Luận văn Một số biện pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP 1.1. Một số vấn đề chung về thuế 1.1.1.Khái niệm và đặc điểm 1.1.2.Phân loại thuế và yếu tố cấu thành của một sắc thuế 1.2. Thuế Thu nhập doanh nghiệp 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm 1.2.2. Vai trò của thuế TNDN 1.2.3. Nội dung cơ bản của thuế TNDN 1.3. Vấn đề cần quan tâm khi xây dựng chính sách thuế TNDN CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Nội dung cơ bản của chính sách thuế TNDN ở Việt Nam 2.2. Kết quả áp dụng chính sách thuế TNDN ở Việt Nam trong thời gian qua 25 2.2.1.Kết quả của việc thu thuế 2.2.2.Kết quả của việc ưu đãi, miễn giảm thuế 2.3.Đánh giá về chính sách thuế TNDN mới áp dụng ở Việt Nam 2.3.1.Những tác động tích cực 2.3.2.Những hạn chế của chính sách thuế TNDN ở Việt Nam CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THUẾ TNDN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Mục tiêu của việc hoàn thiện 3.2. Một số biện pháp cần hoàn thiện chính sách thuế TNDN 3.2.1. Về phạm vi áp dụng luật thuế TNDN 3.2.2. Về chi phí hợp lý 3.2.3. Quy định về chuyển lỗ 3.2.4. Với các vấn đề phát sinh do không rõ về hiệu lực thi hành 3.2.5. Về ưu đãi, miễn giảm thuế 3.2.6. Về kê khai nộp thuế, quyết toán thuế 3.3. Điều kiện nhằm thực hiện tốt các biện pháp 3.3.1. Cải cách hệ thống hành thu 3.3.2. Đào tạo đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách giỏi về chuyên môn, am hiểu về lĩnh vực thuế 3.3.3. Cơ quan hoạch định chính sách thuế TNDN phải có mối quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp và các cơ quan chức năng có liên quan 3.3.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền chính sách, định hướng cải cách thuế 3.3.5. Hoạt động tư vấn thuế nói chung và thuế TNDN nói riêng cần phải được coi trọng phát triển LỜI KẾT LUẬN

doc73 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1888 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệp vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến số thuế mà doanh nghiệp phải nộp. Khi áp dụng trong thực tế chi phí hợp lý này còn bộc lộ một số vướng mắc, một số điểm chưa hợp lý và là vấn đề còn nhiều bàn cãi. Cụ thể như sau: Về chi phí tiền lương, tiền công Thuế TNDN mới ban hành chưa coi khoản tiền lương, tiền công của chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ hộ cá thể sản xuất kinh doanh là khoản chi phí hợp lý được tính trừ đi khi xác định thu nhập chịu thuế. Xét về nguyên tắc, ở các nước trên thế giới chi phí được xem là hợp lý khi thoả mãn các điều kiện : là khoản chi phí liên quan đến thu nhập chịu thuế; phải thực sự được chi ra; có tính thu nhập hơn là tính vốn; có mức chi trả hợp lý. Trong các điều kiện trên tiền lương, tiền công trong cả hai trường hợp đều là khoản thù lao phải trả cho sức lao động mà người chủ sở hữu bỏ ra để điều hành, quản lý doanh nghiệp và nó góp phần tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp. Ta thấy rằng cùng một số vốn nếu đem góp với người khác để kinh doanh dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn và tham gia điều hành, quản lý công ty đó thì tiền lương, tiền công này được tính vào chi phí hợp lý, còn nếu cũng làm như vậy nhưng chỉ khác là kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân thì tiền lương, tiền công lại không được tính vào chi phí hợp lý. Do vậy, tiền lương, tiền công trong cả hai trường hợp trên phải được tính như nhau. Ngoài ra, việc quy định mức tiền lương như hiện nay khi tính chi phí hợp lý cũng không gắn với hiệu quả kinh doanh nên trên thực tế đã bị một số doanh nghiệp lợi dụng nhằm xây dựng quỹ lương cao để làm giảm thuế TNDN. Chi phí quảng cáo, tiếp thị Dù luật mới đã nâng mức khống chế tối đa từ 5-7% lên 10% tổng số các khoản chi phi song xét về bản chất khoản chi phí này thực sự cần thiết cho việc quảng bá và chiếm lĩnh, mở rộng thị trường của các doanh nghiệp vì vậy phần lớn các nước trên thế giới đều công nhận cho phí này theo số thực chi. Nên chăng chúng ta cũng nghiên cứu sửa đổi quyết định này theo xu hướng chung phù hợp với thông lệ của thế giới. Việc khống chế các khoản chi phí quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại,.. theo một tỷ lệ % trên tổng số các khoản chi phí là không hợp lý vì thực tế tại các doanh nghiệp chi phí quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại không nhất thiết phải có mối quan hệ tỷ lệ thuận với tổng số các khoản chi phí. Các doanh nghiệp có thể quyết định giảm các khoản chi phí khác để tăng chi phí quảng cáo, khuyến mại nếu xét thấy việc tăng các khoản chi phí này đem lại hiệu quả cao hơn, xét về bản chất khoản chi phí này là nhằm mục đích tạo ra doanh thu, thu nhập, tăng lợi nhuận tại đơn vị. Vì vậy, nếu khống chế các khoản chi này thì nên khống chế theo tiêu thức doanh thu, thu nhập. Những chi phí xa xỉ, không cần thiết cho hoạt động sản xuất, kinh doanh tại đơn vị Luật thuế TNDN ở một số nước có quyết định cụ thể việc khống chế những khoản chi phí được xem là xa xỉ. Luật thuế TNDN của Pháp không chấp nhận đưa vào chi phí hợp lý phần khấu hao vượt định mức của những xe hơi có nguyên giá vượt quá 120.000 FRF (18.294 EUR). Xét về điều kiện kinh tế của Việt Nam hiện nay cũng nên xem xét, khống chế mức khấu hao được tính vào chi phí hợp lý của xe hơi có giá trị cao. Quy định về chuyển lỗ Theo điều 46 của Nghị định 164: “Cơ sở kinh doanh sau khi quyết toán với cơ quan thuế mà bị lỗ thì được chuyễn lỗ vào thu nhập chịu thuế của những năm sau. Thời gian chuyển lỗ không quá 5 năm”. Quyết định này đã làm triệt tiêu yếu tố tích cực của việc miễn, giảm thuế. Bởi vì, theo quy định thì thời gian miễn, giảm thuế tính từ năm tài chính đầu tiên mà doanh nghiệp có thu nhập chịu thuế (chưa trừ đi số lỗ được chuyển). Bởi vậy, nếu doanh nghiệp trừ đi số lỗ của năm trước thì năm đầu tiên có thu nhập chịu thuế nói trên có thể có lãi trên thực tế nhưng vẫn được tính vào thời gian miễn, giảm thuế. 2.3.2.4 Chưa quy định rõ về hiệu lực pháp lý Nghị định 164 không quy định cụ thể về hiệu lực pháp lý của một số điều kiện hoặc các điều kiện có sự khác nhau giữa Nghị định 164 với các văn bản về thuế TNDN áp dụng cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Điều này đã tạo ra sự khác nhau gây khó khăn cho việc áp dụng. Cụ thể là: - Sự thay đổi ba danh mục A, B, C chỉ là căn cứ để áp dụng thuế TNDN trong khi các danh mục trước đây còn là cơ sở để xét duyệt một số ưu đãi đầu tư khác (Thuế nhập khẩu, thuế thu nhập cá nhân, tiền thuê đất, thuế đất, tiền sử dụng đất...). Nghị định 164 không có điều khoản nào bãi bỏ các danh mục ban hành kèm các Nghị định đó. Đây là một sự thiếu rõ ràng và bất cập. Một số dự án đầu tư vào lĩnh vực, ngành nghề và địa bàn ưu đãi đầu tư trước đây nay bị loại khỏi danh mục A, B, C của Nghị định 164 thì có tiếp tục được hưởng ưu đãi đầu tư như trước hay không? Một số dự án đầu trước đây không thuộc vào lĩnh vực, ngành nghề và địa bàn ưu đãi đầu tư thì nay có được áp dụng ưu đãi mới hay không? Luật thuế mới chưa có điều khoản quy định rõ ràng về vấn đề này. Doanh nghiệp cổ phần hóa, giao, bán được hưởng các ưu đãi về thuế TNDN quy định tại Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Theo Nghị định 164, các ưu đãi về thuế tại Nghị định 51, 35 bị bãi bỏ hoặc được thay đổi bằng các quy định tương ứng của Nghị định 164. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện cổ phần hóa, giao, bán lại không phải là đối tượng điều chỉnh của Nghị định 164. Do vậy, đã có sự thiếu rõ ràng trong việc ưu đãi thuế đối với các đối tượng nói trên. Việc bãi bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài chưa được quy định cụ thể đối với các dự án đầu tư trước ngày 01/01/2004. Do vậy, đã nảy sinh hai quan điểm: + Quan điểm thứ nhất là: những doanh nghiệp có vốn ĐTNN được cấp giấy phép đầu tư trước ngày 01/01/2004 vẫn bị áp dụng đánh thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, còn những doanh nghiệp được cấp giấy phép đầu tư sau ngày 01/01/2004 thì không phải nộp khoản thuế này. + Quan điểm thứ hai là: việc bãi bỏ thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài áp dụng cho mọi doanh nghiệp có vốn ĐTNN kể cả trước và sau ngày 01/01/2004. Về ưu đãi, miễn, giảm thuế. Với chủ trương thống nhất việc áp dụng thuế TNDN đối với DNTN và doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã tạo ra một bước tiến quan trọng trong lộ trình hướng tới xây dựng một mặt bằng pháp lý chung cho DNTN và doanh nghiệp có vốn ĐTNN đáp ứng điều kiện gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên luật thuế mới còn tồn tại một số điểm kém hấp dẫn, chưa rõ ràng và thiếu tính đồng bộ. Các vướng mắc tập trung chủ yếu vào mức thuế suất ưu đãi, thời gian miễn giảm thuế, điều kiện ưu đãi miễn giảm đối với các DNTN và doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Đặc biệt tập trung vào 3 danh mục khuyến khích đầu tư của Nghị định 164/NĐ-CP hướng dẫn thi hành luật thuế TNDN sửa đổi bổ sung 2003. Ba danh mục khuyến khích đầu tư này được áp dụng chung cho cả DNTN và DN có vốn ĐTNN thay vì trước đây, việc khuyến khích đầu tư đối với DN có vốn ĐTNN áp dụng theo luật ĐTNN còn với các DNTN áp dụng theo luật KKĐTTN. Các danh mục ban hành kèm theo Nghị định 27 hướng dẫn thi hành luật ĐTNN được thiết kế theo mức độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài; trong khi đó các danh mục ban hành kèm theo nghị định 35 hướng dẫn thi hành luật KKĐTTN được thiết kế theo yêu cầu của khuyến khích đầu tư trong nước. Nay chúng ta ghép chung các danh mục này để áp dụng việc khuyến khích đầu tư chung cho cả DNTN và DN có vốn ĐTNN. Chính sự ghép chung này đã tạo ra nhiều bất cập, vướng mắc. Các danh mục của các Nghị định 24 và 27 (ĐTNN); Nghị định 51 và 35 (KKĐTTN); Nghị định 164 (Thuế TNDN) NĐ 24 và 27 NĐ 51 và 35 NĐ 164 - Danh mục lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư - Danh mục lĩnh vực khuyến khích đầu tư - Danh mục địa bàn khuyến khích đầu tư + Địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn + Địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn - Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện - Danh mục lĩnh vực không cấp giấy phép đầu tư - Danh mục A: Ngành, nghề thuộc lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư - Danh mục B: Địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn Danh mục C : Địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn Danh mục A: Ngành nghề, lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư - Danh mục B: Địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn được hưởng ưu đãi đầu tư - Danh mục C : Địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng ưu đãi đầu tư Các vướng mắc thể hiện chủ yếu đối với các DN có vốn ĐTNN, thể hiện: Nghị định 164 có sự thay đổi lớn về lĩnh vực và địa bàn khuyến khích ĐTNN. Danh mục lĩnh vực khuyến khích đầu tư và đặc biệt khuyến khích đầu tư ban hành kèm Nghị định 26, 27 căn cứ vào năng lực xuất khẩu, trình độ công nghệ, khả năng tạo việc làm của dự án ...nhưng có tính đến một số điểm khác biệt trong thu hút và sử dụng ĐTNN cũng như cam kết quốc tế của Việt Nam. Vì vậy, mặc dù đã được điều chỉnh nhiều lần trong những năm qua song các danh mục vẫn đảm bảo tính nhất quán và ổn định trong chính sách ĐTNN, góp phần mở rộng thu hút nguồn vốn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ. Việc áp dụng thống nhất danh mục ngành nghề, lĩnh vực khuyến khích đầu tư (Danh mục A) và các địa bàn khuyến khích đầu tư (Danh mục B, C) cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài thuộc Nghị định 164 là việc làm cần thiết trong quá trình xây dựng một mặt bằng pháp lý chung cho mọi thành phần kinh tế. Tuy nhiên, việc áp dụng thống nhất các danh mục nói trên chưa tính đến chủ trương cũng như những điều kiện đặc thù trong thu hút và sử dụng nguồn vốn ĐTNN. Hạn chế thể hiện: Về danh mục ngành nghề, lĩnh vực khuyến khích đầu tư + Một số dự án trước đây thuộc danh mục dự án khuyến khích hoặc đặc biệt khuyến khích ĐTNN nay bị loại khỏi danh mục A (như chế biến sâu khoáng sản, sản xuất phụ tùng xe máy, nhiên liệu thuốc kháng sinh, nguyên liệu cao cấp để sản xuất giày, dép, quần áo xuất khẩu...) + Danh mục A đã bao gồm một số dự án đầu tư trong lĩnh vực công nghệ, kỹ thuật cao và dự án xây dựng kết cấu hạ tầng đòi hỏi vốn lớn. Tuy nhiên một số dự án trong danh mục này không đòi hỏi vốn lớn và công nghệ cao nhưng lại được khuyến khích đầu tư (sản xuất đồ chơi trẻ em, nước uống đóng chai, sữa lỏng, thức ăn gia súc, xây dựng kho tàng lâm, nông, thuỷ sản...) + Việc áp dụng danh mục A đã tạo ra sự thiếu đồng bộ trong chính sách thu hút ĐTNN của Việt Nam. Cụ thể, một số ngành nghề trước đây thuộc danh mục lĩnh vực ĐTNN có điều kiện hoặc chỉ được phép đầu tư phù hơp với cam kết quốc tế của Việt Nam về mở cửa thị trường dịch vụ, song lại được khuyến khích đầu tư và được hưởng ưu đãi theo quy định của Nghị định 164 (ví dụ: dịch vụ Internet, dịch vụ bưu phẩm, bưu kiện, tư vấn đầu tư, xây dựng cảng sông, cảng biển, ga hàng không, kinh doanh chứng khoán, dịch vụ vận tải hàng hải, hàng không, đường sắt, đường bộ, và đường thuỷ nội địa, kinh doanh thể thao, vui chơi, giải trí, đánh bắt xa bờ, chế biến sữa...) +Danh mục A không có sự phân biệt về mức độ ưu đãi giữa doanh nghiệp cung cấp dịch vụ và doanh nghiệp sản xuất; giữa doanh nghiệp KCN và doanh nghiệp KCNC; giữa doanh nghiệp KCN, KCX, KCNC với doanh nghiệp phát triển cơ sở hạ tầng các khu này mà các văn bản liên quan đến Thuế TNDN trước đây đã làm được. + Về điều kiện lao động: khuyến khích và dành ưu đãi cho các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động là mục tiêu đặt ra cho cả doanh nghiệp đầu tư trong nước và doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Nhưng Nghị định 164 chưa tính đến khả năng thu hút lao động khác nhau giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước. Doanh nghiệp có vốn ĐTNN luôn có khả năng thu hút lao động lớn hơn so với các doanh nghiệp trong nước. Do vậy, việc thống nhất điều kiện lao động để áp dụng miễn, giảm thuế cho hai đối tượng nói trên là chưa hợp lý. Về danh mục địa bàn khuyến khích đầu tư Danh mục địa bàn khuyến khích đầu tư ban hành kèm Nghị định 27 được thiết kế theo hướng duy trì một số khác biệt và nhìn chung hấp dẫn hơn Danh mục B, C của Nghị định 164. Theo Nghị định 27 địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn bao gồm toàn bộ các huyện, thị xã thuộc một số tỉnh ở vùng núi cao, miền núi và vùng đồng bằng. Nhưng theo Danh mục C (164) địa bàn này chỉ gồm một số huyện thuộc các tỉnh nói trên. Ngoài ra, một số huyện trước đây thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn đã bị loại khỏi Danh mục B (ví dụ : Huyện Ba Chẽ, Bình Liêu, Đông Triều tỉnh Quảng Ninh; Huyện Kỳ Sơn, Con Cuông, tỉnh Nghệ An...); Một số tỉnh, huyện mới tách hoặc mới thành lập cũng chưa được thể hiện trong Danh mục B và C ( như huyện Tam Thanh của tỉnh Phú Thọ tách thành 2 huyện: huyện Tam Nông và huyện Thanh Thuỷ; tỉnh mới thành lập là Điện Biên, Đắc Nông, Hậu Giang). Luật thuế mới chưa tính đến đặc thù trong thu hút vốn ĐTNN.Theo đó một số địa bàn vùng biên giới và Tây Nguyên có thể khuyến khích đầu tư trong nước nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, đất đai và dân cư... nhưng cần thận trọng trong thu hút ĐTNN. Quy định ưu đãi thuế TNDN đối với một số dự án ĐTNN kém hấp dẫn hơn so với trước đây. Về thuế suất ưu đãi: Nghị định 164 có sự phân biệt lĩnh vực khuyến khích đầu tư và đặc biệt khuyến khích đầu tư nên việc áp dụng thuế suất và ưu đãi về thuế TNDN theo Nghị định này đã có sự thay đổi bất lợi cho dự án đầu tư mới. Ta có bảng ưu đãi về thuế suất sau đây: Ưu đãi thuế suất thuế TNDN theo NĐ 164 Mức thuế suất thuế TNDN ưu đãi được hưởng Thời gian ưu đãi thuế suất Điều kiện đáp ứng 20% 10 năm HTX CSKD mới thành lập và A 15% 12 năm HTX và B CSKD mới thành lập và A và B CSKD mới thành lập và C 10% 15 năm HTX và C CSKD mới thành lập và A và C Ghi chú: - A là đáp ứng danh mục A, B là đáp ứng danh mục B, C là đáp ứng danh mục C. - “ và”: là phải đáp ứng cùng một lúc tất cả các điều kiện Ưu đãi thuế suất thuế TNDN theo NĐ 24 và 27 (ĐTNN) Mức thuế suất thuế TNDN ưu đãi được hưởng Điều kiện đáp ứng 20% DN dịch vụ trong KCN Dự án sản xuất (đối với dự án không được áp dụng mức thuế 15%, 10%) 15% Danh mục dự án đầu tư vào lĩnh vực khuyến khích đầu tư Danh mục dự án thuộc địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn DN dịch vụ trong KCX DN sản xuất trong KCN Chuyển giao không bồi hoàn tài sản cho Nhà nước Việt Nam sau khi kết thúc hợp đồng 10% Danh mục dự án đầu tư vào lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư Địa bàn kinh tế -xã hội đặc biệt khó khăn DN phát triển hạ tầng KCN, KCX, KCNC; DN sản xuất trong KCX Thuộc lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học Thời gian áp dụng thuế suất ưu đãi theo NĐ 24 và 27 Thời gian áp dụng Điều kiện áp dụng Suốt đời của dự án * Danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư Thuộc địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn Đầu tư vào KCN, KCX, KCNC Phát triển cơ sở hạ tầng KCN, KCX, KCNC Thuộc linh vực khám chữa bệnh, giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học 10 năm Dự án có thuế suất ưu đãi 20% (trừ các trường hợp *) 12 năm Dự án có thuế suất ưu đãi 15% (trừ các trường hợp *) 15 năm Dự án có thuế suất ưu đãi 10% (trừ các trường hợp *) Theo các bảng trên ta có nhận xét sau: + Thuế suất 10% trước đây đương nhiên áp dụng đối với dự án thuộc danh mục lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư, dự án sản xuất trong KCX, dự án phát triển hạ tầng KCN, KCX, KCNC; dự án BOT, BTO, BT... không phân biệt địa bàn đầu tư. Tuy nhiên, theo Nghị định 164, các dự án nói trên phải được thực hiện tại địa bàn có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn mới được hưởng thuế suất 10%. + Thuế suất 15% áp dụng đối với dự án đầu tư thuộc Danh mục lĩnh vực khuyến khích đầu tư, dự án cung cấp dịch vụ trong KCN; dự án sản xuất trong KCN; không phân biệt địa bàn đầu tư. Tuy nhiên, theo Nghị định 164 các dự án nói trên phải được thực hiện trong Danh mục B mới được hưởng thuế suất 15%. + Về ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp KCN, KCX, KCNC hiện nay giảm rất nhiều so với trước đây do không đáp ứng được điều kiện về địa bàn thuộc Danh mục B,C; bãi bỏ việc hưởng thuế suất ưu đãi suốt đời của dự án; không phân biệt ưu đãi giữa trong Khu và ngoài Khu nên các Khu này thiếu sức hấp dẫn đầu tư. Nhìn chung, đối với KCN, KCX, KCNC và các cụm công nghiệp vừa và nhỏ, luật thuế TNDN và NĐ 164/2003/NĐ-CP quy định miễn, giảm thuế dài hơn, nhưng so với trước thì vẫn ưu đãi vẫn giảm đi nhiều. Trong khi đó, hầu hết các KCN, KCX, KCNC hiện nay chủ yếu tập trung ở các vùng kinh tế trọng điểm của đất nước; nằm gần các trung tâm đô thị; thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng lớn có vai trò ngày càng tích cực trong việc thu hút ĐTNN vào các vùng này như TP.HCM, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa -Vũng Tàu, Hải Phòng...Riêng vùng trọng điểm phía Nam(TP HCM, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa -Vũng Tàu) chiếm 56% tổng vốn ĐTNN của cả nước. Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh...) chiếm 26,3% tổng vốn ĐTNN đăng ký của cả nước. Hiện nay, các dự án ĐTNN vào các KCN tại các vùng kinh tế trọng điểm chiếm tới 36% số lượng dự án và 34% vốn đăng ký của các vùng này. Vừa qua, rất nhiều nhà đầu tư đã rút vốn đầu tư và ngừng việc đầu tư vào các Khu do việc giảm ưu đãi và đã có nhiều kiến nghị để các Khu này vẫn được hưởng ưu đãi như trước đây. Nghị định 164 đã hạn chế đáng kể ĐTNN vào các vùng này vốn được coi là động lực để phát triển kinh tế trọng điểm. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THUẾ TNDN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Mục tiêu của việc hoàn thiện Việc hoàn thiện chính sách thuế TNDN cần hướng tới các mục tiêu sau: Thứ nhất là phải phát huy đầy đủ vai trò của chính sách thuế TNDN Vai trò của chính sách thuế TNDN là phải góp phần vào việc khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đồng thời là một công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước, thuế TNDN phải bao quát điều tiết được tất cả các khoản thu nhập trong các cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ trên cơ sở đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. Thứ hai là phải đảm bảo được tính trung lập, bình đẳng trong quá trình hoàn thiện chính sách thuế TNDN. Tính trung lập là phải giảm bớt chính sách xã hội trong luật thuế, đảm bảo bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các thành phần kinh tế; giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; không vi phạm các cam kết quốc tế và các quy định khác của quốc tế mà chúng ta đã ký kết. Thứ ba : chính sách thuế TNDN cần đạt tới mục tiêu đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, dễ quản lý; giúp cho đối tượng nộp thuế và người thu thuế thực hiện đúng luật. Để đạt được mục tiêu này cần tạo điều kiện để cải cách thủ tục hành chính và hiện đại hoá công tác quản lý thuế, giúp cho các cơ quan quản lý thực hiện tốt chức năng của mình đồng thời làm cho luật thuế TNDN từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế và quá trình hội nhập góp phần thu hút đầu tư nước ngoài. Thứ tư: là thực hiện giảm thuế suất nhưng bảo đảm tăng thu trên cơ sở tăng trưởng kinh tế từ đó mà không giảm thu ngân sách, tăng tỷ trọng số thuế TNDN trong tổng số thu thuế. 3.2. Một số giải pháp cần hoàn thiện chính sách thuế TNDN 3.2.1. Về phạm vi áp dụng luật thuế TNDN Hiện nay, theo luật thuế TNDN thì các cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ vẫn là đối tượng bị điều chỉnh bởi luật thuế TNDN vì nước ta chưa có luật thuế TNCN. Đây là vấn đề cần phải nghiên cứu tiếp vì khi luật thuế TNCN ra đời chúng ta phải chuyển đối tượng cá nhân kinh doanh này vào áp dụng theo luật thuế TNCN để đảm bảo nghĩa vụ thuế giữa cá nhân kinh doanh và cá nhân không kinh doanh; phù hợp với thông lệ của quốc tế. 3.2.2.Về chi phí hợp lý Chi phí tiền lương, tiền công của chủ DNTN, chủ hộ cá thể sản xuất kinh doanh Để đảm bảo tính công bằng và khuyến khích sự phát triển của mọi loại hình doanh nghiệp thì luật thuế nên cho phép tính vào chi phí hợp lý khoản chi này khi xác định thuế TNDN phải nộp. Tuy nhiên, để tránh trường hợp chủ doanh nghiệp khai báo mức lương quá cao nhằm mục đích giảm thuế, Nhà nước nên quy định khống chế chi phí này. Cần khống chế những chi phí xa xỉ không cần thiết liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 3.2.3. Quy định về chuyển lỗ Về quy định chuyển lỗ sau khi xác định thời gian miễn, giảm thuế (tính từ năm có lãi trừ đi số lỗ được chuyển ) làm giảm thời gian miễn, giảm thuế vì năm đó có thể bị lỗ sau khi thực hiện chuyển lỗ. Do vậy, để khuyến khích đầu tư, tạo tính tích cực của việc miễn giảm thuế thì nên sửa Nghị định 164 theo hướng : Thời gian miễn giảm thuế được xác định từ năm đầu tiên có lãi sau khi đã chuyễn lỗ của các năm trước nhưng không quá 5 năm. 3.2.4. Với các vấn đề phát sinh do không rõ về hiệu lực thi hành Với các ưu đãi thuế và thu thuế khác (như thuế Xuất nhập khẩu, thuế TNCN, tiền thuế đất, tiền thuê đất,...) tại luật KKĐTTN và luật ĐTNN tại Việt Nam còn thực hiện tiếp hay không đối với các dự án nay đã bị loại khỏi danh mục A,B,C của Nghị định 164. Để giải quyết vấn đề này Bộ tài chính nên có công văn hướng dẫn gửi các địa phương để giải thích rõ vấn đề này theo hướng: Luật thuế TNDN chỉ bãi bỏ các quy định về thuế TNDN tại luật ĐTNN và luật KKĐTTN nên những ưu đãi liên quan đến các loại thuế khác và thu khác vẫn còn hiệu lực và vẫn được ưu đãi theo các danh mục của hai luật này. Luật thuế TNDN mới nên quy định rõ ràng về việc hưởng ưu đãi của các nhà đầu tư. Theo đó các dự án đầu tư vào lĩnh vực, ngành nghề và địa bàn đầu tư trước đây nay bị loại khỏi danh mục A, B, C của Nghị định 164 nay quy định sẽ không được hưởng ưu đãi đầu tư nữa kể từ ngày 01/01/2004. Còn số dự án đầu tư trước đây không thuộc lĩnh vực, ngành nghề và địa bàn ưu đãi đầu tư thì nay sẽ được áp dụng ưu đãi theo luật mới. Việc bãi bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài chưa được quy định cụ thể đối với dự án đầu tư trước ngày 01/01/2004. Do vậy, Bộ tài chính nên có công văn hướng dẫn việc này theo hướng không thu thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài từ 01/01/2004. 3.2.5. Về ưu đãi, miễn giảm thuế Về danh mục B và C: Ta thấy rằng danh mục B và C còn thiếu một số địa bàn thuộc diện có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn quy định tại Nghị định 27 hướng dẫn thi hành luật ĐTNN; một số địa phương mới chia tách không được thể hiện trong danh mục và việc thống nhất danh mục B và C giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài chưa phù hợp với đặc thù của từng lĩnh vực. Trước đây, danh mục B và C quy định tại Nghị định 35/2002/NĐ-CP về KKĐTTN được xây dựng dựa vào tình hình thực tế để phân loại địa bàn (tỉnh, huyện , quận) có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn. Còn đối với ĐTNN danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn được thiết kế theo mức độ thu hút vốn ĐTNN vì các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm tới thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cũng vì lẽ đó mà nhiều KCN, KCX, KCNC thuộc địa bàn khó khăn và đặc biệt khó khăn được áp dụng theo quy định của lĩnh vực ĐTNN. Thực hiện nguyên tắc không phân biệt thuế TNDN giữa ĐTTN và ĐTNN nên danh mục B và C ban hành kèm theo Nghị đinh 164/2002/NĐ-CP được thống nhất xây dựng trên danh mục địa bàn B và C của lĩnh vực KKĐTTN có kết hợp rà soát lại danh mục địa bàn của lĩnh vực KKĐTNN. Tuy nhiên tại thời điểm soạn thảo danh mục B và C thì địa giới hành chính của 3 địa phương mới hiện nay là Đắc Nông, Điện Biên, Hậu Giang chưa hình thành rõ ràng; hai huyện mới tách là huyện Tam Nông và huyện Thanh Thuỷ của tỉnh Phú Thọ chưa chia tách nên cần phải rà soát, sửa danh mục B và C ban hành kèm Nghị định 164/2003/NĐ-CP cho phù hợp với quy hoạch phát triển vùng và lãnh thổ mới. - Về ưu đãi đầu tư đối với doanh nghiệp KCN, KCX, KCNC: Các KCN, KCX, KCNC hầu hết tập trung ở các vùng kinh tế trọng điểm của đất nước, các trung tâm đô thị lớn, thị trường tiêu thụ rộng nên không thuộc địa bàn danh mục B và C mới. Nghĩa là theo Nghị định 164 thì thời gian miễn giảm thuế đối với các khu này là dài hơn nhưng phải đáp ứng đủ điều kiện về địa bàn. Đây là một điều kiện rất khó thực hiện. Do đó để khuyến khích đầu tư, đặc biệt là ĐTNN vào các khu này nhằm phát triển các vùng kinh tế trọng điểm là một trong những điều kiện vô cùng cần thiết để phát triển nền kinh tế, thì cần phải có biện pháp để giải quyết vướng mắc này. Vì trước đây các khu này được ưu đãi rất nhiều. Theo luật ĐTNN, các khu này không những được hưởng mức thuế suất ưu đãi là 10%,15%,20% mà còn được hưởng mức thuế suất ưu đãi trong suốt thời hạn thực hiện dự án. Hiện nay, việc bãi bỏ thực hiện thuế suất ưu đãi suốt đời của dự án được coi là phù hợp vì : + Nếu áp dụng thuế suất ưu đãi (thực chất là giảm thuế) trong suốt thời hạn của dự án thì mức thuế suất phổ thông không còn có ý nghĩa, không thể hiện được yêu cầu động viên, điều tiết của Nhà nước đối với các doanh nghiệp. + Không có quy định về hưởng thuế suất ưu đãi trong suốt thời hạn dự án đối với các doanh nghiệp trong nước. + Thông lệ quốc tế không có quy định này + Áp dụng mức thuế suất ưu đãi suốt thời hạn của dự án thì các nhà đầu tư nước ngoài cũng không được lợi hơn, vì các nước nơi nhà đầu tư nước ngoài cư trú không quy định ưu đãi thuế đối với đầu tư ra nước ngoài (nếu cần hạn chế) hoặc chỉ quy định ưu đãi có thời hạn (thường rất ngắn). Hết thời hạn ưu đãi, nhà đầu tư nước ngoài phải nộp thuế TNDN theo quy định của nước nơi cư trú, sau khi đã trừ số thuế đã nộp ở nước ngoài. Hiện nay, điều kiện ưu đãi về thuế của các khu này giảm rất nhiều so với trước. Do tầm quan trọng của các khu này trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước như thu hút công nghệ tiên tiến, hiện đại của nước ngoài thì các khu này cần được hưởng ưu đãi theo tiêu chuẩn riêng. Chúng ta phải vận dụng Điều 37 của Nghị định 164 để giải quyết vướng mắc này. Theo Điều 37: “Đối với các khu kinh tế, các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư do Thủ tướng Chính phủ quyết định mức thuế suất ưu đãi và thời gian miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp nhưng tối đa không quá 04 năm miễn thuế, kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% số thuế phải nộp cho 09 năm tiếp theo”. Căn cứ vào Điều 37, Thủ tướng Chính phủ sẽ quyết định mức ưu đãi riêng cho các khu này. Trong đó có ưu đãi về thuế suất nhưng thời gian ưu đãi không phải là vô hạn mà có thời hạn ưu đãi nhất định; và phải thể hiện được sự phân biệt giữa DN trong khu với các DN ngoài khu; phân biệt giữa DN sản xuất với DN dịch vụ. 3.2.6. Về kê khai nộp thuế, quyết toán thuế Việc kê khai nộp thuế và quyết toán thuế nên áp dụng quy trình tự tính, tự khai, tự nộp. Việc chuyển đổi từ cơ chế doanh nghiệp tự kê khai và nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế sang cơ chế quản lý thuế mới theo phương thức : cơ sở sản xuất kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế là một bước cải cách căn bản thuế của Việt Nam đến 2010. Khác hẳn với phương thức quản lý thuế hiện tại, đây là cơ chế quản lý dựa trên sự tuân thủ, tự nguyện chấp hành pháp luật của người nộp thuế. Căn cứ vào các quy định của Luật thuế, CSKD tự kê khai, tự xác định nghĩa vụ thuế của mình và tự nộp vào NSNN thông qua kho bạc; đồng thời chịu trách nhiệm về tính chính xác và thời hạn kê khai, nộp thuế của mình. Trong cơ chế mới này, CSKD nộp tờ khai và nộp thuế cùng một lúc mà không cần có sự can thiệp của cán bộ thuế. Tờ khai thuế được gửi trực tiếp hoặc bằng đường bưu điện đến cơ quan thuế. Tiền thuế cùng với giấy nộp tiền được nộp trực tiếp (hoặc thông qua hệ thống ngân hàng) vào kho bạc Nhà nước, sau đó sẽ được Ngân hàng hoặc kho bạc xác nhận và chuyển đến cơ quan thuế để theo dõi tình hình nộp thuế. Tất cả các thủ tục trên đều do người nộp thuế tự thực hiện, chưa có sự kiểm tra, giám sát của cơ quan thuế. Các trường hợp sai sót về số liệu kê khai (do cơ quan thuế hoặc CSKD phát hiện ) sẽ được điều chỉnh vào tờ khai của tháng phát hiện sai sót. Việc quyết toán thuế sẽ được thực hiện tại tờ khai thuế của tháng cuối năm. Hiện nay, ngành thuế đang thí điểm áp dụng cơ chế này theo quyết định số 197/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 23/09/2003 về việc tổ chức thực hiện thí điểm cơ chế tự tính thuế, tự nộp thuế tại Cục thuế TP. Hồ Chí Minh và Cục thuế Quảng Ninh với các DNNN, DN có vốn ĐTNN và một số doanh nghiệp khác. Đó là những doanh nghiệp có ý thức chấp hành, tuân thủ nghĩa vụ nộp thuế tốt trong năm qua. Đây là bước đột phá đầu tiên, trong tương lai cơ chế này sẽ phải tiếp tục được áp dụng ở nhiều cục thuế khác nhau để mở rộng thực hiện thí điểm vào năm 2005 và dự định sẽ áp dụng trong cả nước vào 2007. Chế độ này sẽ đem lại hiệu quả cao trong quản lý vì: Thứ nhất : Tiết kiệm thời gian, công sức Cán bộ quản lý thu thuế hàng tháng sẽ không phải mất thời gian để tính toán lại số tiền thuế phải nộp, không mất thời gian đi gửi thông báo thuế. Trong cơ chế “thông báo thuế”, trường hợp đối tượng nộp thuế đã thực hiện nghiêm túc luật thuế, kê khai và tính toán chính xác số thuế phải nộp thì rõ ràng việc phải tính toán lại của cơ quan thuế là thừa và lãng phí thời gian, công sức. Thứ hai: Tiết kiệm chi phí quản lý hành chính về thuế Nhờ việc hàng tháng không phải gửi hành triệu thông báo thuế mà ngành thuế tiết kiệm được chi phí giấy mực, in ấn, cước phí bưu điện... đem lại một hiệu quả kinh tế không nhỏ, bởi chi phí hành thu càng thấp thì hiệu quả công tác thuế càng được nâng cao. Thứ ba: Nâng cao trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế Theo quy định hiện hành, trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế đối với tính chính xác của việc tính toán số thuế phải nộp không cao bởi vì số thuế của họ phải nộp được xác định theo thông báo của cơ quan thuế. Vì vậy, có thể có tình trạng các cơ sở kinh doanh tính toán số liệu một cách qua loa, đại khái và nếu cán bộ thuế kiểm tra không kỹ thì có thể dẫn đến xác định sai số thuế phải nộp mà các cơ sở kinh doanh đó không hề có lỗi. Với cơ chế tự kê khai, đối tượng nộp thuế phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tính trung thực của số liệu kê khai và cả tính chính xác của việc tính toán số thuế phải nộp. Nói cách khác, đối tượng nộp thuế được nâng cao trách nhiệm pháp lý trong việc kê khai thuế với Nhà nước. Thứ tư: Tạo tiền đề nâng cao hiệu quả công tác của cơ quan Thuế Nhờ việc không mất thời gian tính toán lại số thuế phải nộp của đối tượng nộp thuế và phát hành thông báo thuế, cán bộ nộp thuế có điều kiện tập trung thời gian và công sức cho các công việc quản lý khác như công tác thanh tra, kiểm tra, công tác đôn đốc thu nộp... Nhờ vậy, có điều kiện để nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế. 3.3. Điều kiện nhằm thực hiện tốt các giải pháp 3.3.1. Cải cách hệ thống hành thu Cải cách hệ thống hành thu là một điều kiện tiên quyết trong việc đảm bảo sự thành công trong việc thực hiện chính sách thuế. Thực tế đã chứng minh một hệ thống chính sách thuế tốt nhưng phương tiện tổ chức thực hiện không tốt sẽ cho ra đời những kết quả không theo ý đồ mong muốn và ngược lại. Vì vậy, điều kiện tiên quyết để có thể thực hiện thành công việc hoàn thiện hệ thống chính sách thuế TNDN là phải có một hệ thống hành thu phù hợp và hiệu quả. Một hệ thống hành thu tốt được đánh giá bởi bốn yếu tố cơ bản : Quy trình tổ chức hành thu phù hợp; tổ chức bộ máy hành thu hiệu quả; tổ chức nhân lực tinh thông, và điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại. Bốn yếu tố này có mối quan hệ biện chứng phụ thuộc lẫn nhau. - Về quy trình tổ chức hành thu: trong giai đoạn trước mắt nên được rà soát, điều chỉnh cho phù hợp với cơ chế tự kê khai, tự tính thuế hiện nay; rà soát các thủ tục hành chính để bước đầu nghiên cứu xây dựng hệ thống thủ tục quảnlý hành chính thuế thống nhất; nghiên cứu thử nghiệm cơ chế tự tính thuế, tự kê khai, nộp thuế đối với doanh nghiệp và hộ kinh doanh có sổ sách kế toán. - Tổ chức bộ máy ngành thuế phải đảm bảo mục tiêu tinh giản, hiệu quả, có tính đến việc tận dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong công tác quản lý để bố trí đội ngũ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao. Trong năm tới cần xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp bộ máy ngành thuế; đề nghị các cấp có thẩm quyền sửa đổi Luật thuế có liên quan, giao quyền điều tra, khởi tố các vụ vi phạm nghiêm trọng chính sách chế độ thuế cho cơ quan thuế thực hiện. Bộ máy ngành thuế nên hoàn thiện theo hướng tách bạch quyền hạn của cơ quan thuế với các cấp chính quyền địa phương nhằm đảm bảo tính độc lập của các cơ quan hành thu; đảm bảo tính thống nhất trong công tác điều hành và quản lý toàn ngành. Về tổ chức và đào tạo nhân lực : Đòi hỏi phải nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ, nắm vững những kiến thức kế toán, thành thạo về kỹ năng làm việc, kỹ năng quản lý, có trình độ tốt về tin học, ngoại ngữ, có phẩm chất đạo đức tốt và tận tuỵ với nghề nghiệp. Đề thực hiện được những mục tiêu này, cần phải chú trọng công tác bồi dưỡng, đào tạo cơ bản và đào tạo lại đội ngũ lãnh đạo cũng như công chức ngành thuế. Cần chú trọng đào tạo một đội ngũ cán bộ tinh nhuệ thực sự giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, am hiểu về chính sách chế độ, thành thạo về công tác quản lý để hình thành đội ngũ cán bộ đầu ngành, có khả năng giải quyết những vấn đề trong nước và quốc tế đáp ứng yêu cầu khắt khe của tiến trình hội nhập kinh tế. Bên cạnh đó cần phải xây dựng được đội ngũ cán bộ theo hướng chuyên môn hoá sâu theo từng chức năng công việc, phù hợp với mô hình quản lý thuế theo phương pháp tự tính, tự kê khai và tự nộp thuế. Thực hiện được điều đó việc đào tạo phải thực hiện qua ba cấp độ: đào tạo cơ bản, đào tạo chuyên sâu và đào tạo nâng cao theo từng đối tượng đào tạo. Từng bước áp dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý thuế để tăng cường hiệu qủa quản lý thuế TNDN: Một hệ thống chính sách thuế tiên tiến không thể vận hành tốt nếu không có những điều kiện hiện đại về cơ sở vật chất kỹ thuật. Trong đó, vấn đề quan trọng là đẩy mạnh tin học hoá ngành thuế, tập trung vào việc trang bị máy tính, soạn thảo các phần mềm quản lý hiệu quả, nâng cao năng lực xử lý thông tin máy tính cho các cán bộ thuế... Trong tương lai, việc ứng dụng tin học phải phục vụ cho việc quản lý đối tượng nộp thuế TNDN từ khâu đăng ký thuế, cấp mã số thuế, tính số thuế phải nộp cũng như tính số tiền phạt nộp thuế chậm. Đồng thời cũng phải phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra như kiểm tra tờ khai thuế, đối chiều chéo hoá đơn giữa các đơn vị mua và bán. Bên cạnh đó, mạng thông tin toàn ngành cũng phải nối với các cơ quan quản lý Nhà nước như cơ quan tài chính, cơ quan kế hoạch và đầu tư, kho bạc, đơn vị kinh doanh làm dịch vụ cho doanh nghiệp như ngân hàng, bưu điện, trung tâm giao dịch chứng khoán... làm cơ sở phối hợp thực hiện tốt mục tiêu quản lý được đề ra. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về thuế: Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm ngăn ngừa và xử lý kịp thời những vi phạm về thuế TNDN. Công việc này càng phải được chú trọng hơn khi áp dụng quy trình quản lý thuế mới là người nộp thuế tự kê khai, tự tính và tự nộp thuế.Vì với cơ chế hành thu mới thì nhiều phần việc của cơ quan thuế đảm nhận trước đây nay giao cho đối tượng nộp thuế thực hiện. Do vậy dẫn đến việc các đối tượng nộp thuế luôn cố ý lợi dụng cơ chế này để gian lận số tiền thuế phải nộp dưới mọi hình thức. Để các đối tượng nộp thuế kê khai, nộp thuế một cách tự giác và trung thực thì công tác thanh tra, kiểm tra thuế phải được tiến hành thường xuyên nhất là trong giai đoạn đầu thực hiện trên cơ sở phân loại đối tượng thanh tra, kiểm tra. Cần tập trung nhiều vào các đối tượng có qui mô lớn, có lý lịch kinh doanh không tốt, độ tín nhiệm không cao, hoạt động trong các lĩnh vực ngành nghề có khả năng gian lận, vi phạm cao, thường xuyên gian lận về thuế TNDN. Khung hình phạt và cách xử lý thích đáng là điều quan trọng để ngăn chặn các hành vi sai phạm và có tác động răn đe để tạo ra ý thức và thói quen tốt cho các đối tượng trong việc chấp hành pháp luật thuế. 3.3.2. Đào tạo đội ngũ các cán bộ hoạch định chính sách thuế giỏi về chuyên môn, am hiểu về lĩnh vực thuế. Các cán bộ làm chính sách thuế phải có trình độ chuyên môn giỏi, có kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực thuế, có khả năng phân tích, tổng hợp các vấn đề phát sinh, và sự phản hồi của các đối tượng nộp thuế, cũng như của các cơ quan chức năng liên quan, phải có tầm nhìn chiến lược để đề ra các chính sách thuế phù hợp với sự thay đổi của nền kinh tế và các mục tiêu kinh tế-xã hội trong từng thời kỳ. Khi xây dựng chế độ ưu đãi thuế TNDN bên cạnh việc nghiên cứu các điều kiện và môi trường đầu tư hiện tại trong các nước một cách kỹ lưỡng, cần thu thập các số liệu liên quan đến tình hình đầu tư để phục vụ tốt cho việc dự đoán và hoạch định các chính sách liên quan, tranh việc sửa đổi thường xuyên chế độ ưu đãi làm cho đối tượng nộp thuế nhận thức rằng hệ thống thuế là phức tạp và khó tuân thủ, gây tâm lý không tốt cho các nhà đầu tư. Để làm được điều này thì công tác đào tạo được tiến hành thường xuyên, và bên cạnh đó các cán bộ hoạch định chính sách cũng phải thường xuyên trau dồi kiến thức, đặc biệt phải nhanh nhạy trong việc nắm bắt thông tin phản hồi từ việc thực hiện chính sách thuế TNDN. Trước đây, việc hoạch định chính sách thuế TNDN do Tổng cục thuế thực hiện, nhưng hiện nay khi đã thành lập Vụ chính sách thuế - Bộ tài chính thì việc hoạch định chính sách thuế sẽ dần chuyển sang cho vụ này thực hiện. Do đây là một vụ mới thành lập, cán bộ hầu hết được thuyên chuyển từ bộ phận khác sang nên còn thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực hoạch định chính sách và trình độ về lĩnh vực thuế có hạn chế. Bên cạnh đó số cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi còn thiếu rất nhiều. Trong thời gian tới vụ phải chú trọng đến công tác tuyển dụng và đào tạo; đặc biệt phải xây dựng một ban chuyên gia giỏi chuyên về hoạch định chính sách riêng cho từng loại thuế có như vậy các chính sách tạo ra mới có kết quả tốt. 3.3.3. Cơ quan hoạch định chính sách thuế TNDN phải có mối quan hệ chặt chẽ với doanh nghiệp và các cơ quan chức năng có liên quan. Điều này thể hiện ở việc trước khi ban hành các dự thảo về thuế thu nhập doanh nghiệp cần phải lấy ý kiến đóng góp của các Doanh nghiệp, cũng như của các cơ quan chức năng có liên quan. Xem xét, phân tích kỹ sự thay đổi của chính sách thuế TNDN có ảnh hưởng đến sự điều chỉnh của các văn bản luật khác như thế nào; ảnh hưởng gì tới quyền lợi của các Doanh nghiệp... Bởi vì thuế TNDN có đối tượng điều chỉnh rộng, lại liên quan đến rất nhiều các luật thuế khác như Luật ĐTNN, luật KKĐTTN... nếu không có có sự đóng góp của các doanh nghiệp và của các cơ quan liên quan thì sẽ không đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống chính sách của các loại thuế khác, gây ra sự khập khiễng trong việc thực hiện chính sách thuế TNDN. Và sau khi chính sách đã được đưa vào sử dụng sẽ gặp nhiều khó khăn phát sinh, nhiều vướng mắc từ phía các doanh nghiệp và lại sẽ phải sửa đổi gây ra sự bất ổn định của hệ thống chính sách. Điều này tạo ra tâm lý không yên tâm cho các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, từ đó sẽ cản trở quyết định đầu tư. 3.3.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền chính sách, định hướng cải cách thuế Công tác tuyên truyền chính sách, định hướng cải cách thuế phải được tiến hành thường xuyên và có hệ thống đối với đối tượng nộp thuế và đối với toàn xã hội nhằm tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các tầng lớp nhân dân. Việc tuyên truyền, hướng dẫn về chính sách thuế TNDN mới một cách kịp thời đến các doanh nghiệp, các nhà đầu tư là rất quan trọng. Qua đó giúp các nhà đầu tư, các doanh nghiệp hiểu rõ về chính sách thuế mới, giúp họ thực hiện theo đúng pháp luật. Khi nào chính sách thuế TNDN được các doanh nghiệp nắm rõ và nghiêm túc chấp hành thì khi đó chính sách thuế đó mới đi vào cuộc sống và việc hoạch định chính sách thực sự có hiệu quả. Thuế TNDN là một công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước, và mọi doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh đều phải có trách nhiệm đóng thuế để đảm bảo việc thi hành các chính sách của Nhà nước, vì số thu từ thuế phục vụ cho lợi ích chung của toàn xã hội. Do vậy, chính sách thuế TNDN phải được phổ biến cho mọi người dân được biết và để họ nhận ra nghĩa vụ phải chấp hành của mình. Các nhà làm luật phải thường xuyên tổ chức các diễn đàn về chính sách thuế với các doanh nghiệp, và gửi các công văn hướng dẫn đến các doanh nghiệp để họ có thể giải đáp những thắc mắc của mình. Bên cạnh đó, việc sửa đổi bổ sung luật thuế TNDN nhằm tuân thủ nguyên lý có hệ thống và logic khoa học của luật thuế về thực chất không làm thay đổi gánh nặng thuế khoá lại gây tâm lý không ổn định đối với các doanh nghiệp và các nhà đầu tư. Vì vậy, để thực hiện chương trình hoàn thiện cải cách có hiệu quả, lộ trình cải cách hoặc thay đổi bổ sung nên được công khai để các doanh nghiệp yên tâm hoạch định chiến lược hoạt động của họ trong từng giai đoạn. Do vậy, công tác tuyên truyền chính sách và định hướng cải cách chính sách thuế cần được coi như là một điều kiện quan trọng đảm bảo cho sự thành công của việc hoàn thiện cải cách thuế ở nước ta trong giai đoạn sau. 3.3.5. Hoạt động dịch vụ tư vấn thuế nói chung và thuế TNDN nói riêng cần phải được coi trọng phát triển Dịch vụ tư vấn thuế là dịch vụ cung cấp các thông tin, kiến thức, cách xử lý các mối quan hệ liên quan đến đối tượng nộp thuế, tính thuế, thuế suất, thủ tục khai nộp thuế, điều kiện miễn giảm thuế, hoàn thuế... cho đối tượng phải nộp thuế có nhu cầu tư vấn về thuế. Dịch vụ tư vấn thuế tồn tại dưới hai dạng chủ yếu là dịch vụ tư vấn công do các cơ quan thuế cung cấp cho đối tượng nộp thuế để họ thực hiện tốt nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước và dịch vụ tư do các tổ chức, nhà tư vấn thuế cung cấp cho khách hàng theo hợp đồng. Trong thời gian vừa qua, Tổng cục thuế đã tiến hành cho phát triển thí điểm mô hình tư vấn thuế công do các Cục thuế thực hiện ở năm địa phương là TP. Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Thừa Thiên Huế, An Giang và Hà Nội. Qua hơn một năm thí điểm, kết quả cho thấy là các đối tượng nộp thuế rất ủng hộ mô hình này vì công tác tập huấn tuyên truyền không thể đáp ứng hết được các thắc mắc cụ thể, muôn hình, muôn vẻ của các doanh nghiệp. Tuy nhiên hoạt động tư vấn thuế ở nước ta hiện nay gần như mới chỉ đang trong quá trình vận hành. Trong những năm tới, khi hệ thống chính sách thuế được dần dần hoàn thiện, nhu cầu đòi hỏi hoạt động dịch vụ tư vấn thuế sẽ ngày càng bức xúc. Nhà nước cần phải có những biện pháp hỗ trợ tích cực cả về mặt hành lang pháp lý lẫn những điều kiện vật chất ban đầu để, trước hết, phát triển dịch vụ tư vấn thuế công, sau nữa, là phát triển dịch vụ tư vấn thuế độc lập nhằm giúp các đối tượng nộp thuế có điều kiện thực hiện tốt nghĩa vụ thuế của Nhà nước nói chung và thuế TNDN nói riêng. Hoạt động tư vấn thuế cần được đẩy mạnh phát triển, phù hợp với chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2001-2010 nhưng để cho hoạt động này không rơi vào tình trạng hình thức, kém hiệu quả, chúng ta cần quan tâm đến các vấn đề sau: Phải đảm bảo thông tin tư vấn trở thành thông tin chính thống, có tác dụng định hướng đúng đắn về pháp luật thuế để các đối tượng thuế sử dụng có hiệu quả nhất. Người làm tư vấn phải chịu trách nhiệm về những thông tin, ý kiến tư vấn của mình, theo đó đảm bảo độ tin cậy của thông tin tư vấn và vai trò của tư vấn mới ngày càng được nâng cao. Chủ động lồng ghép hoạt động tư vấn vào công tác tuyên truyền trên phương tiện thông tin đại chúng để “một người hỏi mà nhiều người được biết”, mạnh dạn đưa tư vấn vào các cuộc hội thảo, các diễn đàn đối thoại... Các hình thức tư vấn cũng cấn phải được đa dạng đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, sử dụng nhiều hình thức tư vấn thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hiện đại chưa được phổ biến (như tư vấn qua điện thoại, fax, tư vấn qua mạng thông tin internet...), một trang Web tư vấn hay một hộp thư tự động giải đáp những thắc mắc thuộc nội dung các luật thuế và quản lý thu thuế là cần thiết để nâng cao hiệu quả tư vấn. Các chuyên gia tư vấn hiện nay không chỉ thiếu về số lượng mà năng lực tư vấn cũng còn là một vấn đề bất cập. Do vậy, để thúc đẩy dịch vụ tư vấn thuế phát triển thì cần phải quan tâm đến việc đào tạo, nâng cao năng lực cho các chuyên gia, cán bộ làm công tác tư vấn thuế; đẩy mạnh hội nhập trong lĩnh vực thuế bằng việc tạo điều kiện cho các tổ chức tư vấn thuế trong nước thuê chuyên gia nước ngoài vào làm việc. Tăng cường công tác tuyên truyền cho các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ tư vấn thuế trong hoạt động của mình như là một biện pháp minh bạch hóa tình hình tài chính doanh nghiệp và chấp hành tốt nghĩa vụ thuế với Nhà nước. LỜI KẾT LUẬN Thuế Thu nhập doanh nghiệp là một sắc thuế đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong chính sách thuế trực thu nói riêng và hệ thống thuế nói chung. Trải qua quá trình phát triển, hệ thống thuế của nước ta trong đó có thuế TNDN không ngừng được sửa đổi, bổ sung, cải cách và đổi mới để thích nghi với sự vận động của nền kinh tế. Luật thuế TNDN mới ra đời đã đáp ứng được yêu cầu của đông đảo các doanh nghiệp là tạo ra một mặt bằng phát lý chung về thuế TNDN cho mọi thành phần kinh tế, không phân biệt DNTN với DN có vốn ĐTNN; thực sự tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng; đáp ứng nguyên tắc không phân biệt đối xử tạo điều kiện cho Việt Nam gia nhập tổ chức WTO và hội nhập quốc tế. Thông qua việc nghiên cứu chính sách thuế TNDN dưới góc độ pháp luật của thuế, bằng phương pháp định tính, định lượng, phương pháp tư duy khoa học và logic, chuyên đề đã đạt được các kết quả sau: Thứ nhất : nghiên cứu một cách toàn diện về thuế TNDN trên thế giới và ở Việt Nam; kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong quá trình hoàn thiện chính sách thuế TNDN, những tiến bộ mà Việt Nam cần học hỏi. Thứ hai: Nêu nên được thực trạng của việc áp dụng chính sách thuế TNDN ở nước ta, kết quả thu thuế và ưu đãi thuế TNDN từ khi có luật thuế TNDN đến nay. Đồng thời đánh giá những mặt tích cực và đưa ra những hạn chế của chính sách thuế mới. Và cuối cùng quan trọng nhất là chuyên đề đã đưa ra các mục tiêu cần đạt được của thuế TNDN trong thời gian tới, và đề xuất một số biện pháp sửa đổi, bổ sung luật thuế TNDN cũng như các điều kiện để thực hiện chính sách Thuế TNDN được tốt hơn. Về bản thân khi nghiên cứu chuyên đề này em cũng đã tiếp cận được có hệ thống hơn cả về phương diện lý luận và thực tiễn của chính sách thuế TNDN nói riêng và hệ thống thuế nói chung. Qua chuyên đề này, em muốn góp một phần nhỏ bé của mình vào việc tuyên truyền chính sách thuế TNDN mới, đồng thời đưa ra một số biện pháp để sửa đổi, bổ sung chính sách thuế TNDN để chính sách thuế TNDN ngày càng phù hợp và hoàn thiện hơn. Trong quá trình thực hiện chuyên đề, em đã nhận được sự đóng góp ý kiến, chỉ bảo nhiệt tình của cô giáo hướng dẫn; sự giúp đỡ về việc tìm tài liệu cũng như giải đáp các thắc mắc và góp ý của các cô, chú, trong Phòng chính sách thuế I - Vụ chính sách thuế- Bộ tài chính. Cũng qua chuyên đề này, em xin gửi lời cảm ơn tới cô giáo hướng dẫn và các cô, chú trong Phòng chính sách thuế I. Em cũng rất mong tiếp tục nhận được sự đóng góp ý kiến, sự phê bình của các thầy cô giáo và những người quan tâm để đề tài của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 16 tháng 6 năm 2004 Sinh viên Dương Thị Phương Nhàn DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: TS. Nguyễn Thị Bất, TS. Vũ Duy Hào, 2002, Giáo trình Quản lý thuế, NXB Thống kê. Bộ tài chính, 2003, Các văn bản pháp luật về kế toán, thống kê thuế, NXB tài chính. Viện nghiên cứu và đào tạo về quản lý, 2003, Hướng dẫn thực hiện luật kế toán và thuế mới, NXB Tài chính. Thuế và cải cách thuế ở nước ta, 2002, NXB Tài chính. Một số kinh nghiệm cải cách tài chính ở Trung Quốc, 1999. Báo cáo Vụ về đề án sửa đổi Luật thuế TNDN ngày 07/05/2002 của phòng chính sách thuế. Báo cáo gửi Thủ tướng chính phủ về định hướng xử lý các kiến nghị về chính sách thuế mới của Bộ tài chính ngày 18/03/2004. Báo cáo của Bộ tài chính về việc thực hiện 3 luật thuế mới (tài liệu phục vụ cuộc họp Ban nghiên cứu của Thủ tướng chính phủ ngày 11/3/2004). Báo cáo đánh giá kết quả thu quý I/2004 và các biện pháp đẩy mạnh thu quý II/2004- Vụ chính sách thuế ngày 29/03/2004. Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2003 - Tổng cục thuế. Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2001-2010 - Tổng cục thuế Tạp chí Thuế Nhà nước: Các số 1,4,5,7,8,9,10,11/2003. Tạp chí tài chính: Các số 1/2002, 4,10,12/2003,1, 3/2004 Thông tin tài chính, thời báo tài chính và một số báo, tạp chí khác. Các văn bản pháp luật về luật thuế TNDN , luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật đầu tư nước ngoài. Một số biện pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP Một số vấn đề chung về thuế 1.1.1.Khái niệm và đặc điểm 1.1.2.Phân loại thuế và yếu tố cấu thành của một sắc thuế Thuế Thu nhập doanh nghiệp Khái niệm và đặc điểm Vai trò của thuế TNDN Nội dung cơ bản của thuế TNDN 1.3. Vấn đề cần quan tâm khi xây dựng chính sách thuế TNDN CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Nội dung cơ bản của chính sách thuế TNDN ở Việt Nam 2.2. Kết quả áp dụng chính sách thuế TNDN ở Việt Nam trong thời gian qua 25 2.2.1.Kết quả của việc thu thuế 2.2.2.Kết quả của việc ưu đãi, miễn giảm thuế 2.3.Đánh giá về chính sách thuế TNDN mới áp dụng ở Việt Nam 2.3.1.Những tác động tích cực 2.3.2.Những hạn chế của chính sách thuế TNDN ở Việt Nam CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THUẾ TNDN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Mục tiêu của việc hoàn thiện 3.2. Một số biện pháp cần hoàn thiện chính sách thuế TNDN 3.2.1. Về phạm vi áp dụng luật thuế TNDN 3.2.2. Về chi phí hợp lý 3.2.3. Quy định về chuyển lỗ 3.2.4. Với các vấn đề phát sinh do không rõ về hiệu lực thi hành 3.2.5. Về ưu đãi, miễn giảm thuế 3.2.6. Về kê khai nộp thuế, quyết toán thuế 3.3. Điều kiện nhằm thực hiện tốt các biện pháp 3.3.1. Cải cách hệ thống hành thu 3.3.2. Đào tạo đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách giỏi về chuyên môn, am hiểu về lĩnh vực thuế 3.3.3. Cơ quan hoạch định chính sách thuế TNDN phải có mối quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp và các cơ quan chức năng có liên quan 3.3.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền chính sách, định hướng cải cách thuế 3.3.5. Hoạt động tư vấn thuế nói chung và thuế TNDN nói riêng cần phải được coi trọng phát triển LỜI KẾT LUẬN KÍ HIỆU VIẾT TẮT DN Doanh nghiệp DNTN Doanh nghiệp trong nước ĐTNN Đầu tư nước ngoài KCN Khu công nghiệp KCX Khu chế xuất KCNC Khu công nghệ cao TNDN Thu nhập doanh nghiệp TNCT Thu nhập chịu thuế TTĐB Tiêu thụ đặc biệt GTGT Giá trị gia tăng TNCN Thu nhập cá nhân HTX Hợp tác xã CSKD Cơ sở kinh doanh NSNN Ngân sách Nhà nước 70

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThue (1).doc
Tài liệu liên quan