Luận văn Một số biện pháp cơ bản nhằm tăng cường quản lý và sử dụng máy móc thiết bị ở nhà máy in Diên Hồng - NXBGD

Nhà máy in Diên Hồng trải qua quá trình phát triển lâu dài, đã có những đóng góp lớn trong sự nghiệp dạy và học ở nước ta thông qua việc sản xuất những sản phẩm mang tính giáo dục cao. Nhà máy đã đạt được những thành tích lớn trên nhiều mặt. Qua những phân tích trên ta thấy, trong công tác quản lý máy móc thiết bị Nhà máy cũng đạt được những thành tích quan trọng góp phần đưa Nhà máy phát triển đến tận ngày nay. Ta thấy máy móc thiết bị đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhận thức được điều đó, Nhà máy đã có những quan tâm, cố gắng lớn trong quản lý và sử dụng máy móc thiết bị. Nên Nhà máy đã đạt được một số thành tích về huy động thời gian và công suất làm việc thực tế của máy móc thiết bị, hệ thống quản lý máy móc thiết bị được hoàn thiện Tuy nhiên, bên cạnh đó còn rất nhiều tồn tại cần khắc phục, đòi hỏi toàn bộ CNV Nhà máy phải có những cố gắng hơn nữa, thay đổi cách nhìn nhận, quan điểm. Qua thời gian thực tập tại Nhà máy tôi đã đi sâu tìm hiểu vấn đề quản lý và sử dụng máy móc thiết bị nên cũng đã hiểu rõ thực trạng của vấn đề ở Nhà máy. Kết hợp với kiến thức lý luận được trang bị trong quá trình học tập, tôi đã hoàn thành bản luận văn này. Trong đó tôi có đề ra một số biện pháp với hy vọng là bằng những giải pháp này tôi có thể góp phần cùng Nhà máy quản lý và sử dụng hiệu quả hơn số máy móc thiết bị hiện có, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cho Nhà máy. Với thời gian nghiên cứu không dài, cùng với kiến thức thực tế chưa có nhiều vì vậy luận văn này khó tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn cho tôi được hoàn thiện hơn nữa luận văn này.

doc71 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1353 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp cơ bản nhằm tăng cường quản lý và sử dụng máy móc thiết bị ở nhà máy in Diên Hồng - NXBGD, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
máy in 2 màu và 1 máy dao một mặt cho phân xưởng in; 2 máy gấp và 1 máy vào bìa cho phân xưởng Hoàn thiện. Việc tăng năng lực sản xuất ở 2 phân xưởng sản xuất chính đã làm cho năng lực toàn Nhà máy tăng lên rất lớn. Năm 1998, tổng giá trị đầu tư lúc này là 3.343,43 (trđ). Lúc này do đòi hỏi của việc in trang nhiều màu, nên Nhà máy đã đầu tư 1 máy in 4 màu và hiện nay máy này đã sử dụng gần hết công suất. Đồng thời thì cũng phải tăng năng lực của phân xưởng Hoàn thiện nên ở phân xưởng này cũng được trang bị rất nhiều máy. Việc đầu tư máy móc thiết bị của Nhà máy chủ yếu là từ nguồn vốn vay và vốn tự có. Từ năm 1995 trở về trước thì có một phần máy móc thiết bị đầu tư được vốn ngân sách tài trợ nhưng từ đó trở đi thì tự Nhà máy phải lo liệu lấy bằng việc trích từ quỹ khấu hao hoặc vay hoặc trích từ nguồn vốn kinh doanh. Nhưng việc trích này cũng có hạn, chỉ tài trợ được cho những máy có giá trị nhỏ dưới 100 trđ. Còn lại chủ yếu là từ vốn vay và trích từ quỹ khấu hao máy móc thiết bị. Từ năm 1998 đến nay thì chưa có một đợ đầu tư lớn nào khác, nhất là năm 1999 và năm 2002 đã không có một sự đầu tư nào. Năm 2000 và năm 2001 sự đầu tư tương đối thấp và không làm ảnh hưởng đến năng lực sản xuất toàn Nhà máy. Các máy in 1 màu của Nhà máy đã được đầu tư từ trước năm 1991, hiện đã rất cũ, và lại không được đại tu sửa chữa lớn kết hợp với hiện đại hoá mà lại phải hoạt động gần hết công suất thiết kế vì vậy cần phải có kế hoạch đầu tư thêm hoặc hiện đại hoá các máy này. V. Phân tích tình hình thực hiện các chỉ tiêu hiệu quả trong công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị tại Nhà máy in Diên Hồng. 1. Chỉ tiêu sức sản xuất của máy móc thiết bị Chỉ tiêu này có thể được tính theo doanh thu hoặc theo khối lượng sản phẩm sản xuất ra: HDT = Tổng doanh thu Tổng giá trị máy móc thiết bị HSL = Tổng sản lượng Tổng giá trị máy móc thiết bị Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng giá trị máy móc thiết bị tham gia sản xuất trong 1 năm thì tạo được mấy đồng doanh thu hoặc bao nhiêu sản phẩm. Ta có thể xem xét trong bảng sau: Bảng 17: Sức sản xuất của máy móc thiết bị Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2000 Năm 2001 Năm2002 Thực hiện so với năm 2000 Thực hiện so với năm 2001 Tổng doanh thu Trđ 13105 17996 4891 14000 - 3996 Tổng sản lượng Trtg 2670 3018,7 348,7 3080,9 62,2 Gtrị máy móc thiết bị Trđ 15209,5 15219,8 10,28 15219,8 0 Hdt đ/đ 0,86 1,18 0,32 0,92 - 0,26 Hsl Trt/trđ 0,176 0,198 0,022 0,202 0,004 Nguồn: Phòng kế hoạch - vật tư Theo bảng trên thì ta thấy, nhìn chung 3 năm qua chỉ tiêu sức sản xuất có tăng. Nhưng năm 2002, chỉ tiêu sức sản xuất theo doanh thu giảm 0,26 (đ/đ), có nghĩa là 1 đồng giá trị máy móc thiết bị bị tạo ra được ít doanh thu hơn, trong khi đó sức sản xuất theo sản lượng lại tăng 0,004 (triêu trang/triệu đồng). Đó là do năm 2002 Nhà máy tập trung chủ yếu vào việc in cho NXBGD, nên mặc dù sản lượng có tăng nhưng giá công in cho NXBGD lại thấp hơn nhiều so với in ngoài nên doanh thu vẫn thấp hơn. Điều này càng đòi hỏi Nhà máy phải tích cực trong việc khai thác các sản phẩm in ngoài NXBGD. 2. Chỉ tiêu khả năng sinh lợi và nộp ngân sách của máy móc thiết bị. Chỉ tiêu này được tính bằng cách: HLN = Lợi nhuận Tổng giá trị máy móc thiết bị HNS = Các khoản nộp ngân sách Tổng giá trị máy móc thiết bị Hai chỉ tiêu này cho biết, 1 đồng giá trị máy móc thiết bị tạo ra mấy đồng lợi nhuận và nộp ngân sách được bao nhiêu. Ta có thể xem trong bảng dưới đây: Bảng 18: Khả năng sinh lợi và nộp ngân sách Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2000 Năm 2001 Năm2002 Thực hiện so với năm 2000 Thực hiện so với năm 2001 Lợi nhuận Trđ 267,58 273,02 5,44 256,92 - 16,102 Các khoản nộp NS Trđ 258,95 483,26 224,31 441,58 - 41,69 Gtrị máy móc tb Trđ 15209,5 15219,8 10,28 15219,8 0 HLN đ/trđ 17592,95 17.938,5 345,55 16.880,5 - 1.058 HNS đ/trđ 17025,7 31752,2 14726,5 29013,35 - 2.738,8 Nguồn: Phòng kế hoạch - vật tư Theo như trên ta thấy, các chỉ tiêu của Nhà máy không tăng đều qua các năm, năm 2001 là năm có các chỉ tiêu cao nhất. Nhưng so với năm 2000 chỉ tiêu khả năng sinh lợi chỉ tăng 345,55 đồng trên 1 triệu đồng giá trị máy móc thiết bị. Do vậy mà lợi nhuận chỉ tăng khoảng hơn 5 triệu. Đồng thời các khoản nộp ngân sách thì tăng nhiều và khả năng nộp ngân sách cũng tăng khoảng 14.726,5 đồng trên 1 triệu giá trị máy móc thiết bị. Năm 2002, tất cả các chỉ tiêu đều giảm so với năm 2001. Ta thấy tất cả các chỉ tiêu hệ số huy động công suất, hệ số huy động thời gian làm việc của Nhà máy đều tăng năm sau cao hơn năm trước, do vậy mà sức sản xuất theo sản lượng tăng nhưng do một số nguyên nhân , nên sức sản xuất của máy móc thiết bị theo doanh thu năm 2002 lại giảm so với năm 2001 đó là nguyên nhân khách quan thuộc về NXBGD. 3. Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng chi phí khấu hao máy móc thiết bị. Ta có thể tính như sau: KDT = Tổng doanh thu Khấu hao máy móc thiết bị KLn = Tổng lợi nhuận Khấu hao máy móc thiết bị Hai chỉ tiêu này cho biết 1 đồng chi phí khấu hao tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc lợi nhuận. Cụ thể ta có thể xem xét các chỉ tiêu trong bảng sau: Bảng19: Hiệu quả sử dụng chi phí khấu hao Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2000 Năm 2001 Năm2002 Thực hiện so với năm 2000 Thực hiện so với năm 2001 Lợi nhuận Trđ 267,58 273,02 5,44 256,92 - 16,102 Tổng doanh thu Trđ 13105 17996 4891 14000 - 3996 Khấu hao mmtb Trđ 1302,24 1280,1 - 22,14 1280,1 0 KDT đ/đ 10,06 14,06 4 10,94 - 3,12 KLn đ/đ 0,205 0,213 0,008 0,2 - 0,013 Nguồn: Phòng kế hoạch - vật tư Năm 2000, 1 đồng chí phí khấu hao tạo ra 10,06 đồng doanh thu và 0,205 đồng lợi nhuận. Năm 2001 con số này cao hơn, 1 đồng chi phí tạo ra 14,06 đồng doanh thu và 0,213 đồng lợi nhuận( tăng 4 đồng doanh thu và 0,008 đồng lợi nhuận so với năm 2000). Sang năm 2002 các chỉ tiêu này giảm xuống, chỉ còn xấp xỉ bằng năm 2000, năm này 1 đồng chi phí khấu hao chỉ tạo ra 10,94 đồng doanh thu và 0,2 đồng lợi nhuận ( giảm so với năm 2001 là 3,12 đồng doanh thu và 0,013 đồng lợi nhuận ) Do việc trích khấu hao đều và trong điều kiện ít đầu tư thêm máy móc thiết bị thì trong 3 năm này chi phí khấu hao là tương đương nhau. Trong khi điều kiện kinh doanh có thay đổi và doanh thu, lợi nhuận giảm. VI. Đánh giá chung về công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị tại Nhà máy in Diên Hồng - NXBGD. 1. Một số thành tích đã đạt được. Tình hình chung: trong những năm qua, tình hình lợi nhuận của doanh nghiệp không giảm trong điều kiện giá công in giam, chi phí sản xuất kinh doanh tăng là 1 điều cố gắng lớn. thu nhập bình quân đầu người thuộc loại trung bình khá so với các nhà in khác và cũng tăng qua các năm do vậy đời sống cán bộ công nhân viên chức của Nhà máy được cải thiện. Chất lượng sản phẩm qua 1 số năm được đánh giá là 100% loại A. Tiến độ sản xuất đã được Nhà máy quan tâm, về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu của các quyết định in và các hợp đồng kinh tế. Tình hình đầu tư đổi mới : Hiện nay, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng khá, tình hình tự chủ của nhà máy về vốn là khá tốt vì vậy có khả năng sử dụng nguồn vốn này để đầu tư mới, sửa chữa, để nâng cấp máy móc thiết bị, công nghệ… Từ năm 1991 đến nay Nhà máy đã áp dụng công nghệ in offset, cho đến nay công nghệ này vẫn thuộc loại tiên tiến cho chất lượng in đẹp. Nhà máy đã thực hiện ba đợt đầu tư mua sắm mới có giá trị. Hầu hết là các máy móc thiết bị tiên tiến hiện đại, hầu hết là các máy móc bán tự động Nhà máy đầu tư có đủ các loại máy: máy in 1 màu, 2 màu, 4 màu để đáp ứng yêu cầu in màu. Tuy số lượng máy móc thiết bị đã cũ nhưng còn hoạt động tốt, năng lực sản xuất của các loại máy là không đồng bộ nhưng nhà máy đã cố gắng quản lý và sử dụng chúng 1 cách linh hoạt, đảm bảo việc bố trí sắp xếp các loại máy giữa các khâu trong quá trình sản xuất hợp lý đảm bảo tính liên tục. Về mặt sử dụng máy móc thiết bị : có thể thấy máy móc thiết bị của Nhà máy được huy động sử dụng 100% về số lượng. Nhà máy luôn có 2 đợt kiểm kê TSCĐ vào cuối quý II và quý IV hàng năm thông qua đó mà có kế hoạch thanh lý kịp thời những máy móc thiết bị không sử dụng hoặc có kế hoạch mua sắm nếu cần thiết và đưa vào sử dụng ngay. Đồng thời công suất huy động của các máy cũng rất cao như : Máy in 1 màu 94,63%, máy in 4 màu đạt 97,65%, máy gấp bằng 95,15%, máy bắt sách đạt 96,06%. Đặt trong bối cảnh tình trạng máy móc thiết bị tại Nhà máy đã cũ và lại không đồng bộ, thì thành tích dạt được ở trên là do Nhà máy đã có những chính sách quản lý thích hợp công tác điều độ sản xuất được thực hiện có hiệu quả. Về công tính và trích khấu hao : công tác tính và trích khấu hao của Nhà máy luôn đảm bảo tính đúng và tính đủ. Nhờ vậy trong những năm qua Nhà máy khấu hao 1 cách hợp lý máy móc thiết bị, đảm bảo việc duy trì ổn định giá thành sản phẩm. Đồng thời sử dụng đúng quỹ khấu hao cho việc mua sắm thêm máy móc thiết bị. Về tổ chức quản lý máy móc thiết bị : Trách nhiệm quản lý máy móc thiết bị được giao đến tận người công nhân vận hành máy. Từng bộ phân có trách nhiệm và quyền hạn riêng trong việc quản lý và sử dụng máy móc thiết bị, đảm bảo sự thông suốt trong quản lý và sử dụng máy Về công tác bảo dưỡng, bảo quản máy móc thiết bị ở từng nơi làm việc: Nhà máy rất coi trọng công tác bảo dưỡng máy móc thiết bị hàng ngày và hàng tuần. Mỗi ca trước khi làm, người công nhân đứng máy phải kiểm tra tình trạng hoạt động của máy, sau ca làm việc thì phải lau chùi, tra dầu mỡ. Công tác bảo dưỡng hàng tuần cũng được coi trọng và phải mất rất nhiều thời gian. Công tác sửa chữa thì được quy định chặt chẽ hơn đó là phải lập biên bản và phải báo cho PGĐ sản xuất - kỹ thuật và tổ Cơ điện. Tất cả các công tác này đều được áp dụng các hình thức khuyến khích vật chất rõ ràng nên luôn đảm bảo thực hiện tốt, tình trạng kỹ thuật máy móc thiết bị luôn được theo dõi. Công tác cung ứng nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất luôn đáp ứng được nhu cầu của sản xuất, chưa từng xảy ra tình trạng thiếu nguyên vật liệu cho sản xuất. Công tác đào tạo nguồn nhân lực cho công tác quản lý và sử dụng máy móc thiết bị: Hàng năm Nhà máy đều có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ quản lý, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân vận hành máy tại trường trung cấp in. Hàng năm đều tổ chức thi nâng bậc cho công nhân, tạo điều kiện khuyến khích họ phấn đấu, nâng cao tay nghề, phát huy sáng kiến, làm tăng khả năng sử dụng thành thạo máy móc thiết bị… 2. Những tồn tại Công tác đổi mới máy móc thiết bị: Cho tới nay Nhà máy vẫn còn đang sử dụng 1 số loại máy móc thiết bị đã được trang bị từ lâu, công suất, năng suất lao động không cao nhưng do vẫn còn khả năng tận dụng được nên Nhà máy vẫn duy trì việc sử dụng chúng, gây cản trở tới công tác đầu tư mua sắm mới máy móc thiết bị. Trong phần trước ta thấy từ năm 1991 đến nay Nhà máy đã thực hiện đầu tư đổi mới 3 lần lớn nhưng từ năm 1998 đến nay thì không có 1 sự đầu tư nào cho việc đổi mới để làm hiện đại hơn hay tăng năng lực sản xuất. Việc đại tu máy móc kết hợp với hiện đại hoá máy móc cũng không được thực hiện. Một số máy móc đã được dùng từ năm 1968 và từ năm1988 mà vẫn chưa được đổi mới hay đại tu. Vì vậy hệ thống hay hỏng hóc bất thường, có nguy cơ gây mất an toàn lao động, sản phẩm sản xuất ra chất lượng kém, đồng thời quá trình vận hành tiêu hao rất nhiều nguyên vật liệu, năng lượng. Hàng năm Nhà máy mất khá nhiều thời gian cho việc sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị. Thời gian huy động máy móc thiết bị còn thấp, cho thấy khả năng huy động máy móc thiết bị vào sản xuất còn hạn chế, thời gian ngừng máy còn nhiều. Hệ số huy động thời gian làm việc theo chế độ không đồng đều giữa các máy. Trong khi một số máy phải làm việc khẩn trương thì một số máy khác lại không có việc để làm. Hệ số huy động công suất thiết kế của một số máy cũng còn thấp và cũng còn không đồng đều. Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị còn thấp: như là sức sản xuất, khả năng sinh lợi và nộp ngân sách. Đặc biệt năm 2002 lại có xu hướng giảm so với năm 2001 Công tác bảo dưỡng sửa chữa máy móc thiết bị: Công tác này đã có sự phân cấp trách nhiệm rõ ràng cho các bộ phận, tới từng công nhân đứng máy nhưng chưa thật hiệu quả. Tuy dã có chế dộ bảo dưỡng máy hàng ngày hàng tuần, nhưng chế độ này tốn khá nhiều thời gian, và nhiều khi cũng không phát hiện được hết sự cố có thể xảy ra. Đồng thời Nhà máy chưa có chế độ sửa chữa dự phòng mà mới chỉ thực hiện sửa chữa khi có sự cố xảy ra, trong khi đó với biên chế tổ Cơ điện chỉ có 6 người và lại chỉ có 3 người làm nhiệm vụ sửa chữa. Nên nhiều khi sự cố xảy ra thì không sửa chữa kịp, gây ùn tắc trong sửa chữa. Trình độ người sửa chữa nhiều khi không đảm đương nổi một số hỏng hóc, do vậy mà phải đi thuê, làm cho thời gian ngừng máy càng kéo dài. Công tác tính và trích khấu hao: Nhà máy hiện đang sử dụng phương pháp khấu hao tuyến tính là phù hợp, nhưng lại quy định cho tất cả các loại máy móc đều có 10 năm sử dụng định mức. Đây là 1 điều bất hợp lý, vì mỗi loại máy móc đều có công dụng riêng, tuổi thọ riêng, yêu cầu về thu hồi vốn đầu tư riêng nên không thể quy định như vậy. Đồng thời chi phí khấu hao trên 1 trang in của Nhà máy là rất cao so với các nhà in khác trong ngành. Công tác quản lý hồ sơ máy móc thiết bị: Tuy mỗi máy móc khi mua về đều được lập hồ sơ riêng nhưng việc quản lý hồ sơ lại không được coi trọng, công tác cập nhật hồ sơ cũng không được thực hiện đầy đủ. Nhà máy còn thiếu 1 đội ngũ công nhân lành nghề để đảm đương việc in những sản phẩm chất lượng cao. Vào những thời điểm nhàn rỗi là lúc để Nhà máy khai thác các hợp đồng in màu chất lượng cao như : tờ rơi, pano, appích … nhưng do thiếu đội ngũ công nhân có tay nghề giỏi để đảm đương việc in vì vậy mà đã không ký được hợp đồng nào. Đó là do Nhà máy chưa có chế độ chính sách phù hợp đủ để giữ chân những người thợ giỏi, những người thợ làm việc lâu năm có kinh nghiệm, nếu họ được nâng bậc lên cao là lại từ bỏ Nhà máy do vậy mà Nhà máy đang rất thiếu một đội ngũ công nhân bậc 5 trở lên. Đòi hỏi Nhà máy cần phải xem xét lại chế độ chính sách của mình để tạo sự gắn bó cho những người lao động đối với Nhà máy. 3. Một số nguyên nhân của tình trạng trên 3.1. Một số nguyên nhân khách quan: Nhà máy là một đơn vị thành viên của NXBGD, tuy thực hiện hạch toán độc lập nhưng nhiều khi vẫn phải được sự đồng ý của NXBGD thì mới thực hiện được một số việc, hoặc muốn phát triển thì phải có chủ trương của NXBGD. Nói chung Nhà máy còn phụ thuộc rất nhiều vào NXBGD về các chính sách phát triển lớn. Đồng thời hàng năm NXBGD giao một chỉ tiêu sản lượng lớn cho Nhà máy, và điều này cũng hoàn toàn phụ thuộc vào NXBGD, sự cân đối giữa các loại trang in tạo điều kiện cho Nhà máy tận dụng hết công suất máy, nhưng hàng năm cơ cấu này lại không được cân đối do vậy mà công suất huy động của các máy không được đồng đều, có những lúc phải sử dụng máy in 2 màu cho việc in một màu gây lãng phí rất lớn. Việc đầu tư, trang bị mới máy móc thiết bị để nâng cao năng lực của Nhà máy phụ thuộc vào việc NXBGD có chủ trương muốn phát triển Nhà máy hay không. Chính vì vậy, hiện nay theo chủ trương của NXBGD là tạm thời chưa nâng cao năng lực của Nhà máy do vẫn còn đáp ứng được các chỉ tiêu sản lượng. Điều này giải thích vì sao trong những năm qua Nhà máy chưa thực hiện một đợt đầu tư lớn nào. Do đặc thù của việc in gia công là lợi nhuận bị chia sẻ do vậy mà qua các năm khả năng sinh lợi của máy móc thiết bị rất thấp, và vì vậy lợi nhuận cũng thấp. Đồng thời, in là một ngành phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của các ngành KTQD khác, phụ thuộc nhiều vào lượng đặt hàng của các đơn vị này Do đặc điểm của việc in SGK, là sản phẩm mang tính thời vụ, do vậy việc sản xuất cũng mang tính thời vụ. Đồng thời Nhà máy lại có nhiệm vụ số 1 là in SGK cho NXBGD nên đã không tích cực trong việc tìm kiếm các hợp đồng in bên ngoài, do đó đã không làm giảm được tính mùa vụ trong sản xuất, ảnh hưởng đến việc huy động thời gian và công suất máy. 3.2. Một số nguyên nhân chủ quan Số lượng, chủng loại máy móc chưa đồng bộ, mặc dù Nhà máy đã có nhiều cố gắng trong đầu tư máy móc thiết bị mới, do vậy làm cho việc sử dụng công suất và thời gian của các máy không được đồng bộ. Một số máy móc thiết bị đã lạc hậu, cù kĩ mà vẫn chưa được đầu tư, các máy hầu như không được đại tu kết hợp với hiện đại hoá, do vậy mà không tận dụng được hết sô máy hiện có nên hiệu quả sử dụng máy không cao. Đồng thời máy cũ nên thời gian ngừng máy để bảo dưỡng, sửa chữa kéo dài hơn, máy hay hỏng hóc, sự cố xảy ra nhiều hơn, thời gian làm việc có ích của máy cũng ít hơn … Công tác tổ chức sửa chữa, bảo dưỡng chưa thật hợp lý, số lượng công việc tập trung vào tổ Cơ điện quá nhiều trong điều kiện ít người vì vậy không đảm đương được hết công việc sửa chữa. Đồng thời việc sửa chữa không chỉ đơn thuần là sửa chữa bìng thường mà nó còn đòi hỏi phải sáng tạo, cải tiến thì mới duy trì hoạt động bình thường của máy móc thiết bị, nhưng hiện nay trình độ thợ bậc cao quá ít trong đó có người đã lớn tuổi kinh nghiẹm nhiều nhưng ít sáng tạo, kiến thức không cập nhật vì vậy mà hiệu quả sửa chữa không cao. Do số lượng và chủng loại máy móc thiết bị không nhiều nên công tác quản lý hồ sơ máy móc thiết bị không được coi trọng và cũng không được cập nhật hàng ngày. Khi hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị của Nhà máy chưa cao do khối lượng công việc chưa nhiều, giá công in của NXBGD còn thấp thì công tác tiếp thị mở rộng thị trường in gia công cho các khách hàng ngoài NXBGD chưa được coi trọng. Vì vậy mà chưa giảm được tính mùa vụ của sản xuất, giảm khả năng huy động thời gian, công suất của máy móc. Tâm lý muốn tận dụng 1 cách triệt để giá trị sử dụng của máy móc thiết bị đã cũ dẫn tới việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới phục vụ công tác hiện đại hoá máy móc thiết bị chậm trễ. Mặc dù nhiều máy móc thiết bị đã khấu hao hết, đã cũ nhưng vẫn còn sử dụng được. Việc này ảnh hưởng về lâu dài tới năng lực sản xuất của toàn Nhà máy. Chính vì tâm lý trên, mà việc đầu tư được thực hiện không đồng bộ, ở đâu thiếu thì đầu tư, cái nào không dùng được nữa thì đổi mới, do vậy mà số lượng, chủng loại máy không đồng bộ. Năng lực sản xuất của các máy trong một dây chuyền không cân đối, gây ảnh hưởng tới khả năng huy động công suất và thời gian của từng máy. Đội ngũ lao động có tuổi thọ bình quân cao, ít được cập nhật thông tin khoa học công nghệ mới tiên tiến nên khả năng sáng tạo kém. Một số cán bộ lãnh đạo thiếu kiến thức và kinh nghiệm quản lý công nghệ nên hiệu quả và hiệu lực quản lý và sử dụng công nghệ kỹ thuật kém. Một số kỹ sư không có đủ kỹ năng, kiến thức, và chưa được đặt đúng vị trí, thiếu điều kiện làm việc … Công nhân kỹ thuật của Nhà máy hầu hết là từ bậc 4 trở xuống và có 1 tỷ lệ lớn lao động mùa vụ thuê hàng năm. Do đó khả năng sử dụng máy móc thiết bị của công nhân còn nhiều hạn chế, năng suất hoạt động của máy móc thiết bị không cao. Đội ngũ công nhân còn gặp khó khăn trong công tác bảo dưỡng, sửa chữa máy móc thiết bị cũng như cải tiến kỹ thuật máy móc thiết bị sao cho phù hợp với điều kiện sản xuất của Nhà máy, phát huy hết khả năng sản xuất của máy móc thiết bị. Phần III: Một số biện pháp cơ bản nhằm quản lý và sử dụng có hiệu quả máy móc thiết bị tại Nhà máy in Diên Hồng 1. Biện pháp thứ nhất: Hoàn thiện công tác bảo dưỡng, sửa chữa dự phòng theo kế hoạch 1.1. Nội dung của biện pháp. Hệ thống máy móc thiết bị trong Nhà máy hầu hết đã cũ, một số đã khấu hao hết và một số thì đã mua từ khoảng năm 1990 do vậy mà sự cố, hỏng hóc cũng theo đó mà tăng cao. Hàng năm Nhà máy phải tiến hành đại tu để duy trì hoạt động của máy móc thiết bị, phải sửa chữa, khắc phục rất nhiều sự cố bất thường. Điều này đã ảnh hưởng tới việc huy động công suất của dây chuyền cũng như khả năng tận dụng thời gian làm việc theo chế độ. Đồng thời nó cũng ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm làm ra và lượng tiêu hao nguyên vật liệu, năng lượng. Hiện nay, hầu hết máy móc thiết bị của Nhà máy chưa được đại tu lần nào, điều này càng hay gây ra hỏng hóc bất thường cho máy móc thiết bị. Nhà máy có 2 phân xưởng sản xuất chính và mỗi phân xưởng trong Nhà máy đều có từ 1 đến 2 công nhân kỹ thuật làm nhiệm vụ bảo dưỡng, sửa chữa những hư hỏng bất thường, còn những hư hỏng lớn hơn thì do tổ Cơ điện đảm nhận. Do vậy khi đột xuất có nhiều hư hỏng xảy ra vượt quá khả năng của công nhân kỹ thuật của phân xưởng thì máy móc thiết bị phải dừng khá lâu để chờ thợ sửa chữa của tổ Cơ điện. Điều này có thể kéo theo cả hệ thống dây chuyền sản xuất đều phải ngừng hoạt động. Đồng thời công tác sửa chữa bảo dưỡng hiện tại của Nhà máy là chưa hợp lý, Nhà máy không có công tác sửa chữa dự phòng mà mới chỉ có công tác sửa chữa khi có sự cố xảy ra. Công tác sửa chữa chưa kết hợp được với việc cải tiến và hiện đại hoá hệ thống máy móc thiết bị. Do vậy, mà Nhà máy không được coi nhẹ công tác sửa chữa dự phòng theo kế hoạch để đảm bảo những dây chuyền này luôn hoạt động tốt, không hỏng hóc bất thường và để kéo dài tuổi thọ. Công tác dự phòng phải được lập cho cả hệ thống máy móc thiết bị để đón đầu những hỏng hóc, giảm tối đa những hỏng hóc sự cố bất thường. Xuất phát từ thực tế này mà trong những năm tới Nhà máy cần đặc biệt chú trọng công tác sửa chữa, bảo dưỡng theo kế hoạch để đảm bảo phát huy tối đa khả năng vốn có của máy móc thiết bị. Để thực hiện biện pháp trên thì Nhà máy cần làm tốt các công việc sau: Trước tiên cần phải phân cấp lại hệ thống tổ chức sửa chữa như sau: Sơ đồ 3: Hệ thống tổ chức sửa chữa máy móc thiết bị. Tổ Cơ điện Cấp phân xưởng (Tổ kỹ thuật) Công nhân vận hành máy Sửa chữa lớn Sửa chữa vừa Sửa chữa nhỏ Bảo dưỡng Thay vì trước đây tổ Cơ điện đảm nhận công việc sửa chữa lớn và cả sửa chữa vừa, công nhân kỹ thuật trong phân xưởng sản xuất đảm nhận sửa chữa nhỏ và sửa chữa thông thường, bảo dưỡng hàng tuần; còn công nhân đứng máy thì bảo dưỡng, lau chùi. Nhà máy cần phải thực hiện phân cấp hợp lý hơn các hình thức sửa chữa, tổ chức lại như trên thì mới đảm bảo hiệu quả cao trong sửa chữa, công nhân kỹ thuật trong phân xưởng cần phải chia sẻ thêm 1 phần công việc của tổ Cơ điện, tức là phải thực hiện cả một số những sửa chữa vừa. Để làm được diều này thì trong mỗi phân xưởng phải thành lập 1 tổ kỹ thuật, tức là mỗi phân xưởng sẽ biên chế thêm 1 công nhân kỹ thuật có tay nghề bậc cao (từ bậc 5 trở lên) để có 1 tổ kỹ thuật có biên chế từ 2 - 3 người. Tổ này sẽ tiến hành theo dõi tình trạng hoạt động của máy móc thiết bị. Nếu gặp sự cố hỏng hóc vừa và nhỏ sẽ tự tiến hành sửa chữa vào những ca không làm việc hoặc máy hoạt động ít, còn nếu hỏng hóc lớn và vừa mà vượt quá khả năng thì sẽ thông báo cho tổ Cơ điện để có kế hoạch xử lý kịp thời. Làm được điều này thì tổ luôn nắm được tình trạng kỹ thuật của máy móc thiết bị để có thể báo cho tổ Cơ điện, đồng thời tạo điều kiện cho người công nhân chú tâm vào vận hành máy và lau chùi, bảo dưỡng lặt vặt, tránh cho họ khỏi bị phân tán trong công việc. Đồng thời là phải tăng cường trách nhiệm của các bộ phận đó, phải tuân thủ nguyên tắc chế độ lập biên bản về tình trạng máy móc thiết bị khi giao nhận trong sửa chữa. Tăng cường công tác chuẩn bị trước khi sửa chữa bằng việc đầu tiên là lập kế hoạch tổng hợp và chi tiết quá trình bảo dưỡng và sửa chữa gồm: Lập kế hoạch sửa chữa năm Lập lịch xích sửa chữa cho từng máy Xác định độ phức tạp của sửa chữa Xác định số lượng công nhân làm công tác sửa chữa Từ đó sẽ phân bổ kế hoạch sửa chữa chi tiết cho từng thời kỳ, giao cho các bộ phận triển khai thực hiện. Đồng thời xác định mức tiêu hao về thời gian, vật tư và nhân công cho công tác sửa chữa. Quá trình chuẩn bị được thực hiện tốt sẽ làm giảm thời gian sửa chữa, có thể đưa nhanh máy móc thiết bị và sử dụng. Phải đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh chu kỳ sửa chữa máy móc thiết bị và làm tốt công tác xác định chu kỳ sửa chữa, tránh tình trạng máy móc ít sử dụng, chưa hỏng đã đem vào sửa chữa. Lập hồ sơ lý lịch rõ ràng cho từng loại máy và giao trách nhiệm trực tiếp cho người vận hành máy. Thực hiện phương pháp sửa chữa nhanh: cố gắng bố trí thời gian sửa chữa nằm ngoài thời gian sản xuất (vào ca đêm hoặc vào khoảng tháng 9, tháng 10), tập trung sửa chữa dứt điểm 1 máy đưa vào sử dụng rồi mới chuyển sang máy khác. áp dụng phương pháp sửa chữa tiên tiến như: thay cả cụm, thay cả bộ phận. Thực hiện sửa chữa xen kẽ: trong cùng một lúc có thể tiến hành sửa chữa nhiều loại máy móc thiết bị nhưng đảm bảo vẫn có loại máy đó đang hoạt động. Theo cách này sẽ không làm gián đoạn việc sản xuất vì thiếu loại máy đó, cho phép quá trình được tiến hành bình thường, liên tục. Thực hiện chế độ khuyến khích vật chất đối với những người có nhiều thành tích trong sửa chữa. Đối với 1 số loại hỏng hóc mà Nhà máy chưa có khả năng sửa chữa thì phải tiến hành ký hợp đồng với các cơ sở sửa chữa đảm bảo giảm đến mức thấp nhất thời gian ngừng máy, phục vụ kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh. 1.2. Hiệu quả thực hiện biện pháp. Nhờ phân cấp đối với từng loại sửa chữa, bảo dưỡng nên sẽ kịp thời phát hiện sự cố. Những sửa chữa tại chỗ sẽ làm giảm hỏng hóc lớn, dẫn đến phải đại tu gây nhiều lãng phí. Tăng cường hơn nữa công tác bảo dưỡng, sửa chữa dự phòng sẽ có tác dụng kéo dài tuổi thọ, giảm hao mòn vô hình, góp phần sử dụng vốn có hiệu quả. Đồng thời, kết hợp giữa sửa chữa với cải tiến, hiện đại hoá máy móc thiết bị có thể giúp cho Nhà máy tận dụng được số máy móc thiết bị hiện có, tăng năng lực sản xuất mà không cần phải đầu tư thêm nhiều vốn. Việc xây dựng tổ kỹ thuật tại mỗi phân xưởng sẽ giảm gánh nặng cho tổ Cơ điện, tăng tính kết hợp giữa sửa chữa và sản xuất, đảm bảo sửa chữa kịp thời. Ta có thể ước tính chi phí và hiệu quả đem lại của biện pháp như sau: Ví dụ tại phân xưởng in offset: Tổng số máy móc thiết bị : 12 Số thợ sửa chữa : 2 (thợ bậc 3/7) Mỗi ngày dừng thiết bị để sửa chữa bình quân: 2 giờ/ngày Đơn giá một giờ máy : 315. 000(đ) Chi phí dừng máy trong năm để sửa chữa của phân xưởng là: 2 x 273 x 315.000 = 171.990.000(đ) Nếu bố trí thêm 1 thợ sửa chữa bậc 5/7 thì thời gian ngừng thiết bị để sửa chữa trong 1 ngày là 1 giờ. Lúc này: chi phí dừng máy là: 273 x 315.000 = 85.995.000 (đồng). Chi phí trả lương cho thợ sửa chữa bậc 5/7 là. 1,5 triệu x 12 tháng = 18 (triệu). Như vậy 1 năm phân xưởng sẽ tiết kiệm 68 triệu cho chi phí dừng máy và sửa chữa, đồng thời máy móc thiết bị luôn được bảo dưỡng, sửa chữa kịp thời, có thể kéo dài tuổi thọ của máy móc thiết bị, đáp ứng được yêu cầu sản xuất khẩn trương từ đó mà hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ được tăng cao hơn nữa. 1.3. Điều kiện thực hiện biện pháp. Chi phí cho sửa chữa hiện nay của Nhà máy không được trích từ quỹ khấu hao, trong những năm tới cần lập kế hoạch xác định chi phí một cách chi tiết và đặc biệt là phải xác định nguồn cung cấp chi phí. Cần phải có sự thường xuyên trao đổi, bồi dưỡng, rút kinh nghiệm giữa công nhân trực tiếp đứng máy với nhau và với công nhân kỹ thuật, áp dụng các hình thức khen thưởng, kỷ luật thích đáng trong quá trình sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị. Lên kế hoạch mua sắm đầy đủ phụ tùng cần thiết cho quá trình sửa chữa và sửa chữa dự phòng, đảm bảo luôn có sẵn những phụ tùng, chi tiết mà thường xuyên hỏng để có thể cung cấp kịp thời cho hoạt động sửa chữa, đặc biệt là với những thiết bị đặc chủng cần phải chuẩn bị 1 cách chu đáo để đảm bảo cho hoạt động sửa chữa nhanh chóng, kịp thời. Đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa phân xưởng sản xuất với tổ Cơ điện và PGĐ sản xuất kỹ thuật trong công tác xây dựng lịch xích, lập kế hoạch sửa chữa chi tiết đầy đủ để có thể phân bổ xuống từng đơn vị chính xác, hợp lý phát huy tối đa hiệu quả công tác sửa chữa. Việc thành lập các tổ kỹ thuật ở các phân xưởng sản xuất phải được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo tay nghề công nhân kỹ thuật bậc cao đủ khả năng thực hiện các công tác sửa chữa trong phân xưởng. Các công việc trên Nhà máy hoàn toàn có thể làm được và khi thực hiện nó thì hiệu quả đem lại sẽ rất lớn. 2.Biện pháp thứ 2 : Nâng cao hệ số thời gian làm việc của máy móc thiết bị. 2.1. Nội dung biện pháp: Trong những năm qua hệ thống máy móc thiết bị của nhà máy chưa thực sự làm việc đúng với năng lực của chúng, mức độ đóng góp trong quá trình sản xuất, còn nhiều hạn chế. Nhìn chung mức độ huy động về mặt thời gian của máy móc thiết bị còn thấp, và hệ số này lại không đồng đều giữa các máy, có những máy hệ số này tương đối cao lại có những máy lại rất thấp. Nguyên nhân do công việc công việc không có đều trong năm do trình độ người công nhân sử dụng không đúng với quy trình, quy phạm, và do máy móc thiết bị quá cũ, hàng năm phải sửa chữa những hỏng hóc bất thường nhiều, số lượng, chủng loại máy móc thiết bị không đồng bộ. Do vậy đã ảnh hưởng tới thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị. Vì vậy nâng cao hệ số thời gian làm việc thực tế của máy móc thiết bị là một biện pháp hết sức cần thiết đối với Nhà máy trong giai đoạn hiện nay. Theo biện pháp này Nhà máy cần phải thực hiện tốt các công việc sau: Tiếp tục hoàn thiện công tác cung ứng nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất, đặc biệt là nguyên vật liệu đầu vào. Hàng tháng Nhà máy phải có kế hoạch mua vật tư dựa vào số liệu báo cáo, tình hình sản xuất thực tế tại các phân xưởng và đảm bảo nguyên vật liệu được cung ứng đều đặn, liên tục, đúng chất lượng, số lượng, kịp thời. Tích cực tìm kiếm các nguồn cung ứng, tránh cho việc chỉ mua của một người hay mua trên thị trường, gây nên tình trạng không kiểm soát chất lượng nguyên vật liệu, làm cho chất lượng không đồng đều, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng đến thời gian làm việc có ích của máy móc thiết bị. Thực hiện việc tiếp thị, mở rộng thị trường của Nhà máy trong việc in gia công hoặc bán vở học sinh chất lượng cao. Điều này sẽ tạo điều kiện cho Nhà máy có khối lượng công việc nhiều hơn, phát huy hết công suất và thời gian làm việc của máy móc thiết bị. Đặc biệt là vở học sinh chất lượng cao, năm 2001 Nhà máy đã có khả năng phát triển lớn loại sản phẩm này, nhưng năm 2002 thì lại giảm sút. Như vậy, khả năng phát triển loại sản phẩm này là có thể, Nhà máy cũng cần khai thác các sản phẩm in có chất lượng cao như tờ rơi quảng cáo Panô, áp phích .. . Để có thêm công việc vào những lúc nhàn rỗi, tận dụng hết công suất và thời gian làm việc của máy móc thiết bị. Nâng cao trình độ ý thức làm việc của người công nhân trực tiếp đứng máy bằng cách tạo môi trường trao đổi thuận lợi giữa những người công nhân để họ có thể trao đổi kinh nghiệm trong quá trình sử dụng vận hành máy móc, làm tốt công tác quản lý máy móc thiết bị, giáo dục ý thức người lao động, tránh tình trạng các tổ sản xuất, các phân xưởng sản xuất báo cáo không đầy đủ về tình trạng hoạt động cuả máy móc thiết bị. Phải đầu tư đổi mới một số loại máy móc, ta có thể xem xét trong phần sau. Đồng thời, phải thực hiện tốt biện pháp tăng cường công tác bảo dưỡng, sửa chữa dự phòng thì sẽ thực hiện được một phần biện pháp này. 2.2 Hiệu quả thực hiện biện pháp Nếu thực hiện tốt biện pháp này, hiệu quả mang lại sẽ bao trùm lên toàn bộ mục tiêu chung của Nhà máy, bởi vì máy móc thiết bị là một lực lượng sản xuất quan trọng và chủ yếu của doanh nghiệp. Các hệ số sử dụng máy móc thiết bị sẽ gián tiếp phản ánh hiệu quả sử dụng nguồn vốn cố định của Nhà máy. Hiện nay số ngày làm việc chung của máy móc thiết bị của Nhà máy mới chỉ đạt 20 ngày/tháng. Thời gian làm việc thực tế mới chỉ đạt khoảng 12h/ ngày. Như vậy, hệ số thời gian làm việc thực tế trong toàn Nhà máy là: HTG = 12 x 20 x 12/ 273 x 16 = 0,66 Với thời gian huy động thực tế của máy móc thiết bị trong toàn Nhà máy là 66% thì doanh thu năm 2002 đạt 14 tỷ đồng. Nếu Nhà máy thực hiện đúng biện pháp này kết hợp với biện pháp 1 và các biện pháp sau nữa thì có thể nâng số giờ làm việc thực tế lên 15 giờ / ngày khi đó hệ số thời gian làm việc của máy móc thiết bị là 0,8 và doanh thu sẽ tăng lên khoảng 18 tỷ đồng. 2.3. Điều kiện thực hiện biện pháp Qua phân tích trên ta thấy hoạt động quản lý, sử dụng máy móc thiết bị của Nhà máy hiện nay đang gặp phải những khó khăn nhất định điều này chủ yếu là do Nhà máy chưa có đủ việc làm để có thể huy động hết công suất máy móc thiết bị. Vì vậy trong những năm tới Nhà máy cần: Kiện toàn công tác điều độ sản xuất, quản lý kỹ thuật. Tích cực khai thác sản lượng trang in ngoài NXBGD nhằm đảm bảo nguồn công việc, đảm bảo cho việc huy động máy móc thiết bị vào sản xuất được liên tục. Tiếp tục đổi mới phương thức nhận, kí kết hợp đồng kinh tế, tạo thuận lợi và yên tâm cho khách hàng trong toàn bộ quá trình in và hoàn thiện sản phẩm theo hợp đồng. Quản lý chặt chẽ việc mua bán nguyên vật liệu, đặc biệt chú trọng khâu kiểm tra chất lượng nguyên vật liệu, tiến độ cung ứng nguyên vật liệu. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc bán phế liệu phế phẩm, thực hành tiết kiệm các chi phí sản xuất, cắt giảm tối đa các chi phí gián tiếp. Chú trọng đầu tư hơn nữa cho công tác sửa chữa, tránh tình trạng có hỏng hóc quá lâu và không có phụ tùng thay thế. 3. Biện pháp thứ ba: Đầu tư cải tiến, nâng cao năng lực của máy móc thiết bị. 3.1. Nội dung biện pháp: Căn cứ vào nhu cầu của thị trường, trong những năm tới là những sản phẩm in có chất lượng đẹp, có màu đẹp… Đồng thời với nhiệm vụ là in SGK cho NXBGD thì hiệu quả sản xuất kinh doanh không được cao lắm, lợi nhuận hàng năm rất thấp. Vì vậy để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận Nhà máy còn cần phải tìm kiếm thêm thị trường bên ngoài. Và với nhu cầu phong phú đa dạng, ngày càng cao của thị trường đòi hỏi Nhà máy phải đầu tư cải tiến nâng cao năng lực máy móc thiết bị. Với tình trạng máy móc thiết bị không đồng bộ, lại có 1 số lớn đã cũ và lạc hậu, cùng với việc không tiến hành đại tu sửa chữa lớn, kết hợp với hiện đại hoá thì trong những năm tới Nhà máy cần phải đầu tư mới toàn bộ một số máy móc thiết bị. Có như vậy thì máy móc mới có thể hoạt động tốt được. Số lượng, chủng loại máy móc thiết bị không đồng bộ, hay hỏng hóc nên việc huy động máy móc thiết bị vào làm việc còn chưa đồng bộ, một số máy móc của Nhà máy đã hoạt động gần hết công suất như máy in 1 màu, 4 màu, máy gấp. Trong khi đó một số máy khác lại có hệ số huy động công suất rất thấp. Vì vậy để cân đối năng lực sản xuất giữa các bộ phận trong 1 dây chuyền sản xuất thì cần phải đầu tư đổi mới thêm máy móc thiết bị. Để có thể đầu tư, cải tiến năng lực của máy móc thiết bị theo tôi Nhà máy cần làm một số công việc sau đây: Công việc trước tiên đó là phải tiến hành phân loại máy móc thiết bị. Công việc này có thể dựa trên một cuộc đièu tra toàn Nhà máy nhằm xác định lại số lượng máy móc thiết bị, năng lực thực tế, trình độ công nghệ.Việc phân loại máy móc thiết bị có thể tiến hành theo 2 cách: phân loại theo chủng loại và phân loại theo trình độ công nghệ. Việc phân loại theo chủng loại cho phép xác định chủng loại máy móc thiết bị hiệc có của Nhà máy qua đó đánh giá được tính hợp lý trong cơ cấu để có kế hoạch đầu tư đúng, theo cách phân loại này thì Nhà máy có 3 loại gồm có máy in được trang bị ở phân xưởng in Offset, máy hoàn thiện được trang bị ở phân xưởng Hoàn thiện, và một số máy móc làm công tác phụ trợ và phục vụ sản xuất. Phân loại theo trình độ công nghệ cho phép đánh giá năng lực thực tế của máy móc thiết bị của Nhà máy, qua đó có thể so sánh tương quan với các doanh nghiệp khác trong nghành. Theo cách này có thể xác định được là máy móc thiết bị của Nhà máy cũng đã có nhiều máy là lạc hậu so với trong ngành, còn phần lớn là thuộc loại trung bình. Dựa trên các số liệu thống kê về tình hình sử dụng máy móc thiết bị trong thời gian qua để từ đó cân đối lại nhu cầu về máy móc thiết bị, đánh giá tình hình thừa, thiếu, tình hình lãng phí công suất máy. Để xác định nhu cầu, Nhà máy cần dựa trên cơ sở nhiệm vụ kế hoạch trung và dài hạn nhằm đầu tư đúng hướng. Kết quả của công việc này cho phép Nhà máy đưa ra 1 cách chính xác nhu cầu về máy móc thiết bị. Đồng thời trên cơ sở máy móc thiết bị hiện có sẽ cho phép hoạch định đúng nhu cầu đầu tư, cải tiến năng lực máy móc thiết bị, tránh hiện tượng đầu tư dàn trải, hiệu quả không cao. Việc xác định sẽ mua máy móc thiết bị của ai và bằng phương thức nào là việc làm cũng không kém phần quan trọng. Nhà máy nên ưu tiên lựa chọn mua máy móc thiết bị của những nước có truyền thống, uy tín trong sản xuất loại thiết bị Nhà máy đang có nhu cầu. Coi trọng các chào hàng đến từ các nước đi tiên phong như : Nhật, Đức, Mỹ … Nguồn vốn vay với lãi suất ưu đãi là nguồn vốn quan trọng của Nhà máy, nhưng lại chưa đủ lớn. Vì vậy vốn vay ngân hàng dài hạn, nguồn tự tài trợ sẽ là những nguồn quan trọng nhất mà Nhà máy nên tập trung khai thác. Với nguồn nội bộ, Nhà máy có thể khai thác từ nguồn quỹ đầu tư phát triển, quỹ khấu hao máy móc thiết bị. Sau khi máy móc, thiết bị được đầu tư mua sắm việc quan trọng tiếp theo là nhanh chóng đưa chúng vào khai thác, sử dụng, nhằm mau chóng khấu hao, tận dụng tối đa sự đóng góp của máy. 3.2. Dự kiến kết quả mang lại Sự đầu tư máy móc thiết bị đúng hướng sẽ tạo ra cho Nhà máy có một cơ cấu máy móc thiết bị hợp lý, tránh tình trạng máy thì thừa việc, máy thì thiếu việc. Sự đầu tư đúng hướng sẽ làm giảm đáng kể hao mòn vô hình máy móc thiết bị. Máy móc thiết bị tốt là điều kiện quan trọng đảm bảo khả năng thắng lợi trong việc chiếm lĩnh thị trường mới ngoài NXBGD, đảm bảo tiến độ thực hiện hợp đồng, đảm bảo tiết kiệm chi phí do giảm tiêu hao nguyên vật liệu, năng lượng, do sửa chữa, tiết kiệm thời gian và góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Ta có thể xem tình hình đổi mới như sau: Bảng 20: Danh mục đầu tư máy móc thiết bị. Chỉ tiêu Đơn vị Máy in 1 màu Máy in 4 màu Máy gấp Máy bắt sách Chi phí đầu tư Tỷ 1,5 2,4 1 1,4 Thời gian khấu hao Năm 10 10 10 10 Mức khấu hao Tỷ 0,15 0,24 0,1 0,14 Nước sản xuất Đức Nhật Đức Đức Công suất thiết kế Tỷt/năm 1 0,5 1 1 Sản lượng thực tế tỷt/năm 0,6 0,4 0,9 0,9 Với tình hình trên thì doanh thu hàng năm của Nhà máy sẽ tăng thêm là 13 tỷ đồng. Do năng lực sản xuất nên Nhà máy có thể thực hiện thêm các hợp đồng in với NXBGD và tăng cường tìm kiếm các hợp đồng ngoài NXBGD để tăng thêm thu nhập. Đồng thời tránh tình trạng quá phụ thuộc vào NXBGD, gây lên tâm lý trông chờ ỷ lại của công nhân viên Nhà máy. 3.3. điều kiện thực hiện biện pháp. Qua nghiên cứu tình hình đầu tư đổi mới hệ thống máy móc thiết bị của Nhà máy trong thời gian qua thì vấn đề vốn đầu tư luôn là vấn đề gặp khó khăn nhất. Đặc biệt là đối với các loại máy móc thiết bị hiện đại thường có giá thành cao nên nhiều khi nguồn vốn đầu tư của Nhà máy không đủ để trang trải. Trong khi đó nguồn vốn ngân sách cấp cho Nhà máy hàng năm là rất ít, kể từ năm 1995 đến nay thì hầu như là không có. Do vậy để thực hiện biện pháp này 1 cách có hiệu quả trong thời gian tới Nhà máy cần phải huy động mọi nguồn vốn, tập trung vào việc đầu tư mua sắm các công nghệ hiện đại cần thiết và thực hiện một số vấn đề sau: Phải có dự án đầu tư khả thi đề nghị NXBGD phê duyệt và cấp vốn cho Nhà máy thực hiện nhiệm vụ đầu tư như trên. Trích quỹ đầu tư phát triển sản xuất và quỹ khấu hao cơ bản của Nhà máy cho hoạt động đầu tư đổi mới máy móc thiết bị. Đồng thời phải tiến hành đào tạo, di chuyển nhà xưởng chuẩn bị cho công tác tiếp nhận và sử dụng máy. 4. Biện pháp thứ 4: Tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ người cán bộ quản lý và người công nhân vận hành máy. 4.1. Nôi dung biện pháp: Đến nay, số lượng lao động của Nhà máy là 234 người. Trình độ tay nghề của công nhân ở trong Nhà máy chỉ đạt mức trung bình khá, bậc thợ bình quân là 3,5/7, trong đó có một số lượng lớn lao động mùa vụ thuê hàng năm do vậy có một sự hạn chế trong vấn đề sử dụng máy móc thiết bị. Đồng thời do Nhà máy vẫn còn trực thuộc NXBGD, nên vẫn còn thói quen dựa dẫm, nề lối làm việc còn chậm phát triển, chưa lấy thước đo hiệu quả làm thước đo cho mọi công việc, còn chưa bắt nhịp được với nền kinh tế thị trường năng động. Việc đào tạo một lớp người quản lý mới, đào tạo nguồn nhân lực nhất là đội ngũ lao động kỹ thuật của Nhà máy vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Trong những năm qua Nhà máy đã có nhiều lượt cán bộ được đào tạo, đào tạo lại nhưng vẫn chưa qua lớp đào tạo chính quy, cơ bản; việc đào tạo chỉ được tiến hành khi có nhu cầu chứ chưa mang tính chiến lược lâu dài. Nếu việc đầu tư, hiện đại hoá máy móc thiết bị diễn ra nhanh chóng thì với đội ngũ lao động hiện tại là chưa đáp ứng được. Hiện nay với thực trạng máy móc thiết bị của Nhà máy đòi hỏi người công nhân vận hành máy và những cán bộ quản lý không chỉ sử dụng sao cho có hiệu quả mà phải biết cách cải tiến chúng thích nghi với tình hình mới. Nhưng Nhà máy lại thiếu 1 đội ngũ công nhân bậc cao và 1 đội ngũ công nhân kỹ thuật để có thể sửa chữa nhanh máy móc thiết bị. Đồng thời để thực hiện được 3 biện pháp trên thì cần phải thực hiện tôt biện pháp này. Để thực hiện được biện pháp này ta cần phải làm một số công việc sau: Đối với cán bộ quản lý: Cần làm tốt ngay từ công tác tuyển chọn cán bộ với tiêu chuẩn cán bộ cấp phòng ban có trình độ Đại học còn cán bộ quản lý cấp phân xưởng có trình độ từ cao đẳng trở lên. Tiếp tục đào tạo theo các hình thức tự đào tạo hoặc gửi đi học tại các trường, lớp kết hợp với việc đào tạo lại cho cán bộ quản lý cấp phòng ban, phân xưởng và các đội. Từ nay đến năm 2005 phải đảm bảo cho 23% cán bộ quản lý còn lại của cấp phòng ban có trình độ Đại học và 100% cán bộ quản lý cấp phân xưởng có trình độ từ Cao đẳng trở lên. Đối với các cán bộ quản lý kỹ thuật hiện đang phụ trách hệ thống máy móc thiết bị cần được đào tạo nâng cao, bổ túc kiến thức thường xuyên về đặc tính kỹ thuật và những tiến bộ khoa học mới được áp dụng vào máy móc thiết bị. Mỗi năm cần tổ chức ít nhất một khoá đào tạo ngắn hạnkhoảng từ 7 đến 10 ngày về quản lý cho các cán bộ quản lý là trưởng, phó các phòng ban, phân xưởng bằng cách thuê giáo viên các trường Đại học về giảng dạy, nhằm mục đích bổ sung những kiến thức mới về quản lý đặc biệt là lĩnh vực quản lý thiết bị. Sau đó mỗi phòng ban, phân xưởng sẽ có trách nhiệm truyền bá, bồi dưỡng cho các cán bộ quản lý của mình. Kinh phí cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý theo phương thức gửi đi học tại các trường, lớp và kinh phí cho các khoá đào tạo tại Nhà máy do Nhà máy chi trả hoàn toàn. Đối với công nhân trực tiếp vận hành máy: Đối với công nhân thuộc biên chế chính thức, Nhà máy cần phải quan tâm đến việc đào tạo và đào tạo lại nhằm mục đích nâng cao tay nghề để họ có thể đảm nhận được các công việc mang tính kỹ thuật cao đối với máy móc thiết bị mới. Riêng đối với công nhân được thuê theo hợp đồng hàng năm chưa qua đào tạo thì chỉ giao những công việc ít liên quan đến máy móc thiết bị. Hoặc chỉ giao cho những máy móc thiết bị đơn giản, thông thường nhưng cũng cần phải có sự hướng dẫn, kèm cặp thường xuyên của các công nhân lành nghề. Hình thức đào tạo có thể là gửi đi học tại trường trung cấp in. Hàng năm Nhà máy phải phân bổ kinh phí đào tạo cho mỗi phân xưởng dựa vào khả năng thực tế của mỗi phân xưởng. Bên cạnh đó, hàng năm các phân xưởng đều phải tổ chức thi nâng bậc, lên lương nhằm nâng cao tay nghề cho người lao động. Để làm tốt điều này, Nhà máy có thể thường xuyên mở các khoá đào tạo ngắn hạn cho toàn bộ công nhân trong Nhà máy hoặc cũng có thể giao cho từng phân xưởng tự làm trên cơ sở người có tay nghề cao kèm cặp người có tay nghề thấp hơn. Cần trang bị nhũng kiến thức cơ bản về máy móc thiết bị cho người công nhân sử dụng hiểu được tính năng, tác dụng và các điều kiện kỹ thuật của máy móc thiết bị mà bản thân đang sử dụng. Khi vận hành máy, phải theo đúng quy trình thao tác, quy trình theo hướng dẫn ghi trên từng thiết bị và những điều cần thiết mà cán bộ kỹ thuật hướng dẫn. Tuyệt đối chấp hành những quy tắc về an toàn máy móc thiết bị theo đúng quy định chung và các quy định riêng của từng loại máy móc thiết bị. Phải giáo dục cho người công nhân ý thức trách nhiệm cũng như tinh thần tự giác trong việc bảo quản, lau chùi máy móc thiết bị sau mỗi ca máy làm việc, tránh hư hỏng mất mát phụ tùng, chi tiết. Mỗi công nhân vận hành máy phải ghi rõ thời gian hoạt động thực tế vào sổ hồ sơ lý lịch của máy nhàm giúp cho cán bộ quản lý kỹ thuật biết được chính xác thời gian hoạt động của từng máy để có kế hoạch bảo dưỡng, sửa chữa kịp thời. Cán bộ kỹ thuật phụ trách máy móc thiết bị của phân xưởng phải thường xuyên đôn đốc, kiểm tra khả năng vận hành máy của từng công nhân để kịp thời khắc phục sự cố. Cán bộ tổ Cơ điện Nhà máy cũng phải thường xuyên kiểm tra tình hình hoạt động của máy móc thiết bị ở các phân xưởng, tập hợp số liệu báo cáo kịp thời với GĐ về năng lực thực tế của máy móc thiết bị trong toàn Nhà máy và có kế hoạch mua sắm, sửa chữa hợp lý. 4.2. hiệu quả thực hiện biện pháp Với việc thực hiện biện pháp này đến năm 2005 Nhà máy sẽ có được một đội ngũ cán bộ quản lý đủ mạnh với 100% cán bộ quản lý cấp phòng ban có trình độ Đại học và trên Đại học và 100% cán bộ quản lý cấp phân xưởng có trình độ từ cao đẳng trở lên có thể đảm nhận các công việc về quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý máy móc thiết bị, đảm bảo cho hệ thống máy móc thiết bị phát huy hết công suất, tránh được những lãng phí trong quá trình quản lý, sử dụng. Thông qua đào tạo trình độ tay nghề của công nhân sẽ được tăng lên đáng kể bảo đảm cho Nhà máy có thể sử dụng các loại máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại đòi hỏi kỹ thuật cao, từ đó mà nâng cao chất lượng sản phẩm in, tăng lợi nhuận cho Nhà máy và thu nhập cho người lao động. Để đạt được chất lượng lao động như trên, ngoài 10 cán bộ đang theo học Đh, CĐ, Nhà máy cần cử thêm 7 cán bộ nữa, đến năm 2005, sẽ có 30 cán bộ có trình độ ĐH trở lên, có khoảng 3 người đi học cao học trở về phục vụ Nhà máy. Cử đi bây giờ 7 cán bộ học ĐH với chi phí: 7 x 1,9 tr/năm/người x 4 = 53,2 (trđ) Số cán bộ đang theo học sẽ còn một năm nữa để tốt nghiệp: 10 x 1,9 tr/năm/ng x 1 = 19 (trđ) Cử đi học cao học 3 người, với chi phí là: 3,5 tr/ng/năm x 3 x 2 = 21 (trđ) Ngoài ra hàng năm tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn từ 5 - 7 ngày vào quý II hoặc quý III cho cán bộ quản lý và công nhân của Nhà máy với chi phí 8 trđ/ năm và trong 4 năm là 32 trđ Như vậy tổng chi phí sẽ là: 125,2 trđ/4 năm, tính ra 1 năm chi hết 31,3 trđ 4.3. Điều kiện thực hiện biện pháp Nhà máy phải làm cho mọi người hiểu được sự cần thiết phải nâng cao trình độ sử dụng máy móc thiết bị để mỗi người có thể nhận thức được tác dụng của điều đó đối với sự phát triển chung của toàn Nhà máy và với cơ hội thăng tiến cải thiện đời sống của chính bản thân người lao động. Đơn vị cử người đi học và tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn tại Nhà máy, Nhà máy cần mạnh dạn trích ra 1 tỷ lệ hợp lý từ các quỹ đầu tư phát triển, quỹ khen thưởng phúc lợi để làm kinh phí cho vấn đề đào tạo. Nhà máy cần áp dụng thưởng phạt rõ ràng, đặc biệt khen ngợi xứng đáng cho những cá nhân có thành tích xuất sắc và nghiêm khắc phạt những người có hành vi vụ lợi cá nhân…. Trên đây là một số biện pháp cơ bản góp phần quản lý và sử dụng có hiệu quả máy móc thiết bị tại Nhà máy, các biện pháp trên phải được thực hiện đồng thời thì mới có kết quả tốt được và đồng thời cũng đề nghị NXBGD tạo điều kiện cho Nhà máy trong một số việc sau: Đề nghị NXBGD tạo điều kiện giao in đủ kế hoạch và giao ngay từ đầu năm để Nhà máy chủ động thực hiện, đồng thời cần cân đối cơ cấu giữa các loại trang in. Chỉ đạo và hỗ trợ kinh phí để Nhà máy thực hiện công tác thuê đất, đầu tư mua sắm thiết bị và phương tiện đi lại. Quan tâm chỉ đạo thường xuyên hơn nũa trên các mặt: sản xuất, lao động, tổ chức cán bộ, tài chính, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ công nhân viên chức. Kết luận Nhà máy in Diên Hồng trải qua quá trình phát triển lâu dài, đã có những đóng góp lớn trong sự nghiệp dạy và học ở nước ta thông qua việc sản xuất những sản phẩm mang tính giáo dục cao. Nhà máy đã đạt được những thành tích lớn trên nhiều mặt. Qua những phân tích trên ta thấy, trong công tác quản lý máy móc thiết bị Nhà máy cũng đạt được những thành tích quan trọng góp phần đưa Nhà máy phát triển đến tận ngày nay. Ta thấy máy móc thiết bị đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhận thức được điều đó, Nhà máy đã có những quan tâm, cố gắng lớn trong quản lý và sử dụng máy móc thiết bị. Nên Nhà máy đã đạt được một số thành tích về huy động thời gian và công suất làm việc thực tế của máy móc thiết bị, hệ thống quản lý máy móc thiết bị được hoàn thiện … Tuy nhiên, bên cạnh đó còn rất nhiều tồn tại cần khắc phục, đòi hỏi toàn bộ CNV Nhà máy phải có những cố gắng hơn nữa, thay đổi cách nhìn nhận, quan điểm. Qua thời gian thực tập tại Nhà máy tôi đã đi sâu tìm hiểu vấn đề quản lý và sử dụng máy móc thiết bị nên cũng đã hiểu rõ thực trạng của vấn đề ở Nhà máy. Kết hợp với kiến thức lý luận được trang bị trong quá trình học tập, tôi đã hoàn thành bản luận văn này. Trong đó tôi có đề ra một số biện pháp với hy vọng là bằng những giải pháp này tôi có thể góp phần cùng Nhà máy quản lý và sử dụng hiệu quả hơn số máy móc thiết bị hiện có, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cho Nhà máy. Với thời gian nghiên cứu không dài, cùng với kiến thức thực tế chưa có nhiều vì vậy luận văn này khó tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn cho tôi được hoàn thiện hơn nữa luận văn này. Danh sách tài liệu tham khảo 1. Giáo trình “Quản trị doanh nghiệp” Chủ biên: PGS - TS Lê Văn Tâm Nhà Xuất Bản Giáo Dục 1996. 2. Giáo trình “Kinh tế và quản lý công nghiệp” Chủ biên: GS - TS Nguyễn Đình Phan Nhà Xuất Bản Giáo Dục 1999 3. Giáo trình “Kinh tế và tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp” Chủ biên: PGS - TS Phạm Hữu Huy Nhà Xuất Bản Giáo Dục 1998 4. Giáo trình “Quản trị sản xuất và tác nghiệp” Chủ biên: Ths Trương Đoàn Thể Nhà Xuất Bản Giáo Dục 1999 5. Giáo trình “Quản trị hoạt động thương mại trong doanh nghiệp công nghiệp” Chủ biên: PGS - TS Nguyễn Kế Tuấn Nhà Xuất Bản Giáo Dục 1996. 6. Giáo trình “ Thống kê doanh nghiệp” Nhà xuất bản thống kê 7. Giáo trình “ Phân tích hoạt động kinh doanh” Nhà Xuất Bản Giáo Dục 1996. 8. Tạp chí công nghiệp 2001, 2002 9. Thời báo Kinh tế 2001, 2002 10. Các báo cáo tài chính và một số tài liệu có liên quan của Nhà máy in Diên Hồng - NXBGD

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37058.doc
Tài liệu liên quan