Xây dựng đội ngũ quản lý, thực hiện công tác thu NSNN trên địa bàn tinh giản gọn nhẹ, đồng bộ, thống nhất đáp ứng được yêu cầu. Cùng với việc phân cấp thêm nhiệm vụ quản lý thu xuống các quận huyện cơ sở, thành phố cũng cần có biện pháp tăng cường bộ máy quản lý các cấp đáp ứng được yêu cầu mới như: cơ cấu cán bộ viên chức đủ đáp ứng yêu cầu công việc, trang bị các cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Đối với những đơn vị giảm trách nhiệm, quyền hạn thu cũng cần biên chế lại, thu gọn bộ máy.
Phân công nhiệm vụ rõ ràng giữa các cấp chính quyền, các đơn vị thu tránh chồng chéo nhằm thực hiện đồng bộ các biện pháp quản lý hành thu đối với từng khoản thu, sắc thuế, từng địa bàn, từng đối tượng nộp thuế: Tận thu các đối tượng nộp thuế, phí, lệ phí trên địa bàn, đảm bảo thu 100% đối tượng nộp thuế có địa điểm cố định; Quản lý chặt chẽ đối tượng nộp thuế; Đôn đốc thu nộp và cưỡng chế các khoản nợ thuế. Đẩy mạnh công tác thanh tra kiểm tra; Chủ động triển khai các khoản thu liên quan đến đất đai. (thanh kiểm tra nắm bắt đối tượng sử dụng đất, nắm bắt diện tích đất của các đối tượng thuê đất, điều chỉnh giá đất hợp lý.).
102 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1528 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số biện pháp tăng cường công tác thu ngân sách của Thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2006-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h độ phát triển lực lượng sản xuất còn thấp, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, của các doanh nghiệp và nhiều sản phẩm còn chưa đáp ứng được các yêu cầu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, các thiết chế và cơ chế hoạt động của các loại thị trường còn thiếu đồng bộ.
Như vậy, bước vào thời kỳ tới (2006-2010), Hà Nội vừa được kế thừa những thành quả phát triển của kế hoạch 5 năm 2001-2005, có khả năng phát huy những kinh nghiệm đã tích lũy trong khai thác các nguồn lực, trong chỉ đạo điều hành phát triển, trong đổi mới quản lý kinh tế - xã hội, vừa có thể tận dụng được những cơ hội mới mà sự phát triển trong nước và quốc tế đem lại. Tuy nhiên, kinh tế - xã hội Thủ đô cũng đứng trước nhiều thách thức gay gắt, mà trước hết là việc các doanh nghiệp phải cạnh tranh quyết liệt hơn với các đối thủ cạnh mạnh trong nước và thế giới, cũng như yêu cầu của việc chủ động chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính và đổi mới phong cách quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành Thành phố.
Gắn liền với khả năng tăng trưởng của nền kinh tế, thu ngân sách trên địa bàn Hà Nội cũng chịu ảnh hưởng không ít bởi bối cảnh hội nhập trong giai đoạn tới. Nhiều sắc thuế thay đổi đáp ứng các hiệp ước thương mại khi Việt Nam gia nhập các tổ chức quốc tế. Những chính sách bảo trợ, khuyến khích, hỗ trợ các DN trong nước, các ngành nghề lĩnh vực có tính chiến lược… cũng tất yếu dẫn đến những thay đổi trong cơ chế thu ngân sách trên địa bàn nói riêng và cả nước nói chung. Mặt khác, những cơ hội mà bối cảnh quốc tế mang lại cho Thủ đô cũng đồng thời tạo ra những triển vọng thu mới cho ngân sách thành phố.
2. Kế hoạch phát triển kinh tế Thủ đô và các mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu
Mục tiêu tổng quát phát triển Thủ đô trong giai đoạn 2006-2010 nêu rõ: “Thiết thực kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, Thành phố chủ động, sáng tạo phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực, tiếp tục đẩy mạnh đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế nhằm phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội toàn diện, bền vững; bảo đảm giữ vững an ninh chính trị, ổn định trật tự và an toàn xã hội; xây dựng về cơ bản nền tảng vật chất và tinh thần của nhân dân, xây dựng văn hóa người Hà Nội. Thực hiện tốt vai trờ đầu não chính trị - hành chính của cả nước và ngày càng có uy tín ở khu vực.”
Trên cơ sở mục tiêu đó, một số chỉ tiêu cơ bản của kế hoạch 5 năm 2006-2010 của Thành phố như sau:
- Dân số tăng bình quân/năm từ 10,5-12%
- GDP bình quân đầu người đạt 2350-2500 USD
- Tăng trưởng GDP của Thủ đô đạt từ 11-12%/năm. Trong đó dịch vụ đạt 10,5-12%/năm, công nghiệp đạt 11,5-12,5%/năm, nông nghiệp đạt 2-2,5%/năm.
- Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân/năm đạt 16-18%.
Trong định hướng phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, Hà Nội chủ trương tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, ưu tiên hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh cho kinh tế Thủ đô, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngành dịch vụ phấn đấu tăng GDP khoảng 11-12%/năm; đến năm 2010 chất lượng của hầu hết các loại hình dịch vụ, đạt mức hàng đầu cả nước, trung bình khá của khu vực và cao hơn. Tập trung phát triển mạnh các loại hình dịch vụ trình độ cao mang tính liên ngành và nền tảng dịch vụ phục vụ trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh (các dịch vụ về giao thông vận tải, thông tin - viễn thông, tài chính - ngân hang - bảo hiểm, thương mại, khoa học công nghệ). Quan tâm các loại hình dịch vụ truyền thống có tiềm năng, thế mạnh của Thủ đô: du lịch, chăm sóc sức khỏe, giáo dục đào tạo, văn hóa, nghệ thuật, thể thao,...
Xây dựng Hà Nội thành trung tâm hàng hóa bán buôn, thiết lập, củng cố và phát triển các kênh phân phối hàng hóa và dịch vụ của Hà Nội cả ở trong và ngoài nước. Hình thành các tập đoàn và công ty lớn kinh doanh thương mại, dịch vụ trên địa bàn. Phát triển các trung tâm thương mại, siêu thị hiện đại, hoàn chỉnh hệ thống chợ.
Tiếp tục giữ vai trò là một trong những trung tâm du lịch, là nguồn phân phối du khách lớn của khu vực phía Bắc. Phấn đấu tăng trưởng doanh thu bình quân 17%/năm, trong đó khách sạn nhà hàng là 16%/năm; lượng du khách quốc tế tăng bình quân 16%/năm, khách du lịch nội địa tăng bình quân 12%/năm, đến năm 2010 Hà Nội đón tiếp 7 triệu du khách, trong đó 1,6 triệu du khách nước ngoài.
Củng cố các tổ chức tín dụng trên địa bàn, phát triển các công cụ tài chính, tiến tới xây dựng Hà Nội thành trung tâm tài chính - ngân hàng hàng đầu ở khu vực phía Bắc và có vai trò quan trọng trong cả nước.
Xây dựng thủ đô thành trung tâm hàng đầu cả nước về dịch vụ y tế, giáo dục - đào tạo, văn hóa, xuất bản, thể dục thể thao chất lượng cao, trình độ cao.
Ngành công nghiệp: Tiếp tục chủ trương phát triển công nghiệp có chọn lọc, công nghiệp công nghệ cao. Ưu tiên phát triển các ngành tạo ra sản phẩm có hàm lượng chất xám và công nghệ cao (công nghệ tự động hóa, công nghệ sinh học, công nghệ vật liêu mới), tập trung phát triển các ngành và nhóm sản phẩm mà Hà Nội có lợi thế, có thương hiệu.
Các nhóm ngành công nghệ chủ lực của Hà Nội trong giai đoạn 2006-2010 được xác định là: Điện tử - công nghệ thông tin và phần mềm, Cơ - kim khí, Dệt may trang phục cao cấp, Chế biến thực phẩm và nông sản, Sản xuất vật liệu xây dựng và trang trí nội thất cao cấp. Ngành điện tử - công nghệ thông tin phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GTSX bình quân 19 - 20%/năm; Ngành cơ kim khí là 16-17%/năm; Ngành sản xuất vật liệu xây dựng là 13,5%-14,5%/năm. Ngoài ra, Thành phố khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp khác có hiệu quả như dược phẩm, mỹ phẩm...
Trên cơ sở các nhóm ngành công nghiệp chủ lực, trong kế hoạch hàng năm Thành phố xác định các nhóm sản phẩm chủ lực để xây dựng cơ chế, chính sách ưu tiên hỗ trợ phù hợp với khả năng của Thành phố, quy định của Chính phủ và thông lệ quốc tế trong giai đoạn 2006-2010 là:
+ Nhóm sản phẩm công nghiệp điện tử - công nghệ thông tin và phần mềm: các sản phẩm linh kiện điện tử, thiết bị kỹ thuật số, phần cứng máy tính, máy in, thiết bị kết hợp truyền thống và viễn thông, các bo mạch điện tử và bán dẫn, các phần mềm điều khiển tự động cho các máy công cụ CNC, phần mềm chuyên dụng, sản phẩm khuôn mẫu...
+ Nhóm sản phẩm cơ - kim khí; thiết bị toàn bộ, kỹ thuật điện, ô tô - xe máy, thiết bị tự động hóa, thiết bị y tế, sản phẩm cơ khí phục vụ nông nghiệp, sản phẩm cơ kim khí tiêu dùng...
+ Nhóm sản phẩm vật liệu xây dựng và trang trí nội thất; các sản phẩm vật liệu xây dựng cao cấp, đặc biệt là các vật liệu trong trí và hoàn thiện, vật liệu nhẹ, sứ vệ sinh, gạch ceramic...
+ Nhóm sản phẩm khác: may thời trnag, thể thao thời trang, bìa (chai, lon), bánh kẹo các loại, thịt gia súc - gia cầm chế biến, chế biến hoa quả...
Phát triển các khu công nghiệp (đã có 6 khu) với tầm nhìn dài hạn, lấy hiệu quả kinh tế - xã hội - môi trường là mục tiêu cao nhất, ưu tiên thu hút các ngành nghề có trình độ công nghệ cao, không đòi hỏi sử dụng nhiều đất, tăng cường sự tham gia của các thành phần kinh tế.
Ngành nông nghiệp: Tiếp tục phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng nông nghiệp đô thị, sinh thái; nông nghiệp dịch vụ gắn với việc bảo vệ cảnh quan môi trường. Hình thành vùng nông nghiệp ổn định, phát triển các vùng chuyên canh sản xuất tập trung.
Về các thành phần kinh tế: Khu vực kinh tế tư nhân, và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cần được quan tâm, tạo môi trường phát triển mạnh và là khâu đột phá trong 5 năm tới (xét về thành phần kinh tế). Hoàn thành kế hoạch sắp xếp và củng cố DN nhà nước theo kế hoạch được Thủ tướng phê duyệt. Khuyến khích sự liên doanh giữa tư nhân với Nhà nước, giữa tư nhân trong nước và tư nhân nước ngoài. Phát triển những tập đoàn kinh tế mạnh của Hà Nội để đủ sức cạnh tranh trong nước, trong khu vực và trên thế giới. Về lâu dài tiến tới xóa bỏ khái niệm doanh nghiệp của Trung ương, doanh nghiệp của địa phương để thống nhất quản lý hoặc phối hợp với cơ quan Trung ương quản lý chung toàn bộ các hoạt động kinh tế đầu tư trên địa bàn Hà Nội.
Định hướng phát triển vùng phía Bắc và Nam sông Hồng. Do đặc điểm tự nhiên, sông Hồng đã tạo ra cấu trúc 2 vùng kinh tế xã hội của Thành phố Hà Nội. Khu vực phía nam sông Hồng (khu vực hữu ngạn sông Hồng). Định hướng phát triển khu vực nam sông Hồng trong tương lai tập trung vào phát triển đô thị và dịch vụ, đặc biệt là các ngành và lĩnh vực dịch vụ trình độ cao hiện đại như tài chính, tiền tệ, ngân hàng, dịch vụ thương mại, đào tạo, chăm sóc sức khỏe, du lịch, các dịch vụ hành chính, xuất nhập khẩu và các dịch vụ đô thị khác. Khu vực phía bắc sông Hồng là khu vực chưa phát triển của thành phố. Định hướng sẽ phát triển công nghiệp và đô thị. Trên cơ sở hiện có sẽ đầu tư chiều sâu, đầu tư công nghệ hiện đại để nâng cao chất lượng và quy mô sản xuất.
*****
Những định hướng, quan điểm, kế hoạch phát triển thủ đô trong giai đoạn tới cho thấy tiềm năng phát triển kinh tế của Thủ đô những năm 2006-2010 là rất tích cực. Đó là cơ sở để đề ra các chủ trương, phương hướng, mục tiêu thu ngân sách trong thời gian tới, cũng như đề ra các biện pháp nhằm tăng cường công tác thu ngân sách.
Những quan điểm, định hướng, mục tiêu thu ngân sách thành phố giai đoạn 2006-2010 được nêu rõ trong Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ XIV Đảng bộ Thành phố Hà Nội: “Đổi mới và nâng cao chất lượng quản lý tài chính công, tài chính đô thị; nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản công. Chỉ đạo thu ngân sách nhà nước đảm bảo thu đúng, thu đủ, có biện pháp nuôi dưỡng nguồn thu; thu ngân sách trên địa bàn tăng 10-11%/năm, có các giải pháp tích cực để có mức thu cao hơn. Tiếp tục mở rộng phân cấp quản lý kinh tế - xã hội gắn với phân cấp thu, chi ngân sách cho quận huyện và cơ sở. Xử lý nghiêm các hành động vi phạm Luật Ngân sách Nhà nước”. Trong giai đoạn 2006-2010, Hà Nội phấn đấu thực hiện đúng quy định tại Khoản g, Điều 4, Luật NSNN: “sau mỗi thời kỳ ổn định ngân sách, phải tăng khả năng tự cân đối, phát triển ngân sách địa phương, thực hiện giảm dần số bổ sung từ ngân sách cấp trên hoặc tăng tỷ lệ phần trăm (%) điều tiết số thu nộp về ngân sách nhà nước”; thúc đẩy thực hành tiết kiệm chống lãng phí, cải cách hành chính nâng cao chất lượng dịch vụ công, sử dụng hiệu quả ngân sách nhà nước. Thu ngân sách giai đoạn tới phấn đấu đạt gấp 2 lần giai đoạn 2001-2005, tốc độ tăng trên 12-14%/năm, chiếm trên 40% GDP, dự kiến nhiệm vụ thu được căn cứ trên cơ sở chế độ thu, chính sách đối với những hình thức động viên, những thay đổi dự kiến, và những biến động về cơ cấu thu theo xu hướng hội nhập, và sự phát triển của nền kinh tế.
Nhiệm vụ trọng tâm của ngành thuế trong thời gian tới là:
+ Tăng cường công tác quản lý thu trên tất cả các lĩnh vực, coi trọng những lĩnh vực còn thất thu như khu vực dân doanh, phí và lệ phí, các khoản thu liên quan đến đất đai, phấn đấu hoàn thành vượt mức ít nhất là 5% dự toán thu NSNN mà Bộ Tài chính giao.
+ Đẩy mạnh tiến trình cải cách, hiện đại hóa ngành thuế theo đúng lộ trình. Tiếp tục cải cách hành chính, đảm bảo việc giải quyết các thủ tục hành chính nhanh, gọn, không gây phiền hà; kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, nâng cao năng lực thực thi công vụ, phẩm chất đạo đức.
+ Tăng cường công tác quản lý thu nợ thuế, lấy kết quả thực hiện công tác quản lý thu nợ thuế, đôn đốc thu hồi nợ thuế là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác quản lý thuế của tập thể, cá nhân cán bộ.
II. NHỮNG THUẬN LỢI KHÓ KHĂN VÀ XU THẾ VẬN ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THU NGÂN SÁCH Ở HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2006-2010
- Bước vào thời kỳ mới 2006-2010, Thủ đô cùng cả nước chính thức hội nhập quốc tế và khu vực, hoàn thành gia nhập AFTA, chuẩn bị gia nhập WTO,... Đó là bối cảnh chung dẫn tới nhiều thay đổi về nguồn thu NSNN. Nhiều nguồn thu ngân sách trên địa bàn Hà Nội trong những năm tới có biến động, vừa có những khó khăn nhưng cũng đồng thời có những thuận lợi nhất định.
Thành phố trong giai đoạn tới sẽ hoàn thành việc cổ phần hóa các DNNN, giải thể những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Đồng thời sẽ tiến hành sắp xếp lại, tích cực đầu tư, ổn định và nâng cao hiệu quả hoạt động của những DN còn lại trên địa bàn. Thu từ khu vực này sẽ có xu hướng ổn định và tăng trưởng đều trong những năm tới.
Xu hướng mở cửa, hội nhập sẽ gây thất thu những khoản thu từ xuất nhập khẩu trong thời gian tới. Tuy vậy cũng tạo ra cơ hội tiêu dùng hàng hóa sản phẩm nhiều hơn, và nguồn thu sẽ được bổ sung dưới những hình thức khác. Bởi vậy, mở cửa hội nhập sẽ không làm giảm tổng số thu NSNN trên địa bàn.
Năm năm tới sẽ là những năm chứng kiến sự trưởng thành vượt bậc của khu vực công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh. Khu vực này đã đóng góp tới gần 50% GDP cả nước, ở Hà Nội con số này là trên 20% và sẽ còn cao hơn nữa trong giai đoạn tới. Đây là điều kiện thuận lợi để tăng thu ngân sách từ khu vực này. Mục tiêu tận thu từ khu vực này sẽ là nhiệm vụ của giai đoạn tới.
Nhà nước từ giữa năm 2006 sẽ cho phép nhập khẩu ôtô cũ với mức thuế suất ấn định sẽ hâm nóng thị trường tiêu thụ ôtô trên địa bàn Hà Nội. Là điều kiện thuận lợi để tăng nguồn thu thuế, cũng như lệ phí trước bạ.
Ngoài ra, rất nhiều khoản thu khác có triển vọng tăng trong thời gian tới. Khoản thu từ nhà và đất sẽ tiếp tục tăng cao. Hà Nội sẽ đẩy mạnh hoàn thành việc cấp sổ đỏ cho người dân trong những năm tới. Bán và cho thuê Nhà của nhà nước, bán đấu giá quyền sử dụng đất vẫn là khoản thu có thể tiếp tục khai thác. Thu thuế thu nhập cá nhân là khoản thu còn giàu tiềm năng...
- Xu hướng cải cách thu trong lĩnh vực tài chính công, phân cấp nguồn thu ngân sách có ảnh hưởng lớn tới công tác thu ngân sách thành phố trong thời gian tới. Xu hướng phân cấp là tăng quyền cho các cấp địa phương, trên cơ sở thực tế phát sinh, tạo điều kiện chủ động hơn nữa phát huy tinh thần trách nhiệm, tạo động lực cho các cấp hành thu tốt hơn. Đặc biệt các khoản thu phí, lệ phí, lệ phí trước bạ, thu từ khu vực công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh,... sẽ ngày càng được phân cấp mạnh hơn nữa.
- Cải cách thuế là xu hướng tác động mạnh tới công tác thu NSNN trên địa bàn. Thực hiện chiến lược cải cách thuế theo Quyết định 201/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong giai đoạn 2006-2010, ngành Thuế tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách thuế theo hướng mở rộng đồng bộ với việc định mức thuế suất hợp lý, bảo đảm hiệu quả, công bằng, bình đẳng, công khai, minh bạch, phục vụ tích cực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Những nhiệm vụ trọng tâm được xác định là: chính sách thuế tiến tới phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế, chuẩn bị cho tiến trình hội nhập; chính sách thuế phải thực hiện tốt mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẩy mạnh cải cách và nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế.
Các sắc thuế liên quan đến mức thu nhập được áp dụng rộng rãi và nguồn thu từ các sắc thuế này chiếm tỷ trọng lớn ở hầu hết các nước, vì đây là thuế trực thu vừa có tác dụng huy động nguồn lực trực tiếp từ các cá nhân trong xã hội vừa gó phầnthực hiện điều tiết kinh tế - xã hội (giảm bớt sự phân hóa xã hội) thông qua thu nhập và sở hữu tài sản. Trong giai đoạn tới, Nhà nước sẽ có những cải cách về thuế theo hướng giảm dần tỷ trọng thu NSNN từ các sắc thuế gián thu (VAT và thuế xuất khẩu, nhập khẩu) để tập trung vào xây dựng và hoàn thiện các sắc thuế trực thu, trong đó chủ yếu là các sắc thuế liên quan đến mức thu nhập nhằm nâng cao tỷ trọng thu NSNN từ các loại thuế này. Để bổ sung cho các sắc thuế liên quan đến mức thu nhập hiện hành trong việc phân phối lại vào NSNN thu nhập của các tổ chức, cá nhân có tài sản thuộc diện phải chịu thuế, góp phần khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa các tầng lớp dân cư trong phân phối thu nhập. Bởi vậy cơ cấu thu theo sắc thuế sẽ có những thay đổi, đòi hỏi công tác thu phải có những nỗ lực phù hợp với tình hình mới.
Hà Nội, với vai trò là Thủ đô của đất nước, tiếp tục được Nhà nước quan tâm, ưu đãi. Là một trong những vùng phát triển chiến lược của quốc gia, Hà Nội sẽ được tạo điều kiện thuận lợi trong đầu tư cơ sở hạ tầng, thúc đẩy phát triển kinh tế, từ đó tăng nguồn thu ngân sách. Là địa phương được ưu đãi về mọi mặt, Hà Nội luôn được kỳ vọng là địa phương đi đầu cả nước trong lĩnh vực ngân sách, là tấm gương về công tác quản lý, thực hiện thu và chi đầu tư hiệu quả, hợp lý. Quản lý số thu lớn và sử dụng chúng một cách hiệu quả cũng là một trách nhiệm nặng nề của thành phố. Đặc biệt với lĩnh vực nhạy cảm như ngân sách, chống tiêu cực là một yêu cầu cấp thiết. Bài học nhãn tiền cho Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung trong lĩnh vực quản lý tài chính công là những vụ bê bối, tiêu cực lớn trong nhiều năm qua. Đó là những Lã Thị Kim Oanh, vụ PMU18 đang điều tra xét xử,...
Những khó khăn, thuận lợi, yêu cầu thách thức nói trên là một trong những căn cứ, cơ sở để từ đó luận văn nghiên cứu, đề ra giải pháp tăng cường nguồn thu ngân sách trong thời gian tới.
III. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC THU NGÂN SÁCH
Ở những phần trên, luận văn đã đi từ lý luận, tìm hiểu về lĩnh vực ngân sách, những quy định hiện hành của Nhà nước trong lĩnh vực thu ngân sách, cách thức tổ chức, thực hiện công tác thu ngân sách của thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó, tiến hành tìm hiểu thực trạng thu ngân sách 5 năm vừa qua (2001-2005), nghiên cứu tìm hiểu nguyên nhân kết quả đạt được cũng như những tồn tại thông qua phân tích chi tiết quá trình thực hiện công tác thu và từng khoản mục thu. luận văn cũng đã tìm hiểu bối cảnh, những thuận lợi và khó khăn của công tác thu trong giai đaọn tới 2006-2010. Trong phần này, luận văn xin mạnh dạn đưa ra một số những giải pháp nhằm tăng cường công tác thu, thực hiện mục tiêu thu mà thành phố đã đề ra trong giai đoạn tới đây. Nhóm các giải pháp được chia thành 3 phần: nhóm các giải pháp nhằm nuôi dưỡng nguồn thu; nhóm các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế chính sách trong lĩnh vực thu; và nhóm các giải pháp giúp công tác hành thu thực hiện tốt hơn. Hay nói một cách khác, nhóm giải pháp thứ nhất nhằm mở rộng tiềm năng thu ngân sách, và 2 nhóm giải pháp còn lại nhằm tận thu, theo sát với tiềm năng hiện có trên cơ sở đảm bảo các chiến lược, mục tiêu, chính sách phát triển kinh tế xã hội.
1. Nuôi dưỡng nguồn thu
Từ trước tới nay, các giải pháp tăng cường công tác thu NSNN trên địa bàn chủ yếu tập trung tận thu ngân sách mà ít đề cập đến việc phải làm sao để nuôi dưỡng những nguồn thu đó. Nuôi dưỡng nguồn thu cũng tức là mục tiêu phát triển kinh tế thủ đô với mức tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế hợp lý. Vai trò của quản lý kinh tế nhà nước nói chung và thành phố nói riêng đã được thực tế 20 năm đổi mới chứng minh. Để quản lý nền kinh tế chính quyền sử dụng kế hoạch hóa làm công cụ quan trọng nhất, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Một trong những bộ phận của hệ thống kế hoạch chính là ngân sách. Thu ngân sách vì thế cũng có những tác động không nhỏ tới sự phát triển của chính các nguồn thu. Có những quan điểm cho rằng tận thu ngân sách có thể gây cản trở sự phát triển của nền kinh tế. Một mức huy động hợp lý sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển bình thường, thậm chí khuyến khích, nâng cao tốc độ phát triển. Luận văn thống nhất quan điểm coi chính sách thu cũng là một biện pháp nuôi dưỡng nguồn thu cho NSNN. Trên quan điểm đó, thành phố Hà Nội cần xây dựng, sử dụng ngân sách như một công cụ khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế. Đặc biệt là việc sử dụng ngân sách thành phố cho những mục tiêu phát triển cơ sở hạ tầng, đầu tư những ngành mang tính chất định hướng, những ngành cung cấp các dịch vụ công, những ngành mũi nhọn, thế mạnh…
Nuôi dưỡng nguồn thu từ DNNN, khu vực đóng góp tỷ trọng lớn trong tổng số thu NSNN trên địa bàn là rất quan trọng. Ngoại trừ những DNNN do TƯ quản lý mà thành phố không tác động được, các DNNN địa phương trong giai đoạn tới cần được nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Cụ thể giai đoạn tới thành phố cần hoàn thành cổ phần hóa, tư nhân hóa một bộ phận DN làm ăn thua lỗ; số DN còn lại cần sắp xếp lại, đầu tư mới nâng cao hiệu quả sản xuất, từ đó tăng nguồn thu cho NSNN.
Tiếp tục nâng cao sức hấp dẫn, thu hút đầu tư nước ngoài trong thời gian tới, nâng cao nguồn thu từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Xu thế mở cửa mạnh từ năm 2006 sẽ tạo ra một cơ hội lớn cho HN thu hút đầu tư. Mặc dù được ưu đãi nhiều mặt, tuy nhiên thực tế nhiều năm qua, sức hấp dẫn Hà Nội đang có chiều hướng giảm sút, ngày càng chịu sức ép cạnh tranh gay gắt từ những vùng lân cận (Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng Yên,...). Hà Nội cần chú trọng xây dựng biện pháp cải thiện môi trường đầu tư trong thời gian tới.
Cần có những biện pháp nuôi dưỡng nguồn thu giàu tiềm năng nhất, khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh, với sự quan tâm đặc biệt. Nhìn vào mức độ và nhịp độ phát triển, cũng như mức đóng góp tăng lên, có thể thấy, sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân là vượt trội nhất. Khu vực này đã vượt lên xuất phát điểm rất thấp trước khi có Luật Doanh nghiệp năm 1999 ra đời để đạt ngưỡng cao trong đóng góp chung vào GDP, xuất khẩu, đầu tư, phát triển công nghiệp, tạo việc làm... Thành phố Hà Nội tuy là địa phương tập trung nhiều DNNN lớn và làm ăn có hiệu quả vào bậc nhất cả nước cũng không thể phủ nhận sự lớn mạnh của kinh tế tư nhân. Thành phố Hà Nội cần coi trọng đúng mức đối với khu vực này. Trong bối cảnh hội nhập sắp tới, trước những thách thức rất to lớn từ bên ngoài, kinh tế tư nhân rất cần giúp đỡ. Đặc điểm chủ yếu của kinh tế tư nhân vẫn là khu vực vừa và nhỏ, bởi vậy sức cạnh tranh kém. Hơn thế công tác quản lý thu ngân sách cũng manh mún nhỏ lẻ, khó kiểm soát. Do đó Hà Nội cần tạo điều kiện phát triển các DN cỡ trung bình và cỡ lớn nâng cao sức cạnh tranh trong thời kỳ tới 2006-2010:
+ Cần có chính sách khuyến khích tư nhân đầu tư lớn. Bằng cách nới lỏng, tinh giản cơ chế cho vay, khuyến khích DN đầu tư lớn vào sản xuất bằng chính các công cụ ngân sách (có thể là giảm nộp ngân sách cho những doanh nghiệp đầu tư công nghệ mới,...). Hiện nay, thủ tục cho vay của các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng Nhà nước còn rất rườm rà, gây cản trở lớn đối với những DN có nhu cầu vay vốn. Vừa đảm bảo những yêu cầu tối cần thiết về sự an toàn, lại vừa tạo cơ chế thông thoáng, khuyến khích các DN vay đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh là không đơn giản. Để đáp ứng được yêu cầu phát triển, thành phố cần có những nỗ lực nghiên cứu, cải cách thích hợp trong thời gian tới.
+ Tạo điều kiện thuận lợi về mặt bằng sản xuất. Đẩy mạnh việc giao đất, lấp đầy các khu, cụm công nghiệp,... Nâng cao sự thông thoáng trong cơ chế, thủ tục hành chính. Cải tổ công tác tổ chức đấu thầu, nâng cao sự thông thoáng trong đấu thầu, cho thuê đất sản xuất kinh doanh. Vấn đề mặt bằng cho sản xuất đối với thành phố Hà Nội luôn là vấn đề nóng bỏng, là yếu điểm của thành phố trong cạnh tranh thu hút đầu tư. Với điều kiện dân số cao, diện tích eo hẹp, thành phố trong nhiều năm qua phải đối mặt với thực trạng đưa đất nông nghiệp vào sử dụng cho sản xuất công nghiệp. Công tác giải phóng mặt bằng, thu hồi đất, đền bù cho người dân… của thành phố cần phải được nâng cao trong thời gian tới. Đồng thời, cần triệt để xử lý các vụ việc vi phạm, nhũng nhiễu, tiêu cực trong đấu thầu, gây cản trở tiến trình giao mặt bằng đến tay các DN.
+ Thực hiện tốt đấu thầu công khai, minh bạch nhằm khuyến khích tư nhân đầu tư vào các dự án lớn, kể cả những dự án phát triển cơ sở hạ tầng, cung cấp dịch vụ công,... Trên thực tế, nhiều lĩnh vực trước đây thường chỉ giao cho NN làm thì nay tư nhân đã có thể tham gia và sẵn sàng tham gia. Bởi vậy, thực hiện tốt công tác đấu thầu sẽ tạo cơ hội phát triển các DN tư nhân có quy mô lớn mạnh, trung bình, giúp nâng cao tiềm năng thu NSNN.
Trên đây là những biện pháp tăng cường nguồn thu ngân sách mà thành phố có thể chủ động được. Đối với những khoản thu phát sinh trong kinh tế xã hội như phí, lệ phí, lệ phí trước bạ, các khoản thu về tài nguyên có tích chất hữu hạn như nhà đất, luận văn chỉ đi sâu nghiên cứu đề xuất các biện pháp tăng cường tận thu ngân sách.
2. Kiện toàn hệ thống cơ chế, chính sách thu ngân sách
Thực hiện chiến lược cải cách thuế theo Quyết định 201/2004QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong giai đoạn 2006-2010, ngành Thuế tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách thuế theo hướng mở rộng diện chịu thuế đồng bộ với việc định các mức thuế suất hợp lý, đảm bảo hiệu quả, công bằng bình đẳng, công khai minh bạch, phục vụ tích cực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế, thực hiện các chính sách xã hội của Nhà nước.
Về cơ bản, pháp luật, luật thuế là những lĩnh vực thuộc thẩm quyền nhà nước, thành phố không can thiệp được. Trong phạm vi thẩm quyền của mình, thành phố cần chủ động trong phân cấp quản lý nguồn thu. Phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi là vấn đề trọng tâm của cơ chế phân cấp quản lý ngân sách của các cấp chính quyền địa phương. Cả lý luận và thực nghiệm ở các nước, cũng như trong quan điểm, đường lối của Đảng ta đều cho thấy trong phân cấp quản lý ngân sách các cấp chính quyền địa phương phải luôn đảm bảo cho ngân sách cấp trên giữ vai trò chủ đạo, đảm nhận những nhiệm vụ chi chính và quan trọng để thực hành điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đảm bảo sự phát triển cân đối, hợp lý giữa các vùng, các ngành trình độ, bước đi thích hợp.
Trên cơ sở đó, thành phố Hà Nội cần đẩy mạnh phân cấp nguồn thu theo các hướng:
+ Các khoản thu mỗi cấp hưởng 100% phải được coi là nguồn thu chủ yếu của các cấp ngân sách. Vì vậy, cần phân cấp mạnh hơn về nguồn thu này cho ngân sách các cấp quận huyện để khuyến khích chính quyền các cấp làm chủ ngân sách cấp mình. Mở rộng danh mục đối tượng thu cho ngân sách cấp huyện, xã và tương đương trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, thương mại... Thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp hiện nay phân chia theo tỷ lệ % cho 3 cấp (thành phố, huyện, xã) thành phố nên mạnh dạn phân cho cấp huyện, xã để đáp ứng nhu cầu chi tại cơ sở và khuyến khích quan tâm đến các nguồn thu này, đầu tư tại chỗ để phát triển kinh tế địa phương, nhất là cho nông nghiệp, nông thôn.
Trong quản lý ngân sách địa phương, có thể phân tổ thành 2 loại: loại thứ nhất thuộc diện phải bổ sung cân đối thì phân cấp tất cả các nguồn thu trên địa bàn và để lại 100% cho địa phương; loại thứ hai thuộc diện có khả năng cân đối cũng phân cấp tất cả các nguồn thu trên địa bàn (một số khoản thu đặc thù của trung ương như dầu khí, hàng không,... của thành phố như tiền cho thuê đất, xổ số kiến thiết...) nhưng theo một tỷ lệ quy định. Thực hiện cơ chế này sẽ có ưu điểm cơ bản là tạo nguồn lực cho ngân sách địa phương một cách đầy đủ, qua đó phản ánh thực chất cân đối của địa phương, địa phương sẽ thấy rõ tiềm lực tài chính của mình để chủ động phấn đấu. Đồng thời, các địa phương cũng quan tâm đầu tư đến các nguồn thu, giảm các khoản thu luân chuyển lòng vòng trong quản lý NSNN, có nguy cơ thất thu do tiêu cực nảy sinh. Như vậy, trong phân cấp nguồn thu ngân sách, luận văn mạnh dạn đề xuất:
+ Đảm bảo phân cấp nguồn thu phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế xã hội. Điều này thành phố cũng đã thực hiện khá tốt trong những năm qua.
+ Phân cấp cho địa phương đảm nhận thu (kết hợp với phân cấp nhiệm vụ chi) từ những hàng hóa dịch vụ công cộng cấp địa phương như nhà ở công cộng, cấp nước, cơ sở hạ tầng nông thôn,...
+ Phí tài nguyên, phí sử dụng đất nông nghiệp nên phân cấp cho cấp huyện và xã, nhằm để các cấp quan tâm đến các nguồn thu này.
+ Tiếp tục chuyển một số khoản thu từ doanh nghiệp tư nhân, dịch vụ, thương nghiệp ngoài quốc doanh, các hộ kinh doanh cá thể,... về Chi cục Thuế quận huyện quản lý.
+ Ngoài ra, luận văn cũng đề xuất xóa bỏ cơ chế thưởng vượt thu như hiện tại (thưởng 50% số vượt thu cho ngân sách quận huyện). Bởi lẽ nhiệm vụ thu vốn dĩ là trách nhiệm của các cấp chính quyền. Thưởng vượt thu có thể phần nào khuyến khích các cấp chính quyền tích cực hơn. Nhưng theo quan điểm của luận văn, việc khuyến khích này là không cần thiết, cần có những cách khuyến khích khác như phân cấp nhiều hơn chẳng hạn. Thêm vào đó, việc sử dụng các khoản vượt thu không được kiểm soát dễ dẫn tới tiêu cực, gây lãng phí. Các khoản vượt thu cần được tiết kiệm vào ngân sách thành phố để tập trung cho những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội theo quy hoạch.
Đổi mới cơ chế thu thuế, để các doanh nghiệp tự kê khai tự nộp thuế. Quy trình nộp thuế hiện nay được thực hiện như sau: DN tự tính toán, kê khai với cơ quan thuế, cơ quan thuế tiến hành thẩm tra và thông báo thuế xuống DN, các DN theo số thuế được thông báo mà tiến hành nộp thuế. Đây tưởng như một cơ chế thu chặt chẽ nhưng trên thực tế lại tỏ ra kém hiệu quả. Từ khi DN kê khai đến khi cơ quan thuế ra thông báo thuế và DN tiến hành nộp thuế chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn là khép lại một chu trình thu. Một cơ quan thu thuế thực hiện theo cơ chế này sẽ phải đảm đương một khối lượng quá lớn các công việc nếu muốn làm tốt công tác thanh kiểm tra việc kê khai thuế của các DN. Trên thực tế, đòi hỏi này là quá sức đối với cơ quan thuế. Việc thanh kiểm tra của cơ quan thu thuế vì thế chỉ mang tính hình thức, hiệu quả công việc không cao. Kết thúc một quy trình nộp thuế, coi như việc thu nộp đã hoàn tất. Quy trình này vừa gây phiền hà, vừa kém hiệu quả lại vừa tạo cơ hội phát sinh những tiêu cực trong đội ngũ cán bộ thu. Thời gian qua, Nhà nước và thành phố Hà Nội đã tiến hành thí điểm cơ chế tự kê khai, tự nộp, kết quả rất thành công. Với cơ chế mới, việc DN đã nộp thuế thì quy trình quản lý vẫn chưa kết thúc, còn công tác hậu kiểm của các cơ quan chức năng. Việc hậu kiểm vừa giảm bớt gánh nặng công việc cho cơ quan thu, từ đó nâng cao chất lượng công tác thanh kiểm tra việc thực hiện nghĩa vụ thuế của các DN; lại vừa mang lại sự tiện lợi cho đối tượng nộp thuế; đặc biệt là tăng trách nhiệm của các DN trong việc kê khai và nộp thuế, mang lại kết quả thu đúng hơn, sát thực tế tình hình phát triển của DN hơn. Hậu kiểm chọn mẫu các DN sẽ giúp giảm gánh nặng và nâng cao hiệu quả công tác thành kiểm tra.
Cùng với các biện pháp thay đổi cơ chế thu ngân sách, còn rất cần nhiều biện pháp khác nhằm thực hiện được tốt cơ chế này như: nâng cao năng lực, trình độ quản lý... sẽ được trình bày ở phần sau.
3. Các biện pháp hành thu nhằm xây dựng hệ thống quản lý thu thuế hiệu quả, trong sạch.
Thu và chi ngân sách vốn dĩ là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm. Quản lý một nguồn tài chính công có quy mô lớn liên quan rất nhiều đến vấn đề lợi ích của mọi thành phần kinh tế. Giải quyết các mối quan hệ giữa lợi ích công và lợi ích tư đòi hỏi sự công minh đặc biệt. Tiêu cực, tham nhũng hiện nay vẫn là quốc nạn của hầu hết các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Thực tế tồn tại một quan niệm là quyền lực phải đi đôi với quyền lợi. Chính vì lẽ đó, quản lý ngân sách nếu không có một cơ chế chặt chẽ, một cách thức hợp lý thì không thể tránh khỏi vấn nạn tiêu cực. Trong công tác thu, cần tránh giao quyền quá lớn cho các cá nhân, thực hành một cơ chế quản lý tập thể là rất cần thiết. Mặt khác lại rất cần phân định rõ ràng trách nhiệm của từng cá nhân, và cần cơ chế thưởng phạt công minh.
Có thể nói, lĩnh vực thu ngân sách là một lĩnh vực lớn, bao quát mọi lĩnh vực đời sống, kinh tế - xã hội. Hành thu là công việc hết sức phức tạp, vì giữa lý thuyết và thực tế, giữa cơ chế chính sách và kết quả thu còn cách xa nhau. Qua tìm hiểu thực tế có rất nhiều vấn đề phát sinh trong công tác tổ chức, thực hiện thu làm ảnh hưởng kết quả thu NSNN trên địa bàn trong giai đoạn vừa qua. Một số những biện pháp sau đây có thể góp phần khắc phục những tồn tại và mang lại hiệu quả thu cao hơn, thu đúng, thu đủ, thu sát với tiềm năng hơn.
3.1. Xây dựng bộ máy hành thu tinh giản, hiệu quả
Xây dựng đội ngũ quản lý, thực hiện công tác thu NSNN trên địa bàn tinh giản gọn nhẹ, đồng bộ, thống nhất đáp ứng được yêu cầu. Cùng với việc phân cấp thêm nhiệm vụ quản lý thu xuống các quận huyện cơ sở, thành phố cũng cần có biện pháp tăng cường bộ máy quản lý các cấp đáp ứng được yêu cầu mới như: cơ cấu cán bộ viên chức đủ đáp ứng yêu cầu công việc, trang bị các cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ hiện đại... Đối với những đơn vị giảm trách nhiệm, quyền hạn thu cũng cần biên chế lại, thu gọn bộ máy.
Phân công nhiệm vụ rõ ràng giữa các cấp chính quyền, các đơn vị thu tránh chồng chéo nhằm thực hiện đồng bộ các biện pháp quản lý hành thu đối với từng khoản thu, sắc thuế, từng địa bàn, từng đối tượng nộp thuế: Tận thu các đối tượng nộp thuế, phí, lệ phí trên địa bàn, đảm bảo thu 100% đối tượng nộp thuế có địa điểm cố định; Quản lý chặt chẽ đối tượng nộp thuế; Đôn đốc thu nộp và cưỡng chế các khoản nợ thuế. Đẩy mạnh công tác thanh tra kiểm tra; Chủ động triển khai các khoản thu liên quan đến đất đai... (thanh kiểm tra nắm bắt đối tượng sử dụng đất, nắm bắt diện tích đất của các đối tượng thuê đất, điều chỉnh giá đất hợp lý...).
Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy từ Văn phòng Cục đến Chi cục Thuế các quận/huyện trực thuộc theo hướng thu hẹp các đầu mối quản lý trực tiếp và các khâu chức năng mang tính phục vụ nội ngành để hình thành và tập trung bổ sung nguồn nhân lực cho các bộ phận chức năng quản lý thuế chủ yếu như tuyên truyền - hỗ trợ, thanh tra - kiểm tra, xử lý tờ khai dữ liệu thuế, quản lý và thu nợ phù hợp với cơ chế tự khai - tự nộp. Trước mắt sẽ tăng cường phân cấp thu trước bạ các loại, thu thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cho các Chi cục Thuế kết hợp với mở rộng ủy nhiệm thu phường/xã để thu hẹp, tiến tới giải thể phòng trước bạ, phòng quản lý doanh nghiệp dân doanh; thu hẹp và sát nhập dần các phòng quản lý doanh nghiệp nhà nước với chức năng chủ yếu theo dõi nợ và thu nợ làm nền tảng cho sự hình thành Phòng Quản lý nợ và Cưỡng chế thu nợ sau này; kiện toàn cả về cơ cấu, số lượng và chất lượng các bộ phận tuyên truyền, hỗ trợ thanh tra kiểm tra; quy định lại và rõ ràng chức năng nhiệm vụ của các bộ phận. Mục đích cuối cùng là đảm bảo tổ chức bộ máy thu vừa gọn nhẹ, vừa đầy đủ chức năng, không chồng chéo, trùng lắp.
3.2. Đẩy mạnh cải cách hành chính - hiện đại hóa công tác thu
Đẩy mạnh cải cách hành chính - hiện đại hóa ngành thuế. Trên cơ sở kế hoạch chung của toàn ngành, một mặt tiếp tục hoàn thành các chương trình mà ngành Thuế đề ra, mặt khác phải tập trung chuyển đổi phương thức quản lý từ quản lý theo đối tượng nộp thuế sang quản lý theo chức năng với cơ chế tự kê khai - tự nộp thuế. Đó là:
Xây dựng cơ sở dữ liệu đối với đối tượng nộp thuế; Rà soát để mở rộng có chọn lọc các doanh nghiệp có đủ điều kiện đưa vào diện thực hiện cơ chế tự khai - tự nộp thuế, từng bước tiến tới hoàn thành nhiệm vụ này.
Đồng thời phải xây dựng các đề án nghiên cứu nghiêm túc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý các cơ sở dữ liệu đó. Vai trò của công nghệ thông tin là đặc biệt quan trọng, quản lý bằng công nghệ thông tin, giảm thiểu sổ sách sẽ giúp nâng cao hiệu quả, công khai minh bạch tránh được tiêu cực. Phải quan tâm nâng cấp chương trình thường xuyên, nhằm tra cứu thông tin kịp thời cho cả đối tượng nộp thuế cũng như cán bộ thu thuế. Nâng cấp, xây dựng trang WEB riêng, trong đó cần công khai nhiều số liệu để phòng ngừa tiêu cực. Để kịp thời nắm bắt tình hình phát triển của các đối tượng nộp thuế, thành phố phải chú trọng công tác điều tra thị trường, có sự phối hợp thống nhất giữa các cơ quan chuyên môn, các ngành, chính quyền cấp cơ sở.
Thường xuyên đánh giá lại quy trình, thủ tục về thuế để đề xuất, kiến nghị nhà nước sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế, tránh gây phiền hà cho tổ chức, cá nhân nộp thuế. Chú trọng quản lý các vấn đề nhạy cảm, dễ nảy sinh tiêu cực như thủ tục cấp mã số thuế, mua hóa đơn, hoàn thuế...
Xây dựng cơ chế quản lý “một cửa”, không chồng chéo, không trùng lắp nhằm nâng cao chất lượng thu cũng như hạn chế tiêu cực, tránh phiền hà, nhũng nhiễu các đối tượng nộp thuế. Kiện toàn bộ máy thu trong toàn ngành thuế, hải quan,... theo hướng giảm số lượng phòng thu.
3.3. Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra
Như trên đã phân tích, trong lĩnh vực thu ngân sách, nạn trốn thuế, gian lận thương mại còn diễn ra khá phổ biến và ngày càng tinh vi. Thành phố Hà Nội trong thời gian tới cần chú trọng công tác thanh tra kiểm tra trong hành thu NSNN trên địa bàn. Công tác thanh tra bao gồm thanh tra tại các doanh nghiệp và thanh tra nội bộ ngành. Đối với các DN cần tiến hành thanh tra bất thường, chọn mẫu một số DN trong công tác kê khai, nộp thuế. Thanh tra nội bộ phải được thực hiện quyết liệt, coi đây như phương pháp thúc đẩy quá trình thanh tra các đối tượng nộp thuế.
Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra thuế trên cơ sở thu nhập thông tin, phân tích thông tin và phân loại doanh nghiệp để lựa chọn đúng những đối tượng có hành vi gian lận thuế (trốn thuế, chiếm đoạt tiền thuế) dưới mọi hình thức. Tập trung thanh tra, kiểm tra những doanh nghiệp, hộ có mức độ vi phạm nghiêm trọng, thất thu lớn, nhất là khu vực kinh tế dân doanh, các doanh nghiệp sử dụng hóa đơn của các đơn vị kinh doanh hóa đơn bất hợp pháp, chiếm đoạt tiền thuế GTGT và trốn thuế TNDN.
3.4. Tăng cường biện pháp quản lý đối tượng chịu thuế
Đối tượng chịu thuế có xu hướng ngày càng tăng với tốc độ cao. Thực tế 5 năm qua kể từ khi có Luật DN năm 1999 cho thấy, số lượng DN đã tăng rất nhanh. Không những thế, đối tượng nộp thuế cũng thường xuyên biến động không ngừng, tăng nhanh về quy mô sản xuất, hoặc nhanh chóng bị giải thể… Bởi vậy, tăng cường biện pháp quản lý đối tượng nộp thuế là biện pháp rất quan trọng.
Thành phố cần thường xuyên theo dõi sát tình hình phát triển kinh tế, xã hội và những nhân tố ảnh hưởng làm tăng, giảm thu ngân sách trên từng địa bàn, từng khoản mục từ đó đề ra các biện pháp chỉ đạo tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc để đảm bảo tăng trưởng kinh tế, nâng cao kết quả thu NSNN trên địa bàn. Cụ thể, trong thời gian tới, thành phố cần triển khai các công tác sau:
Phối hợp với các ngành liên quan, tổ chức giám sát chặt chẽ việc đăng ký thuế, kê khai thuế, tình hình nộp thuế trên địa bàn để có những biện pháp kịp thời đôn đốc, xử lý mọi vi phạm pháp luật, đảm bảo thu đầy đủ, kịp thời các nguồn thu phát sinh, các khoản thuế nợ đọng vào NSNN. Mọi hành vi phạm pháp luật thuế cần phải áp dụng các biện pháp xử phạt nghiêm minh theo đúng quy định.
Hiện nay, thành phố chưa có biện pháp nào hữu hiệu để kiểm soát tình trạng nhiều doanh nghiệp lợi dụng sự thông thoáng của Luật Doanh nghiệp đăng ký kinh doanh khống để mua và bán hóa đơn nhằm thu lợi bất chính. Tình trạng này vẫn tiếp diễn chừng nào nạn buôn lậu còn diễn ra phổ biến như hiện nay, việc mua hóa đơn để hợp thức hóa các nguồn hàng trôi nổi trên thị trường đã gây thiệt hại nặng nề cho NSNN. Các doanh nghiệp mua được hóa đơn sẽ trốn được thuế TNDN cũng như thuế GTGT, còn các doanh nghiệp bán hóa đơn sau đó sẽ “bùng” gây thất thu NSNN trên địa bàn. Tình trạng này không chỉ diễn ra trên địa bàn Hà Nội mà là một “vấn nạn xuyên tỉnh”. Để khắc phục, thành phố cần tăng cường công tác Hải quan tăng cường chống buôn lậu, đồng thời thắt chặt khâu đăng ký kinh doanh, thường xuyên rà soát những đối tượng mới và những đối tượng giải thể, loại bỏ các “công ty ma”.
Để thực hiện tốt công tác quản lý các đối tượng thuế, thành phố cũng cần tích cực phối hợp với các tỉnh thành trong cả nước. Thực tế cho thấy, thành phố trong nhiều năm qua chưa có những trao đổi, tổng kết, học hỏi kinh nghiệm từ những địa phương khác trong cả nước trong công tác hành thu. Thực tế lĩnh vực thu diễn biến rất phức tạp, kinh nghiệm học hỏi được từ những tỉnh thành sẽ giúp ích cho Hà Nội rất nhiều. Cần tổ chức tổng kết kinh nghiệm qua những hội thảo, hội nghị chuyên đề về hành thu, về chống trốn thuế, quản lý đối tượng nộp thuế, tuyên truyền công tác thuế,… mỗi năm ít nhất một lần.
3.5. Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền thuế
Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, hỗ trợ tư vấn pháp luật thuế cho cộng đồng xã hội, đặc biệt là dịch vụ hỗ trợ các tổ chức, cá nhân nộp thuế theo hướng: Thu thập thông tin về đối tượng nộp thuế, đánh giá, phân loại theo mức độ tuân thủ pháp luật thuế để có biện pháp tuyên truyền, hướng dẫn và hỗ trợ phù hợp. Đối với các tổ chức, cá nhân chưa hiểu rõ pháp luật thuế phải tăng cường đối thoại, tập huấn chính sách, chế độ và các thủ tục hành chính thuế, giải quyết kịp thời vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật thuế. Đối với đối tượng nộp thuế có dấu hiệu kê khai thiếu, trốn thuế, chây ì nghĩa vụ thuế thì chính quyền địa phương cần chỉ đạo các cơ quan chức năng, cơ quan thông tin đại chúng phối hợp với cơ quan thuế để tuyên truyền, giải thích về bản chất ý nghĩa tốt đẹp của tiền thuế và trách nhiệm của công dân đối với nghĩa vụ thuế, lên án những hành vi trốn thuế, chiếm đoạt thuế... Tổ chức hướng dẫn, tập huấn và chỉ đạo thực hiện tốt luật thuế GTGT và Luật thuế TTĐB.
Thường xuyên thực hiện thăm dò nhu cầu và tổ chức các lớp tập huấn miễn phí phổ biến về chính sách thuế phù hợp với từng đối tượng. Tổ chức các buổi đối thoại trực tiếp trên truyền hình, dưới hình thức hội thảo,... giải đáp các thắc mắc, lắng nghe các ý kiến đóng góp, nguyện vọng của các đối tượng nộp thuế. Một mặt tuyên truyền công tác thu, mặt khác lắng nghe những đánh giá khách quan để sửa đổi kịp thời khi cần thiết.
Tuyên truyền thuế qua phương tiện thông tin đại chúng, báo đài thường xuyên. Hàng tháng, hàng quý, khi có thay đổi về cơ chế chính sách thuế, cần phải tổ chức phóng sự, viết nhiều bài báo, cũng như có chuyên mục giải đáp về lĩnh vực thuế thường xuyên. Nâng cao nhận thức của người dân, của các chủ thể kinh tế là vô cùng quan trọng. Trốn thuế, buôn lậu, gian lận thuế có thể đến từ các đối tượng hiểu luật mà vẫn cố tình lách luật, hoặc không hiểu luật dẫn đến vi phạm. Công tác tuyền truyền vừa mang tính chất phổ biến luật vừa nhằm tính răn đe đối với các đối tượng nộp thuế.
3.6. Các biện pháp quản lý con người, phòng chống tiêu cực trong công tác hành thu NSNN trên địa bàn
Các biện pháp về vấn đề con người luôn luôn là quan trọng nhất. Mọi quy định của luật, các cơ chế vận hành, tổ chức bộ máy quản lý công tác thu suy cho cùng vẫn chỉ là lý thuyết. Nó chỉ thực sự đi vào thực tế nếu có sự tham gia của con người. Giải quyết các vấn đề về con người sẽ bao gồm 2 nhóm biện pháp, biện pháp nâng cao trình độ nghiệp vụ, và nhóm biện pháp nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức, chống quan liêu, tiêu cực trong công tác.
Để nâng cao trình độ của cán bộ thu NSNN trên địa bàn, trước hết phải đi từ khâu tuyển dụng cán bộ. Thành phố cần kiên quyết đãi ngộ người tài, sử dụng người tài, chống nạn “ô dù”, cậy quyền cậy thế. Những cán bộ như vậy vừa không đảm bảo năng lực, vừa cậy quyền thế mà tham ô, tham nhũng rất nguy hại đến quá trình quản lý, vận hành ngân sách.
Việc sử dụng chế độ luân phiên các cán bộ thuế cũng rất đáng lưu tâm, không để cho các cán bộ và các đối tượng nộp thuế có thời gian, điều kiện móc ngoặc nảy sinh tiêu cực. Cản trở lớn nhất khi sử dụng biện pháp này là việc các cán bộ, viên chức nhà nước cần có thời gian làm quen môi trường làm việc mới nên có thể ảnh hưởng tới hiệu quả công tác. Tuy nhiên, cùng với việc công khai hóa và phổ thông hóa thông tin trong ngành, các cán bộ thuế hoàn toàn có thể đảm đương tốt công việc khi luân chuyển địa bàn công tác.
Tiếp đến phải đầu tư tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng giao tiếp ứng xử đối với người nộp thuế, khả năng ứng dụng tin học trong công tác quản lý thu thuế của cán bộ công chức ngành Thuế. Cụ thể:
+ Mở các lớp bồi dưỡng công tác cấp lại mã số thuế.
+ Tập huấn tin học ứng dụng trong quản lý thuế.
+ Tập huấn công tác thanh tra.
+ Tập huấn bồ dưỡng thuế.
+ Kiểm tra chất lượng nghiệp vụ thanh tra và quản lý doanh nghiệp đặc biệt là những cán bộ thanh tra, quản lý khu vực ngoài quốc doanh.
Chống tiêu cực trong công tác hành thu là vấn đề nan giải. Thành phố cần ban hành các quy chế cụ thể quy định trách nhiệm từng cá nhân các cán bộ thu NSNN. Đồng thời kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm. Thành phố cần thực hiện thanh tra chéo, kiểm tra đánh giá chất lượng công tác thu qua phối hợp với các đối tượng thu, lắng nghe ý kiến đóng góp, phản hồi từ nhiều nguồn thông tin như báo chí, truyền hình, người dân qua đường giây nóng, khiếu nại tố cáo,...
Cuối cùng, luận văn cho rằng: Đối với các cán bộ ngành thuế, để khuyến khích mọi người làm việc đúng nguyên tắc, đúng pháp luật, chuyên tâm công tác chuyên môn, thành phố cũng rất cần cải tổ tiền lương, mở rộng chế độ thưởng nâng cao thu nhập cho các cán bộ ngành thuế. Biện pháp này song song với việc mạnh tay xử lý các vụ việc tiêu cực, thắt chặt kỷ cương quản lý hành thu. Sự phối hợp này vừa cổ vũ vừa răn đe, vừa tạo điều kiện thuận lợi, vừa nghiêm khắc xử lý sẽ mang lại hiệu quả công tác tốt.
*********************
Trên đây là một số biện pháp vừa mang tính định hướng, lại vừa cụ thể nhằm nâng cao công tác hành thu ngân sách trong giai đoạn tới. Các biện pháp được đưa ra trên cơ sở phân tích, tìm hiểu kỹ những tồn tại, những đặc trưng, những việc đã và chưa làm được của công tác hành thu ngân sách trong giai đoạn vừa qua. Trong đó, luận văn nhấn mạnh các biện pháp về nuôi dưỡng nguồn thu từ DN ngoài quốc doanh; biện pháp hoàn thiện cơ chế chính sách theo hướng phân cấp nhiều hơn cho các quận, huyện, xã nhằm nâng cao hiệu quả thu; các biện pháp nâng cao hiệu quả hành thu bằng việc cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả thanh tra, đào tạo cán bộ và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thực hiện công tác thu ngân sách.
KẾT LUẬN
Trên đây là toàn bộ nội dung Luận văn thực tập tốt nghiệp với đề tài “Biện pháp tăng cường công tác thu ngân sách của thành phố Hà Nội giai đoạn 2006-2010”. Qua quá trình tìm hiểu và hoàn thành luận văn, có thể rút ra một số kết luận như sau:
- Khẳng định vai trò của NSNN có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Là một bộ phận trong hệ thống kế hoạch hóa, là công cụ điều tiết vĩ mô của nền kinh tế, có vai trò định hướng phát triển, tái phân phối thu nhập, thực hiện các chức năng của Nhà nước.
- Thực trạng công tác thu ngân sách Hà Nội thành phố Hà Nội trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu, số thu tăng khá và đáp ứng được yêu cầu chi của thành phố. Tuy nhiên, qua phân tích có thể thấy nguyên nhân mang lại kết quả thu cao phần nhiều do Hà Nội có những ưu đãi đặc biệt, và 5 năm qua có nhiều thay đổi trong cơ chế chính sách thu theo hướng chủ yếu tăng thêm nguồn thu NSNN trên địa bàn. Bởi vậy, thực tế công tác thu còn tồn tại những hạn chế nhất định. Đáng kể nhất là tình trạng trốn thuế, gian lận thuế còn khá phổ biến, vẫn còn nạn tham nhũng, tiêu cực, thủ tục hành chính ngành Thuế còn rườm rà.
- Trên cơ sở những kiến thức đã tiếp thu được qua quá trình nghiên cứu vừa qua, luận văn xin đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường công tác thu ngân sách cho thành phố Hà Nội trong giai đoạn tới 2006-2010. Chủ yếu các biện pháp nhằm 3 mục tiêu: nuôi dưỡng nguồn thu, hoàn thiện cơ chế chính sách thu và nâng cao hiệu quả công tác hành thu. Trong đó, luận văn nhấn mạnh nguồn thu từ khu vực DN ngoài quốc doanh là nguồn thu quan trọng cần triệt để khai thác. Trong cơ chế chính sách thu, chuyên đề quan tâm nhiều tới việc phân cấp nhiều hơn cho các cấp địa phương, nhằm khai thác nguồn thu trên, và nhiều nguồn thu khác một cách hiệu quả. Đồng thời luận văn cũng tán thành chủ trương thay đổi cơ chế tự khai, tự nộp thuế mà Nhà nước ta đang tích cực triển khai thí điểm. Đó là biện pháp hữu hiệu mà thành phố cần phải tiên phong đi đầu, nhanh chóng hoàn thành việc chuyển đổi trong giai đoạn tới. Trong công tác hành thu, luận văn nhấn mạnh tới việc thắt chặt kỷ cương trong lĩnh vực hành thu ngân sách, chống tham nhũng, tiêu cực. Đồng thời chống nạn trốn thuế và gian lận thuế bằng các biện pháp vừa mềm dẻo như giáo dục tuyên truyền các đối tượng nộp thuế, vừa mang tính cưỡng chế cao như tích cực giám sát, thanh tra và xử lý nghiêm…
Với thời gian eo hẹp để hoàn thành luận văn, nên mặc dù được quý cơ quan quan tâm giúp đỡ về nhiều mặt, luận văn đã hoàn thành chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự quan tâm, góp ý của các thầy cô giáo, các cán bộ ngành thuế, các chuyên gia trong lĩnh vực ngân sách để luận văn ngày càng hoàn thiện hơn.
Chân thành cảm ơn các cán bộ, chuyên viên Ban Kinh tế - Ngân sách Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội, các cán bộ phòng Tổng hợp HĐND cùng toàn thể các cán bộ đang công tác tại các Phòng, Ban giúp việc Thường trực HĐND thành phố đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi nghiên cứu, tiếp cận với nhiều tài liệu quý trong thời gian qua. Đặc biệt là sự hướng dẫn trực tiếp hết sức tận tình của bác Lê Văn Hoạt, chú Nguyễn Văn Nam cán bộ Ban Kinh tế - Ngân sách trong suốt quá trình thực tập.
Chân thành cảm ơn thầy giáo, ThS Vũ Cương, giáo viên hướng dẫn tôi trong đợt thực tập vừa qua. Thầy giáo đã quan tâm, tận tình chỉ bảo, luôn theo sát quá trình thực tập, thường xuyên có những buổi làm việc hàng tuần rất bổ ích. Chính nhờ sự giúp đỡ của thầy mà luận văn đã hoàn thành như mong đợi. Một lần nữa, xin cảm ơn thầy giáo!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
*********************
1. Giáo trình quản lý tài chính công, PGS.TS Dương Đăng Chinh, TS. Phạm Văn Khoa, NXB Tài chính, Hà Nội 2005.
2. Tài chính công, Michel Bouvier, Marie-Christine Esclassan, Tean-Pierre Lassale, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005.
3. Luật Thuế đại cương và lý thuyết thuế, Michel Bouvier, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005.
4. 100 câu hỏi và giải đáp về Luật Ngân sách Nhà nước, Ban biên tập dự án “Hỗ trợ cải cách ngân sách”, Hà Nội 2003.
5. Một số vấn đề quản lý và điều hành ngân sách nhà nước, PGS.TS Đặng Văn Thanh, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005.
6. Thông tin kinh tế xã hội thành phố Hà Nội, Cục Thống kê thành phố Hà Nội, năm 2001, 2002, 2003, 2004, 2005.
7. Báo cáo Tình hình thực hiện sự toán thu, chi ngân sách các năm 2001, 2002, 2003, 2004, 2005 của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội.
8. Báo cáo Tổng quyết toán thu chi ngân sách thành phố các năm 2001, 2002, 2003, 2004 của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội.
9. Báo cáo Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001-2005, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội.
10. Báo đầu tư
11. Báo Hà Nội mới
12. Thời báo kinh tế Việt Nam
13. Báo Doanh nghiệp và Kinh tế Thủ đô
14. Tạp chí Tài chính
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28539.doc