Với luận văn này em xin đề cập tới một số hoạt động trong hoạt động đấu thầu tại một doanh nghiệp nhà nước trước những cơ hội và thách thức của thị trường mà số lượng các đối thủ cạnh tranh là rất lớn đòi hỏi doanh nghiệp phải phát huy hết năng lực của mình để tồn tại và phát triển. Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết đã được học ở trường và qua thời gian thực tập, tìm hiểu thực trạng hoạt động đấu thầu tại Tổng công ty xây dựng Hà nội, cùng với việc nghiên cứu các nguồn sách báo và tài liệu tham khảo khác Em xin chọn đề tài luận văn của em là “Một số biện pháp đẩy mạnh công tác đấu thầu tại Tổng công ty xây dựng Hà nội”.
KếT CấU LUậN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành 3 chương:
Chương I : Những lý luận cơ bản về công tác đấu thầu.
Chương II : Thực trạng tình hình công tác đấu thầu tại Tổng công ty xây dựng Hà nội.
Chương III : Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động đấu thầu các công trình xây dựng của Tổng công ty xây dựng Hà Nội.
39 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1485 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp đẩy mạnh công tác đấu thầu tại Tổng công ty xây dựng Hà nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oại đã lạc hậu về kĩ thuật và chất lượng kém, nên không đáp ứng được yêu cầu sản xuất, ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng các công trình, nhất là các công trình lớn.
- Trình độ tổ chức thi công ở các công trình lớn trong giai đoạn đầu còn thấp, lúng túng, hiệu quả chưa cao. Tác phong làm việc công nghiệp, việc chấp hành quy trình quy phạm, biện pháp thi công, biện pháp an toàn còn tuỳ tiện. Do lực lượng cán bộ trẻ chưa được tập huấn đầy đủ, tỉ lệ công nhân hợp đồng ngắn hạn lớn, nhưng việc quản lí từ khâu hợp đồng, đến khâu huấn luyện, khám sức khoẻ ... còn nhiều thiếu sót, sự quan tâm của các cấp từ Tổng công ty đến các xí nghiệp, đội trong lĩnh vực bảo hộ lao động chưa thiết thực và đầy đủ. Tất cả những nguyên nhân trên là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến xẩy ra những vụ tai nạn lao động nghiêm trọng chết người trong năm 1999.
Công tác sáng kiến cải tiến kĩ thuật, hợp lí hoá sản xuất chưa trở thành phong trào quần chúng và mang lại hiệu quả cao.
Trong công tác tài chính nợ tồn đọng của các bên A còn nhiều, lượng vay ngân hàng lớn đã ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Tổng công ty. Một số đơn vị còn nợ bảo hiểm xã hội nhiều.
Tuy còn một số thiếu sót, nhược điểm nhưng những thành tích đạt được trong năm 2000 là cơ bản. Với những kết quả đó Tổng công ty đã đề nghị Nhà nước và Bộ xét tặng huân chương độc lập hạng III cho 2 Công ty, huân chương lao động hạng I cho 1 tập thể, huân chương lao động hạng III cho 7 tập thể và 9 cá nhân.
III- Đánh giá tổng quát tình hình thực hiện công tác đấu thầu tại Tổng Công ty.
3.1. Những điểm mạnh của công ty
Trong những năm qua, để tồn tại và phát triển, Tổng công ty xây dựng Hà nội đã có những biện pháp tính cực nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng của mình
- Về nhân sự, công ty luôn coi trọng yếu tố con người, chú trọng đến tổ chức, sắp xếp lại sản xuất, lựa chọn và đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt, nâng cao trình độ tay nghề lao động để nâng cao năng suất và chất lượng sản xuất.
- Trong quá trình sản xuất, công ty đã thường xuyên đầu tư mua sắm, nâng cấp và cải tiến kỹ thuật công nghệ, từng bước chuyển dịch cơ cấu, đa dạng hóa và chuyên môn hoá sản phẩm nhằm nâng cao chất lượng và tăng lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ khác.
- Cơ chế chuyển đổi từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, được sự đánh giá đúng mức của lãnh đạoTổng công ty đối với bộ phận Marketing của doanh nghiệp và tầm quan trọng trong hoạt động đấu thầu của các công trình xây lắp. Ngay từ những dự án đầu tiên được thực hiện theo phương thức đấu thầu tại Việt nam Tổng công ty đã chủ trương thành lập một đội ngũ cán bộ chuyên môn nghiên cứu triển khai các hoạt động trong lĩnh vực này đến nay đã đem lại nhiều kết quả khả quan cho mục tiêu phát triển của doanh nghiệp.
Từ việc làm quen với hình thức đấu thầu của các công trình xây dựng đến nay các cán bộ chuyên môn hoạt động trong lĩnh vực đấu thầu đã có được nhiều kinh nghiệm quý báu để thực hiện mục tiêu của mình trong từng hồ sơ mời thầu, có khả năng phân tích đánh giá các dự án, các gói thầu, phân tích thị trường, các đối thủ cạnh tranh, thế mạnh và điểm yếu của mình đối với các dự án từ đó có thể đánh giá tầm quan trọng của dự án và khả năng tham gia của doanh nghiệp đối với dự án đó để đi đến quyết định nên hay không nên tham gia đấu thầu dự án đó, với tư cách gì để đảm bảo hiệu quả cuối cùng là thắng thầu với tỷ lệ cao và có lãi.
Việc thực hiện thi công tại các công trình từ kết quả đấu thầu đã làm thay đổi theo hướng thuận lợi cho nhà quản lý về cơ cấu tổ chức thực hiện thi công tạo nên hiệu quả thực sự trong thi công công trình, các cán bộ, nhân viên và người lao động làm việc thực sự gắn bó với trách nhiệm được giao. Công việc hàng ngày được kết hợp nhịp nhàng và có hiệu quả cao hơn. Góp phần không nhỏ vào việc giảm thiểu các khoản chi phí do lãng phí thời gian lao động không hợp lý và chờ đợi giữa các khâu và các loại hình công việc trong quá trình thi công.
Thay đổi cách suy nghĩ và nhìn nhận của cán bộ công nhân viên và người lao động về công việc của mình với tư cách nhà thầu, tất cả mọi thành viên khi tham gia sản xuất kinh doanh đều phải tuân thủ theo hợp đồng đã ký kết với chủ đầu tư, do đó có sự phân chia trách nhiệm rõ ràng đối với từng vị trí, từng bộ phận tham gia, hạn chế được sự chồng chéo trong quản lý điều hành công việc. Đảm bảo mọi hoạt động như chất lượng công trình, kỹ thuật thi công, tiến độ, công tác bảo hộ lao động, an toàn, phòng chữa cháy nổ... phát huy năng lực và nâng cao uy tín của doanh nghiệp.
Qua hoạt động đấu thầu bộ phận chuyên môn đã có được nhiều kinh nghiệm trong việc nghiên cứu mở rộng thị trường, phát huy tối đa khả năng của mình, phân tích và tìm hiểu các thị trường mới, tạo cơ hội phát triển mở rộng thị trường. Hiện nay bằng với khả năng thực tế và uy tín của mình Tổng công ty đã xâm nhập được vào thị trường các tỉnh phía Bắc, đã dự thầu và thắng thầu tại: Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Phòng, Phú Thọ, Hà Tây, Hoà Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh ... và một số công trình tại Lào.
Khả năng thiết lập các mối quan hệ tốt đối với các cơ quan nhà nước, các bộ ngành, tạo cơ hội tham gia dự thầu các dự án mà chủ đầu tư là những tổ chức duy nhất và các dự án đầu tư bằng vốn nước ngoài tài trợ, với các dự án nh Dự án xây dựng Nhà máy Xi măng Hoàng Mai, Nhà máy Xi măng Nghi Sơn, một số nhà máy điện như Phú Mỹ, Na Dương. Các dự án cấp thoát nước tại Hà nội và một số tỉnh lân cận, các dự án xây dựng quốc lộ, đường giao thông thuỷ lợi như: xây dựng Đường Hồ Chí Minh, đường nội bộ trong khu công nghiệp ... các dự án có vốn đầu tư từ các nguồn ODA, WB, ADB ...
- Liên doanh liên kết với các nhà thầu trong và ngoài nước để tham gia đấu thầu các công trình lớn mà khả năng tự bản thân doanh nghiệp không thể đáp ứng được yêu cầu của các chủ đầu tư đối với các dự án sử dụng vốn nước ngoài.
- Kết quả thực hiện công tác đấu thầu tại Tổng công ty năm 2000: tổng số lần tham gia đấu thầu của toàn Tổng công ty là 1329 công trình, trúng thầu 378 công trình với giá trị đạt được là1.914 tỷ, tỷ lệ trúng thầu là 37% trong đó giá trị công trình trúng thầu với tư cách Tổng công ty chiếm 46,7% trong giá trị trúng thầu chung.
3.2. Tồn tại.
Bên cạnh những thành tích đã đạt được trong công tác đấu thầu tại Tổng công ty còn tồn tại một số vấn đề khiến cho kết quả của công tác hiện nay đang trên đà đi xuống so với trước đây.
- Mặc dù Tổng công ty đã có một bộ phận cán bộ chuyên môn hoạt động trong lĩnh vực này có trình độ cao, có năng lực và khả năng thực hiện công việc với cường độ cao trong nhiều giờ liên tục nhưng số lượng những cán bộ này còn qúa ít do đó nhiều khi không đáp ứng được tất cả những yêu cầu của thị trường đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm công tác đấu thầu tại các đơn vị thành viên, hiện nay do phải hoạt động độc lập từ các đơn vị cơ sở đối với các dự án nhỏ thường trực tiếp tham gia đấu thầu không cần lấy danh nghĩa của Tổng công ty do đó khả năng trúng thầu không cao.
- Đối với việc thu thập thông tin thị trường còn chưa được coi trọng do đó nguồn thông tin còn rời rạc, chưa hình thành hệ thống thu thập và xử lý thông tin đáp ứng khả năng nắm bắt thị trường trước những quyết định quan trọng trong việc tiến hành tham gia đấu thầu hay rút lui và việc phân tích tình hình hoạt động của các đối thủ cạnh tranh trong vấn đề này như thế nào để có những giải pháp đối phó linh hoạt.
- Việc tính giá dự thầu các công trình hiện nay cũng gặp nhiều khó khăn do thị trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt mà mức giá cao trở thành một vấn đề cần quan tâm xem xét. Nhưng để có một mức giá hợp lý trong giai đoạn này cùng tồn tại với một chất lượng công trình đảm bảo và uy tín của doanh nghiệp thì các đơn vị sẽ phải xem xét vấn đề có hay không tham gia đấu thầu công trình đó. Và khi tham gia sẽ giải quyết được vấn đề gì.
- Về năng lực tài chính của Tổng công ty được xem là mạnh so với nhiều đối thủ cạnh tranh nhưng điều đó cũng không đảm bảo chắc chắn sẽ đáp ứng được tất cả các dự án hiện đang chào thầu mà Tổng công ty có ý định tham gia nhất là các dự án lớn phức tạp và những đòi hỏi khắt khe của chủ đầu tư khi nguồn vốn được sử dụng có nguồn gốc từ nước ngoài. Để tham gia vào những công trình này doanh nghiệp phải thực hiện chính sách liên doanh liên kết với các nhà thầu lớn trong và ngoài nước, điều này dẫn đến việc phải chia sẻ quyền lợi đối với những đối tác của mình.
3.3. Nguyên nhân :
- Đối với lực lượng cán bộ chuyên môn ngoại trừ bộ phận trực tiếp hoạt động tại Tổng công ty là tương đối đầy đủ cán bộ phục vụ cho công tác tiếp cận thị trường và khả năng đáp ứng các yêu cầu trong việc hoàn tất thủ tục hồ sơ đấu thầu và tỏ ra có hiệu quả, còn lại những bộ phận trực thuộc các đơn vị thành viên phần nhiều là cán bộ trẻ mới ra trường tuy có sức khoẻ và hoạt động với cường độ cao song với họ cần phải có thời gian và thử thách mới có thể đúc rút được những kinh nghiệm cần thiết trong lĩnh vực đấu thầu các dự án.
- Trong quá trình thu thập thông tin hiện nay tại các doanh nghiệp cũng đã có sự quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất nhưng mức độ còn chưa cao, chưa đảm bảo cho việc tiếp cận thông tin một cách có hệ thống, mặt khác hoạt động đấu thầu đối với các doanh nghiệp tuy không còn là mới mẻ nhưng thực tế các cán bộ chuyên môn cũng chưa nắm bắt được yêu cầu thiết thực của thông tin trong việc nắm bắt và xử lý thường nhật với mục tiêu quan trọng là tìm được nguồn để khai thác phân tích đánh giá các nguồn thông tin về các dự án đầu tư sẽ được tiến hành trong tương lai, các thông tin về các đối thủ cạnh tranh nhằm tìm ra các đối pháp đem lại hiệu quả kinh tế cho bản thân doanh nghiệp và hạn chế những rủi ro.
- Trong vấn đề quản lý và sử dụng vốn còn gặp khó khăn, do nhu cầu sử dụng vốn rất lớn mà nguồn vốn hiện có của doanh nghiệp trong thực tế không đủ bù đắp các chi phí cần thiết, mặt khác do sự chiếm dụng vốn của khách hàng trong quá trình thanh toán làm giảm tốc độ quay vòng vốn của doanh nghiệp. Bản thân doanh nghiệp luôn luôn phải sử dụng một lượng vốn rất lớn từ việc vay ngân hàng và huy động từ các nguồn khác nên phải chịu gánh nặng của lãi suất tiền vay và giảm khả năng thanh toán và thanh toán nhanh của doanh nghiệp.
- Công tác thực hiện thi công theo hợp đồng tuy có nhiều cố gắng để đảm bảo chất lượng và tiến độ thi công công trình nhưng vẫn còn hiện tượng cán bộ điều hành và người lao động chưa thực sự gắn bó với quyền hạn và trách nhiệm của mình do đó vẫn còn để xảy ra những sự cố không đáng có ảnh hưởng tới quá trình thực hiện thi công và uy tín của doanh nghiệp đối với thị trường nhất là vấn đề bảo hộ lao động và an toàn trong thi công để xảy ra những tai nạn đáng tiếc.
Chương iii
các giải pháp thúc đẩy hoạt động đấu thầu các công trình
xây dựng của Tổng công ty xây dựng Hà nội
trên thị trường trong tương lai.
Cùng với công cuộc phát triển kinh tế của đất nước, vấn đề tồn tại, phát triển của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường với mục tiêu quan trọng là mở rộng sản xuất kinh doanh theo đà phát triển chung của môi trường sản xuất kinh doanh trong nước, phải đảm bảo theo kịp và ngang bằng với các đối thủ cạnh tranh quốc tế tạo cơ sở vươn tầm với ra khỏi phạm vi quốc gia để thâm nhập vào thị trường các nước trong khu vực trong tương lai gần. Để có thể làm được điều đó trước mắt chúng ta cần phải có một cơ sở vững chắc từ nội bộ doanh nghiệp trong các vấn đề về cơ cấu bộ máy tổ chức điều hành, nguồn nhân lực, các bộ phận chuyên môn, các khả năng nội lực như năng lực tài chính, máy móc thiết bị, phương tiện kỹ thuật, truyền thống ...
Với những gì đã có và đã làm được trong thời gian vừa qua Tổng công ty xây dựng Hà nội cũng đã khẳng định được vị thế của mình trên thị trường trong nước, luôn đáp ứng được mọi nhu cầu của thị trường về chất lượng sản phẩm của mình. Tuy nhiên trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không phải lúc nào cũng thuận lợi tốt đẹp đem lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp mà bên cạnh đó cùng với bối cảnh chung của nền kinh tế có các nhân tố ảnh hưởng nhất định làm hạn chế khả năng phát huy thế mạnh của doanh nghiệp và trong tự bản thân doanh nghiệp cũng có những mặt hạn chế cần phải khắc phục, điều chỉnh để tự hoàn chỉnh mình thì mới có thể phát huy được hết khả năng và thế mạnh của mình. Để khắc phục những điểm hạn chế đó cần có một số giải pháp mà từ đó có thể nâng cao hiệu quả trong công tác đấu thầu của doanh nghiệp góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai.
1. Công tác Marketing và tiếp cận thị trường.
Đối với một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hoạt động của nó trên thị trường phụ thuộc rất nhiều vào sản phẩm của mình và cách thức phân phối của nhà sản xuất tới tay người tiêu dùng, vấn đề này biểu hiện thông qua các hoạt động tiếp cận thị trường và chính sách Marketing của doanh nghiệp đòi hỏi doanh nghiệp phải có một chiến lược tổng thể có hệ thống chặt chẽ trong hoạt động Marketing.
Tổng công ty xây dựng Hà nội trải qua hơn 40 năm kinh nghiệm trong xây dựng-xây lắp các công trình quan trọng mang tầm quốc gia với đội ngũ kỹ thuật giỏi chuyên môn và một đội quân có trình độ tay nghề cao, thuần thục trong các thao tác và khả năng hoạt động với cường độ cao đã tạo cho doanh nghiệp một thế mạnh và uy tín mà không phải doanh nghiệp nào cũng có được. Từ khi chuyển đổi cơ chế, nền kinh tế thị trường yêu cầu doanh nghiệp muốn hoà nhập được thì phải có một đội ngũ cán bộ chuyên môn giỏi đáp ứng môi trường kinh doanh mới đó là bộ phận chuyên trách hoạt động trong lĩnh vực Marketing. Đây là một bộ phận quan trọng đặc biệt đối với doanh nghiệp trong việc xác định kế hoạch chiến lược kinh doanh của toàn doanh nghiệp đòi hỏi người chủ doanh nghiệp phải có sự quan tâm thoả đáng. Nhằm thúc đẩy cường độ hoạt động và khả năng tiếp cận thị trường tìm hướng cho những sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp. Những năm gần đây để hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực nhất là để đáp ứng nhu cầu đầu tư nước ngoài vào Việt nam trong công cuộc Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, một số loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh và việc chuyển giao công nghệ đã lần lượt được áp dụng tại thị trường Việt nam trong đó hoạt động đấu thầu là một trong những vấn đề được đề cập ngay từ những năm đầu thập kỷ 90, sau khi Chính phủ ban hành Luật đầu tư nước ngoài và các hình thức đấu thầu được áp dụng đối với các dự án lớn và do các nhà thầu nước ngoài tham gia. Đây là một hoạt động cạnh tranh lành mạnh nhằm đảm bảo cho các nhà thầu có thể phát huy khả năng và thế mạnh của mình trong quá trình tạo ra sản phẩm, đồng thời là việc gánh vác trách nhiệm đối với khách hàng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như việc sử dụng sản phẩm của khách hàng thời gian sau đó. Điều này sẽ đem lại quyền lợi và sự yên tâm đối với sản phẩm của chủ đầu tư.
Thực tế hiện nay, nhìn chung tại các doanh nghiệp thì hoạt động Marketing vẫn chưa được chú trọng do đó bản thân nó còn có những hạn chế mà nếu ta không khắc phục sẽ dẫn đến tình trạng trì trệ đối với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh cuả doanh nghiệp. Bộ phận chuyên môn của Tổng công ty hiện nay hoạt động trong lĩnh vực này cũng đã tạo thành một hệ thống từ cấp doanh nghiệp đến các đơn vị cơ sở là các công ty thành viên cũng đã có bộ phận chuyên trách hoạt động trên thị trường nhưng những hoạt động này chưa tỏ ra có hiệu quả cao bởi thực tế việc phân công trách nhiệm và cách thức hoạt động của bộ phận này còn nhiều bất cập, công việc được giao tràn lan như còn khoán trực tiếp cho các xí nghiệp, đội xây dựng tự làm hồ sơ dự thầu do đó dẫn đến việc không đáp ứng được yêu cầu của chủ đầu tư.
Thông tin thị trường luôn đóng vai trò quan trọng, để tìm kiếm được thông tin cần phải có một hệ thống thông tin đồng bộ kết hợp chặt chẽ với nhau và có khả năng thu thập, xử lý thông tin chính xác, một đội ngũ nhân viên nhạy bén, năng động có khả năng kiểm soát được các thông tin và tìm kiếm các thông tin quan trọng từ phía khách hàng tạo cơ hội cho doanh nghiệp có thể tiếp cận được với khách hàng.
Tầm quan trọng của hoạt động Marketing còn thể hiện trong việc tiếp xúc, giao tiếp với các tổ chức Chính phủ, bộ ngành, các tổ chức quốc tế là những nhà đầu tư mà ở đó doanh nghiệp có cơ hội nắm bắt, tham gia với tư cách nhà thầu có uy tín và tiềm lực. Vấn đề này yêu cầu bản thân doanh nghiệp phải có chính sách quảng cáo tiếp thị mạnh mẽ gây được ấn tượng đối với các nhà đầu tư, đây cũng là chính sách quan trọng để mở rộng thị trường, tăng phạm vi hoạt động tạo thêm cơ hội nắm bắt thông tin và tìm kiếm thông tin.
Mục tiêu chiến lược mà doanh nghiệp đặt ra trong thời gian tới là mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng công trình và đa dạng hoá sản phẩm xây dựng ngoài những sản phẩm truyền thống mở ra các công trình giao thông, thuỷ lợi, cấp thoát nước... đây là những sản phẩm có kết cấu khác so với sản phẩm truyền thống của doanh nghiệp trước đây do đó cần phải có chính sách bổ sung lực lượng cán bộ chuyên môn và các thông tin cần thiết khác giúp doanh nghiệp có thể thông hiểu về những sản phẩm này và có đủ khả năng cạnh trạnh đối với các đối thủ khác cùng tham gia.
Thực tế hiện nay các hoạt động đấu thầu các công trình xây dựng đã trở thành một hiện tượng phổ biến trên thị trường nhưng vấn đề đáng quan tâm đây là tính khách quan quan trọng trong quá trình thực hiện đấu thầu công trình, từ khi bắt đầu triển khai nghiên cứu khả thi dự án đến việc tiến hành lập hồ sơ mời thầu, dự thầu và xét thầu, thương lượng và ký kết hợp đồng xuất hiện những tiêu cực mà bản thân vấn đề này cũng đã có ảnh hưởng từ cơ chế xin cho, chỉ định thầu trước đây đã gây ra những trở ngại không nhỏ đến tính khách quan trong quá trình xem xét đánh giá các hồ sơ dự thầu và khả năng đảm bảo bí mật thông tin là việc khó thực hiện, đồng thời xuất hiện những hiện tượng tiêu cực như dự án mua dây cáp điện ở Hà nội, việc xét thầu tư vấn kỹ thuật cho các công trình cấp nước ở thành phố Hồ Chí Minh , dự án xây dựng Thuỷ cung Thăng Long.
Những điều này sẽ giải thích cho những vấn đề mang tính tình huống khó tránh trong tư tưởng hiện nay của những bộ phận làm công tác đấu thầu các dự án ở nước ta mà nếu không có những biện pháp khắc phục hoặc lường trước thì sẽ có những tác động đối nghịch với môi trường lành mạnh trong đấu thầu quốc tế hiện nay ở nước ta, ảnh hưởng tới quá trình hợp tác đầu tư nước ngoài tới thị trường Việt nam và sự phát triển của các nhà thầu trong nước trên con đường hội nhập.
2- Công tác hoạch định chiến lược và kế hoạch kinh doanh
Quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá thời kỳ 2000- 2010 với mục tiêu đưa nền kinh tế nước ta vượt qua khó khăn trước những tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, giữ được nhịp độ tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế cũng như thực hiện đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá , hiện đại hoá và hoàn thiện cơ chế thị trường hội nhập vào khu vực mậu dịch tự do AFTA và khu vực đầu tư ASEAN, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các tầng lớp nhân dân. Đối với Tổng công ty xây dựng Hà nội thì đây cũng là một thách thức rất lớn quyết định tới vận mệnh của mình trong thị trường cạnh tranh của khu vực khi đứng trước những cơ hội hội nhập đòi hỏi doanh nghiệp phải có một chiến lược và kế hoạch kinh doanh được chuẩn bị kỹ càng có cân nhắc từng đường đi nước bước làm cơ sở cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà nhất là đối với hoạt động đấu thầu của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh đang nóng dần lên giữa các đối thủ cạnh tranh trong nước và các nhà thầu quốc tế xuất hiện trên thị trường hiện nay .
2.1 Chiến lược đa dạng hoá lĩnh vực SXKD :
+ Mở rộng và tăng cường các hoạt động trong lĩnh vực xây lắp các công trình như giao thông, thuỷ lợi, cấp thoát nước, các công trình văn hoá thể thao, sân bay, bến cảng ...
+ Mở rộng sản xuất kinh doanh các loại vật liệu xây dựng và gia công cơ khí, đổi mới các dây chuyền công nghệ hiện đại, tiên tiến trong sản xuất bê tông các loại, gạch nung Tuy nen, gạch Block, các loại vật liệu trong trang trí nội thất, nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường .
+ Nghiên cứu triển khai các dự án mới với tư cách là chủ đầu tư, điều hành dự án gắn với việc kết hợp kinh doanh kết cấu cơ sở hạ tầng các dự án phát triển nhà , khu đô thị và khu công nghiệp công nghệ cao .
+ Củng cố và tăng cường các hoạt động tư vấn đầu tư trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, liên doanh liên kết với các tổ chức tư vấn trong và ngoài nước với mục tiêu thực hiện việc lập, quản lý điều hành các dự án đồng thời giám sát và kiểm định các dự án trên cơ sở thực hiện theo tiêu chuẩn quốc tế như ISO, BSA, SS ...
+ Tăng cường các hoạt động tìm kiếm thị trường đồng thời kết hợp với đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBCNV đảm bảo chất lượng có tay nghề cao đem lại hiệu quả sản xuất và uy tín cho Doanh nghiệp, tạo cơ hội và khả năng tham gia vào đấu thầu các dự án lớn mang tính cạnh tranh quốc tế.
Đối với chiến lược này mục tiêu quan trọng là làm tăng dần tỷ trọng đối với các hoạt động sản xuất vật liệu xây dựng, tư vấn đầu tư và triển khai thực hiện các dự án đồng thời giảm dần tỷ trọng đối với hoạt động xây lắp, tuy nhiên hoạt động xây lắp vẫn được coi là lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính của doanh nghiệp và luôn chiếm tỷ trọng lớn trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp ( trước đây là ) 90%, hiện nay khoảng 80% tiến tới giai đoạn 2006~ 2010 sẽ là 65% ~70% .
2.2 Chiến lược chuyên môn hoá sản phẩm :
Đối với những sản phẩm mới của ngành được sử dụng trong các công trình xây dựng và mang tính cạnh tranh cao cần phải có chính sách đầu tư hợp lý để đem lại hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm vì vậy cần có những dây chuyền công nghệ mới hiện đại và đồng bộ khả năng chuyên môn hoá cao sản phẩm sản xuất ra có chất lượng ổn định và có chi phí thấp đủ sức cạnh tranh thị trường .
Để thực hiện mục tiêu này phải củng cố sắp xếp lại các Doanh nghiệp( đơn vị thành viên ) hình thành các đơn vị chuyên môn hoá theo mô hình hoạt động cụ thể sau:
+ Từ 8 - 10 Doanh nghiệp xây lắp tổng hợp( DN hạng I ) hạch toán độc lập
+ 2 Doanh nghiệp xây lắp công nghiệp .
+ 1 Doanh nghiệp tư vấn đầu tư, chuyển giao công nghệ .
+ 1 Doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng và phát triển đô thị .
+ 2 Doanh nghiệp sản xuất VLXD chất lượng cao( bê tông, gạch trang trí, Block )
+ 1 Doanh nghiệp cơ khí xây dựng .
+ 2 Doanh nghiệp thi công kỹ thuật hạ tầng đô thị và khu công nghiệp , giao thông, thuỷ lợi và phát triển nông thôn .
Đồng thời hình thành một số đơn vị, tổ chức hạch toán phụ thuộc
+ Trung tâm xuất nhập khẩu( Trọng tâm là xuất khẩu lao động ) .
+ Văn phòng tư vấn và Ban quản lý dự án .
+ 2 Trung tâm bồi dưỡng và đào tạo cán bộ, công nhân theo tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế .
Việc đầu tư chiều sâu cho các đơn vị có sự tập trung cao đối với một hoặc một số chuyên ngành có lợi cho doanh nghiệp trong việc tập trung cao các phương tiện kỹ thuật, đội ngũ chuyên gia trong chuyên ngành nhiều tạo cơ hội tốt cho sự tập trung chuyên môn hoá sản phẩm đem lại chất lượng cao tiếp cận được với các hệ thống quản lý chất lượng quốc tế làm tăng uy tín của sản phẩm và đáp ứng nhu cầu của thị trường. Đẩy mạnh việc đổi mới và sắp xếp lại các doanh nghiệp trong Tổng Công ty theo chính sách Nhà nước thực hiện chế độ bán, khoán, cho thuê và cổ phần hoá các doanh nghiệp theo yêu cầu và đã được Bộ xây dựng và Chính phủ phê duyệt. Đây là hoạt động mang tính tổ chức nhằm phát huy hiệu quả sản xuất kinh doanh đối với các đơn vị trong thời kỳ mới đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của thị trường và phù hợp với môi trường kinh doanh, khắc phục những vướng mắc bất cập hiện nay của các doanh nghiệp Nhà nước sau khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường. Mặt khác khuyến khích các đơn vị tập trung vào đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ và các dây chuyền sản xuất kinh doanh của đơn vị cũng như sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong tương lai.
2.3 Hội nhập với khu vực và thế giới :
Để chuẩn bị cho quá trình hội nhập nền kinh tế nước ta với các nước trong khu vực thời gian tới và tiến tới hội nhập với nền kinh tế quốc tế chúng ta phải chuẩn bị bắt đầu từ những đơn vị cơ sở những thành phần kinh tế cơ bản nhất tham gia vào thị trường với đòi hỏi về khả năng đáp ứng được các chỉ tiêu trong hệ thống quản lý chất lượng của các tổ chức quốc tế bằng việc được cấp chứng chỉ ISO...
+ Đối với công tác tổ chức và qui hoạch lại các doanh nghiệp đảm bảo các yêu cầu mục tiêu đề ra và khả năng kết hợp giữa con người với dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị. Khả năng đáp ứng về vốn và nguồn tài chính tạo năng lực và thế mạnh của doanh nghiệp đây cũng là chỉ tiêu quan trọng trong hồ sơ đấu thầu của Tổng Công ty.
+ Trong hoạt động tài chính, tín dụng mạnh dạn tiếp cận với hình thức công ty tài chính, thâm nhập vào thị trường chứng khoán tìm cơ hội cho sự phát triển và khả năng về tài chính của doanh nghiệp đảm bảo trong vấn đề thực hiện giải ngân cho các dự án trong và ngoài nước đáp ứng yêu cầu mục tiêu phục vụ cho các công trình theo đúng tiến độ thi công.
3. Công tác huy động nguồn lực.
3.1. Chuyển giao công nghệ tăng năng lực sản xuất.
Tiến bộ khoa học công nghệ, đối mới công nghệ sẽ cho phép nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều sản phẩm mới đa dạng hoá, tăng sản lượng, tăng năng suất lao động, sử dụng hợp lí tiết kiệm hơn nguồn nguyên nhiên vật liệu. Nhờ vậy sẽ tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Phương hướng chủ yếu của đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp hiện nay được sự quan tâm của Tổng công ty cùng với xu thế phát triển chung của đất nước đang diễn ra mạnh mẽ. Trong thời gian qua được sự hỗ trợ của Tổng công ty các đơn vị đã đầu tư một lượng vốn đáng kể (1999 đầu tư : 51149,708 tỉ đồng ; 2000 : đầu tư : 59560 tỉ đồng) vào các dự án xây dựng cơ bản, trang bị máy móc thiết bị đổi mới các dây chuyền công nghệ, nghiên cứu triển khai các công nghệ phần mền làm cho bộ mặt của doanh nghiệp được thay đổi từng bước theo chiều hướng khả quan. Tuy nhiên, với khả năng tài chính hiện nay chưa thể đáp ứng đầy đủ cho các đơn vị, mặt khác những bước đột phá trong công nghệ sẽ dẫn đến những hiện tượng lỗi thời nhanh chóng đối với những dây chuyền công nghệ đã nhập trước đây, vì vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải có một chiến lược đổi mới công nghệ với những mục tiêu cụ thể, rõ ràng và xác định tuổi thọ của những công nghệ đó trong tương lai để có đối sách phù hợp, hạn chế những rủi ro gặp phải và phát huy tối đa những năng lực công nghệ đó.
Hiện nay tình trạng trang bị khoa học công nghệ và máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất tại các đơn vị bên cạnh những cố gắng vẫn còn tình trạng thiếu thốn các trang thiết bị phục vụ công trình do sự phân tán của quá trình thi công các công trình phải sử dụng cả những thiết bị thi công cũ, lạc hậu, chất lượng không đảm bảo dẫn đến những khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Phương hướng đổi mới công nghệ cần phải thực hiện theo đúng yêu cầu thực tế mà mục tiêu cụ thể của doanh nghiệp là :
+ áp dụng các hình thức cơ khí hoá va tự động hoá đồng bộ kết hợp các công nghệ điện tử và tin hoc trong quá trình thực hiện thi công theo 2 hướng cơ bản :
+ Sử dụng hệ thống máy móc thiết bị hiện đại và thường xuyên bổ sung vào hệ thống những thiết bị có trình độ kĩ thuật hiện đại hơn. Đồng thời đưa vào sản xuất những loại máy chuyên dụng với nhiều chức năng hơn, có năng suất cao hơn giúp cho người lao động đỡ vất vả hơn trong những công việc nặng nhọc.
+ Mở rộng phạm vi sử dụng máy vào quá trình sản xuất và quá trình quản lý từ thấp tới cao, từ một phần công việc đến toàn bộ hệ thống.
+ Tạo ra những vật liệu mới để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường và của khách hàng và mục tiêu quan trọng của doanh nghiệp trong việc đảm bảo chất lượng các công trình nhất là các doanh nghiệp đang hướng tới mục tiêu có chứng chỉ quản lý ISO.
+ Nhìn chung năng lực công nghệ của các doang nghiệp bao gồm nguồn lực về vốn, lao động kĩ thuật. Năng lực công nghệ của doanh nghiệp được đo bằng khả năng nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới công nghệ vào sản xuất kinh doanh và khả năng tiếp thu, nắm vững, cải tiến đổi mới công nghệ cùng với mục tiêu nâng cao năng lực công nghệ quyết định việc đẩy nhanh và có hiệu quả đối với tiến bộ khoa học - công nghệ. Biện pháp nâng cao năng lực khoa học - công nghệ cần được tiến hành theo các bước sau :
+ Đầu tư thích đáng trong việc phát triển tiềm năng khoa học và công nghệ, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục đào tạo các cán bộ đáp ứng nhu cầu tiếp thu các thành tựu khoa học đưọc chuyển giao, tăng cường hoạt động có hiệu quả của các trung tâm nghiên cứu ứng dụng có tính chất đầu ngành và mang tầm cỡ quốc gia.
+ Tổ chức lại các loại hình nghiên cứu khoa học với các trường đại học để phát triển quan hệ giữa khoa học với sản xuất và ngược lại.
+ Tăng năng lực ở các bộ phận thí nghiệm, thiết kế, chế tạo, dịch vụ, kĩ thuật ... tại doanh nghiệp và các đơn vị cơ sở nhất là tại trung tâm thí nghiệm của Tổng công ty đóng tại Công ty Bê tông xây dựng Hà Nội.
Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên thị trường cạnh tranh, để tăng năng lực sản xuất cần phải thực hiện chiến lược chuyển gia công nghệ đưa những công nghệ tiên tiến vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Muốn làm được điều này doanh nghiệp phải áp dụng nhiều hình thức và thể hiện trên việc mua bán công nghệ. Hiện nay đối với doanh nghiệp, chuyển giao công nghệ từ nước ngoài là phương thức đổi mới công nghệ nhanh và có hiệu quả bởi nó kế thừa những thành tựu khoa học công nghệ của thế giới, mặt khác nó tiết kiệm được khoản chi phí đáng kể cho quá trình nghiên cứu. Có thể áp dụng cả 2 hình thức chuyển giao dọc và chuyển giao ngang trên cơ sở của nhu cầu thực tế, điều quan trọng là phải có các hệ thống chỉ tiêu phân tích và cơ sở đánh giá các công nghệ trước khi đi đến quyết định với công nghệ được lựa chọn.
Quá trình chuyển giao công nghệ được xác định từ 2 việc chính sau: lựa chọn công nghệ thích hợp để chuyển giao, tổ chức thực hiện việc chuyển giao công nghệ nhằm xác định tính chính xác và cụ thể của công nghệ được lựa chọn. Đàm phán xây dựng và kí kết hợp đồng chuyển giao công nghệ là nội dung quan trọng trong công tác chuẩn bị chuyển giao công nghệ.
Việc chuyển giao công nghệ chính xác đồng bộ và phù hợp với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp sẽ là cơ sở quan trọng làm tăng năng lực sản xuất góp phần tạo hiệu quả kinh tế và thể hiện được thế mạnh của doanh nghiệp trên thị trường, đảm bảo cho các hồ sơ dự thầu của Tổng công ty có một vị thế đáng kể giữa các đối thủ cạnh tranh và làm cho kết quả thắng thầu các công trình tăng cao.
Để tăng khả năng huy động được các nguồn nhân tài, vật lực trên thị trường cần có một chính sách tạo lập những mối quan hệ giữa chủ doanh nghiệp với các bạn hàng, các tổ chức tín dụng, tài chính trong và ngoài nước, các tổ chức chính trị xã hội, các nguồn khai thác quan trọng về nguyên, nhiên vật liệu, năng lượng phục vụ cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp.
Với mục tiêu này đòi hỏi doanh nghiệp phải có chiến lược marketing đủ mạnh và nắm bắt được mọi thông tin quan trọng từ nhiều phía tác động tới môi trường kinh doanh của doanh nghiệp, khả năng phát huy thế mạnh của doanh nghiệp trên mọi lĩnh vực hoạt động.
3.2 Cơ sở tạo lập các nguồn lực.
+ Tiêu chuẩn hoá lực lượng lao động trong doanh nghiệp: Cần xây dựng và ứng dụng chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ công chức, viên chức, nhân viên đó là một bộ phận quan trọng gắn liền với công tác kiện toàn tổ chức, cải tiến lề lối làm việc, cải tiến quản lý nhằm nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lý. Đây là công tác có nội dung khoa học, có quan hệ mật thiết với các môn khoa học tổ chức, khoa học quản lý và nhiều ngành khoa học khác. Công tác này trực tiếp phục vụ việc tiêu chuẩn hoá cán bộ đào tạo, tuyển dụng, hoạch định chính sách cán bộ và thực hiện trả lương theo đúng chức danh, tiêu chuẩn .
+ Tạo nguồn nguyên liệu, vật liệu xây dựng nhập khẩu đáp ứng yêu cầu sử dụng trong nước và việc tranh thủ công nghệ hiện đại trên thế giới, khai thác các nguồn lực, thế mạnh trong nước để phát triển cơ sở nguyên liệu. Để tăng cường nguồn nguyên liệu nhập khẩu doanh nghiệp phải áp dụng nhiều hình thức kinh tế đối ngoại như.
Trực tiếp đầu tư vốn nước ngoài để phát triển các cơ sở khai thác, sản xuất nguyên vật liệu trong nước.
Thực hiện các mối quan hệ trao đổi hợp tác giữa các cơ sở sản xuất trong nước và nước ngoài để cung cấp nguyên liệu, vật liệu cho quá trình sản xuất thi công các công trình xây lắp.
Xây dựng kế hoạch cung ứng nguyên liệu cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp trên hiện trường với nhiệm vụ xác định chính xác lượng nguyên vật liệu cần có để đảm bảo thi công theo hợp đồng đúng tiến độ và kế hoạch đã đề ra và được thể hiện trên cơ sở hệ thống các biểu cân đối và phân phối nguồn nguyên liệu, vật liệu hợp lý có hiệu quả cao góp phần giảm chi phí .
Lập ra những biện pháp nhằm sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguyên, vật liệu trong quá trình thi công góp phần quan trọng trong việc hạ giá thành sản phẩm do hiện nay việc sử dụng nguồn nguyên, vật liệu mới có giá trị kinh tế cao được sản xuất trên dây truyền công nghệ hiện đại, khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng cao, vì vậy việc thực hiện tiết kiệm nguồn nguyên vật liệu cũng có nghĩa là thực hiện có hiệu quả quốc sách tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp, góp phần làm tăng lợi nhuận, giảm chi phí sản xuất và là động lực cho công tác lập giá dự thầu các công trình trong tương lai.
+ Chính sách huy động các nguồn vốn của doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh: Các nguồn vốn được xác định gồm có: Vốn chủ sở hữu và vốn vay, trong đó nguồn huy động vốn chủ sở hữu xuất phát từ lợi nhuận để lại và vốn thu hút thêm thông qua phát hành cổ phiếu. Ngoài ra còn có một nguồn khác là vốn viện trợ không hoàn lại của các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ được phân bổ cho Doanh nghiệp quản lý. Vốn nợ được huy động từ 2 nguồn chính đó là: Nguồn vốn vay từ các tổ chức tài chính và phát hành trái phiếu Doanh nghiệp( Hình thức phát hành trái phiếu Doanh nghiệp hiện nay chưa thực hiện ). Vốn dùng trong sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp có thể được huy động từ các nguồn trong và ngoài nước trên cơ sở sử dụng các công cụ như :
Chính sách lãi suất: Lãi xuất trái phiếu của Chính phủ và lãi xuất tín dụng hạn mức.
Chính sách lãi suất tái đầu tư : Thực chất là việc giảm bớt các khoản chi phí, tiêu dùng hiện tại của doanh nghiệp nhằm thu được nhiều lợi nhuận hơn trong tương lai nhất là trong điều kiện hiện nay của doanh nghiệp, vấn đề thiếu vốn trong sản xuất kinh doanh là rất lớn cần có chính sách thiết thực để có thể tận dụng tốt hơn khả năng tiềm tàng về vốn. Chính sách khuyến khích tái đầu tư gồm chế độ thuế ưu đãi đối với phần lợi nhuận dùng để tái đầu tư, hỗ trợ thị trường, chính sách tín dụng ưu đãi ...
Chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài: Đây là nguồn vốn quan trọng để bổ sung cho sự thiếu hụt về vốn của doanh nghiệp. Để tăng cường khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài Chính phủ cần tạo sự ổn định trong chính sách phát triển kinh tế, chính sách thuế hấp dẫn, các thủ tục thống nhất và thuận lợi, phát triển cơ sở hạ tầng, thông tin, các dịch vụ tài chính ngân hàng và tới đây là hoạt động của thị trường chính khoán.
Chính sách quản lý ngoại hối: Nhằm quản lý nguồn ngoại tệ, gây tác động tích cực đến tỷ giá hối đoái, tỷ lệ lạm phát và mức độ ảnh hưởng tới khả năng thu hút ngoại tệ và chính sách xuất nhập khẩu ngoại tệ ....
Mở rộng và phát triển các hình thức liên kết kinh tế trong nước và quốc tế nhằm tạo ra và tận dụng triệt để tiềm năng về vốn cho hoạt động của doanh nghiệp.
- Lập cơ sở tạo ra các nguồn lực :
+Tiêu chuẩn hoá lực lượng lao động trong doanh nghiệp: Cần xây dựng và ứng dụng chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ công chức, viên chức, nhân viên đó là một bộ phận quan trọng gắn liền với công tác kiện toàn tổ chức, cải tiến lề lối làm việc, cải tiến quản lý nhằm nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lý. Đây là công tác có nội dung khoa học, có quan hệ mật thiết với các môn khoa học tổ chức, khoa học quản lý và nhiều ngành khoa học khác. Công tác này trực tiếp phục vụ việc tiêu chuẩn hoá cán bộ đào tạo, tuyển dụng, hoạch định chính sách cán bộ và thực hiện trả lương theo đúng chức danh, tiêu chuẩn.
+ Tạo nguồn nguyên, vật liệu xây dựng nhập khẩu đáp ứng yêu cầu sử dụng trong nước và việc tranh thủ công nghệ hiện đại trên thế giới, khai thác các nguồn lực, thế mạnh trong nước để phát triển cơ sở nguyên liệu. Để tăng cường nguồn nguyên liệu nhập khẩu doanh nghiệp phải áp dụng nhiều hình thức kinh tế đối ngoại như :
Trực tiếp đầu tư vốn nước ngoài để phát triển các cơ sở khai thác, sản xuất nguyên vật liệu trong nước .
Thực hiện các mối quan hệ trao đổi hợp tác giữa các cơ sở sản xuất trong nước và nước ngoài để cung cấp nguyên, vật liệu cho quá trình sản xuất thi công các công trình xây lắp .
Xây dựng kế hoạch cung ứng nguyên liệu cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp trên hiện trường với nhiệm vụ xác định chính xác lượng nguyên vật liệu cần có để đảm bảo thi công theo hợp đồng đúng tiến độ và kế hoạch đã đề ra và được thể hiện trên cơ sở hệ thống các biểu cân đối và phân phối nguồn nguyên, vật liệu hợp lý có hiệu quả cao góp phần giảm chi phí .
Lập ra những biện pháp nhằm sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguyên, vật liệu trong quá trình thi công góp phần quan trọng trong việc hạ giá thành sản phẩm do hiện nay việc sử dụng nguồn nguyên, vật liệu mới có giá trị kinh tế cao được sản xuất trên dây truyền công nghệ hiện đại, khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng cao vì vậy việc thực hiện tiết kiệm nguồn nguyên liệu vật liệu cũng có nghĩa là thực hiện có hiệu quả quốc sách tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần làm tăng lợi nhuận, giảm chi phí sản xuất và là động lực cho công tác lập giá dự thầu các công trình trong tương lai.
+ Chính sách huy động các nguồn vốn của Doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh: Các nguồn vốn được xác định gồm có: Vốn chủ sở hữu và vốn vay, trong đó nguồn huy động vốn chủ sở hữu xuất phát từ lợi nhuận để lại và vốn thu hút thêm thông qua phát hành cổ phiếu. Ngoài ra còn có một nguồn khác là vốn viện trợ không hoàn lại của các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ được phân bổ cho doanh nghiệp quản lý. Vốn nợ được huy động từ 2 nguồn chính đó là: Nguồn vốn vay từ các tổ chức tài chính và phát hành trái phiếu doanh nghiệp( Hình thức phát hành trái phiếu doanh nghiệp hiện nay chưa thực hiện ). Vốn dùng trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể được huy động từ các nguồn trong và ngoài nước trên cơ sở sử dụng các công cụ như :
Chính sách lãi suất : Lãi xuất trái phiếu của Chính phủ và lãi xuất tín dụng hạn mức.
Chính sách lãi suất tái đầu tư : Thực chất là việc giảm bớt các khoản chi phí, tiêu dùng hiện tại của doanh nghiệp nhằm thu được nhiều lợi nhuận hơn trong tương lai nhất là trong điều kiện hiện nay của Doanh nghiệp, vấn đề thiếu vốn trong sản xuất kinh doanh là rất lớn cần có chính sách thiết thực để có thể tận dụng tốt hơn khả năng tiềm tàng về vốn. Chính sách khuyến khích tái đầu tư gồm chế độ thuế ưu đãi đối với phần lợi nhuận dùng để tái đầu tư, hỗ trợ thị trường, chính sách tín dụng ưu đãi ...
Chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài: Đây là nguồn vốn quan trọng để bổ sung cho sự thiếu hụt về vốn của doanh nghiệp. Để tăng cường khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài Chính phủ cần tạo sự ổn định trong chính sách phát triển kinh tế, chính sách thuế hấp dẫn, các thủ tục thống nhất và thuận lợi, phát triển cơ sở hạ tầng, thông tin, các dịch vụ tài chính ngân hàng và tới đây là hoạt động của thị trường chính khoán .
Chính sách quản lý ngoại hối: Nhằm quản lý nguồn ngoại tệ, gây tác động tích cực đến tỷ giá hối đoái, tỷ lệ lạm phát và mức độ ảnh hưởng tới khả năng thu hút ngoại tệ và chính sách xuất nhập khẩu ngoại tệ ....
Mở rộng và phát triển các hình thức liên kết kinh tế trong nước và quốc tế nhằm tạo ra và tận dụng triệt để tiềm năng về vốn cho hoạt động của doanh nghiệp.
4- Nâng cao kỹ năng đấu thầu cho đội ngũ cán bộ
Đội ngũ cán bộ chuyên môn hoạt động trong lĩnh vực đấu thầu của Tổng Công ty hiện nay để phù hợp với nhu cầu đòi hỏi của thị trường cũng như sự vận động của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường tại mỗi đơn vị cơ sở đều hình thành một bộ phận chuyên môn hoạt động đấu thầu với mong muốn tìm kiếm cho doanh nghiệp những hợp đồng xây dựng có giá trị. Những bộ phận này tuy mới hoạt động được một thời gian ngắn từ khi mở cửa nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự định hướng của nhà nước, các hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản phát triển mạnh mẽ kèm theo việc tiến hành các hoạt động đấu thầu mua sắm thiết bị, hàng hoá và xây dựng các công trình tại Việt Nam trên cơ sở các thông lệ quốc tế hiện hành tiến tới hoà nhập với thị trường các nước trong khu vực và trên thế giới .
Hoạt động đấu thầu hiện nay đã trở thành phổ biến và hoạt động rất mạnh trên thị trường mua sắm máy móc thiết bị, hàng hoá cũng như xây dựng các công trình phục vụ cho nền kinh tế, xã hội hiện nay. Tại các doanh nghiệp đội ngũ cán bộ đấu thầu cũng làm quen dần với hoạt động đấu thầu xây lắp trong nước và quốc tế trên cơ sở các thể thức và thủ tục đấu thầu quốc tế cùng với những quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, quy chế đấu thầu được nhà nước ban hành nhằm đưa các hoạt động đấu thầu vào thế ổn định tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà thầu đảm bảo quyền lợi cho chủ đầu tư và trách nhiệm của các nhà thầu xây dựng trong quá trình thực hiện hợp đồng. Đây là một bước đi quan trọng cho các nhà doanh nghiệp trong nước có cơ hội để hội nhập với khu vực và thế giới. Để tiến tới mục tiêu này bản thân doanh nghiệp phải có một chính sách đầu tư cụ thể cho đội ngũ cán bộ chuyên môn hiện nay hoạt động trong lĩnh vực đấu thầu với mục tiêu cơ bản và trước mắt là nâng cao kỹ năng đấu thầu của đội ngũ cán bộ chuyên môn tiến tới việc phát huy tối đa hiệu quả công tác đấu thầu của Tổng Công ty nâng cao uy tín và phát huy thế mạnh của doang nghiệp trên thị trường.
Để nâng cao kỹ năng đấu thầu của cán bộ cần quan tâm tới những vấn đề sau:
-Nắm bắt kịp thời các thông tin pháp luật, chính sách của Nhà nước đối với hoạt động đầu tư và đấu thầu dự án các công trình xây dựng nhằm đảm bảo tính pháp lý trong các hồ sơ mời thầu và dự thầu.
-Phải có khả năng nắm bắt, phân tích thông tin kinh tế xã hội nhất là các thông tin trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng. Đây là cơ sở để tìm kiếm thông tin và mở rộng thị trường cũng như những cơ hội để tiếp cận với chủ đầu tư của những dự án trong tương lai tạo tiền đề cho việc khảo sát thiết kế và tìm hiểu môi trường xung quanh trong vấn đề huy động các nguồn lực phục vụ cho thực hiện dự án.
-Khả năng phân tích thông tin thị trường, môi trường hoạt động kinh doanh và phân tích đánh giá các đối thủ cạnh tranh nhất là những đối thủ cạnh tranh trực tiếp và cùng tham gia đấu thầu một dự án( hoặc một gói thầu ) cụ thể nào đó nhằm xác định thế mạnh, điểm yếu của các đối thủ cạnh tranh, trên cơ sở đó tìm ra đối sách trong quá trình chuẩn bị hồ sơ dự thầu và tìm ra phương án áp dụng cho từng dự án cụ thể với khả năng chiến thắng là cao nhất .
-Việc chuẩn bị hồ sơ cho quá trình đấu thầu các dự án là một công việc phức tạp đòi hỏi người cán bộ phải có kỹ năng phân tích thuần thục và đạt được độ tin cậy cao đối với từng nội dung phân tích qua đó có thể lựa chọn được phương án tối ưu cho từng dự án cụ thể trước những yêu cầu của chủ đầu tư được thể hiện thông qua hồ sơ mời thầu. Một hồ sơ dự thầu tốt sẽ là hồ sơ mà phía nhà thầu có trình độ chuyên môn cao, giầu kinh nghiệm và một đội ngũ cán bộ thường xuyên được bồi dưỡng đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn kết hợp với khả năng phân tích đánh giá các chỉ tiêu chính xác, kịp thời.
Kết luận
Công cuộc xây dựng, phát triển và hoàn thiện đối với nèn kinh tế quốc gia trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới đòi hỏi mỗi doanh nghiệp, mỗi thành viên kinh tế phải thật sự nỗ lực và có động cơ phấn đấu vươn lên tự hoàn thiện mình và tập trung nỗ lực đảm bảo cho chính mình có thể đứng vững bằng nội lực của bản thân và đáp ứng được các nhu cầu của xã hội bằng những sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. Cùng với tiến trình phát triển và hội nhập của nền kinh tế quốc gia với kinh tế khu vực và quốc tế thì bản thân mỗi doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế cũng phải có nhiều nỗ lực vươn lên tự hoàn thiện mình và tạo đà phát triển cho bản thân doanh nghiệp bằng nội lực cuả mình trên cơ sở phát huy thế mạnh vốn có đồng thời tiếp nhận những cái mới hiện đại tiên tiến cuả thế giới nhằm khắc phục những điểm yếu của mình. Có như vậy thì công cuộc phát triển và mở rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp mới đạt được hiệu quả như mong muốn .
Hoạt động đấu thầu trong xây dựng cho đến thời điểm này cũng đã trở thành phổ biến đối với các doanh nghiệp xây dựng Việt nam đồng thời đứng về phía Nhà nước cũng đã có những chính sách kịp thời, những văn bản quản lý Nhà nước nhằm tạo ra cho các doanh nghiệp một sân chơi bình đẳng hơn nhưng cũng nhiều thách thức hơn bởi thực tế hiện nay các hoạt động đấu thầu trong nước đứng ở góc độ nào đó cũng đã mang một sắc thái chung theo thông lệ quốc tế mà hiện nay các nước đang sử dụng phổ biến đó là những điều kiện tổng quát của hợp đồng theo điều kiện " FIDIC " .
Cùng với những thay đổi hàng ngày, hàng giờ của Việt nam, hoà nhịp với sự phát triển của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thờikỳ đổi mới và mở cửa, Tổng công ty xây dựng Hà nội chắc chắn sẽ là nhân tố quan trọng cho tiến trình đổi mới của Việt nam.
Trong khuôn khổ một chuyên đề đề cập tới hoạt động đấu thầu của một doanh nghiệp trên thị trường xây dựng tôi hy vọng rằng với những ý kiến phân tích, trên đây sẽ góp một phần nhỏ cho quá trình phát triển của doanh nghiệp trên thị trường trong tương lai phù hợp với tôn chỉ mục đích của doanh nghiệp và đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong tiến trình phát triển kinh tế thương lai .
LờI NóI ĐầU
Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối chính sách đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến vững chắc, cơ chế thị trường đã mở ra cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội mới song cũng đặt ra không ít những khó khăn thử thách phải vượt qua để tồn tại và phát triển. Cơ cấu kinh tế được chuyển đổi từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có định hướng của nhà nước. Cùng với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế đất nước, Việt nam đã và đang từng bước hội nhập với nền kinh tế chung của khu vực và tiến tới hội nhập với toàn cầu.
Lĩnh vực xây dựng cơ bản trên thị trường hiện nay đang thực sự giành được sự quan tâm của Chính phủ cũng như các nhà đầu tư nước ngoài tới thị trường Việt nam khiến cho các hoạt động trong lĩnh vực này ngày càng thêm sôi động hơn, nhất là trong việc tổ chức các hoạt động đấu thầu mua sắm vật tư, hàng hóa, đấu thầu xây lắp. Đây là một hình thức cạnh tranh giữa các nhà thầu cung cấp sản phẩm và dich vụ của mình cho khách hàng .
Đấu thầu là một hoạt động đã có từ lâu và được sử dụng rộng rãi trên thế giới nhưng đối với Việt nam hình thức này mới được đưa vào áp dụng trong thời gian ngắn do đó các nhà thầu Việt nam không tránh khỏi việc gặp phải những khó khăn, vướng mắc trong các hoạt động của mình. Được sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, thông qua các văn bản pháp luật và các nghị định kèm theo cùng các quy chế chính sách thực hiện đối với hoạt động đấu thầu, hoạt động đấu thầu ở Việt nam đã từng bước được hoàn thiện tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt nam có cơ hội tham gia đấu thầu quốc tế theo đà phát triển kinh tế và hội nhập với nền kinh tế quốc tế.
Với tính chất là một phương pháp phổ biến và có hiệu quả cao, đấu thầu ngày càng được nhìn nhận như một điều kiện thiết yếu để đảm bảo thành công cho các nhà đầu tư (chủ dự án ) dù họ thuộc khu vực nhà nước hay khu vực tư nhân. Trong bối cảnh hiện nay các nhà thầu xây dựng, cung ứng thiết bị không thể không áp dụng phương pháp đấu thầu nếu họ muốn giành được những hợp đồng đáng kể từ các dự án đầu tư tầm cỡ. Sự tham gia của Tổng công ty xây dựng Hà nội trong lĩnh vực xây dựng cũng rất cần sự áp dụng triệt để và linh hoạt phương pháp đấu thầu nhằm cạnh tranh và phát huy những thế mạnh của mình.
Với luận văn này em xin đề cập tới một số hoạt động trong hoạt động đấu thầu tại một doanh nghiệp nhà nước trước những cơ hội và thách thức của thị trường mà số lượng các đối thủ cạnh tranh là rất lớn đòi hỏi doanh nghiệp phải phát huy hết năng lực của mình để tồn tại và phát triển. Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết đã được học ở trường và qua thời gian thực tập, tìm hiểu thực trạng hoạt động đấu thầu tại Tổng công ty xây dựng Hà nội, cùng với việc nghiên cứu các nguồn sách báo và tài liệu tham khảo khác Em xin chọn đề tài luận văn của em là “Một số biện pháp đẩy mạnh công tác đấu thầu tại Tổng công ty xây dựng Hà nội”.
KếT CấU LUậN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành 3 chương:
Chương I : Những lý luận cơ bản về công tác đấu thầu.
Chương II : Thực trạng tình hình công tác đấu thầu tại Tổng công ty xây dựng Hà nội.
Chương III : Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động đấu thầu các công trình xây dựng của Tổng công ty xây dựng Hà Nội.
Do hạn chế về thời gian thực tập, tài liệu tổng kết và thống kê chưa đầy đủ, trình độ và kinh nghiệm công tác của bản thân chưa nhiều, nên chắc chắn luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót khi phân tích. Vì vậy, em rất mong được sự chỉ bảo và đóng góp ý kiến của các thầy cô và từ phía công ty để đề tài nghiên cứu được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình đấu thầu - Trường đại học quản lý kinh doanh Hà Nội.
2. Giáo trình quản trị kinh doanh - Trường Đại học kinh tế quốc dân- 1998
3. Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999
4. Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999
5. Các tài liệu tạp chí xây dựng, các bản tin xây dựng, các thông tin hướng dẫn của Chính phủ- Các bộ ngành Trung ương.
6. Cẩm nang hướng dẫn Quản lý đầu tư xây dựng và đấu thầu- Nhà xuất bản TP.HCM – 1998
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34251.doc