Đề tài “Một số biện pháp rút ngắn khoảng cách lịch sử - văn hóa ở
học sinh dân tộc miền núi khi dạy học truyện ngắn “Một ngƣời Hà Nội”
của nhà văn Nguyễn Khải” có mục đích phát hiện ra những khó khăn trở
ngại, những vướng mắc mà học sinh các dân tộc miền núi gặp phải trong tiếp
nhận “Một người Hà Nội”. Từ đó, luận văn đề xuất một số biện pháp nhằm
rút ngắn khoảng cách đó ở đối tượng học sinh này để dạy học có hiệu quả
truyện ngắ n “Một người Hà Nội”.
Đề tài đã triển khai theo trình tự hợp lý và thu được kết quả bước đầu:
Nghiên cứu những cơ sở lí luận và thực tiễn làm tiền đề định hướng cho việc
phát hiện ra những khoảng cách về lịch sử - văn hóa ở học sinh dân tộc miền
núi khi học “Một người Hà Nội”(Chương I). Luận văn tiến hành khảo sát từ
trong thực tế tiếp nhận của học sinh dân tộc miền núi đang học tập tại trường
Văn hóa I - Bộ Công an để phát hiện ra những khoảng cách về lịch sử - văn
hóa, những nguyên nhân tạo ra những khoảng cách lịch sử - văn hóa. Từ đó,
luận văn đề xuất một số biện pháp nhằm rút ngắn nhữ ng khoảng cách đó ở
học sinh dân tộc miền núi khi học “Một người Hà Nội”(Chương II). Cuối
cùng, để kiểm tra tính khả thi của những biện pháp nhằm rút ngắn khoảng
cách lịch sử - văn hóa ở học sinh dân tộc miền núi khi học “ Một người Hà
Nội” luận văn đã đề xuất một thiết kế bài dạy phù hợp với năng lực cảm thụ
và năng lực tư duy của học sinh dân tộc miền núi. Từ thiết kế bài dạy, luận
văn tiến hành dạy một giờ thực nghiệm cho đối tượng học sinh là người dân
tộc miền núi đang học tập tại trường Văn hoá I - Bộ Công an - Tỉnh Thái
Nguyên để kiểm tra tính khả thi của những vấn đề mà luận văn đề xuất
(Chương III).
106 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1712 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp rút ngắn khoảng cách lịch sử - văn hóa ở học sinh dân tộc miền núi khi dạy học truyện ngắn Một người Hà Nộ’ của nhà văn Nguyễn Khải, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
háng 12 - năm 1975, bà Hiền tổ chức liên hoan mừng con trai
từ chiến trận trở về. Dũng kể lại những chuyện chiến đấu.
Đoạn 7: Nói chuyện về Hà Nội những năm 90 của thế kỉ trước, khi đất
nước đã bước vào thời kì đổi mới.
2.3 Hướng dẫn học sinh tìm hiểu hình tượng nhân vật Bà Hiền
2.3.1 Bà Hiền thời son trẻ
Gợi dẫn 2: Ở đoạn 2 của tác phẩm, người kể chuyện cho biết thời con
gái bà Hiền là một cô gái đẹp, thông minh được bố mẹ cho phép mở phòng
tiếp khách văn chương. Vậy mà cô gái đó đã chọn chồng như thế nào? Chi
tiết đó nói lên tính cách gì ở bà? Là những người đang trưởng thành, các em
học được điều gì ở Bà Hiền?
Yêu cầu:
Trong đoạn 2 của tác phẩm (SGK lược bỏ), người kể chuyện cho biết Bà
Hiền xuất thân trong một gia đình giàu có lương thiện ở Hà Nội. Bà là người
con gái xinh đẹp, thông minh, giao tiếp rộng rãi với giới văn nghệ sĩ. Vậy mà
gần 30 tuổi Bà Hiền mới lấy chồng, người bà chọn là một ông giáo cấp tiểu
học hiền lành, chăm chỉ làm cho ai cũng phải kinh ngạc.Vì sao cả Hà Nội phải
kinh ngạc? Vì theo thói thường Bà Hiền sẽ lấy một ông quan đốc, quan trạng
hay một văn sĩ, thi sĩ nổi tiếng nào đấy, nhưng Bà Hiền đã vượt qua thói
thường ấy, bà không chạy theo những tình cảm lãng mạn viển vông, không
hám danh, hám lợi mà coi chuyện hôn nhân gia đình là chuyện nghiêm túc,
lâu dài, bền vững. Vì thế bà chọn một ông giáo tiểu học hiền lành chăm chỉ.
Điều đó nói lên Bà Hiền từ thời son trẻ đã là người có bản lĩnh vững vàng.
2.3.2 Bà Hiền thời làm vợ, làm mẹ
Gợi dẫn 3: Bà Hiền có quan niệm như thế nào về vai trò của người vợ
trong gia đình và bà đã làm vợ như thế nào?
Yêu cầu:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 77
Bà Hiền ý thức rất rõ về vai trò của người vợ trong gia đình. Bà phê bình
người cháu của mình - một cán bộ kháng chiến: “Mày bắt nạt vợ mày quá,
không để nó tự quyết định bất cứ việc gì, vậy là hỏng. Người đàn bà không
làm nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chẳng ra sao”. Trong bà luôn có một
quan niệm đúng đắn về bình đẳng nam nữ một cách tự nhiên, giản dị vì bà
cho rằng thiên chức của người làm vợ là như vậy. Chính vì có nhận thức ấy
cho nên những người phụ nữ gốc Hà Nội thường là những người vợ đảm đang
tháo vát.
Gợi dẫn 4: Bà Hiền đã có tính toán như thế nào trong việc sinh con?
Yêu cầu:
Người Việt Nam ta thời Bà Hiền làm mẹ, có quan niệm phổ biến: “Trời
sinh voi trời sinh cỏ” cho nên thích đẻ nhiều con để có “con đàn cháu đống”.
Nhưng Bà Hiền đã vượt qua quan niệm đó: sau khi sinh người con thứ năm bà
quyết định không sinh nữa để lo lắng chu toàn cho đời sống của các con sau
này. Điều đó cho ta thấy bản lĩnh cá nhân của Bà Hiền. Bà nhận thức rõ trách
nhiệm làm cha làm mẹ là không chỉ sinh ra con mà là chuẩn bị cho con một cuộc
sống tương lai không bị lệ thuộc, có thể sống tự lập và chuẩn bị cho họ làm một
con người có nhân cách mà trước hết là lòng tự trọng và năng lực tự lập.
Gợi dẫn 5: Bà Hiền đã dạy con như thế nào và cách dạy đó đã đem lại
kết quả ra sao? những bậc làm cha, làm mẹ nói chung và người miền núi nói
riêng có thể học tập được điều gì về cách dạy dỗ con cái của bà Hiền?
Yêu cầu:
Bà Hiền dạy con ngay từ lúc con còn nhỏ và dạy chúng từ những điều
nhỏ nhặt nhất cho đến những điều lớn lao. Khi các con còn nhỏ ngồi vào bàn
ăn bà thường chú ý sửa chữa cách ngồi, cách cầm bát, cầm đũa, cách múc
canh và cả cách nói chuyện trong bữa ăn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 78
Bà dạy con về ý thức mình là người Hà Nội, mà Hà Nội là chuẩn mực
văn hoá truyền thống của người Việt. Bà dạy con từ cách ăn mặc, đi đứng, nói
năng cũng phải đúng mực, nghĩa là phải biết cách ứng xử văn minh, lịch sự
cho đến ý thức tự hào là người Hà Nội, tức là phải“biết tự trọng, biết xấu hổ”.
Con người ta mà không có lòng tự trọng, không biết xấu hổ thì không phải là
người có nhân cách. Những điều nhỏ nhặt mà Bà Hiền dạy con chứa đựng cả
chiều sâu văn hoá truyền thống của người Việt Nam. Đây là bài học quý báu
cho các bậc làm cha, làm mẹ trong việc dạy dỗ, rèn giũa con cái. Cách dạy
con đó của Bà Hiền đã mang lại kết quả như bà mong muốn. Thời chống Mĩ
cứu nước, những đứa con của bà tình nguyện ra chiến trường chiến đấu. Họ
đều là những người biết tự trọng, không ích kỉ, không hèn nhát, lại giàu tình
thương người và khi chiến thắng trở về, họ vẫn không nguôi nhớ đến người
bạn thân đã hi sinh trước ngày miền Nam giải phóng có mấy ngày và biết
thương yêu cả mẹ của người bạn đó. Lời bà nói về việc con bà xin ra trận
đánh Mĩ cho ta thấy rõ lòng yêu nước của một bà mẹ có bản lĩnh, có trí tuệ và
nhân cách “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào
sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Bà không hề giấu
giếm nỗi đau đớn và lo lắng khi con ra trận nhưng ý thức về danh dự đã khiến
bà vững vàng trước thử thách. Bà không muốn con mình sống trong sự đớn
hèn “ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là
một cách giết nó”. Và chính bà cũng không muốn mình là người ích kỉ “Tao
cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả hoặc chết
cả, vui lẻ thì có hay hớm gì?”, Bà lại không hề tỏ ra vui vẻ, ồn ào một cách
giả tạo như một số người nông nổi. Bản lĩnh cá nhân của bà còn biểu hiện rõ ở
các đức tính: thẳng thắn, chân thành, không giấu giếm quan điểm, thái độ của
mình trước mọi hiện tượng xung quanh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 79
Vào những năm đầu Hà Nội vừa giải phóng, người cháu của bà hỏi:
“Nước độc lập rồi vui quá cô nhỉ” bà trả lời: “Vui hơi nhiều nói cũng hơi
nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ”. Theo bà “chính phủ can thiệp vào nhiều
việc của dân quá”.
Gợi dẫn 6: Bản lĩnh của Bà Hiền nói riêng và của những người phụ nữ
trong giai tầng thượng lưu Hà Nội nói chung còn được thể hiện rõ ở những
chi tiết nào trong tác phẩm?
Yêu cầu: Truyện ngắn này không chỉ đem đến cho ta hiểu biết về một
người Hà Nội mà còn cho ta biết đến bản lĩnh của cả những người phụ nữ
trong giới thượng lưu của đất Hà Thành. Người kể chuyện cho biết: “Trong
mấy chục năm sống dưới chế độ ta (...) ngày thường các bà mặc áo bông
ngắn, quần thâm đi dép hoặc đi guốc, vuông khăn len tơi tớp buộc quanh cổ
hay bịt đầu, là các cô Lọ Lem của mỗi ngày, có phải trò chuyện mình cũng dễ
ăn nói buông tuồng, thiếu ý tứ. Tất cả đều bình dân, tất cả đều có quyền ăn
nói thô tục ”. Nhà văn Nguyễn Khải thật là hóm hỉnh khi tái hiện lại rất chân
thật và sinh động cách ăn mặc, đi đứng, nói năng của phụ nữ Hà Nội một thời
kì dài sống trong chế độ bao cấp.
Nhưng những người phụ nữ Hà Thành gốc không hề để đánh mất “chất
Hà Nội” ở họ: “mỗi tháng cô chú đều tổ chức một bữa ăn bạn bè, gồm các
cựu công dân Hà Nội, những tên tuổi đã thành danh của đất kinh kì”. Họ mặc
đồ đẹp, chỉnh tề. Các ông “mũ dạ, áo da, áo ba- đờ- xuy, bỏ áo khoác ngoài
bên trong còn mặc bộ đồ, thắt cà vạt” còn các bà “như những diễn viên trên
sân khấu, lược giắt trâm cài hoa hột lấp lánh... áo nhung, áo dạ đeo ngọc,
đeo dây đi lại uyến chuyển”. Những chi tiết trên cho ta biết được bản lĩnh của
người Hà Thành và cũng thấy rõ cái sắc sảo, hóm hỉnh của ngòi bút Nguyễn
Khải. Đây là điểm nhìn riêng của ông và lời đề nghị của ông về việc khôi
phục văn hóa ẩm thực của người Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 80
2.3.3 Bà Hiền lúc tuổi già
Gợi dẫn 7: Khi về già, Bà Hiền sống như thế nào? và ở bà có gì thay đổi
trong tâm tính? bà suy nghĩ, nhận xét như thế nào về Hà Nội ngày nay?
Yêu cầu:
Khi về già, Bà Hiền vẫn giữ nguyên lối sống sang trọng, thanh lịch với
những đồ dùng và những nếp sinh trong giới thượng lưu Hà Nội xưa “Nơi tiếp
khách của cô sau tấm bình phong cao hơn đầu người bằng gỗ chạm suốt mấy
chục năm không hề thay đổi”. Trong câu chuyện Bà Hiền kể cho người cháu
từ thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội công tác ghé thăm bà, người kể chuyện
nhắc lại lời Bà Hiền: “với người già, bất kể ai, cái thời đã qua luôn luôn là
thời vàng son. Mỗi thế hệ đều có thời vàng son của họ. Hà Nội thì không thế.
Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mỗi lứa tuổi”. Cũng qua cuộc
gặp gỡ này, người kể chuyện phát hiện ra “chất Hà Nội” ở Bà Hiền được khắc
họa rõ nét trong nếp sống sang trọng, lịch lãm, quí phái, qua thái độ ung dung,
tự tại của một người già từng trải (Cô không bình luận một lời nào về nhận xét
nghiệt ngã của người cháu), qua trí tuệ sắc sảo (khi nói về luật tự nhiên) và
qua sự hòa mình của bà vào cảnh sắc Hà Nội. Bà tiêu biểu cho bản lĩnh, cốt
cách của người Hà Nội, mà cốt lõi của cốt cách đó là lòng tự trọng, là ý thức
sống sao cho xứng đáng là người Hà Nội, đại diện cho tinh hoa văn hóa của
cả nước.
Gợi dẫn 8 : Nhìn hình ảnh Bà Hiền sống trong tuổi già và nghe bà bày tỏ
ý kiến của mình về thời thế, người kể chuyện đã bình luận những gì về bà?
Yêu cầu:
Chứng kiến lối sống và suy tư của Bà Hiền lúc tuổi già, người kể chuyện
đã không thể không cảm phục và suy nghĩ về bà “Cô đã yếu nhiều, đã già
hẳn (...) nhưng cô vẫn là người của hôm nay, một người Hà Nội của hôm nay,
thuần túy Hà Nội, không pha trộn”. Tại sao người kể chuyện lại nói “cô vẫn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 81
là người của Hà Nội hôm nay”? Bởi vì qua câu chuyện cây si ở đền Ngọc
Sơn bị bão quật đổ được nhà nước ta làm sống lại, ta thấy Bà Hiền không chỉ
trọng vật chất mà còn quan tâm đến đời sống văn hóa tinh thần, tâm linh.
Người Hà Nội hôm nay là vậy. Bằng nhận xét này, người kể đã khẳng định:
Lối sống, cốt cách, suy nghĩ của Bà Hiền vẫn mang tất cả cái tinh hoa của
người Hà Nội, mà ngày nay, trong thời kì đổi mới lại càng phải phát huy,
nhân rộng ra. Hình ảnh Bà Hiền hòa mình vào trong cảnh sắc thiên nhiên Hà
Nội khi xuân về đã làm cho một người Hà Nội sống ở xa, nay trở về phải thốt
lên “Tết quá, Hà nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn lại một cái tết Hà Nội”.
Tình yêu thiết tha với Hà Nội và sự ngưỡng mộ chân thành đối với văn
hóa đất kinh kì đã khiến người kể chuyện không khỏi lo âu, nuối tiếc mỗi khi
nghĩ đến người Hà Nội xưa không còn nữa “Một người như cô phải chết đi thật
tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ”.
Tại sao tác giả lại coi nhân vật Bà Hiền là “hạt bụi vàng của Hà Nội”?
Nói đến hạt bụi là nói đến những vật nhỏ bé trong muôn vàn hạt nhỏ bé khác
bay trong không khí, còn hạt bụi vàng là hạt bụi quý báu. Bà Hiền là một hạt
bụi quý báu đó vì bà là một trong muôn vàn người Hà Nội khác mang trong
mình tinh hoa văn hóa truyền thống của người Hà Nội.
Gợi dẫn 9: Em có nhận xét gì về nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Khải
qua đoạn văn trữ tình ngoại đề ở cuối truyện?
Yêu cầu:
Nét đặc sắc của nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Khải ở đoạn trữ tình
ngoại đề cuối truyện là đặt một sự việc, một hiện tượng trước nhiều cách đánh
giá khác nhau, có khi đối lập nhau. Khi bàn luận về phố xá, dân tình Hà Nội
bây giờ, trong thời kì đổi mới, đã có những nhận xét khác nhau. Bà Hiền nói
“Nhiều người nói Hà Nội đã sống lại ”. Người cháu của bà lại có nhận xét
ngược lại “Có đúng một phần, phần xác thôi, còn phần hồn thì chưa”. Sở dĩ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 82
người cháu Bà Hiền có nhận xét khắc nghiệt như vậy là vì có mấy việc xảy ra
mà ông thấy không đẹp mắt khi được chứng kiến:
- Ông đạp xe trên đường bị một thanh niên đâm vào xe, hắn không những
không xin lỗi mà còn quay lại chửi “Tiên sư cái anh già”.
- Khi ông hỏi thăm đường thì “Có người trả lời, là nói sõng hoặc hất
cằm, có người cứ giương mắt nhìn”....
Không chỉ ở đoạn cuối truyện , mà ở các đoạn truyện khác trong tác
phẩm cũng được Nguyễn Khải trần thuật như vậy. Chẳng hạn, như việc đón
mừng thủ đô vừa mới được giải phóng, việc dạy con cái của Bà Hiền... Lối
trần thuật này đã tạo ra sự bình đẳng trong quan hệ giữa nhà văn với bạn đọc.
Nhà văn không áp đặt chân lí một chiều mà muốn đối thoại với bạn đọc để
đưa vào cuộc sống cái nhìn nhiều chiều.
2.4 Hướng dẫn học sinh tìm hiểu: Nét đẹp và chiều sâu văn hóa của
người Hà Nội ở nhân vật Bà Hiền
Gợi dẫn10 : Là người dân tộc miền núi, em thấy ở Bà Hiền đã toát lên
những nét đẹp văn hóa nào của người Hà Nội?
Yêu cầu:
“Một người Hà Nội” tái hiện lại cuộc sống của tầng lớp thượng lưu ở Hà
Nội qua các thăng trầm của lịch sử. Nguyễn Khải đi sâu khám phá và phát
hiện ra vẻ đẹp và chiều sâu văn hóa của người Hà Nội tiềm ẩn trong con
người bình thường.
* Nét đẹp về văn hóa vật chất
- Nhà ở rộng lớn: trong nhà có nhiều phòng. Phòng khách có nhiều tiện
nghi, đồ dùng sang trọng, quí giá. Phòng ăn bày trí gọn gàng, lịch sự, sạch sẽ“
Bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc
trong giấy bản và từng người ngồi đúng chỗ đã quy định”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 83
- Cái mặc sang trọng, quý phái: Với người Hà Nội “mặc là một nghệ
thuật”. Người đọc nhận ra vẻ đẹp văn hoá Hà Nội chính gốc ở Bà Hiền toả ra
từ cách ăn mặc lịch sự quý phái khiến cho “Tôi” phải thốt lên rằng: “Cái mặc
cũng sang trọng quá. Mùa đông ông mặc áo ba-đờ- xuy, đi giày da, bà mặc
áo măng- tô cổ lông, đi giày nhung đính hạt cườm”. Trong bữa tiệc gia đình
Bà Hiền tổ chức mời bạn bè là các cựu công dân Hà Nội, các ông xuất hiện
với “mũ dạ, áo ba- đờ-xuy, bỏ áo khoác ngoài bên trong còn mặc bộ đồ, thắt
cà vạt”. Khi tiệc bày xong “bà chủ xuất hiện trước như diễn viên sân khấu,
lược giắt trâm cài hoa hột lấp lánh, rồi một loạt bảy tám bà tóc đã bạc hoặc
nửa xanh nửa bạc, áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển”.
- Cái ăn: Người Hà Nội có nghệ thuật nấu ăn tuyệt vời. Họ coi trọng văn
hóa ẩm thực. Họ duy trì đều đặn thói quen sinh hoạt ăn uống. Bởi vì, họ cho
rằng đây là một văn hóa sống. Với gia đình Bà Hiền cứ “mỗi tháng lại tổ chức
một bữa ăn bạn bè, gồm các cựu công dân Hà Nội, những tên tuổi thành danh
của đất kinh kì ”.
* Nét đẹp về văn hóa tinh thần
Từ hình tượng nhân vật Bà Hiền - một người Hà Nội nhà văn Nguyễn
Khải phát hiện ra nét đẹp văn hóa tinh thần có ở trong con người Hà Nội đó là:
- Nét đẹp về ứng xử trong sinh hoạt hằng ngày:
Nét đẹp về văn hóa ứng xử của người Hà Nội được nhà văn Nguyễn
Khải phát hiện ở lời của Bà Hiền nhắc nhở con cháu: “Chúng mày là người
Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện,
buông tuồng ”.
- Nét đẹp trong làm ăn, sinh sống: Người Hà Nội rất thông minh, nhanh
nhẹn. Nhờ sự nhanh nhẹn, thông minh của mình, Bà Hiền đã khéo léo đưa gia
đình thích ứng với chế độ mới“từ cách sống, cách làm việc, và cả cách nói
năng nữa”. Mọi việc (việc nhà, việc nước) đều được bà sắp xếp, tính toán một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 84
cách chu toàn và bà luôn luôn tính đúng vì bà “không có lòng tự ái, sự ganh
đua, thói thời thượng chen vô”. Ở bà còn bộc rõ nét cá tính một con người
đầy bản lĩnh, vì thế bà: “đã tính là làm, đã làm là không thèm để ý đến những
lời đàm tiếu của thiên hạ”. Bà thẳng thắn bày tỏ thái độ của mình: “cả đời tao
chưa từng bị ai cám dỗ, kể cả chế độ”.
- Nét đẹp trong ý thức là một công dân của thủ đô: Người Hà Nội là
người dân thủ đô - mảnh đất nghìn năm văn hiến, nơi lắng kết, hội tụ những
tinh hoa văn hóa, là đại diện cho cả nước. Bà Hiền nhắc nhở con cháu: “chúng
mày là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được
sống tùy tiện, buông tuồng.
- Nét đẹp trong văn hóa dạy con:
Khi ở thời kì mà hầu hết người dân Việt Nam quan niệm rằng “Trời sinh
voi, trời sinh cỏ” thì Bà Hiền quyết định chấm dứt chuyện sinh đẻ ở tuổi 40.
Đó là quyết định sáng suốt xuất phát từ suy nghĩ, từ trách nhiệm của người
làm cha làm mẹ, bà chuẩn bị cho con một nhân cách sống không phụ thuộc “
có thể tự lập được”. Bà Hiền chú ý cách dạy con ngay từ khi chúng còn bé
như cách ăn, cách cầm đũa, cầm bát, cách nói năng… vì bà cho rằng đấy là
một văn hoá sống, văn hoá riêng của người Hà Nội.
Bà dạy con phải “biết tự trọng, biết xấu hổ”. Con người không có lòng tự
trọng, không biêt xấu hổ thì không phải là con người có nhân cách. Những
điều nhỏ nhặt mà Bà Hiền dạy con chứa đựng cả một chiều sâu văn hoá
truyền thống của người Việt Nam.
- Nét đẹp trong suy nghĩ và hành động khi đất nước có chiến tranh:
Thời chống Mĩ cứu nước, khi người con trai đầu tình nguyện nhập ngũ,
Bà Hiền không giấu giếm nỗi đau đớn và sự lo lắng của một người mẹ: “Tao
đau đớn mà bằng lòng”. Nhưng ý thức về danh dự đã khiến bà vững vàng, bà
dạy con phải biết tự trọng nên bà không muốn con mình sống trong sự hèn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 85
nhát: “vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè”; “Tao
không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường
sống để bạn nó phải chết, cũng là một cách giết nó” và bà cũng không muốn
mình là người mẹ ích kỉ: “Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà
mẹ khác”.
- Nét đẹp trong việc quan tâm đến văn hóa truyền thống, văn hóa
tâm linh:
Vào thời kì đất nước đổi mới, trong bộn bề phức tạp của cuộc sống
thường ngày, chúng ta nhận thấy một Hà Nội hôm nay đã thay đổi nhưng bà
Hiền vẫn kiên định, vẫn lưu giữ hồn văn hoá đất kinh kì, và dù “cô đã yếu
nhiều, đã già hẳn, ngoài bảy mươi rồi còn gì, nhưng cô vẫn là người của hôm
nay, thuần tuý không pha trộn”. Sau tấm bình phong, nơi tiếp khách của Bà
Hiền người đọc thấy vẹn nguyên cái hồn của Hà Nội được lưu giữ với vẻ đẹp
cổ kính, sang trọng và quý phái “suốt mấy chục năm không hề thay đổi”.
Không gian ấy khiến cho nhân vật “Tôi” khi đối diện với nó phải thốt lên
“bên ngoài trời rét, mưa rây lả lướt chỉ làm ẩm áo chứ không làm ướt, lại
nhìn một bà lão lau đánh cái bát thuỷ tiên, thấy tết quá, Hà Nội quá, muốn ở
thêm ít ngày ăn một cái tết Hà Nội”. Hình ảnh một bà lão ngoài bảy mươi
đang lau đánh cái bát thuỷ tiên men đỏ trong không khí giáp tết là một nét
phong lưu thanh lịch của người Hà Nội, nếu không phải là người gắn bó với
nó thì không hiểu, không thể cảm nhận được. Đấy là nét duyên, nét quyến rũ
của người Hà Nội. Suốt cuộc đời mình, Bà Hiền vẫn quen với nếp sống văn
hoá đó của người Hà Nội.
Trong câu chuyện của người cháu với Bà Hiền, người cháu đã có những
lời nhận xét không mấy vui vẻ về Hà Nội. Bà Hiền không bình luận một lời
nào mà bà lại có suy nghĩ “với người già, bất kể ai, cái thời đã qua luôn luôn
là thời vàng son. Mỗi thế hệ đều có thời vàng son của họ. Hà Nội thì không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 86
thế, thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mọi lứa tuổi”. Nhìn cây si bị
đổ mà bà nghĩ đến sự dời đổi, sự ra đi của một thời. Nhưng, nhờ sự nỗ lực của
chính quyền thành phố cây si được sống lại trổ lá non. Cây si sống lại là một
bằng chứng: Hà Nội có thể bị tàn phá nhưng Hà Nội vẫn sẽ là một Hà Nội
giàu truyền thống văn hóa được nuôi dưỡng suốt trường kì lịch sử.Việc cây si
sống lại còn chứng tỏ rằng: người Hà Nội không chỉ trọng vất chất mà còn
quan tâm đến đời sống văn hóa tinh thần, đời sống tâm linh.
3. Hướng dẫn học sinh tổng kết
3.1 Đặc sắc về nghệ thuật
Gợi dẫn11: “Một người Hà Nội” đã mang những nét đặc sắc nào về
nghệ thuật kể chuyện của nhà văn Nguyễn Khải?
Yêu cầu:
- “Một người Hà Nội” là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách nghệ
thuật văn xuôi Nguyễn Khải giai đoạn sau năm 1978. Đó là lối trần thuật với
nhiều giọng điệu khác nhau: Giọng tự trào, giọng tâm tình cảm xúc, giọng dân
dã, giản dị, giọng triết lí, tranh biện... bằng nhiều giọng điệu kể như thế nhà
văn làm gần lại khoảng cách giữa nhà văn với bạn đọc, giữa chủ thể trần thuật
với nhân vật tạo không khí thân mật với bạn đọc trong quá trình tiếp nhận tác
phẩm.
- Khi tổ chức các sự kiện trong tác phẩm, nhà văn thường đặt sự việc ở
nhiều góc độ khác nhau, nhiều cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau. Đặc biệt
khi xây dựng các tình huống truyện, nhà văn để cho các nhân vật trực tiếp
tham gia đối thoại, tranh luận để nhân vật bộc lộ cách nhìn, cách đánh giá
khách quan về những vấn đề mà nhà văn đề cập nhằm tăng thêm tính đối
thoại, tạo không khí cởi mở, dân chủ trọng tiếp nhận văn chương.
3.2 Chủ đề của truyện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 87
Gợi dẫn 12: ở “Một người Hà Nội”nhà văn Nguyễn Khải ngợi ca những
gì và phê phán điều gì?
Yêu cầu:
“Một người Hà Nội” khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp và chiều sâu văn hoá
vật chất, văn hóa tinh thần của người Hà Nội. Đó là nét thanh lịch hào hoa
trong cách ăn mặc, ứng xử hằng ngày, cách dạy con của Bà Hiền, nét cá tính,
bản lĩnh luôn dám là mình và lòng tự trọng ở nhân vật Bà Hiền.
Từ cảm hứng ngợi ca, nhà văn gửi gắm, bộc lộ một tình yêu sâu nặng,
một niềm ngưỡng mộ tha thiết đối với văn hoá đất kinh kì. Coi nhân vật Bà
Hiền là “hạt bụi vàng của Hà Nội” nhà văn Nguyễn Khải muốn khẳng định
rằng: Trong Hà Nội hôm nay có muôn vàn người Hà Nội mang trong mình
tinh hoa, văn hoá truyền thống của người Hà Nội.
- Bằng cách nói tự trào, đùa tếu hóm hỉnh,“Một người Hà Nội” còn đặt
ra vấn đề hãy thay đổi cách nhìn nhận, cách đánh giá về những người trong
giới thượng lưu Hà Nội. Những phẩm chất, nét đẹp văn hóa trong lối sống của
họ và sự đóng góp của họ cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước cần
được nhìn nhận một cách khách quan, hãy từ bỏ cái nhìn thành kiến giai cấp
của một thời.
III. Luyện tập
1. Ở lớp:
Giáo viên nêu câu hỏi gợi dẫn:
- Chi tiết nào về nhân vật Bà Hiền trong tác phẩm khiến người miền núi
thích thú?
- Tại sao tác giả lại đặt tên truyện là “Một người Hà Nội”?
Yêu cầu:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 88
Học sinh sẽ có những ý kiến khác nhau trong khi nêu quan điểm của mình.
Song, dù thích ở tính cách nào của nhân vật thì học sinh đã bộc lộ được cách
đánh giá và cách bày tỏ quan điểm về những điều các em nhận thức được.
Đặt tên truyện là “Một người Hà Nội” có lẽ nhà văn Nguyễn Khải muốn
khẳng định kinh nghiệm cá nhân của người viết - Đây chỉ là một người Hà
Nội mà tôi quen biết chứ không phải là tất cả - Đây là khám phá, là kiến giải
của riêng tôi về người Hà Nội. Có lẽ, nhà văn Nguyễn Khải muốn nói như vậy.
Mặt khác khi xây dựng nhân vật Bà Hiền, nhà văn đã đặt nhân vật vào
trong nhiều mối quan hệ: gia đình, bạn bè, dân tộc, môi trường, thời thế để soi
ngắm nhân vật từ nhiều chiều. Phát hiện vẻ đẹp của một người Hà Nội từ
điểm nhìn thế sự để hướng tới khẳng định con người ở góc độ văn hóa. Đó là
quan niệm mới mẻ của Nguyễn Khải về con người.
2. Về nhà
-Viết một đoạn văn ngắn nêu cảm xúc của em khi học truyện ngắn “Một
người Hà Nội”.
3.1.2 Giải thích thiết kế
Dựa vào kết quả khảo sát trong quá trình tìm ra những khoảng cách về
lịch sử - văn hóa ở học sinh dân tộc miền núi khi tiếp nhận truyện ngắn “Một
người Hà Nội”, luận văn đề xuất một thiết kế bài dạy hướng vào khả năng
cảm thụ của học sinh dân tộc thiểu số miền núi. Cụ thể là:
* Về hướng dạy
Trước khi định hướng nội dung bài dạy, người thực hiện luận văn đã
tham khảo một số thiết kế bài dạy về truyện ngắn “Một người Hà Nội”, mỗi
tài liệu có hướng khai thác nội dung khác nhau:
- Cuốn sách giáo viên Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục 2008 (chương
trình nâng cao) định hướng cho giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản
theo hệ thống câu hỏi phần hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa như sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 89
1. Cách thu xếp việc nhà, việc dạy con của Bà Hiền.
2. Thái độ của nhà văn trước lời nhận xét của Bà Hiền.
3. Tìm hiểu nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Khải trong tác phẩm và
đoạn văn trữ tình ngoại đề cuối tác phẩm.
4.Tìm hiểu nét đẹp trong nhân cách của nhân vật Bà Hiền.
5.Tìm hiểu nhân vật người kể chuyện trong tác phẩm.
- Thiết kế bài dạy của một giáo viên Ngữ văn có nhiều kinh nghiệm
đang trực tiếp giảng dạy tại trường THPT Lương Ngọc Quyến của Tỉnh Thái
Nguyên định hướng khai thác văn bản theo các bước:
1.Tìm hiểu về tác giả Nguyễn Khải.
2. Tìm hiểu hình tượng nhân vật Bà Hiền với các nội dung sau:
2.1 Bà Hiền trong mối quan hệ với gia đình:
* Thời trẻ: Bà là một người con gái đẹp, yêu văn chương.
* Thời làm vợ, làm mẹ: Bà là một người phụ nữ biết nhìn xa, trông rộng.
Đồng thời bà cũng là một người vợ có tài trong việc quản lý gia đình.
2.2 Bà Hiền trong mối quan hệ với xã hội:
* Nguồn gốc xuất thân của Bà Hiền: Bà Hiền sinh ra trong một gia đình
gốc Hà Nội, thông minh và có nhan sắc.
* Trong kháng chiến chống Pháp: Bà Hiền sống ở Hà Nội vì bà không
thể sinh cơ lập nghiệp ở một vùng đất khác. Đó cũng là cách thể hiện lòng yêu
mến Hà Nội của bà.
* Khi Hà Nội được giải phóng: Bà Hiền khôn ngoan, nhanh nhẹn thích
ứng nhanh với thời cuộc.
* Thời kì miền Bắc bị đế quốc Mĩ tàn phá: Bà Hiền đồng ý để con trai ra
trận. Đó là ý thức công dân của “một người Hà Nội” trước vận mệnh đất nước.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 90
* Sau chiến thắng mùa xuân 1975: Bà Hiền vẫn là một người Hà Nội
xưa không thay đổi, bà vẫn giữ lại hồn văn hóa của mảnh đất kinh kì trong
ngôi nhà cổ kính của mình.
3. Tìm hiểu hình tượng nhân vật “Tôi”:
Trong truyện ngắn Một người Hà Nội, nhân vật “Tôi” là một người
chứng kiến, tham gia vào những chặng đường lịch sử của dân tộc. Anh ta có
một sự quan sát nhạy bén, sắc sảo. Đồng thời, anh ta cũng là người gắn bó
thiết tha với đất nước. Cảm phục trước con người bình thường mà tỏa sáng
nhân cách.
4. Tìm hiểu những đặc sắc về nghệ thuật.
- Giọng điệu trần thuật là một giọng điệu trải đời, vừa tự nhiên dân dã
vừa nặng trĩu suy tư, vừa giàu chất triết lí, vừa mang đậm tính đa thanh.
- Tạo tình huống gặp gỡ giữa các nhân vật để họ bộc lộ tính cách.
Luận văn không làm như vậy mà hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản
theo đặc trưng thể loại. Đó là, từ việc tìm hiểu cốt truyện giáo viên hướng học
sinh khai thác văn bản tác phẩm ở hai nhân vật chính (Nhân vật Bà Hiền và
nhân vật “Tôi”); giọng kể chuyện. Cụ thể như sau:
1. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu hình tượng nhân vật Bà Hiền qua các
chặng đường đời:
1.1 Bà Hiền thời son trẻ.
1.2 Bà Hiền thời làm vợ, làm mẹ.
1.3 Bà Hiền lúc tuổi già.
2. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nét đẹp văn hóa Hà Nội tỏa ra từ nhân
vật Bà Hiền.
3.Tìm hiểu giọng kể của nhân vật “Tôi”- người kể chuyện.
* Về phương pháp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 91
Một số thiết kế trong các sách tham khảo hướng dẫn học sinh tìm hiểu
hình tượng nhân vật Bà Hiền từ nhận định khái quát.
Thiết kế của giáo viên Ngữ văn trường THPT Lương Ngọc Quyến-
Thành phố Thái Nguyên hướng dẫn học sinh tìm hiểu hình tượng nhân vật Bà
Hiền bằng một câu hỏi mang tính chất tổng hợp: Nhân vật Bà Hiền được miêu
tả ở những góc độ nào? trên những phương diện nào? Nhận xét về đặc điểm,
tính cách nhân vật? Vì sao tác giả gọi bà là hạt bụi vàng của Hà Nội? Với
câu hỏi này, buộc học sinh phải có năng lực khái quát vấn đề, chọn ra những
chi tiết mà nhà văn miêu tả về nhân vật Bà Hiền trong toàn bộ tác phẩm rồi
khái quát thành luận điểm. Cách khai thác này, không chỉ khó đối với học
sinh THPT nói chung lại càng khó khăn hơn với học sinh là người dân tộc
thiểu số miền núi.
Sách giáo viên Ngữ văn 12, tập 2, NXB - Giáo dục 2008 (chương trình
nâng cao) hướng dẫn tìm hiểu nhân vật Bà Hiền đan xen với nhân vật “Tôi”-
người kể chuyện và nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm. Cách khai thác văn
bản tác phẩm như thế vừa lặp lại nội dung vừa gây ra cho học sinh dân tộc
miền núi sự lúng túng, mơ hồ, khó hiểu, có thể sẽ dẫn đến sự nhầm lẫn nét
tính cách của nhân vật Bà Hiền với nhân vật “Tôi”.
Hướng khai thác truyện ngắn “Một người Hà Nội” như các tài liệu trên,
học sinh là người dân tộc thiểu số miền núi khó có thể nắm bắt được. Bởi vì
các em phải phát hiện vẻ đẹp và chiều sâu văn hóa Hà Nội từ nhân vật Bà
Hiền qua cách cư xử, nói năng, cách dạy con... khi mà vốn sống, vốn hiểu
biết về chiều sâu văn hóa Hà Nội còn hạn hẹp thì vấn đề trong tác phẩm hoàn
toàn xa lạ với nhận thức của học sinh dân tộc miền núi.
Để học sinh dân tộc miền núi chiếm lĩnh được nội dung đã xác định ở
trên, luận văn dùng một hệ thống lời gợi dẫn để kích thích các em tưởng
tượng, liên tưởng, phát hiện, suy ngẫm, nhận xét, khái quát vấn đề.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 92
Trong quá trình hướng dẫn học sinh tìm hiểu hình tượng nhân vật Bà
Hiền qua các chặng đường đời, giáo viên nêu câu hỏi gợi dẫn cụ thể sát với
nội dung các chi tiết được miêu tả trong tác phẩm để họ dễ dàng phát hiện.Ví
dụ câu hỏi phát hiện nét đẹp tính cách của Bà Hiền thời son trẻ: Ở đoạn 2 của
tác phẩm, người kể chuyện cho biết thời con gái Bà Hiền là một cô gái đẹp,
thông minh được bố mẹ cho phép mở phòng tiếp khách văn chương. Vậy mà
cô gái đó đã chọn chồng như thế nào? Chi tiết đó nói lên tính cách gì ở bà?
Là những người đang trưởng thành, các em học được điều gì ở Bà Hiền?
Trong hệ thống câu hỏi, giáo viên thường gắn với cách cảm, cách nghĩ
của người dân tộc miền núi. Ví dụ, câu hỏi về cách dạy con của Bà Hiền: “Bà
Hiền đã dạy con như thế nào và cách dạy đó đã đem lại kết quả ra sao?
những bậc làm cha, làm mẹ nói chung và người miền núi nói riêng có thể học
tập được điều gì về cách dạy dỗ con cái của Bà Hiền?” hoặc câu hỏi nêu cảm
nhận của học sinh về nét đẹp văn hóa Hà Nội: “Bằng cảm nhận của người
dân tộc miền núi, em thấy ở Bà Hiền đã toát lên những nét đẹp văn hóa nào
của người Hà Nội?”
Đây cũng là một phương pháp nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của
học sinh khi đến với một tác phẩm văn chương nghệ thuật. Với cách thiết kế
trình bày ở trên, luận văn tiến hành dạy thực nghiệm để kiểm chứng tính khả
thi của nội dung bài dạy.
3.2. Dạy thực nghiệm
3.2.1 Mục đích thực nghiệm
- Kiểm chứng tính đúng đắn của những phát hiện về khoảng cách lịch
sử - văn hóa ở học sinh các dân tộc miền núi khi tiếp nhận truyện ngắn “Một
người Hà Nội”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 93
- Kiểm chứng tính khả thi của các biện pháp do luận văn đề xuất nhằm
khắc phục những khó khăn trở ngại mà học sinh các dân tộc miền núi gặp
phải khi học “Một người Hà Nội” bởi những khoảng cách lịch sử - văn hóa.
3.2.2 Đối tƣợng, địa điểm, thời gian thực nghiệm
* Đối tƣợng thực nghiệm
Học sinh là người dân tộc thiểu số miền núi đang học lớp 12 tại trường
Văn hoá I - Bộ Công an - Tỉnh Thái Nguyên.
* Địa điểm thực nghiệm
Để thuận lợi cho việc đánh giá kết quả thực nghiệm, việc tổ chức thực
nghiệm được tiến hành ngay tại trường Văn hoá I - Bộ Công an - Tỉnh Thái
Nguyên. Đây là một ngôi trường có nhiệm vụ đào tạo văn hoá phổ thông
trung học cho con em các dân tộc thiểu số miền núi từ tỉnh Quảng Trị trở ra
nhằm tạo nguồn lực lượng cán bộ cốt cán cho việc bảo vệ an ninh vùng biên
giới của Tổ quốc, nơi đây tập trung tất cả 23 dân tộc thiểu số đang sinh sống ở
các vùng núi của nước ta.
* Thời gian thực nghiệm
Thời gian thực nghiệm được tiến hành ngay ở tuần thứ 25 của học kì II
(năm học 2008 - 2009). Theo phân phối chương trình do Bộ giáo dục và Đào
tạo ban hành, đó là tiết thứ 89,90.
Những nội dung được luận văn xác định trong thực nghiệm gồm:
- Bài thực nghiệm: 01
- Số tiết dạy: 02
- Số bài kiểm tra: 01
Kết thúc giờ dạy thực nghiệm giáo viên thu thập thông tin và kết quả.
Sau đó thống kê, xử lý các kết quả thu được từ thực nghiệm.
3.2.3 Kết quả thực nghiệm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 94
3.2.3.1 Tổ chức đánh giá hiệu quả giờ dạy (qua một bài kiểm tra
viết của học sinh)
Nhằm đánh giá kết quả tiếp nhận của học sinh về tác phẩm, luận văn
sử dụng câu hỏi kiểm tra học sinh. Nội dung câu hỏi như sau:
Câu 1: Qua nhân vật Bà Hiền, em cảm nhận được những gì về vẻ
đẹp và chiều sâu văn hóa Hà Nội?
Câu 2: Tác giả đã ngợi ca điều gì và phê phán điều gì qua nhân vật
Bà Hiền và nhân vật người kể chuyện trong tác phẩm?
3.2.3.2. Kết quả bài làm của học sinh.
Luận văn căn cứ vào tiêu chí đánh giá điểm sau đây để phân loại:
gồm 5 loại:Giỏi (điểm 9,10); Khá (điểm7,8);Trungbình (điểm 5,6);Yếu
(điểm3,4); Kém(điểm 0,1,2). Kết quả cụ thể như sau:
* Số liệu thu được 32 bài, trong đó:
- Loại Giỏi : Không
- Loại Khá: 8 bài
- Loại Trung bình: 22 bài
- Loại Yếu: 2 bài
- Loại Kém: Không
* Nhận xét chung từ kết quả bài kiểm tra học sinh:
Kết quả làm bài của học sinh cho thấy, mặc dù không có điểm giỏi
nhưng điểm khá và điểm trung bình chiếm phần lớn: 30 bài/32 bài (chiếm tỉ lệ
93,75%), điểm yếu có 2 bài (Chiếm tỉ lệ 6,25%), không có bài điểm kém. Đặc
biệt từ hình tượng nhân vật Bà Hiền, các em bộc lộ rất đa dạng những cảm
nhận của mình về vẻ đẹp và chiều sâu văn hóa Hà Nội, niềm trân trọng
ngưỡng mộ và lời ngợi ca về một người Hà Nội.
Có em cảm nhận được nét đẹp ở Bà Hiền là lối sống đầy bản lĩnh, có cá
tính và giàu lòng tự trọng : “Theo em, Bà Hiền là một người Hà Nội rất cá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 95
tính, biết tự quyết định công việc của mình, không bảo thủ, không lạc hậu.
Coi trọng vai trò của người phụ nữ. Dám nghĩ, dám làm không bị lòng tự ái
ganh đua hay thói thời thượng chen vô. Trải qua nhiều bước thăng trầm của
lịch sử, xã hội. Bà Hiền có những lí lẽ sống thật giản dị mà cũng thật giá trị.
Bà là một người phụ nữ tuyệt vời, Bà xứng đáng là “hạt bụi vàng” lấp lánh soi
sáng đến muôn đời sau.” (em Hoàng Thị Hằng - Dân tộc Tày - Cao Bằng).
Cùng suy nghĩ về nét đẹp đó ở nhân vật Bà Hiền, có em học sinh khái quát lại
ý kiến nhận xét của mình về nhân vật bà Hiền bằng một câu ngắn gọn: “Lịch
lãm, sang trọng, quý phái, thức thời nhưng cũng rất mực bình dị, đời thường.
Đó là phẩm giá của con người sống trên mảnh đất nghìn năm văn hiến Thăng
Long” (em Lộc Minh Vũ - Dân tộc Bố Y- Hà Giang).
Có em bộc lộ suy nghĩ theo cách mộc mạc của người dân tộc thiểu số:
“Qua nhân vật Bà Hiền em thấy người Hà Nội xưa sống rất sâu sắc, có đầu óc
thực tế, có lối sống rất khuôn phép, chuẩn mực. Họ biết tự trọng, có lòng yêu
nước nồng nàn, họ không sợ chết mà luôn sẵn sàng hi sinh vì tổ quốc. Tóm lại
ở Bà Hiền toát lên nét đẹp của người Hà Nội, đó là: bao dung, độ lượng,
khiêm tốn và tài hoa” (em Hồ Chăn - dân tộc Vân Kiều - Quảng Trị).
Suy nghĩ về lòng tự trọng ở người Hà Nội, em Phùng Văn Quyền - dân
tộc Nùng - Lạng Sơn viết: “Em thấy con người Hà Nội rất thẳng thắn, giàu
lòng vị tha. Mặc dù xã hội có đổi thay thế nào thì người Hà Nội vẫn giữ cho
mình một lối sống thanh lịch, một nhân cách sống chất chứa truyền thống đạo
lí của người Việt Nam chúng ta đó là lòng tự trọng. Ở thời đại nào cũng vậy,
con người không có lòng tự trọng tức là tự mình làm mất đi nhân cách con
người mình”.
Có em lại thích thú với cách ăn uống của người Hà Nội “Em thấy
người Hà Nội sắp xếp bữa ăn sang trọng, lịch sự chẳng khác nào một cuộc thi
nghệ thuật ẩm thực ” (em Ma Huy Thứ - dân tộc Tày - Tuyên Quang).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 96
Với câu hỏi: Tác giả đã ngợi ca điều gì và phê phán điều gì qua nhân
vật Bà Hiền và nhân vật người kể chuyện trong tác phẩm? Học sinh dân tộc
miền núi trả lời như sau:
“Tác giả ca ngợi vẻ đẹp và đức tính đáng quí của một người Hà Nội
như Bà Hiền, mặc cho thời đại thay đổi nhưng Bà Hiền vẫn giữ được phẩm
chất, đạo đức của một người Hà Nội sang trọng, lịch lãm, thông minh, sắc
sảo” (em Lò Văn Thắng - dân tộc Thái - Lai Châu) hay “người kể chuyện vô
cùng khâm phục và ngưỡng mộ với nhân vật Bà Hiền - một người phụ nữ rất
mực bình thường, có nguyên tắc sống theo một khuôn phép và cho dù cuộc
đời có đổi thay thì bà vẫn giữ một lối sống thanh lịch của người Hà Nội
không bị lạc vào những bất biến, những đổi thay của cuộc đời”(em Hà Trang
Nhung - dân tộc Tày - Bắc Kạn).
Bên cạnh cảm hứng ngợi ca về một người Hà Nội, Nguyễn Khải cũng
trực tiếp bộc lộ sự nuối tiếc của tác giả khi Bà Hiền - Hạt bụi vàng của Hà Nội
không còn nữa, nhiều bài viết của học sinh phát hiện được cảm hứng nuối tiếc
đó của nhà văn. Chẳng hạn: “Nguyễn Khải đã bộc lộ niềm tiếc thương vô hạn
của tác giả với Bà Hiền. Nếu một người như bà phải chết đi thật tiếc.Vì bà là
ánh vàng mà ở đó hội tụ tất cả nét đẹp văn hóa sống, văn hóa ứng xử của
người Hà Nội”(em Vàng A Tú - dân tộc Mông - Điện Biên).
Phát hiện ra giọng điệu phê phán của nhà văn trong truyện ngắn, có
một số bài viết tỏ ra hiểu sâu sắc về lối trần thuật của nhà văn. Từ đó phát
hiện ra giọng điệu phê phán theo lối nói tự trào của người kể chuyện: “Em
thấy người kể chuyện rất hóm hỉnh phê phán việc cách mạng để ý đến nhiều
việc của dân quá, việc “chạy theo chị vú” dò hỏi khiến chị phải bực mình.
Nhất là khi người kể chuyện nói về cách ăn uống của gia đình mình so với gia
đình Bà Hiền. Rõ ràng là tác giả đang nói về mình nhưng với cách kể chuyện
đó khiến người đọc không dễ dàng nhận ra ngay được. Đọc đến đoạn miêu tả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 97
cách ăn của gia đình nhân vật “Tôi” trong truyện em thấy buồn cười vì có nét
rất giống bữa ăn của người dân vùng cao quê em”(em Tráng Thủy Chung -
dân tộc Mông - Lào Cai).
Song, có lẽ ấn tượng đọng lại sâu sắc nhất trong cảm nhận của học sinh
dân tộc thiểu số miền núi do truyện ngắn “Một người Hà Nội” mang lại đó là:
Ấn tượng về lối sống của người Hà Nội: “Ấn tượng sâu sắc nhất để lại
trong em khi học “Một người Hà Nội” là cách ăn, mặc, cách nói năng, cách cư
xử của con người Hà Nội. Đó là nét đẹp văn hóa của người Việt Nam chúng ta
cần được bảo tồn lưu giữ”(em Hoàng Anh Tùng - dân tộc Thái - Hòa Bình).
Đó còn là ấn tượng về lòng tự trọng, lòng yêu nước, ý thức trách
nhiệm của một công dân trước vận mệnh tổ quốc của người Hà Nội: “Ấn
tượng sâu sắc để lại trong em về “Một người Hà Nội” là việc hai con trai của
Bà Hiền đều tình nguyện tham gia kháng chiến, Bà Hiền không nghĩ cho riêng
mình mà bà nghĩ cho tất cả mọi người. Quyết định của bà là quyết định của
một người yêu nước sâu sắc” (em Giàng Thị Ly - dân tộc Mông - Yên Bái).
Có em đã biết bất bình trước hiện tượng ứng xử thiếu văn hóa của một
số người Hà Nội ngày nay: “Những người Hà Nội ngày nay đang vô tình đánh
mất những giá trị văn hóa của người Hà Nội có hàng ngàn năm. Họ thực
dụng, thiếu lễ độ, họ coi khinh những người bình thường (em Bế Thị Việt -
dân tộc Tày - Cao Bằng).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 98
PHẦN KẾT LUẬN
1. Đề tài “Một số biện pháp rút ngắn khoảng cách lịch sử - văn hóa ở
học sinh dân tộc miền núi khi dạy học truyện ngắn “Một ngƣời Hà Nội”
của nhà văn Nguyễn Khải” có mục đích phát hiện ra những khó khăn trở
ngại, những vướng mắc mà học sinh các dân tộc miền núi gặp phải trong tiếp
nhận “Một người Hà Nội”. Từ đó, luận văn đề xuất một số biện pháp nhằm
rút ngắn khoảng cách đó ở đối tượng học sinh này để dạy học có hiệu quả
truyện ngắn “Một người Hà Nội”.
Đề tài đã triển khai theo trình tự hợp lý và thu được kết quả bước đầu:
Nghiên cứu những cơ sở lí luận và thực tiễn làm tiền đề định hướng cho việc
phát hiện ra những khoảng cách về lịch sử - văn hóa ở học sinh dân tộc miền
núi khi học “Một người Hà Nội”(Chương I). Luận văn tiến hành khảo sát từ
trong thực tế tiếp nhận của học sinh dân tộc miền núi đang học tập tại trường
Văn hóa I - Bộ Công an để phát hiện ra những khoảng cách về lịch sử - văn
hóa, những nguyên nhân tạo ra những khoảng cách lịch sử - văn hóa. Từ đó,
luận văn đề xuất một số biện pháp nhằm rút ngắn những khoảng cách đó ở
học sinh dân tộc miền núi khi học “Một người Hà Nội”(Chương II). Cuối
cùng, để kiểm tra tính khả thi của những biện pháp nhằm rút ngắn khoảng
cách lịch sử - văn hóa ở học sinh dân tộc miền núi khi học “Một người Hà
Nội” luận văn đã đề xuất một thiết kế bài dạy phù hợp với năng lực cảm thụ
và năng lực tư duy của học sinh dân tộc miền núi. Từ thiết kế bài dạy, luận
văn tiến hành dạy một giờ thực nghiệm cho đối tượng học sinh là người dân
tộc miền núi đang học tập tại trường Văn hoá I - Bộ Công an - Tỉnh Thái
Nguyên để kiểm tra tính khả thi của những vấn đề mà luận văn đề xuất
(Chương III).
2. Không phải mọi vấn đề về khoảng cách trong tiếp nhận được đặt ra và
giải quyết triệt để ở luận văn này. Do điều kiện chủ quan và khách quan,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 99
người thực hiện luận văn chỉ tiến hành khảo sát và dạy thực nghiệm trong
phạm vi nhỏ hẹp cho đối tượng học sinh là người dân tộc thiểu số miền núi
đang học tập tại trường Văn hóa I - Bộ Công an. Luận văn cũng chưa tiến
hành dạy đối chứng để so sánh hiệu quả trong tiếp nhận của học sinh về “Một
người Hà Nội”. Đặc biệt, luận văn mới chỉ đề cập đến một khía cạnh nhỏ,
hạn hẹp trong khoảng trời kiến thức rộng lớn về khoảng cách trong tiếp nhận
đó là khoảng cách về lịch sử - văn hóa ở học sinh dân tộc miền núi khi dạy
học truyện ngắn “Một người Hà Nội”. Những biện pháp mà luận văn đề
xuất cũng chỉ là ý tưởng được nảy sinh và xuất phát trong thực tế giảng dạy
cho đối tượng học sinh là người dân tộc sinh sống ở các tỉnh miền núi của
nước ta. Vì vậy để giải quyết vấn đề khoảng cách trong tiếp nhận ở đối tượng
học sinh này cũng cần có một quá trình công phu hơn, đối tượng và phạm vi
nghiên cứu rộng hơn, triệt để và khoa học hơn. Từ những lí do đó, luận văn
còn là một hệ thống mở cho quá trình nghiên cứu những khoảng cách lịch sử -
văn hóa ở học sinh các dân tộc thiếu số miền núi khi học tác phẩm văn
chương nghệ thuật thuộc những thể loại khác nhau.
3. Người thực hiện luận văn đã cố gắng kế thừa những công trình khoa
học và những thành tựu nghiên cứu của những người đi trước. Song quả thực
đây là vấn đề rất khó đối với việc nghiên cứu một văn bản tác phẩm hoàn toàn
mới mẻ đối với cả người dạy và người học, cũng là một tác phẩm đang có
nhiều tranh luận, nhiều bàn cãi về những cách hiểu chưa thống nhất. Khi đề
tài hoàn thành người thực hiện luận văn hi vọng những vấn đề được đề cập
trong công trình này sẽ là một “kế sách” nhỏ bé giúp bạn bè đồng nghiệp
tham khảo nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả đối với việc tìm hiểu văn bản
tác phẩm viết về miền xuôi cho học sinh dân tộc thiểu số miền núi.
Cuối cùng, trong quá trình nghiên cứu đề tài sẽ khó tránh khỏi những
mặt hạn chế và người thực hiện luận văn này rất mong nhận được những ý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 100
kiến đóng góp chân thành, sâu sắc của các giáo sư, tiến sĩ, bạn bè đồng nghiệp
để đề tài thực sự trở thành một lời giải cho vấn đề khoảng cách trong tiếp
nhận và những biện pháp rút ngắn khoảng cách này cho đối tượng học sinh là
người dân tộc miền núi khi đọc - cảm văn bản tác phẩm viết về miền xuôi, về
Hà Nội. Đặc biệt, 1000 Thăng Long - Hà Nội đang đến rất gần, việc làm gần
lại khoảng cách tiếp nhận ở học sinh dân tộc miền núi khi dạy học truyện
ngắn “Một người Hà Nội” chính là chúng ta đang khơi dậy ở các em một nét
đẹp truyền thống của cội nguồn Việt Nam chúng ta: “Uống nước nhớ nguồn,
Ăn quả nhớ người trồng cây”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Văn Bính (2000), Văn hóa Thăng Long - Hà Nội hội tụ, tỏa sáng,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Hoàng Hữu Bội (1993), “Từ những bài thi vào đại học năm 1993, ta biết
được gì về dạy và học văn ở miền núi”, Tạp chí văn học, (3).
3. Hoàng Hữu Bội (1997), Dạy và học tác phẩm văn học ở trường phổ thông
trung học miền núi, Nhà xuất bản giáo dục.
4. Hoàng Hữu Bội (2003), Thiết kế bài học Ngữ văn 7 theo hướng tích hợp,
Nhà xuất bản giáo dục.
5. Hoàng Hữu Bội (2008), Thiết kế dạy học Ngữ văn 12 (Nâng cao), Nhà xuất
bản giáo dục.
6. Nguyễn Viết Chữ, Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại
thể, NXB- ĐHSP, Hà Nội.
7. Nguyễn Viết Chức (2002), Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi
trường thiên nhiên. Viện văn hóa và NXB văn hóa - thông tin, Hà Nội.
8. Nguyễn Khắc Đàm - Nguyễn Lê Huân (2008), Giới thiệu giáo án Ngữ văn
12 - tập II, Nhà xuất bản Hà Nội.
9. Hồ Ngọc Đại (1994), Tâm lý dạy học, Nhà xuất bản giáo dục.
10. Phạm Văn Đồng (1973), “Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện”.
Tạp chí nghiên cứu giáo dục (tháng 11).
11. Hà Minh Đức (1998), Nhà văn nói về tác phẩm. NXB Văn học.
12. Nguyễn Văn Đường (2008), Thiết kế bài giảng ngữ Văn 12, tập2 , NXB
Hà Nội.
13. Phùng Đức Hải (1991), “Vài nhận xét về đặc điểm tâm lí của học sinh
THPT miền núi”, Tạp chí nghiên cứu GD, (số 9).
14. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (1998), Từ điển thuật ngữ
văn học, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 102
15. Nguyễn Thị Hằng (1999), Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn
Khải thời kì đổi mới. Trường ĐHSP Hà Nội.
16. Nguyễn Thị Thanh Hương (2001), Dạy học văn ở trường phổ thông,
NXB- ĐHQG, Hà Nội.
17. Nguyễn Thanh Hùng (2002), Đọc và tiếp nhận văn chương, NXB Giáo
dục.
18. Nguyễn Thanh Hùng (Bài giảng chuyên đề SĐH), Năng lực đọc - hiểu tác
phẩm văn chương của học sinh THPT.
19. Nguyễn Thanh Hùng, Loi thoi với việc đọc - hiểu văn ở CHLB Đức và
CHXHCN Việt Nam (Báo cáo tham dự hội thảo tháng 5/2004).
20. Nguyễn Thị Huệ, “Cảm nhận về con người trong sáng tác của Nguyễn Khải
những năm gần đây” (1999), Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, (tháng 10).
21. Nguyễn Thị Huệ (1999), “Nguyễn Khải trong nhận thức mới về con người
trước các lựa chọn lịch sử”, Tạp chí Tác phẩm mới, (số 11).
22. Lê Văn Hồng (Chủ biên) (2007), Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư
phạm, NXB - ĐHQG Hà Nội.
23. Vi Hồng (1992), “Dạy và học văn ở miền núi”, Tạp chí văn học, số 2.
24. Vi Hồng (1992), Sự thật với việc học văn chương, Tạp chí Đại học,
(số 3).
25. Hướng dẫn thực hiện chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn 12 (2008).
Bộ Giáo dục - Đào tạo.
26. Nguyễn Khải (1982), Gặp gỡ cuối năm, NXB Tác phẩm mới.
27. Nguyễn Khải (1982), Thời gian của người, NXB Tác phẩm mới.
28. Nguyễn Khải (1995), Hà Nội trong mắt tôi, NXB Hà Nội.
29. Phạm Luận - Hoàng Hữu Bội (1994), Dạy và học thơ cổ ở trường cấp II
III miền núi, NXB Giáo dục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 103
30. Phan Trọng Luận (1999), Đổi mới giờ học tác phẩm văn chương ở trường
phổ thông, Sách bồi dưỡng thường xuyên chu kì 1997- 2000 cho giáo viên
phổ thông, NXB giáo dục.
31. Phan Trọng Luận (2003), Văn chương và bạn đọc sáng tạo, NXB Đại học
quốc gia Hà Nội.
32. Phan Trọng Luận, (2005) “Văn học với nhà trường không phải là một”.
Báo văn nghệ (số 24, 6).
33. Phan Trọng Luận (2008), Văn học trong nhà trường, nhận diện, tiếp cận,
đổi mới, NXB Đại học sư phạm.
34. Phương Lựu (Chủ biên) (2003), Lí luận văn học, NXB Giáo dục.
35. Nguyễn Đăng Mạnh (1995), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, NXB giáo dục - Hà Nội.
36. Nguyễn Đăng Mạnh - Bùi Duy Tân - Nguyễn Như Ý (Đồng chủ biên), Từ
điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho nhà trường, NXB Đại học
sư phạm.
37. Chu Nga (1977), Đặc điểm sáng tác của Nguyễn Khải, Sách tác gia văn
xuôi Việt Nam Hiện Đại (Sau 1975), NXB-KHXH, Hà Nội.
38. Đào Thuỷ Nguyên, Đề cương bài giảng văn học Việt Nam Hiện Đại (Tài
liệu lưu hành nội bộ).
39. Đào Thuỷ Nguyên (2001), “Thế giới nhân vật của Nguyễn Khải trong
cảm hứng nghiên cứu và phân tích”, Tạp chí văn học, (số 11).
40. Đào Thuỷ Nguyên (2000) “Thế giới nhân vật Nguyễn Khải theo dòng thời
gian”, Tạp chí văn học (số 12).
41. Vương Trí Nhàn (1996), “Vài nét về sáng tác Nguyễn Khải những năm
gần đây”, Tạp chí văn học (số 2)
42. Trần Thế Phiệt - Vi Hồng (1990), “Về cách phô diễn của học sinh Tày -
Nùng và vấn đề dạy học cho học sinh dân tộc”, Tạp chí NCGD (số 12).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http:// www.lrc-tnu.edu.vn 104
43. Nguyễn Kim Phong (2008), Kĩ năng đọc - hiểu văn bản Ngữ Văn 12,
NXB Giáo dục.
44. Ngô Văn Phú (sưu tầm- tuyển chọn), Tản văn và truyện ngắn hay về Hà
Nội, NXB Hội nhà văn.
45.Trần Thế Phiệt - Vi Hồng, Dạy văn và học văn ở miền núi,( Đề tài nghiên
cứu cấp trường 1990 - 1991), tài liệu lưu hành nội bộ.
46. Phạm Hồng Quang (1993), Tổ chức dạy học cho học sinh dân tộc thiểu số
miền núi, NXB Đại học sư phạm Hà Nội.
47. Nguyễn Huy Quát - Hoàng Hữu Bội (2001), Một số vấn đề về phương
pháp dạy học dạy học văn trong nhà trường, NXB Giáo dục.
48. Nguyễn Huy Quát (2008), Nghiên cứu văn học và đổi mới PP dạy học
văn, NXB ĐH Thái Nguyên.
49. Trần Đình Sử (1990), “Bàn thêm về tiếp nhận văn học”. Báo văn nghệ (số
12)
50. Trần Đình Sử (2008) “Cần thay đổi nhận thức về dạy và học văn”, Tạp
chí Giáo dục và thời đại (số 18).
51. Nguyễn Kim Thản (2004), Lời ăn tiếng nói của người Hà Nội, NXB Hà
Nội.
52. Hà Công Tài - Phan Diễm Phương (2004), Nguyễn Khải về tác gia và tác
phẩm, NXB Giáo dục.
53. Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Khải (1991), NXB Văn học.
54. SGV Ngữ văn 12 (tập 2), Bộ cơ bản (2008), NXB Giáo dục.
55. SGV Ngữ văn 12 (tập 2), Bộ nâng cao (2008), NXB Giáo dục.
56. SGK Ngữ Văn lớp 12 (Tập 2), Bộ cơ bản (2008), NXB Giáo dục.
57. SGK Ngữ Văn lớp 12 (Tập 2), Bộ nâng cao (2008), NXB Giáo dục.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doc17.pdf