Trải qua những khó khăn với định hướng kinh doanh đúng đắn với bản lĩnh dầy dặn trên thương trường và những cố gắng không ngừng nâng cao, học hỏi công ty Dệt Kim Đông Xuân đang tiếp tục vươn mình ra thị trường thế giới. Nhiều cơ hội thuận lợi mới đang mở ra nhưng công ty Dệt Kim Đông Xuân có tận dụng được hay không đó là điều còn phụ thuộc vào công ty.
Bài viết này chỉ nằm trong khuôn khổ của một bản báo cáo chuyên đề nhằm áp dụng những kiến thức đã tiếp thu trong quá trình học tập và thực tiễn sản xuất kinh doanh tại cơ sở thực tập song em hy vọng sẽ đóng góp một vài ý kiến có ích cho công ty.
115 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1562 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh hàng dệt kim trong hoạt động xuất khẩu của công ty Dệt Kim Đông Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngừng trệ trong chờ phương tiện vận tải và bị trì trệ trên đường đi. Hoạt động còn liên quan đế nhiều vấn đề khác nữa và sự thành công của từng thương vụ kinh doanh đều có tác động của các yếu tố đó, vì thế công ty luôn cố gắng đảm bảo mọi mối quan hệ. Với các mối quan hệ đó bảo đảm cho công ty có khả năng duy trì và phát triển hơn nữa hoạt động xuất khẩu của mình.
Có được những thành công trong sản xuất kinh doanh mà đặc biệt là nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu đòi hỏi công ty phải có sự kết hợp hài hoà các biện pháp nêu trên. Tuỳ thuộc vào mục tiêu kinh doanh của từng đối thủ mà có sự linh hoạt trong việc áp dụng và dành sự ưu tiên cho các biện pháp.
2.6 nhận xét chung về khả năng cạnh tranh hàng dệt kim xuất khẩu của công ty Dệt Kim Đông Xuân.
2.6.1. Những mặt mạnh, mặt yếu của công ty.
2.6.1.1. Những mặt mạnh của công ty.
Công ty Dệt Kim Đông Xuân là một đơn vị hạch toán độc lập hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu từ lâu. đội ngũ cán bộ công nhân viên đã có nhiều nam kinh nghiệm trong hoạt động xuất khẩu. Mặt khác đội ngũ này hầu hết là những người có trình độ đại học và trên đại học thuộc các ngành kinh tế, ngoại thương, ngoại ngữ... và chiếm gần 80% tổng số cán bộ trong công ty. Đây chính là những lợi thế tốt cho hoạt động xuất khẩu vì nó đảm bảo cho nghiệp vụ xuất nhập khẩu và trình độ ngoại ngữ phục vụ cho việc giao tiếp, trao đổi, đàm phán với các đối tác, khách hàng, bạn hàng...
Công ty có quy mô nhỏ, với bộ máy quản lý gọn nhẹ, tương đối đầy đủ các phòng ban, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cần thiết do có đội ngũ cán bộ công nhân viên được đào tạo bài bản, có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, nên công ty tỏ ra rất năng động trong việc kinh doanh cũng như khi ra các quyết định. Với việc quyết định nhanh chóng, kịp thời, công ty có thể tiến hành nhanh các đơn hàng, nhất là các đơn hàng không lớn lắm. Đây là một lợi thế cạnh tranh của công ty so với các công ty khác.
Vì công ty đã sản xuất kinh doanh nhiều năm trên thị trường thế giới nên công ty có quan hệ lâu đời với bạn hàng, nhất là với đối tác Nhật Bản.
Là doanh nghiệp dệt kim đầu tiên xuất khẩu sản phẩm hoàn chỉnh (từ nghiên cứu thiết kế, dệt đến cắt may, bao bì hoàn chỉnh) sang thị trường Nhật, với số lượng ngày một tăng. Uy tín về chất lượng, mẫu mã sản phẩm và thời hạn giao hàng của công ty Dệt Kim Đông Xuân đã làm chobạn hàng Nhật rất tin cậy. Do đó, sau khi kết thúc giai đoạn 10 năm hợp tác sản xuất (1989-1999), phía khách hàng Nhật bản tiếp tục kéo dài thời gian hợp tác sản xuất với công ty Dệt Kim Đông Xuân 10 năm nữa đến 2009, việc kéo dài thời hạn hợp tác lần một phần thưởng xứng đáng cho cách làm ăn đúng đắn, hiệu quả của công ty với người tiêu dùng Nhật Bản và là cơ sở để doanh nghiệp phát triển ổn định. Đồng thời thông qua thoả thuận hợp tác, công ty Dệt Kim Đông Xuân tiếp thu được công nghệ, đúc rút kinh nghiệm, trình độ quản lý tiên tiến của Nhật Bản.
Ngoài Nhật Bản là khách hàng truyền thống lớn tì công ty Dệt Kim Đông Xuân liên tục mở rộng quan hệ với khách hàng ở nhiều thị trường quan trọng như ở khu vực Đông Nam á và Tây - Bắc Âu và cả thị trường Mỹ.
Công ty có ưu thế trong việc xuất khẩu các mặt hàng dệt kim như: đồ lót, áo phông cổ tròn, áo phông có cổ, quần áo trẻ em, quần áo bệnh viện... vì đó là mặt hàng truyền thống của công ty qua nhiều năm đã được thị trường chấp nhận.
* Chất lượng:
Trong những năm qua mặc dù ở Việt Nam hiện đã có thểm nhiều doanh nghiệp tham gia sản xuất dệt kim lớn như Dệt may Thành Công, dệt may Hà Nội, dệt Nha Trang, dệt Huế, Dệt Hải Phòng nhưng công ty Dệt Kim Đông Xuân vẫn là doanh nghiệp duy nhất có sông nghệ xử lý hàng dệtkim 100% cotton bông chất lượng cao sản phẩm của công ty có uy tín cao với người tiêu dùng trong và ngoài nước với nhãn hiệu DOXIMEX bởi luôn đột páh đầu tư các thiết bị hiện đại, xử lý liên tục, có công nghệ mới nhất (phòng co, siêu mềm... sản phẩm được xử lý chống vi khuẩn chống mùi hôi, bảo vệ da...)
* Về mẫu mã:
Công ty đã có phòng kỹ thuật với đội ngũ cán bộ công nhân viên giàu kinh nghiệm, nhiệt tình và có trình độ nên sản phẩm cũng có những đổi mới nhất định để đi sát nhu cầu thị trường, công ty cũng đã đầu tư cho việc nhập khẩu cả những bản thiết kế mẫu mốt. Một số hàng hoá nếu công ty không tự tạo được kiểu dáng thì làm theo yêu cầu của khách hàng ở mức độ chính xác cao.
* Về mức giá cạnh tranh:
Giá cả hàng hoá của công ty luôn tương đối ổn định và có sự linh hoạt đối với các đối tượng khách hàng khác nhau nên dễ dàng được khách hàng chấp nhận. Cùng với việc nâng cao chất lượng công ty luôn cố gắng hạ giá thành sản phẩm nhờ tăng năng suất máy móc thiết bi, tìm một số nguồn nguyên liệu trong nước rẻ hơn so với nhập khẩu từ nước ngoài.
*Về thị trường xuất khẩu:
Công ty đã có thêm thị trường mới là Mỹ một thị trường to lớn đầy tiềm năng. Còn với thị trường truyền thống thì tiếp tục được giữ vững và quan hệ hợp tác tốt đẹp.
2.6.1.2 Những mặt yếu.
Công ty nghiên cứu mốt của công ty chưa được chú ý thường xuyên do công ty hầu hết làm theo mẫu mốt mà khách hàng đặt. Nên yêu cầu thực tế chưa bức xúc khiến công ty đầu tư nhiều cho công tác này.
Công ty Dệt Kim Đông Xuân là công ty hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất và xử lý hàng dệtkim 100% cotton, nhưng năng lực sản xuất của công ty vẫn chưa đáp ứng được các đơn đặt hàng của khách hàng nên có lúc không kịp thời hạn giao hàng. Có lúc khách hàng cần gấp do thời vụ thì cơ hội này lại bị lỡ mất vì họ không thể chờ công ty được và đã mua hàng của công ty khác. Đây là điều đáng tiếc cho công ty mà công ty cần chú ý hơn nữa.
* Thị trường trường còn hạn hẹp:
Trong những năm qua nhất là năm 2000 đến năm 2002 kim ngạch xuất khẩu của công ty giảm tuy không mạnh mẽ nhưng là dấu hiệu đáng lo ngại và cần được xem xét khi mà chất lượng hàng hoá của công ty hơn hẳn các đối thủ cạnh tranh.
Nguyên nhân: các đối thủ cạnh tranh xuất hiện trên thị trường xuất khẩu hàng dệt kim ngày một tăng, cả đối thủ trong và ngoài nước. Mặt khác, thị trường nhập khẩu hàng may mặc đang dần tự do hoá hạn ngạch nên việc phân bổ hạn ngạch cho từng nước là không còn nữa, vì thế với những đối thủ mạnh có nhiều ưu thế về sản phẩm thì khả năng thâm nhập thị trường và tăng thị phần là đáng kể.
* Phân đoạn thị trường còn yếu mới chỉ đáp ứng được nhu cầu của thị trường có yêu cầu về chất lượng hàng hoá là trung bình.
Hiện nay, công ty mới chỉ xuất khẩu những hàng hoá có chất lượng trung bình cho các thị trường trong khi đó các nước có mức sống, thu nhập ngày càng tăng lên. Những thị trường cao cấp đang cótiềm năng thì công ty chưa đáp ứng được.
Nguyên nhân: do thực tế các đơn đặt hàng đến với công ty quá nhiều mà đôi khi công ty không đáp ứng được nên công tác nghiên cứu và phân đoạn thị trường để tạo ra việc làm cho cán bộ công nhân viên chưa được chú ý nhiều. Hơn nữa chi phí cho công tác nghiên cứu thị trường cũng tương đối nhiều.
*Thời hạn giao hàng và số lượng của hàng hoá theo đơn hàng nhiều lúc không đúng theo hợp đồng.
Nguyên nhân: dây chuyền thiết bị máy móc của công ty phần lớn do nhật Bản cung cấp nhưng khi chuyển giao công nghệ cho công ty đi vào sản xuất thì xuất hiện nhiều vấn đề trục trặc trong khâu vận hàng hoặc làm chủ dây chuyền thiết bị, năng suất thực tế của công ty không thể đáp ứng được những đơn đặt hàng với số lượng lớn.
2.6.2. những cơ hội và thách thức của công ty.
2.6.2.1 Những cơ hội.
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN từ năm 1995, trong thời gian tới sẽ gia nhập WTO và được hưởng quy chế tối huệ quốc của Hoa Kỳ (một trong những đối tác quan trọng đối với Việt Nam trong quan hệ làm ăn kinh tế). Tuy nhiên đến nay các lợi thế trong chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) mà Việt Nam gia nhập từ 1996 vẫn chưa được các doanh nghiệp Việt Nam khai thác hết. Năm nay chúng ta sẽ gia nhập AFTA, đây là cơ hội không chỉ với công ty Dệt Kim Đông Xuân mà còn đối với bất kỳ một doanh nghiệp Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu, có điều kiện làm ăn với các đối tác nước ngoài.
Hiệp định thương mại Việt Mỹ đã được ký kết, mở ra những cơ hội mới cho ngành dệt may Việt Nam nói chung và công ty Dệt Kim Đông Xuân nói riêng. Từ giờ, thuế quan nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam vào Mỹ sẽ được xoá bỏ nên công ty có thể tự do khẳng định mình trên thị trường đầy tiềm năng nhưng cũng đầy chông gai này.
Công ty luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo, sự hỗ trợ mạnh mẽ từ phía các Ban trong Tổng công ty và sự giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan hữu quan về các mặt như vốn, thông tin, hỗ trợ triển lãm và sựhỗ trợ của chính phủ về các chính sách hỗ trợ xuất khẩu.
2.6.2.2 Những thách thức.
Một khó khăn chung mà mọi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng may mặc nói chung hiện nay là có một biểu hiện vủa việ mất dần lợi thế khi chi phí lao động ngày một nâng cao, mặt khác nhu cầu của thị trường hàng hoá đối với hàng may mặc nói chung và hàng dệt kim nói riêng ngày càng khắt khe hơn mà công ty cần phải đáp ứng kịp thời. Nhưng để đáp ứng được công ty lại phải phụ thuộc và mức độ tiên tiến và hiện đại trình độ tay nghề của công nhân may.
Đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước đều rất lớn và sự gia tăng nhanh chóng của các đối thủ cạnh tranh mới trong thị trường hàng may mặc mà mặt hàng dệt kim cũng không nằm ngoài sự cạnh tranh này.
Hiện nay, hàng dệt kim của công ty chịu sự cạnh tranh rất mạnh mẽ từ các nước như Trung Quốc, các nước ASEAN, các nước bản xứ mà công ty xuất khẩu và nhiều nước đang phát triển. Tuy nhiên đáng sợ hơn cả là hàng Trung Quốc vì nó là nước có kim ngạch xuất khẩu hàng dệt kim hàng đầu thế giới và Trung Quốc lại là thành viên của WTO nên Trung Quốc sẽ đượcbỏ hạn ngạch về xuất khẩu và do đó khả năng cạnh tranh của Trung Quốc càng lớn mạnh.
Một số thị trường xuất khẩu chủ yếu như EU, Canada... đang tự do hoá dần hạn ngạch, nhiều hiệu hàng hoá mới (Cat) đang được thả nổi mà cũng không cần có khách. Các thị trường phi hạn ngạch khác cũng cạnh tranh quyết liệt về giá nên cũng ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu của công ty.
Quy định chặt chẽ theo thông lệ quốc tế và những đòi hỏi của khách hàng về chất lượng, mẫu mã sản phẩm và dịch vụ sau bán hàng. Luật pháp một số quốc gia quy đinh rất chặt chẽ về hàng hoá, đặc biệt là về tiêu chuẩn kỹ thuật, về xuất xứ hàng hoá buộc công ty phải điều chỉnh cho phù hợp.
Chương 3: một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu của công ty Dệt Kim Đông Xuân
3.1 phương hướng nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty trong thời gian tới.
3.1.1. Định hướng phát triển của ngành dệt may tới năm 2010.
Sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới. Đi lên từ một nước nghèo, sau một thời gian thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam vẫn đang là mọt ngành đem lại nhiều lợi thế. Chính vì vậy, mặt hàng may mặc được xem là một mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở nước ta và trong tương lai đây sẽ là mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (năm 2000 kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may đạt 1,815 tỷ USD, đứng thứ hai trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước sau dầu thô). Mặt khác, văn kiện đại hội Đảng lần thứ IX, khi đề cập đến vấn đề định hướng phát triển kinh tế đối ngoại có nói: "Tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước trong 5 năm 2001 - 2005 đạt khoảng 114 tỷ USD, tăng 16%/năm. Nhóm hàng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chiếm 70% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng bình quân hàng năm là 15,9%; trong đó, nhóm hàng công nghiệp tiêu dùng và tiẻu thủ công nghiệp chiếm 43% kim ngạch xuất khẩu công nghiệp, tăng bình quân hàng năm là 22%". Đồng thời trong định hướng phát triển công nghiệp, ngành dệt may là một trong số những ngành được quan tâm nhiều và Văn kiện có nói: chú trọng tìm kiếm và mở rộng thêm thị trường trong nước, nước ngoài nhờ đầu tư vào sản xuất xơ, sợi, nguyên liệu, phụ liệu để nâng cao giá trị gia tăng các sản phẩm xuất khẩu. Với tầm quan trọng như trên của ngành dệt may với những chỉ tiêu, định hướng phát triển công nghiệp, định hướng đẩy mạnh xuất khẩu của Văn kiện đại hội Đảng lần thứ IX nên trong chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may nước ta đến năm 2010, Đảng và Nhà Nước ta đã xác định rõ là lấy mục tiêu xuất khẩu làm trọng tâm. Với mục tiêu đó, từ việc phân tích thực trạng, tiềm năng và xu hướng phát triển công nghiệp may mặc Việt Nam trong những năm tới, Tổng công ty dệt may Việt Nam đưa ra các chỉ tiêu có tính chất định hướng phát triển ngành công nghiệp may mặc cho toàn ngành như sau:
- Đáp ứng đầy đủ và kịp thời các nhu cầu phong phú và đa dạng của dân cư trong mỗi giai đoạn cụ thể, với mức tiêu thụ 3 kg vải/ người năm 2005 và 3,6 kg vải/người vào năm 2010 và các nhu cầu cho toàn ngành an ninh quốc phòng.
- Toàn ngành có mức tăng trưởng 13%/năm (vào năm 2005) và 14%/năm (vào năm 2010).
- Tạo công ăn việc làm cho khoảng2,5 - 3 triệu lao động xã hội vào năm 2005; 4- 4,5 triệu lao động xã hội vào năm 2010 với mức thu nhập bình quân khoảng 100USD/người/ tháng.
- Nâng cao trình độ công nghệ đạt mức tiên tiến của khu vực hiện nay và năm 2010 thì tương đương với Hồng Kông và Thái Lan hiện nay.
- Sản xuất vải thành phẩm đạt 1330 triệu m2 vào năm 2010.
Kim ngạch xuất khẩu đạt 5000 triệu USD năm 2005 và 8000 triệu USD năm 2010.
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Năm 2005
Năm 2010
1
Vải thành phẩm.
Triệu m2
1330
2000
2
Sản phẩm dệt kim.
- Xuất khẩu.
- Nội địa
Triệu SP
"
"
150
110
40
210
150
60
3
Sản phẩm may mặc.
- Xuất khẩu.
- Nội địa
Triệu SP
"
"
780
510
270
1200
820
380
4
Loại khác.
- Bông xơ.
- Xơ sợi tổng hợp.
- Sợi các loại.
1000 tấn
"
"
"
30
100
150
95
130
300
5
Kim ngạch xuất khẩu.
- Hàng may mặc.
- Hàng dệt.
Triệu USD
"
"
5000
3200
1800
8000
6000
2000
6
Tỷ lệ nội địa hoá trên sản phẩm may
%
50
75
3.1.2 Phương hướng nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt kim của Công ty Dệt Kim Đông Xuân.
Công cuộc cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của Công ty trong tương lai ngày càng có nhiều khó khăn, thách thức. Để đứng vững trong guồng quay liên tục của nền kinh tế thị trường hiện nay và nhất là trong hoạt động xuất khẩu hàng may mặc thì Công ty cần có những phương hướng cụ thể nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Nhìn lại những gì mình đã đạt được qua những hướng đi, việc làm cụ thể trong những năm qua, tình hình cạnh tranh hàng may mặc trong hoạt động xuất khẩu trên thị trường hiện tại và tiềm năng nội lực của mình Công ty sẽ lấy đó làm cơ sở để đưa ra những phương hướng để nâng cao khả năng cạnh tranh mới cho những năm tiếp theo.
Khả năng cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp như chúng ta đã biết là phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố nên Công ty cần quan tâm đến tất cả những yếu tố đó tuy nhiên mức độ quan trọng của chúng là không giống nhau.
Thứ nhất, về chất lượng hàng Dệt Kim xuất khẩu trong thời gian tới Công ty sẽ tiếp tục nâng cao để ngày càng phù hợp hơn với nhu cầu của khách hàng, tạo ra lợi thế mạnh về chất lượng so với các đối thủ trong nước và cố gắng theo kịp một số đối thủ mạnh trên thị trường xuất khẩu. Hiện nay chất lượng sản phẩm hàng Dệt Kim xuất khẩu của Công ty mặc dù đã tương đối cao, đã đáp ứng được yêu cầu của thị trường EU, Nhật Bản- là những thị trường khó tính và có yêu cầu về chất lượng sản phẩm caoc. Sở dĩ Công ty có đưa ra mục tiêu như vậy vì ngày nay khi đang tiến dần vào thị trường tự do hoá, chất lượng sản phẩm được xem là lợi thế cạnh tranh cơ bản, là chìa khoá để đảm bảo hội nhập vững chắc vào thị trường thế giới và khu vực.
Thứ hai: cùng với việc nâng cao chất lượng thì yếu tố mẫu mốt cũng là một nhân tố tạo ra sức cạnh tranh mạnh mẽ cho hàng hoá của Công ty trên thị trường thế giới. Vì vậy, để việc nghiên cứu mẫu mốt phát triển thực sự trở thành vũ khí cạnh tranh sắc bén Công ty đã có kế hoạch tập trung cho công tác này như tuyển thêm cán bộ làm thiết kế, tạo mẫu, mua sắm thêm một số máy móc, thiết bị phục vụ cho việc thiết kế mẫu. Công ty đang hướng tới việc tạo ra những sản phẩm mang thương hiệu riêng của Công ty, có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, được nhiều khách hàng ưa thích. Phát triển tốt công tác này là một điều kiện giúp Công ty tiếp tục duy trì vị trí và uy tín, giảm bớt sự phụ thuộc việc khách đặt hàng nước ngoài. Nhờ đó có thể nâng cao khả năng kinh doanh của Công ty, nhanh chóng chuyển sang xuất khẩu trực tiếp.
Thứ ba: nếu như việc nâng cao chất lượng hàng hoá, không ngừng thay đổi mẫu mã hàng hoá kéo theo việc nâng cao giá bán hàng hoá thì hai việc làm trên thực sự là đạt hiệu quả chưa cao. Nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mốt không hẳn đồng nghĩa với việc nâng cao giá. Yếu tố giá cả là một yếu tố rất nhạy bén với rất nhiều khách hàng nên Công ty phải đưa ra mức giá có tính cạnh tranh trên thị trường. Yếu tố này có tính chất tổng hợp vì nó liên quan đến nhiều khâu, nhiều công đoạn từ sản xuất đến tiêu thụ hàng hoá. Công tác nhập khẩu được chú ý nhiều hơn để có được một số loại nguyên liệu, phụ liệu, thuốc nhuộm, hoá chất mà trong nước không có hoặc có giá bán cao để phục vụ cho việc gia công hàng xuất khẩu. Thành tựu chung của việc làm này là để có được những hàng hoá khi dưa ra thị trường có giá cả phù hợp với chất lượng, phù hợp với nhu cầu của khách hàng và có khả năng trở thành một vũ khí cạnh tranh tốt cho Công ty.
Thứ tư: đẩy mạnh công tác xúc tiến, tiếp thị để giữ khách hàng truyền thống và thu hút thêm khách hàng mới thông qua việc thiết lập trang Web của Công ty có nội dung phong phú về thông tin, có hình thức trình bày đẹp, dễ thu hút sự chú ý của khách hàng. Hàng năm Công ty sẽ trích ra một phần kinh phí hỗ trợ cho các đoàn đi tham gia hội trợ triển lãm ở trong nước hoặc nước ngoài để giới thiệu chào bán hàng hoá. Ngoài ra, Công ty sẽ đẩy mạnh công tác thị trường, phát triển mạng lưới thông tin để có được những thông tin cần thiết về nhu cầu thị hiếu khách hàng, về tình hình biến động của thị trường xuất khẩu, về các chủ trương, chính sách của chính phủ liên quan đến hoạt động xuất khẩu hàng may mặc một cách nhanh chóng, cập nhật nhất.
Thứ năm: tiếp tục đảm bảo cung cấp hàng hoá cho khách hàng theo đúng hợp đồng về số lượng, chất lượng, mẫu mã, thời gian, địa điểm giao hàng. Tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong việc vận chuyển, thanh toán. Những việc làm này sẽ tạo ra tâm lý thoải mái, tin tưởng cho khách hàng khi làm việc với Công ty, từ đó có thể nâng cao niềm tin, uy tín, hình ảnh của Công ty với khách hàng - đây là một trong những yếu tố nhằm giữ khách hàng truyền thống và lôi kéo khách hàng mới cho Công ty.
Thứ sáu: để nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của Công ty, cùng với việc làm trên đây công tác tài chính của Công ty cần được chú trọng hơn nhằm cân đối hợp lý các quỹ, nguồn vốn và chi phí để ưu tiên phục vụ mục tiêu mũi nhọn của Công ty trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
3.2 Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty Dệt Kim Đông Xuân.
3.2.1 Về phía Công ty.
3.2.1.1 Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động Marketing, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì hoạt động Marketing càng giữ vai trò quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên thị trường. Nếu hoạt động Marketing được đẩy mạnh và phát triển thì cũng có nghĩa là khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng được tăng cường. Mặt khác, hiện nay đang là thời điểm mà nghành may mặc đang có sự phát triển mạnh, các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu ngày càng gia tăng thì cục diện cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Bởi vậy, đẩy mạnh Marketing là vấn đề cấp thiết, nhất là đối với một Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu như Công ty xuất nhập khẩu Dệt Kim Đông Xuân. Trong thời gian qua hoạt động này đã được thực hiện nhưng còn đơn giản do phòng nghiệp vụ quản lý nhưng để theo kịp với tình hình cạnh tranh hiện nay thì hoạt động này cần được quan tâm nhiều hơn nữa.
a. Tổ chức hoạt động nghiên cứu thị trường nhằm xác định nhu cầu thị hiếu khách hàng.
Tổ chức tốt hoạt động nghiên cứu thị trường nhằm xác định nhu cầu, thị hiếu khách hàng là một nhiệm vụ tất yếu mà mỗi công ty nói chung và Công ty Dệt Kim nói riêng cần thực hiện, nhất là trong giai đoạn cạnh tranh ngàycàng gay gát này.
Trong nền kinh tế hàng hoá thì thị trường là nơi đánh giá cuối cùng sản phẩm của nhà sản xuất, hàng hoá của nhà kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của họ. Do đó để tồn tại và phát triển thì việc đầu tiên doanh nghiệp phải làm là làm tốt công tác nghiên cứu thị trường để có thểtung ra những sản phẩm, hàng hoá mà thị trường cần. Hoạt động này giúp doanh nghiệp nắm bắt nhu cầu và các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu, gía cả, dung lượng của thị trường. công ty hiện nay đang đứng trước sự cạnh tranh gay gắt trong hoạt động xuất khẩu đối với cả các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Vì vậy, trong thời gian tới công ty phải tổ chức tốt nghiên cứu và khai thác tốt cả thị trường hiện tại lẫn thị trường tiềm năng. Cụ thể, để chiếm lĩnh thị trường, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng với gía cả hợp lý, chất lượng phù hợp cho từng vùng lãnh thổ, từng quốc gia công ty cần tập trung vào việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu. Vì vậy để nắm bắt được tình hình thị trường nước ngoài, công ty cần tiến hành mở các văn phòng đại diện ở nước ngoài và cử đại diện ở các nước có mối quan hệ làm ăn với Công ty điều tra nhu cầu các thị trường đó, tạo ra các mẫu mốt ăn khách, hợp thị hiếu người tiêu dùng.
Tuy nhiên, để thực hiện được việc trên không phải là đễ dàng vì nó khá tốn kém và phức tạp. Vì thế công ty có thể nghiên cứu thị trường một cách gián tiếp hay còn gọi là nghiên cứu tại bàn những nhu cầu, thị hiếu đó. Thông qua một số phong tục, tập quán trong cách ăn mặc, về nền văn hốa của đất nước sẽ giúp ta có thể hình dung được quan niệm về thời trang trong con mắt của họ. Cộng thêm vào đó là các tạp trí thời trang của họ để nhận thấy xu hướng về cách ăn mặc trong thời gian tới. Hiện nay hệ thống Internet rất phát triển nên việc nghiên cứu khách hàng qua mạng là rất đơn giản và ít tốn kém. Qua các thông tin về khách hàng đã thu thập được từ những nguồn trên công ty có thể nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng cũ, đồng thời tìm thêm được một số khách hàng mới mà nhu cầu của họ công ty có thể đáp ứng được. Những mặt hàng truyền thống bao giờ cũng là những mặt hàng trọng điểm nhưng qua nghiên cứu công ty cần nhạy bén hơn để đưa ra những sản phẩm mới mà thị trường có nhu cầu và khả năng của công ty có thể đáp ứng được. Ngoài ra cần nghiên cứu để dự báo nhu cầu đối với từng loại mặt hàng như quần áo lót, áo T- shirt, áo sơ sinh, áo bênh viện. Để việc nghiên cứu thị trường được thực hiện tốt, công ty nên thường xuyên cử các đoàn đi tham gia hội chợ triển lãm để tìm kiếm thêm các đối tác mới, tạo quan hệ mật thiết với các bạn hàng quen thuộc. Đồng thời, công ty nên vân dụng lợi thế về vị trí địa lý của mình là nằm trên địa bàn thủ đô, gần với các văn phòng đại diện, sứ quán nên có thể cử các cán bộ của mình đến tận nơi chào hàng va gặp gỡ thương vụ của các nước nhằm tìm hiểu nhu cầu của họ. Ngoài ra công ty nên thông qua các trung tâm tư vấn của nghành, trung tâm thương mại công nghiệp để có những lời khuyên và môi giới về sản phẩm mới, kiểu cách mới, đối tác mới, thị trường mới.
Hoạt động nghiên cứu thị trường còn phải thu thập được những thông tin phản hồi của khách hàng về hàng hoá của công ty mình về tất cả các yếu tố như chất lượng, giá cả, mẫu mã, các phương thức thanh toán, giao hàng, dịch vụ trước, trong và sau khi bán... những thông tin này là một tài liệu rất quý cho công ty, vì từ đây công ty có thể biết được những mặt tốt lẫn khuyết điểm của mình và lấy đó làm căn cứ để lần sau có thể sửa chữa, giúp cho những sản phẩm sau được hoàn thiện hơn.
b. Nghiên cứu, phân tích đối thủ cạnh tranh
Nghiên cứu, phân tích, đánh giá đối thủ cạnh tranh là công việc hết sức quan trọng mang tính chiến lược của bất kì một doanh nghiệp nào khi tham gia sản xuất kinh doanh trên thị trường vì qua đó có thể thấy được khả năng cạnh tranh hiện tại của chính công ty so với các đối thủ. Nghiên cứu, phân tích đối thủ cạnh tranh phải trả lời được các vấn đề sau:
+ Số lượng đối thủ cạnh tranh của công ty là bao nhiêu?
+ Đối thủ cạnh tranh chính của công ty là ai?
+"Thủ lĩnh”trên thị trường là ai? Và lý do thành công của họ
+ Thị phần của họ trên thị trường là bao nhiêu?
+ Các yếu tố: chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, phương pháp quảng cáo, dịch vụ của họ có khác gì công ty mình?
+ Mục tiêu của đối thủ cạnh tranh là gì?
+ Điểm mạnh, điểm yếu của họ?
+ Các biện pháp mà họ áp dụng để thâm nhập thị trường và mở rộng?
Có thể hình dung rõ hơn việc phân tích đối thủ cạnh tranh qua sơ đồ sau đây: ( trang sau).
Điều gì đối thủ cạnh Điều gì đối thủ cạnh tranh
tranh muốn đạt tới? đang làm và có thể làm được?
Mục đích tương lai Chiến lược hiện tại
tất cả các cấp quản lý Doanh nghiệp hiện đang
và đa chiều cạnh tranh như thế nào?
Vài vấn đề cần trả lời về đối thủ cạnh tranh
- Đối thủ có bằng lòng với vị trí hiện tại không ?
- Khả năng đối thủ chuyển dịch và đổi hướng
chiến lược như thế nào?
- Điểm yếu của đối thủ cạnh tranh là gì?
- Điểm gì có thể giúp đối thủ cạnh tranh trả đũa
một cách mạnh mẽ và hiệu quả nhất?
Nhận định Các tiềm năng
ảnh hưởng của nó và Cả mặt mạnh và mặt yếu
nghành công nghiệp
Sơ đồ: Các khía cạnh phân tích về đối thủ cạnh tranh
Từ những phân tích, đánh giá đối thủ cạnh tranh Công ty sẽ có được cáI nhìn tổng quát hơn về đối thủ cũng như chính bản thân mình và qua đó Công ty sẽ đưa ra được những chiến lược sáng suốt, hợp lý phục vụ tốt cho hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh.
c. Đẩy mạnh hoạt động khuếch trương quảng cáo
Các hoạt động xúc tiến, khuếch trương bao gồm các nội dung như:
Quảng cáo các hoạt động yểm trợ, xúc tiến bán hàng, hội chợ triển lãm... được sử dụng để thông tin về hàng hoá nhằm lôi kéo khách hàng về phía mình, giới thiệu về công ty, nâng cao uy tín của công ty. Các hoạt động hỗ trợ bán là một trong những hoạt động quan trọng trong chính sách cạnh tranh của một doanh nghiệp vì đây không chỉ là biện pháp hỗ trợ mà nó còn tăng cường cho các chính sách giá cả, phân phối... nhằm tăng sức cạnh tranh của một doanh nghiệp trên thị trường. Chi phí cho hoạt động quảng cáo xúc tiến thường rất lớn song hiệu quả của quá trình kinh doanh tăng lên rõ rệt. Do vậy, bất kỳ một doanh nghiệp nào tham gia thị trường cạnh tranh đều phải xây dựng những chương trình quảng cáo hấp dẫn nhằm thu hút sự chú ý, gây ấn tượng cho khách hàng. Đây chính là những cuộc cạnh tranh phi giá giữa các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh trên thị trường. Công ty Dệt Kim Đông Xuân có thể tiến hành các hoạt động khuếch trương theo các hướng sau:
Mở rộng hoạt động quảng cáo cho những sản phẩm của Công ty, đặc biệt là những sản phẩm mang nhãn hiệu đặc biệt. Hoạt động quảng cáo được thực hiện nhằm tạo ra sự chú ý của khách hàng và thông tin cho khách hàng biết về sản phẩm của mình. Công ty cần xây dựng những chương trình quảng cáo hấp dẫn, kích thích sự chú ý của khách hàng thông qua các phương tiện thông tin như báo chí, mạng Internet... nhằm giới thiệu cho các đối tượng khách hàng hiểu rõ về sản phẩm và danh tiếng của công ty. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động mang tính chất quốc tế, khách hàng là những người ở những quốc gia khác nhau nên việc quảng cáo là rất khó, công ty phải lập trang web phục vụ cho công tác quảng cáo. Đối với những khách hàng đã từng biết đến công ty thì việc quảng cáo qua mạng mới có hiệu quả, còn đối với khách hàng mới chưa hề biết đến tên tuổi, hàng hoá của công ty thì trang web của công ty chưa chắc được họ quan tâm. Vì lý do đó, công ty nên quảng cáo các sản phẩm của mình qua cách trình bày trên bao bì, nhãn hiệu sản phẩm vì bao bì là một trong những phương tiện quảng cáo hữu hiệu... Trên các nhãn mác cần ghi rõ:
- Tên, kí hiệu hàng hoá, phân loại theo các chỉ tiêu quốc tế nào.
- Tên, địa chỉ công ty.
Mặt khác, bao bì là hình thức bên ngoài của sản phẩm, nó góp phần làm tăng thêm độ sang trọng, lịch sự của sản phẩm nên nó luôn được người tiêu dùng chú ý khi lựa chọn sản phẩm. Vì thế Công ty nên quan tâm nhiều hơn nữa đến độ tiện lợi, bền đẹp, lịch sự của bao bì...
Công ty nên duy trì tổ chức các hoạt động như hội nghị khách hàng, tham gia hội chợ giới thiệu sản phẩm, đặc biệt là những hội chợ ở nước ngoài. In ấn phát hành các tài liệu về Công ty, về sản phẩm của mình như ra đời catalogue, tờ rơi quảng cáo.
Đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ, quảng cáo, khuếch trương sẽ góp phần đẩy nhanh tốc độ xuất khẩu, tăng sức mạnh về cạnh tranh, tăng thị phần của Công ty trên thị trường. Tuy nhiên, khi thực hiện các hoạt động này công ty cần tính toán sao cho chi phí bỏ ra phải phù hợp với tình hình tài chính cũng như tương xứng với doanh thu thu được của mình. Vì hiệu quả kinh doanh có được là nhờ rất nhiều yếu tố nên cần phân bổ đều chi phi cho nhiều hoạt động nên chưa hẳn đầu tư nhiều tài chính cho hoạt động này là tốt.
Sử dụng chính sách gía cả một cách có hiệu quả nhất
Để có một chính sách giá cả hợp lý cần phải căn cứ vào chi phí sản xuất kinh doanh, nhu cầu thị trường, cạnh tranh, luật pháp. Chi phí sản xuất kinh doanh xác định gía sàn còn nhu cầu thị trường xác định mức giới hạn trên của sản phẩm (giá trần). Luật pháp và chính trị hạn chế khả năng tự do định giá của doanh nghiệp trên thị trường. Do đó việc xây dựng một chính sách giá cả cần có các biện pháp sau:
- Tìm những nguồn nguyên liệu rẻ trong và ngoài nước, tiến hành mua nhiều để có giá rẻ, huy động vốn ở những nguồn có chi phí thấp...
- Phân tích mức giá trên thị trường, đặc điểm, quan hệ cung cầu, độ co giãn của cung cầu, mức độ cạnh tranh trên thị trường.
- Tính toán cơ cấu giá
- Cần có biện pháp khuyến khích về giá cho khách hàng với những khách hàng quen biết, khách hàng mua với khối lượng lớn, khách hàng mua thanh toán tiền ngay...
- Khi xác định giá chú ý: không nên xác định giá quá cao hay quá thấp. Nếu mức giá cao ngay từ đầu sẽ khó bán được hàng. Nếu giá quá thấp sau này sẽ khó có cơ hội tăng giá.
Thực hiện đa dạng hoá hàng hoá xuất khẩu (mặt hàng)
Thực chất của đa dạng hoá hàng hoá xuất khẩu là quá trình mở rộng hợp lý danh mục sản phẩm, tạo nên một cơ cấu sản phẩm có hiệu quả. Đa dạng hoá mặt hàng là cần thiết khách quan đối với mọi mỗi doanh nghiệp, bởi lẽ:
- Ngày nay nhờ những thành tựu của khoa học công nghệ mà chu kỳ sống của sản phẩm được rút ngắn, doanh nghiệp cần có nhiều sản phẩm để thay thế hỗ trợ cho nhau.
- Nhu cầu thị trường rất đa dạng, phong phú và phức tạp, doanh nghiệp đa dạng hoá mặt hàng là nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu thị trường và như vậy doanh nghiệp sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn.
- Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng quyết liệt thì đa dạng hoá mặt hàng là một trong những biện pháp phân tán rủi ro trong kinh doanh.
- Đa dạng hoá mặt hàng là khai thác và sử dụng tốt hơn năng lực, trình độ và sức lao động của cán bộ công nhân viên...
Trên cơ sở những lợi ích của việc đa dạng hoá mặt hàng, việc đa dạng của mặt hàng của Công ty có thể thực hiện theo các hướng sau:
+ Với những hàng hoá có kim ngạch thấp Công ty vẫn nên duy trì xuất khẩu để phục vụ nhu cầu, giữ thị trường cũ. Tuy nhiên Công ty cũng cần xem xét để thu hẹp quy mô xuống mức hợp lý.
+ Tung ra thêm một số mặt hàng phục vụ nhu cầu ở các lứa tuổi khác nhau.
+Ngoài những mặt hàng chủ lực cần tìm hiểu nhu cầu để đưa ra những mặt hàng dệt kim khác.
Nâng cao chất lượng hàng hoá và công tác quản lý chất lượng
Chất lượng hàng hoá là vũ khí cạnh tranh quan trọng mà bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm và sử dụng nó để dành được thắng lợi trong cạnh tranh. Nâng cao khả năng cạnh tranh cũng có nghĩa là phải nâng cao chất lượng hàng hoá và tăng cường công tác quản lý chất lượng hàng hoá.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh bằng vũ khí chất lượng, công ty Dệt Kim Đông Xuân đã thực hiện các biện pháp như: Đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân viên, nâng cao chất lượng sản phẩm trong giai đoan thiết kế, sản xuất... nhờ những việc làm đó mà chất lượng hàng hoá của Công ty đã được nâng lên theo đúng yêu cầu mà Công ty đề ra. Bên cạnh khâu chất lượng thì công ty cần phải có quy mô đủ lớn để đáp ứng kịp thời đơn hàng của Công ty.
3.2.1.5. Tổ chức công tác nghiên cứu mẫu mốt
Có thể nói một trong những nguyên nhân dẫn đến khả năng cạnh tranh của Công ty chưa cao là do trình độ thiết kế mẫu mốt còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Hàng hoá xuất khẩu của Công ty hầu hết là làm theo mẫu của khách hàng và chỉ cố gắng hoàn thiện sản phẩm sao cho 22thật giống mẫu.
Hiện nay Công ty đã có phòng thiết kế, tạo mẫu và việc tạo mẫu cho hàng hoá cũng góp phần nâng cao cho chất lượng hàng hoá, do đó cần tập trung chú trọng vào khâu này để có được những sản phẩm không những có đặc trưng riêng về mẫu mã mà còn độc đáo cả về chất liệu vải, mầu sắc... vì thế để góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh Công ty cần:
- Quan tâm hơn nữa đến thiết kế mẫu mốt.
- Đầu tư cho bộ phận thiết kế mốt về trang thiết bị, thu hút lực lượng họa sĩ nghiên cứu mốt.
- Tổ chức đào tạo và nâng cao trình độ, năng lực của các nhân viên Marketing cho ngang tầm với nhiệm vụ, có khả năng dự báo trước được nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng về hàng may mặc bằng cách cử họ đi học các lớp về Marketing do các chuyên gia trong nước hoặc nước ngoài giảng dạy.
- Cử các cán bộ thiết kế mẫu mốt thời trang đi thăm quan và học tập ở nước ngoài để nâng cao trình độ.
- Trước mắt, trong quá trình gia công cho khách hàng nước ngoài, Công ty có thể tìm hiểu làm quen với nhu cầu thị trường thế giới về mẫu thời trang, trên cơ sở đó sản xuất các mẫu mốt chào hàng phù hợp với thị hiếu của các thị trường đó.
- Công ty cần có quan hệ chặt chẽ với các hãng thời trang như Viện mẫu thời trang Việt Nam (Fadin) để thiết kế mẫu mã sản phẩm, các mẫu mới để bắt kịp với thay đổi của nhu cầu may mặc thế giới.
Để thực hiện có hiệu quả và nghiên cứu và thiết kế mẫu mốt đòi hỏi phải nắm bắt được các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu hàng may mặc để có thể thiết kế được những mẫu sản phẩm phù hợp với từng thị trường, vì thế việc thiết kế phải được căn cứ vào:
+ Trào lưu mẫu mốt trên thế giới
+ Bản sắc văn hoá từng dân tộc, nhất là những quốc gia nhập khẩu hàng của Cng ty.
+ Điều kiện kinh tế, khí hậu của mỗi nước
+ Chất liệu vải, phụ liệu may.
+ Gam mầu.
+Kiểu dáng phù hợp với điều kiện sinh hoạt mỗi nước.
3.2.1.6 Nâng cao trình độ người lao động
Thế kỷ XXI là thế kỷ của nền “văn minh trí tuệ”, trong đó có người với tri thức khoa học và công nghệ sẽ đóng vai trò quyết định với sự phát triển của đất nước và nói cụ thể hơn quyết định sự thành công trong hoạt động của các Công ty. Muốn phát triển mạnh mẽ trong tương lai, Công ty phải có một đội ngũ cán bộ kinh doanh có đầy đủ năng lực để tìm hiểu một cách rõ ràng, chính xác và kịp thời nhu cầu của thị trường quốc tế, quy mô của nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu đó của nền sản xuất trong nước. Đồng thời phải nắm bắt được chính xác thông tin về sự thay đổi nhu cầu giá cả thị trường, những nguyên nhân chính gây nên sự biến đổi đó. Đó là con đường duy nhất giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp ngoại thương kịp thời xử lý một vấn đề trước khi nó vượt ra khỏi tầm kiểm soát của Công ty. Đối với một cán bộ làm công tác kinh doanh xuất nhập khẩu thì những đòi hỏi về chuyên môn nghiệp vụ, về trình độ Marketing, về ngoại ngữ... là những tiêu chuẩn không thể thiếu. Những yếu tố này thực hiện ở các mặt hàng chủ yếu sau:
- Xác định được thị trường mục tiêu cho Công ty, sau đó phải định vị Công ty theo hướng xây dựng một mối liên kết chặt chẽ với thị trường này, tiến hành quảng cáo va xúc tiến bán hàng cho hàng có chủ đích. Đồng thời phải giữ chữ tín, giữ đúng và nâng cao hình ảnh, uy tín của Công ty.
- Có khả năng chiếm lĩnh thị trường bằng cách gây ấn tượng ban đầu tốt đẹp cho khách hàng.
- Có khả năng lựa chọn phương tiện và quy mô quảng cáo thích hợp với thị trường mục tiêu của Công ty.
- Có khả năng tìm những khe hở, tìm thêm nguồn hạn ngạch để lọt vào những thị trường rộng lớn hơn.
- Tạo ra sự năng động trong kinh doanh, thích nghi với sự biến động của thị trường, tránh rủi ro trong kinh doanh và nắm bắt được cơ hội kinh doanh có lợi.
- Biết phân tích, đánh giá tổng hợp tình hình, đưa ra các thông tin tin cậy giúp cho việc vạch ra các chủ trương, chương trình hành động thích hợp. Thị trường may mặc thế giới phức tạp, nhu cầu về hàng may mặc biến động theo mùa. Hơn nữa, tập quán thương mại, ngôn ngữ giao dịch với các nước ở các thị trường khac nhau có sự khác nhau. Vì những nhiệm vụ đó nhân viên phòng xuất nhập khẩu phải hết sức linh hoạt, tinh thông nghiệp vụ ngoại thương, giỏi ngoại ngữ, hiểu biết chuyên môn về nghành may.
Để có những cán bộ có đầy đủ những yêu cầu trên Công ty cần chủ động đào tạo bồi dưỡng cán bộ chuyên môn giỏi gắn với thị trường. Hàng năm Công ty cần có kế hoạch chi phí cho việc bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu, quản lý hiện đại cho các cán bộ quản lý. Đây là một cách đầu tư lâu dài, tạo ra động lực mạnh thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Một số hình thức nhằm đào tạo, bồi dưỡng các cán bộ cho Công ty hiện nay gồm:
- Gửi cán bộ đi học ở các trung tâm đào tạo dài hạn, nhất là đối với một số cán bộ trẻ có năng lực.
- Mở các lớp nghiệp vụ ngắn hạn từ hai đến ba tháng theo từng chuyên đề mang tính chất tập huấn những vấn đề mới có tính cấp thiết để kịp vận dụng vào công tác chỉ đạo, điều hành...
- Tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi trong các lĩnh vực như quản lý, nghiệp vụ kinh doanh, khả năng Marketing... để từ đó các cán bộ trong Công ty có thể học hỏi lẫn nhau.
- Tạo điều kiện cho các cán bộ đi tham quan, khảo sát ở nước ngoài để học hỏi thêm kinh nghiệm về hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
Việc đào tạo và đào tạo lại không chỉ tập trung vào trình độ nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ... của cán bộ trong Công ty mà còn phải giáo dục ý thức, tư tưởng văn hoá cho cán bộ công nhân viên tạo dựng được bầu không khí đoàn kết nhất trí nội bộ trong Công ty, xây dựng Công ty thanh một khối thống nhất, xây dựng nếp sống văn minh, tạo nên một nền văn hoá riêng biệt cho Công ty, đây là một trong những tiền đề giúp cho Công ty phát triển một cách bền vững và lâu dài.
Bên cạnh việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ công nhân viên, nếu có điều kiện Công ty nên thu hút những người có năng lực bằng cách lập quỹ học bổng trợ cấp cho sinh viên, phối hợp với các trường, các viện nghiên cứu... để đào tạo cán bộ giỏi ngay từ khi còn học đại học.
3.2.1.7. Mở rộng các mối liên kết kinh tế
Liên kết kinh tế là hiện tượng xã hội khách quan của nền kinh tế hàng hoá, có sự phân công lao động xã hội ngày càng phát triển, nó phản ánh mối quan hệ phối hợp hoạt động kinh tế giữa các chủ thể kinh tế với nhau để thực hiện những nhiệm vụ kinh doanh nhất định, nhằm đem lại hiệu quả cao nhất đối với các bên tham gia. Trong cạnh tranh, các doanh nghiệp liên kết với nhau để tăng sức cạnh tranh thực hiện cạnh tranh thắng lợi các đối thủ khác. Liên kết kinh tế nhằm khai thác được các điểm mạnh, khắc phục điểm yếu, giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Để giành được thắng lợi và nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường quốc tế, Công ty cần tiến hành các hoạt động liên kết sau:
- Cần tiến hành liên kết chặt chẽ hơn nữa đối với các đơn vị cung ứng nguyên vật liệu phục vụ cho hoạt động gia công hàng xuất khẩu của Công ty.
- Tiến hành liên kết với các đơn vị nước ngoài nhằm thu hút các nguồn lực, tổ chức tốt công tác tiêu thụ sản phẩm.
Có quan hệ tốt với các viện nghiên cứu mẫu mốt
- Liên kết với các tổ chức ngân hàng để thuận tiện hơn trong việc thanh toán tiền hàng với khách hàng cũng như đối với các đơn vị cung cấp.
- Giữ tốt quan hệ với các đơn vị vận chuyển, các đơn vị làm thủ tục xuất khẩu để hàng hoá của Công ty lúc xuất khẩu được nhanh chóng, làm giảm phí lưu kho bãi, giao hàng đúng quy định của hợp đồng...
Ngoài ra cần có sự liên kết kinh tế, giữ quan hệ tốt giữa Công ty với các đơn vị nước ngoài dựa trên hợp đồng kinh tế, giúp Công ty đảm bảo sự ổn định trong kinh doanh xuất khẩu, tránh bị ép giá và các bất lợi khác.
3.2.1.8 Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, chi phí, lợi nhuận
Qua việc phát triển hiệu quả kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc, chúng ta có thể đưa ra một số biện pháp về quản lý chi phí, vốn, lợi nhuận và các chỉ tiêu tài chính khác để góp phần nâng cao sức cạnh tranh của Công ty:
Thứ nhất tiếp tục phát huy những thành công mà Công ty đã đạt được trong những năm qua làm tiền đề động lực cho các chỉ tiêu khác cùng vận dộng theo xu hướng tích cực, đảm bảo cho toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty có hiệu quả. để thực hiện tốt vấn đề này Công ty cần có một số biện pháp sau:
- Tính toán hiệu quả kinh doanh, đầu tư vào các hoạt động kinh doanh có lãi.
- Đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh để có sự hỗ trợ nhau về vốn.
- Chủ động tạo nguồn vốn như: vay từ các tổ chức tín dụng, liên doanh liên kế
- Hạn chế việc không thu hồi được hay việc bị chiếm dụng vốn để quay vòng vốn được nhanh: tích cực giảm các khoản phải thu, vốn tồn đọng trong tay khách hàng. Muốn vậy trước khi ký hợp đồng Công ty phải tìm hiểu rõ tình hình tài chính của khách hàng, tránh rủi ro có thể xảy ra.
- Tiếp tục giảm kỳ thu tiền trung bình để nâng cao tốc độ quay vòng vốn
Thứ hai: giải quyết những hạn chế còn tồn tại trong vấn đề sử dụng vốn, giúp tăng nhanh vòng quay của vốn, tăng sức sản xuất, sức sinh lời của vốn cố định... Mặc dù một số chỉ tiêu trên vận động theo chiều hướng tích cực nhưng thời gian qua tình hình kinh tế chính trị trong nước và khu vực luôn có nhiều biến động ảnh hướng tới tỷ lệ doanh lợi/vốn chủ sở hữu, doanh lợi/doanh thu...làm cho các chỉ tiêu này giảm xuống.
3.2.2 về phía Nhà nước.
Ngành may mặc hiện nay đang được Nhà Nước khuyến khích phát triển và hoạt động xuất khẩu lại càng được coi trọng hơn nữa vì hàng năm nó đem lại kim ngạch xuất khẩu rất lớn cho đất nước. Tuy nhiên, sự cố gắng của công ty trong hoạt động xuất khẩu chỉ là một trong những yếu tố giúp công ty có được sức cạnh tranh trên thị trường, một yếu tố khác rất quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu chính là các chính sách về xuất khẩu của Nhà Nước Việt Nam. Vì thế phía vĩ mô cần có những biện pháp tích cực giúp công ty nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
3.2.2.1. Giải pháp về thị trường.
-Tăng cường mạnh mẽ công tác thông tin về các thị trường: từ tình hình chung cho tới các cơ chế, chính sách của các nước, dự báo chiều hướng cung, cầu mặt hàng dệt may.
- Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến xuất khẩu, tăng cường công tác thu thập và phổ biến thông tin cũng như công tác dự báo để định hướng cho hoạt động sản xuất, xuất khẩu. nghiên cứu thành lậpquỹ xúc tiến thương mại có sự đóng góp của các doanh nghiệp để tiến hành hỗ trợ doanh nghiệp trong các hoạt động hội chợ, trưng bày, triển lãm...
- Hoàn thiện môi trường pháp lý và đổi mới, hoàn thiện cơ chế chính sách xuất - nhập khẩu.
- Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn hàng dệt may cho phù hợp với đòi hỏi của thị trường, nâng dần sức cạnh tranh.
- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách trong lĩnh vực thương mại theo chiều hướng xoá bỏ các thủ tục phiền hà, và phấn đấu ổn định môi trường pháp lý để tạo tâm lý tin tưởng cho các doanh nghiệp, khuyến khích họ chấp nhận bỏ vốn đầu tư lâu dài.
- Tiếp cận các phương thức kinh doanh mới như buôn bán trên thị trường giao dịch hàng hoá, trong đó thị trường hàng hoá giao ngay và thị trường kỳ hạn để vừa trực tiếp tham gia điều tiết giá quốc tế vừa tận dụng được tính chất phòng ngừa rủi ro của thị trường dệt may. Từ nay đến 2010 phấn đấu hình thành thị trường giao ngay và thị trường giao có kỳ hạn tại Việt Nam đốiv ới nguyên liệu đầu vào cho ngành dệt may như: bông, xơ.
- Điều hành lãi suất, tỷ giá hối đoái một cách linh hoạt để vừa đảm bảo sư ổn định kinh tế - xã hội trong nước, vừa có lợi cho xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu tiến tới biến tiền Đồng Việt Nam thành chuyển đổi.
Hiện nay, khi nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển và có xu thế mở ccửa để giao lưu buôn bán với thị trường quốc tế thì hoạt động xuất khẩu càng được coi trọng. Nhà Nước đã ban hành nhiều chính sách, nghị định nhằm khuyến khích hỗ trợ xuất khẩu tạo sự thuận lợi cho các doanh nghiệp khi tham gia hoạt động này. Các nghị định 57/1998/NĐ-CP, 114/HĐBT, 33-CP đã quy định các chính sách về xuất nhập khẩu, về thực hiện luật thương mại trong hoạt động xuất nhập khẩu, về sự ưu đãi đối với một số mặt hàng mà Nhà Nước khuyến khích xuất khẩu... những nghị định này sẽ giúp các doanh nghiệp hiểu rõ những quy định, những ưu đãi mà Nhà Nước đưa ra cho hoạt động xuất khẩu, đồng thời nắm rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia hoạt động này. Cụ thể như nghị định 33/CP ngày 19/4/1994 ở Điều 9 có quy định :"Nhà Nước khuyến khích và có chính sách hỗ trợ đối với doanh nghiệp phát triển và mở rộng thị trường mới, và xuất khẩu những mặt hàng mà Nhà Nước khuyến khích xuất khẩu"... Một số công báo mới số 17 ngày 078/ 05/2001 đã được đưa ra trong dó có những quy định riêng về một số loại hàng hoá mà Nhà Nước khuyến khích xuất khẩu những chính sách ưu tiên khi xuất khẩu những mặt hàng đó. Hàng dệt may là một trong số những mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu và theo công báo số 17 thì Bộ Thương mại chủ trì cùng các bộ, ngành hữu quan và các nhà sản xuất lớn ở Việt Nam tiến hành đàm phán với các tổ chức kinh tế quốc tế và các nước, nhằm đẩy nhanh tiến trình bỏ hạn ngach đối với loại hàng hoá này: đồng thời các cơ quan trên cần xây dựng và ban hành các quyết định chung thực hiện hạn ngạch hàng dệt may, công bố tỷ lệ hạn ngạch hàng dệt may đấu thầu và tỷ lệ này phải tăng lên hàng năm để thay thế dần cho cơ chế
Tuy nhiên bên cạnh những chính sách, nghị định trên trong một số chính sách khác còn có các quy đinh quá cứng nhắc, không gắn liền với thực tế của từng mặt hàng làm ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu, gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động này. Vì thế ở đây tôi muốn đưa ra một số kiến nghị giúp cho các chính sách có phần linh hoạt hơn, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được thuận lợi hơn trọng hoạt động kinh doanh của mình.
Đối với thị trường không hạn ngạch chúng ta nên bỏ giấy phép xuất khẩu chuyến vì: Bộ thương mại hiện nay quy định phải có hợp đồng cụ thể mới được làm giấy phép xuất khẩu. Thực tế, đối với các quy định này các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc thường xuyên gặp nhiều khó khăn do đặc điểm của hoạt động gia công. Khách hàng đến gia công có khi họ chỉ ký hợp đồng khung sau đó mới tìm hàng cụ thể. Chẳng hạn như thời hạn giao hàng, nhãn hiệu mẫu mã... có trường hợp sau khi nhập nguyên vật liệu về mới biết hàng sản xuất, hoặc phải thoả thuận thêm các điều khoản khác gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
3.2.2.3 Về hội nhập.
- Chủ động thay đổi về căn bản phương thức quản lý nhập khẩu. tăng cường sử dụng công cụ phi thuế "hợp lệ" như các rào cản tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, môi trường... hạn ngạch thuế quán, thuế tuyệt đối, thuế mùa vụ, thuế chống phá giá, chống trợ cấp.
- Tích cực xúc tiến việc sắp xếp lại các doanh nghiệp, đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh cho hàng may mặc Việt Nam.
Tất cả những gì trên đây luôn là điều mong muốn của bất kỳ doanh nghiệp nào khi mở rộng sản xuất kinh doanh trong tình trạng khó khăn về tài chính. Với thủ tục vay vốn đơn giản, mức lãi suất ngân hàng thấp sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi cho công ty trong chiến lược cạnh tranh, nhất là cạnh tranh bằng giá.
Kết luận
Với một vị trí mới trong nền kinh tế nói chung và của từng doanh nghiệp nói riêng nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong hoạt động xuất khẩu có một vai trò vô cùng quan trọng, góp phần không nhỏ vào việc duy trì và phát triển của doanh nghiệp. Đó chính là tiền đề cho các doanh nghiệp có thể thích nghi và đứng vững trong nền kinh tế đầy biến động.
Công ty Dệt Kim Đông Xuân đã có nỗ lực trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, bước đầu đạt được những kết quả đáng khích lệ trong việc duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu . Điều thể hiện rõ nhất trong việc công ty đã mở rộng được thị trường xuất khẩu của mình, trên thị trường truyền thống vẫn giữ được kim ngạch xuất khẩu ổn định và kéo dài thời hạn hợp tác. Sự thành công của công ty có sự đóng góp không nhỏ của việc nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty. Những kết quả mà công ty đã đạt được có những ảnh hưởng tích cực không nhỏ đến nền kinh tế đất nước, góp phần đáng kể khẳng định vai trò của ngành may mặc Việt Nam trong nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, do tình hình thực tế và nhiều khó khăn khách quan cũng như chủ quan, công ty vẫn chưa khai thác hết những khả năng, tiềm lực của mình để dùng sức mạnh cạnh tranh như là chìa khoá của sự thành công trong sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu. Vì vậy công ty cần nghiên cứu và thực hiện đồng bộ các biện pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của chính mình hiệu quả hơn nữa.
Trải qua những khó khăn với định hướng kinh doanh đúng đắn với bản lĩnh dầy dặn trên thương trường và những cố gắng không ngừng nâng cao, học hỏi công ty Dệt Kim Đông Xuân đang tiếp tục vươn mình ra thị trường thế giới. Nhiều cơ hội thuận lợi mới đang mở ra nhưng công ty Dệt Kim Đông Xuân có tận dụng được hay không đó là điều còn phụ thuộc vào công ty.
Bài viết này chỉ nằm trong khuôn khổ của một bản báo cáo chuyên đề nhằm áp dụng những kiến thức đã tiếp thu trong quá trình học tập và thực tiễn sản xuất kinh doanh tại cơ sở thực tập song em hy vọng sẽ đóng góp một vài ý kiến có ích cho công ty.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình chỉ bảo của T.s Trần Hoè, Th.s Hoàng Hương Giang trong quá trình thực tập và hoàn thành bản báo cáo này. Em cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt thành của các cán bộ trong phòng Nghiệp vụ và công ty đã giúp đỡ em trong suốt thời gian thực tập.
Hà Nội tháng 6/2003
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33490.doc