo và đều coi rằng tín dụng cho người nghèo có ý nghĩa quan trọng để cải thiện điều kiện sống của họ. Phụ nữ nghèo, hộ nghèo là dân tộc thiểu số, hộ nghèo tại các vùng xa xôi hẻo lánh là những đối tượng mục tiêu của các chương trình tín dụng và tiết kiệm của họ. Các tổ chức này đã thực hiện thành công nhiều chương trình tín dụng và tiết kiệm tại một số địa phương (điển hình là chương trình xóa đói giảm nghèo tại Hà Tĩnh của tổ chức Cứu trợ trẻ em Anh – SC/UK), một lượng vốn lớn đã được chuyển đến tay các hộ nghèo. Hiện nay mô hình được các NGO đánh giá cao là sự kết hợp ba bên giữa ngân hàng, NGO và các tổ chức chính trị, xã hội tại địa phương vì họ cho rằng về lâu dài thì ngân hàng chính là nguồn cung ứng vốn cho các hộ nghèo. Sở dĩ NHCSXH chưa nhận được vốn của các NGO là vì ngân hàng vẫn cho vay theo lãi suất ưu đãi trong khi các tổ chức này đều cho vay tới hộ nghèo theo lãi suất thị trường. Thứ hai, Nhà nước quan tâm đến vấn đề tăng trưởng kinh tế, đảm bảo công bằng đi đôi với xóa đói giảm nghèo. Hai nhân tố giúp Việt Nam thành công trong công cuộc giảm nghèo đói giai đoạn 1993 - 1998 là: tăng trưởng kinh tế mạnh và tác động lớn của sự tăng trưởng đó đối với nghèo đói. Theo đó, 1% tăng trưởng trong GDP đầu người tương đương với 1,3% giảm nghèo. Mặc dù tình trạng bất bình đẳng tăng lên nhưng thực tế cũng cho thấy Việt Nam đã có được một cú huých mạnh cho tăng trưởng xét về mặt giảm nghèo đói. Nhưng cả hai nhân tố đó hiện đang có nguy cơ bất ổn. Trong những năm khủng hoảng 1998 và 1999, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam đã giảm đi một nửa (còn khoảng 4%), và trong tương lai, mối quan hệ vốn có trước đây giữa tốc độ tăng trưởng và tác động tới nghèo đói chưa chắc đã tiếp tục tồn tại bởi Việt Nam khó có thể tái diễn lại câu chuyện về thành công nhờ đa dạng hoá và giải quyết vấn đề đất đai trong nông nghiệp đã thực hiện trong năm năm qua một khi đã đi đến điểm tới hạn. Bởi vậy nguồn lực cho phát triển dường như sẽ phải khác đi trong những năm tới so với năm năm trước. Cần phải dựa vào hai lĩnh vực khác để tạo tăng trưởng trong tương lai là tạo ra việc làm phi nông nghiệp nông thôn và việc làm ở thành thị. Song cần phải có những cải cách hết sức khẩn trương và cấp bách đối với một loạt vấn đề thuộc về cơ cấu để thúc đẩy hai lĩnh vực nói trên. Nếu xem xét kỹ hơn khoảng cách giữa hai nhóm người giàu nhất và nghèo nhất trong dân số có thể thấy sự gia tăng liên tục về tình trạng bất bình đẳng. Hội nhập vào kinh tế thế giới cũng đi kèm với khoảng cách lớn hơn giữa thu nhập của lao động có thay nghề và không có tay nghề. Đồng thời, có nhiều dấu hiệu cho thấy khoảng cách giữa các vùng cũng ngày càng lớn. Tác động giảm nghèo của tăng trưởng kinh tế sẽ ít hơn khi bất bình đẳng gia tăng, và Việt nam sẽ thu được những kết quả chậm hơn về giảm nghèo trong những năm tới nếu không có biện pháp cụ thể và rõ ràng. Các dân tộc thiểu số nằm trong các nhóm có nguy cơ tụt hậu. Theo tính toán, đến năm 2010, có thể sẽ có hơn 2/3 số dân bị đói là người dân tộc. Đối với các dân tộc thiểu sô, tăng trưởng thôi chưa đủ. Sẽ cần có những chính sách cụ thể ưu tiên cho họ. Những chính sách này bao gồm từ cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn, phân phối lại đất đai hiện nay do các nông trường Nhà nước nắm giữ, thừa nhận hợp pháp các biện pháp canh tác nông nghiệp ở địa phương cho đến cung cấp các dịch vụ xã hội sử dụng ngôn ngữ địa phương… Những người di cư từ nông thôn ra thành thị cũng là một nhóm có tiềm năng rủi ro. Nếu không tính đến những yếu tố khác thì chi tiêu của người sống ở thành phố cao hơn chi tiêu của người sống ở nông thôn đến 78%, khoảng cách này đã tạo ra kích thích lớn cho việc di dân, vầ hầu hết những người di cư từ nông thôn ra thành thị đều làm ăn tốt hơn. Tuy nhiên cơ sở hạ tầng ở đô thị phát triển không đầy đủ và cơ chế quản lý hành chính hiện nay nhằm hạn chế sự chuyển dịch này có thể làm cho người di cư sống trong tình trạng nghèo. Môi trường ô nhiễm, tiếp cận với các dịch vụ xã hội bị hạn chế như trường hợp những người nhập cư không có hộ khẩu, sự thiếu vắng mối quan hệ làng xã vốn là một đặc trưng của nông thôn Việt nam là những hạn chế khó bù đắp nổi. Vấn đề đặt ra đối với Chính phủ là hạn chế dòng di cư này thông qua các biện pháp tăng trưởng và đa dạng hóa ở nông thôn. Thu nhập phải được tăng lên từ chính việc tăng năng suất nông nghiệp khi mà lao động nông nghiệp chuyển sang khu vực phi nông nghiệp ngày một nhiều hơn. Nhà nước cần tăng cường đầu tư vào hạ tầng cơ sở nông thôn, cung cấp nước sạch và vệ sinh, trung tâm y tế, trường học, hệ thống thuỷ lợi và tưới tiêu, hệ thống đường giao thông để tiết kiệm chi phí và thời gian tiêu thụ nông sản…Điều kiện khó khăn của hệ thống đường giao thông nông thôn đã gây cản trở dân tại các làng xã trong việc tiếp cận nguồn tín dụng tại các trung tâm hành chính nông thôn. Có nhiều làng xã mà người ta thậm chí không thể sử dụng xe đạp hoặc xe máy để vào làng vào mùa mưa được. Tạo điều kiện để các xã nhận được hỗ trợ của hệ thống nghiên cứu và khuyến nông cung cấp các dịch vụ có tính trọng tâm và theo nhu cầu của nông dân. Các hoạt động mùa màng, chăn nuôi gia cầm và nuôi trồng thuỷ sản sẽ phát triển tốt hơn nếu tiếp cận được với công nghệ mới, dự đoán được thị trường…Đồng thời, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế trang trại – một nhân tố quan trọng đang góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá. Theo số liệu nghiên cứu, một đồng đầu tư vào giao thông đem lại 4,48 đồng lợi ích, đối với giáo dục là 2,66 đồng, trong khi đó phải gần hai đồng đầu tư vào thủy lợi mới tạo ra một đồng lợi ích… Các vấn đề về thông tin không cân xứng và khả năng cung ứng dẫn đến việc Nhà nước phải cung ứng các dịch vụ cho xã hội nói chung và người nghèo, xã nghèo nói riêng. Thực tế cho thấy việc cải thiện hệ thống đường xá và hệ thống điện ở nông thôn, hoặc trợ cấp một khoản phù hợp để đầu tư định hướng ở nông thôn nhằm tăng thu nhập cho các hộ nghèo thường tốn kém hơn là cung cấp các dịch vụ tài chính khác, đặc biệt tại những nơi có cơ sở hạ tầng kém phát triển. Do vậy, ngân hàng không thể tự mình cung ứng các dịch vụ xã hội này mà cần có sự tham gia của các cơ quan Nhà nước. Vấn đề thị trường và tiêu thụ sản phẩm của hộ nghèo, đặc biệt là hộ nghèo ở nông thôn cũng là vấn đề cần quan tâm. Không tiếp cận được với thị trường, không dự đoán được nhu cầu của thị trường, giá cả nông sản bấp bênh…là những yếu tố làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ nghèo không ổn định. Mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm có liên quan trực tiếp đến bảo toàn vốn ngân hàng và tạo động lực mở rộng tín dụng. Thứ ba, Nhà nước chú trọng nâng cao trình độ dân trí, trình độ sản xuất kinh doanh của hộ nghèo. Đến khi nào tất cả các hộ nghèo đều nhận thức được tầm quan trọng của thoát nghèo đối với gia đình họ. đối với các thế hệ mai sau và đối với xã hội thì khi đó công cuộc xóa đói giảm nghèo mới thực sự có ý nghĩa và đạt được những kết quả to lớn. Hiện nay, còn rất nhiều hộ không muốn thoát nghèo, từ đó dẫn đến vốn được vay được sử dụng để tiêu dùng chứ không nhằm mục đích tăng thu nhập. Như đã phân tích, các hộ có trình độ học vấn cao có ý thức thoát nghèo và nỗ lực thoát nghèo hơn nhiều các hộ có trình độ học vấn thấp. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường, trình độ sản xuất kinh doanh đóng vai trò quan trọng quyết định hiệu quả của quá trình sản xuất. Hộ nghèo có được vốn là quan trọng, nhưng xét trên giác độ hiệu quả sử dụng vốn và đảm bảo vốn được bảo toàn thì việc trang bị cho hộ nghèo kiến thức trong sử dụng vốn có tính chất quyết định. Việc đào tạo, nâng cao trình độ dân trí cho hộ nghèo phải được thực hiện có quy mô quốc gia. Chính phủ cần xây dựng và có sự chỉ đạo đồng bộ các chương trình, mục tiêu về giáo dục đào tạo đã đề ra. Học vấn thấp là phổ biến trong cộng đồng hộ nghèo, song, nhiều nhất vẫn tập trung vào trẻ em của các hộ nghèo này, do vậy các chương trình của Chính phủ phải đặc biệt quan tâm đến bộ phận trẻ em nghèo. Để khuyến khích trẻ em đi học phải đẻ các hộ nghèo nhận thức được đây chính là cách duy nhất để con em họ thoát nghèo trong tương lai. Chính phủ có hỗ trợ nhất định để hộ nghèo có thể chấp nhận được các chi phí giáo dục. Muốn vậy, chi hàng năm của NSNN cho giáo dục phải có kế hoạch cụ thể và thường xuyên kiểm tra, tránh tình trạng chi quá lớn cho giáo dục bậc cao, vốn bị thất thoát, lãng phí… Đồng thời, tạo cơ hội tiếp thu kiến thức mới về kỹ thuật, công nghệ, dự báo thị trường cho hộ nghèo thông qua các tổ chức khuyến nông, khuyến lâm, cơ quan cung ứng giống, vật tư, máy móc, qua các tổ chức đoàn thể tại địa phương…Có chính sách hỗ trợ cho NHCSXH về kinh phí để đào tạo và tư vấn cho hộ nghèo trong quá trình sử dụng vốn. Vốn đối với hộ nghèo rất cần thiết. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là sự kết hợp của chính sách tín dụng từ phía NHCSXH với các chính sách trợ giúp khác từ phía Nhà nước như khuyến nông, khuyến ngư, chính sách sản phẩm đầu vào, chính sách thị trường đầu ra, chính sách cơ sở hạ tầng… Kết luận Từ trước đến nay ở Việt nam chưa có một trung gian tài chính nào thành công trong việc cung cấp vốn cho hộ nghèo thoát khỏi đói nghèo một cách lâu dài và bền vững. Mong muốn xây dựng NHCSXH Việt nam trở thành một trung gian tài chính như vậy là một công việc vô cùng khó khăn. Khả năng huy động vốn có hạn, phụ thuộc vào các chính sách kinh tế và tài chính của Chính phủ, các điều kiện cho vay còn nhiều ưu đãi…nếu không được điều chỉnh kịp thời sẽ cản trở hoạt động của ngân hàng trong thời gian tới. Mục tiêu trước mắt của ngân hàng là mở rộng khả năng tiếp cận vốn của ngân hàng đến với càng nhiều hộ nghèo càng tốt nhưng vẫn phải đảm bảo những nguyên tắc cơ bản của tín dụng ngân hàng, có ưu đãi nhưng các ưu đãi phải giảm dần. NHCSXH Việt nam có rất nhiều việc phải làm: mở rộng huy động tiết kiệm trong dân cư, đào tạo cán bộ các Tổ tiết kiệm và vay vốn về xác định đối tượng vay vốn và giám sát việc sử dụng vốn vay, giảm dần các điều kiện ưu đãi về lãi suất trong cho vay hộ nghèo, tuyển dụng và đào tạo cán bộ tín dụng… Luận văn đã khái quát được các vấn đề lý thuyết về cho vay đối với hộ nghèo, đối chiếu vào hoạt động cụ thể của NHCSXH Việt nam, đánh giá quá trình mở rộng cho vay đối với hộ nghèo của ngân hàng, qua đó mạnh dạn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng hơn nữa cho vay hộ nghèo của ngân hàng. Cho vay đối với hộ nghèo của NHCSXH là vấn đề không đơn giản về cả lý thuyết và thực tiễn, vừa mang tính thời sự lại vừa mang tính lâu dài. Tác giả mong muốn nhận được các ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo, những người quan tâm đến vấn đề này để đề tài được tiếp tục hoàn thiện hơn nữa. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Báo cáo chung của các nhà tài trợ tại Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ Việt nam (2004), Nghèo, Trung tâm Thông tin Phát triển Việt nam. 2. Chiến lược Phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001- 2010 (2001), NXB Chính trị quốc gia, Hà nội. 3. Chu Văn Vũ (1995), Kinh tế hộ nông thôn Việt nam, NXB Khoa học và xã hội, Hà nội. 4. Đỗ Tất Ngọc (2002), Mô hình Ngân hàng Chính sách và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Chính sách, Đề tài Nghiên cứu khoa học, Ngân hàng Nhà nước Việt nam. 5. Joshep E. Stiglitz (2001), Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và kỹ thuật và Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. 6. Hà Thị Hạnh (2004), Giải pháp hoàn thiện mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của Ngân hàng Chính sách Xã hội, Luận án tiến sỹ. 7. Malcom Gillis, Dwight H. Perkins, Michael Roemer, Donald R. Swodgrass (1987), Kinh tế học của sự phát triển, Viện Nghiên cứu Kinh tế Trung ương và Trung tâm Thông tin tư liệu. 8. Mai Hương (2003), “Tăng cường tiếp cận tài chính chính thức của các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các hộ nghèo”, Tạp chí Ngân hàng, (4). 9. Ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế – Trung tâm Tư vấn và bồi dưỡng về Tài chính vi mô (2001), Cẩm nang hoạt động Tài chính vi mô, NXB Thống kê. 10. Ngân hàng Phục vụ Người nghèo (2002), Báo cáo tổng kết 7 năm hoạt động của Ngân hàng phục vụ Người nghèo. 11. Ngân hàng Phục vụ Người nghèo (2001), Báo cáo kết quả nghiên cứu khảo sát hệ thống ngân hàng và chính sách cho vay hộ nghèo tại ấn Độ, Hà nội. 12. Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt nam (2004), Cẩm nang chính sách và nghiệp vụ tín dụng đối với hộ nghèo, NXB Nông nghiệp. 13. Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt nam (2003), Điều lệ Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt nam. 14. Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt nam (2004), Tài liệu hội nghị triển khai hoạt động năm 2004. 15. Nguyễn Thành, Bill Tod, Lê Văn Sở (2003), Tài chính vi mô - Cơ hội cho người nghèo, NXB Văn hóa Thông tin. 16. Niên giám thống kê (2003), NXB Thống kê, Hà nội. 17. TS Đào Văn Hùng (2004), “Hướng tới phát triển hoạt động tài chính vi mô bền vững ở Việt nam thông qua việc xóa bỏ trợ cấp qua lãi suất”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, (89). 18. TS Phan Thị Thu Hà (2004), Ngân hàng thương mại, quản trị và nghiệp vụ, NXB Thống kê. 19. TS Phan Thị Thu Hà (2003), “Tách bạch cho vay chính sách và cho vay thương mại trong quá trình đổi mới hệ thống tài chính Việt nam”, Tạp chí Ngân hàng, (15). 20. UNDP, UNICEF, FAO (1996), Xóa đói giảm nghèo.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32751.doc
Tài liệu liên quan