Luận văn Một số chính sách và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam và Trung Quốc

Chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng rằng: dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc, với những thành tích đã đạt được và trong khuôn khổ quan hệ mới được xác lập, chúng ta có cơ sở để tin tưởng sâu sắc rằng mối quan hệ Việt - Trung sẽ mãi mãi xanh tươi và đời đời bền vững, góp phần vào thắng lợi của công cuộc đổi mới ở Việt Nam và công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc, đưa hai dân tộc Việt - Trung vững bước vào thế kỷ XXI - thế kỷ Châu Á - Thái Bình Dương với tầm cao mới.

doc99 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1546 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số chính sách và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam và Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thực, thực phẩm vẫn chiếm ưu thế hơn so với các sản phẩm công nghiệp tiêu dùng. Ba là, xu hướng trong nhập khẩu: tổng giá trị nhập khẩu vẫn cao hơn và tăng nhanh hơn so với giá trị xuất khẩu. Nhập khẩu thiết bị máy móc có công nghệ tiên tiến, hiện đại. 2. Dự báo xuất - nhập khẩu của Việt Nam với Trung Quốc Dự báo trong giai đoạn 2001 - 2005, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung quốc sẽ đạt nhịp độ tăng bình quân 15 - 17%/năm và trong giai đoạn 2006 - 2010 là 13 - 14%/ năm. Dự báo kim ngạch buôn bán hai chiều của Việt Nam và Trung Quốc khoảng 5 tỷ USD vào năm 2005. Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Trung quốc sẽ đạt nhịp độ tăng bình quân cao hơn từ 18 - 20%/ năm và giai đoạn tiếp sau đó 2006 - 2010 có thể giảm còn 13%/ năm. 3. Dự báo xuất nhập khẩu của Việt Nam với Trung Quốc qua các tỉnh biên giới phía Bắc. Dự báo kim ngạch xuất khẩu của các tỉnh biên giới phía Bắc trong giai đoạn 2000 - 2005 vẫn chủ yếu dựa vào các loại quặng nguyên khai, than đá và một số nông sản như chè, gạo, quế, tinh dầu... giai đoạn sau năm 2006 - 2010, tổng kim ngạch xuất khẩu sẽ được bổ sung bằng các loại mặt hàng xuất khẩu khác như một số sản phẩm luyện kim, các loại nông sản mới qui hoạch như hoa hồi, cà phê và một số sản phẩm khác. Trong các tỉnh này thì dự báo Lạng Sơn chiếm tỷ trọng áp đảo trong xuất khẩu, tiếp đến là Quảng Ninh. Dự báo kim ngạch nhập khẩu của các tỉnh biên giới phía Bắc trong giai đoạn từ nay đến năm 2005 và 2010 sẽ tăng mạnh ở nhóm hàng thiết bị máy móc, tiếp đến là nhóm hàng nguyên, vật liệu và cuối cùng là nhóm hàng tiêu dùng nhưng vẫn chiếm tỷ trọng khá cao trong cơ cấu kim ngạch nhập khẩu của các tỉnh này trong giai đoạn dự báo. Tỷ lệ kim ngạch nhập khẩu theo các tỉnh cũng tương tự như xuất khẩu. IIi/ giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc Giải pháp vĩ mô của Nhà nước: 1.1Về mặt vĩ mô, trước hết Việt Nam cần tiếp tục củng cố và tăng cường mối quan hệ toàn diện Việt Nam - Trung Quốc và đẩy mạnh mối quan hệ thương mại qua kênh đa phương. Đứng trên góc độ toàn nền kinh tế, chúng ta phải vận dụng triệt để phương châm: Hợp tác để phân chia thị trường, hợp tác để giảm thiểu sức ép cạnh tranh. Quan hệ Việt - Trung ngày càng mở rộng, thiết thực hiệu quả trên cơ sở 16 chữ “ láng giềng - hữu nghị - hợp tác toàn diện - ổn định lâu dài - hướng tới tương lai”. Trong thời gian tới muốn thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại song phương lên một bước phát triển mới, vai trò chính phủ của hai nước là hết sức quan trọng. Hai chính phủ cần phải có sự thảo luận để đi đến thống nhất một danh mục hàng hoá trao đổi, góp phần định hướng cho doanh nghiệp hai bên đàm phán và ký kết hợp đồng ngoại thương. để thúc đẩy mối quan hệ qua kênh đa phương, Việt Nam và Trung Quốc sẽ từng bước gia nhập vào các tổ chức thương mại của thế giới. điều này thể hiện thông qua Tổ chức hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC), hiệp hội các nước sông Mêkông, quan hệ kinh tế thương mại ASEAN - Trung Quốc, và trong tương lai không xa khi cả Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên của Tổ chức thương mại Thế giới (WTO). Do vậy, Việt Nam cần phải tích cực chuẩn bị đầy đủ điều kiện để sớm gia nhập WTO. Sự phát triển theo hướng toàn cầu hoá kinh tế và tự do hoá đầu tư thương mại đã khiến cho việc bảo hộ mậu dịch trở nên lỗi thời. Việc duy trì chế độ bảo hộ đối với nền kinh tế - thương mại trong nước cũng như địa phương sẽ dẫn đến sự khép kín và lạc hậu, cần phải nhanh chóng từ bỏ. Chỉ có thực hiện chính sách bảo hộ linh hoạt, phát huy những lợi thế so sánh, dũng cảm tham gia cạnh tranh trên thị trường quốc tế mới có thể chuyển từ thế bị động sang thế chủ động, giành được vị trí có lợi trên thị trường quốc tế. Việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đòi hỏi Việt Nam phải chấp nhận theo xu thế của thời đại và tự do hoá thương mại, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế. Vì hệ thống pháp luật của Việt Nam về cơ bản còn nhiều khác biệt với các chuẩn mực quốc tế nên khi hội nhập đòi hỏi phải điều chỉnh và sửa đổi rất nhiều các văn bản pháp luật hiện hành để cho các chính sách và quy chế của ta phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Các nguyên tắc cơ bản như không phân biệt đối xử, các quy định về thuế, các biện pháp phi thuế, tính công khai rõ ràng của pháp luật phải được tôn trọng và thực hiện đầy đủ trên mọi lĩnh vực một cách đồng bộ và nhất quán trên phạm vi toàn lãnh thổ. 1.2 Để có thể thực hiện hiệu quả các hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước, Việt Nam cần phải có sự quản lý Nhà nước về thương mại và xúc tiến thương mại. Hoạt động thương mại nhằm tới mục tiêu là hiệu quả thông qua chỉ tiêu lợi nhuận. Muốn có lợi nhuận thì hàng hoá phải có sức cạnh tranh. Cạnh tranh trước hết về chất lượng, chi phí sản xuất và biểu hiện cuối cùng là giá cả hàng hoá. Tựu trung lại, đó là cốt lõi của xúc tiến thương mại. Quản lý Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển thương mại. Đường lối của Đảng ta nêu rõ : Xây dựng nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Đó chính là “thị trường định hướng XHCN”. Trong khuôn khổ nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, ích lợi của các thành phần kinh tế không giống nhau. Lợi ích là động lực thúc đẩy sự phát triển đối với mọi lĩnh vực hoạt động, trong đó có thương mại. Quản lý Nhà nước về thương mại là cách thức bảo đảm đạt tới sự hài hoà các lợi ích, giải quyết những mâu thuẫn mang tính chất nội bộ trong hoạt động thương mại. Nhà nước thực hiện quản lý xã hội cũng như quản lý từng lĩnh vực cụ thể phải bằng pháp luật. Pháp luật được hiểu một cách thông dụng là hệ thống các Luật và Văn bản pháp quy phải mang tính chất đồng bộ, hoàn chỉnh, có chất lượng, thể hiện được lợi ích và nguyện vọng của nhân dân nói chung. Mỗi tổ chức và cá nhân đều phải tôn trọng và có trách nhiệm nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Nhà nước từng bước rà soát, bổ sung và hoàn chỉnh các chính sách, cơ chế và những biện pháp về quản lý hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ trong thời kì mới. Những gì không còn tác dụng, cần kiên quyết loại bỏ và kịp thời bổ sung những chính sách, cơ chế mới thúc đẩy sự phát triển bền vững của hoạt động xuất nhập khẩu Việt - Trung. 1.3 Tiếp đến, Nhà nước cần hoàn thiện công tác quản lý đối với mặt hàng xuất khẩu. Việt Nam phải chú trọng khai thác các mặt hàng có lợi thế, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ và tạo điều kiện cho các địa phương trong cả nước cùng tham gia hoạt động xuất nhập khẩu những mặt hàng mà mình có ưu thế, đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Mặt khác, cần xây dựng chính sách mặt hàng xuất nhập khẩu có tính ổn định, lâu dài nhằm tạo ra được những sản phẩm có tầm chiến lược, có khối lượng, giá trị lớn, chất lượng cao... Trên cơ sở đó, xác định chính sách mặt hàng xuất nhập khẩu đối với từng tuyến phía Bắc, phía Tây và Tây nam; phù hợp với thị trường các nước láng giềng, đồng thời qua đó có thể vươn rộng ra nước thứ ba. Hơn nữa, nhà nước có thể giảm các loại phí tổn hành chính (bãi bỏ hẳn các loại giấy phép, tính giản chế độ kiểm tra về thuế) liên quan đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu, hai là nhanh chóng xác lập cơ chế yểm trợ xuất khẩu (thu thập và phổ biến thông tin về thị trường, lập mạng lưới theo dõi và điều tra cung cầu tại những thị trường lớn..) và tổ chức lại các doanh nghiệp xuất khẩu để có khả năng khám phá và tiếp cận thị trường và chịu đựng rủi ro cao. Nhà nước ta cần áp dụng biện pháp khuyến khích vật chất cụ thể nhằm thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng có hàm lượng chế biến cao, tăng cường xúc tiến các hoạt động thương mại, tích cực chuyển dịch cơ cấu sản xuất trên cơ sở lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên, về đội ngũ lao động dồi dào còn khá rẻ, có tay hoặc có khả năng tiếp thu nhanh. 1.4 Việt Nam cần thực hiện chiến lược hướng mạnh vào xuất khẩu. Một mặt khuyến khích các hình thức gia công, sản xuất hàng xuất khẩu nhất là ở địa bàn biên giới để giải quyết công ăn việc làm và tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế địa phương, đồng thời huy động sức mạnh các vùng, các khu kinh tế, tạo nhiều nguồn hàng phục vụ giao lưu kinh tế với các nước lân cận. Vì vậy, cần xây dựng thành chương trình sản xuất hàng xuất khẩu trên cơ sở khai thác tối đa nguồn lực địa phương và cả nước. Hơn nữa, cần chú trọng các biện pháp nắm bắt thông tin, tổ chức mở rộng thị trường xuất nhập khẩu theo hướng thâm nhập sâu vào thị trường Trung Quốc, tranh thủ xuất khẩu các mặt hàng mà các thị trường khác đòi hỏi cao về chất lượng. Buôn bán với đối tác Trung Quốc, đồng thời lại phải khuyến khích các doanh nghiệp này thanh toán qua ngân hàng bằng chế độ ưu tiên, ưu đãi. Thực ra, Chính phủ cũng đã có những thông tư, nghị định ưu đãi đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi thực hiện thanh toán qua ngân hàng nhưng trong khâu thực hiện các chính sách này vấp phải một số tiêu cực. Việc quản lý ngoại hối lỏng lẻo để ngoại tệ, vàng bạc đá quí trôi nổi đã cung cấp phương tiện thanh toán cho hoạt động buôn lậu. Người buôn lậu hiếm khi thanh toán qua ngân hàng nên việc quản lý ngoại hối và việc kinh doanh ngoại tệ cần quản lý một cách chặt chẽ sẽ tạo cơ sở để ngăn chặn buôn lậu. 1.5. Chính phủ sớm cải thiện các điều kiện kinh tế, chính sách để thu hút nhiều hơn vốn đầu tư từ Trung Quốc. Phía Việt Nam cũng cần phải tại môi trường đầu tư thông thoáng để thu hút vốn đầu tư của các nước tư bản có trình độ khoa học kỹ thuật cao nhằm nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ của Việt Nam cho tương xứng với phía Trung Quốc. Làm được như vậy cũng đã phần nào giải quyết được vấn đề đặt ra đối với sự chênh lệch về cơ cấu hàng hoá trao đổi giữa hai nước hiện nay. Điều đó cũng làm nâng cao hiệu quả ngoại thương Việt - Trung. để làm được điều này, chính phủ cần cải thiện các điều kiện về mặt cung cấp của nền kinh tế như lao động, cơ sở hạ tầng, mạnh dạn sửa đổi những chính sách hợp lý và kiên quyết đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn hơn để “đón tiếp” các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó đáng chú ý là sẽ có nhiều nhà đầu tư Trung Quốc hoặc do không cạnh tranh được ở trong nước hoặc do chuyển đổi cơ cấu sẽ chuyển hướng đầu tư ra nước ngoài mà Việt Nam là một trong những điểm dừng chân của họ. Tuy nhiên ở Việt Nam còn thiếu hụt nghiêm trọng một tầng lớp lao động có kỹ năng cao gây trở ngại cho việc chuyền dịch cơ cấu đầu tư của họ. Chính vì vậy mà việc đào tạo cán bộ và các chuyên viên có trình độ cao là một vấn đề cần thiết để tạo môi trường thuận lợi cho việc thu hút các nhà đầu tư Trung Quốc vào Việt Nam. 1.6.Hoàn thiện và đổi mới các chính sách của nhà nước. Chính sách xuất nhập khẩu: Quan hệ giao lưu kinh tế giữa Việt Nam và các nước láng giềng đặc biệt với Trung Quốc mối quan hệ truyền thống, nhưng mỗi nước có đặc điểm khác nhau; vì vậy ngoài chính sách chung phải có chính sách đặc thù. Với Trung Quốc là nước có tiềm lực về kinh tế khá mạnh nên ta cần nắm bắt thông tin kịp thời, nghiên cứu kỹ những chủ trương chính sách và ý đồ của họ để có đối sách thích hợp, giành thế chủ động. Phải gắn giao lưu kinh tế với phát triển kinh tế - xã hội của vùng và cả nước, với sự nghiệp CNH, HĐH, bảo đảm quốc phòng an ninh. Phát triển giao lưu kinh tế khu vực là vấn đề phức tạp và nhạy cảm, gắn bó chặt chẽ nhiều mối quan hệ giữa đôi bên nên Việt Nam phải không ngừng hoàn và đổi mới chính sách để đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước, có hệ thống các chính sách đồng bộ, phù hợp và ứng xử linh hoạt; đồng thời có tổ chức chặt chẽ, quản lý, chỉ đạo điều hành thống nhất, xuyên suốt từ trên xuống dưới. Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khai thác các tiềm năng của cả nước tham gia xuất khẩu. Nhà nước ưu tiên các sản phẩm qua chế biến, hàng nông - lâm - thuỷ sản, hàng tiêu dùng sản xuất trong nước, hàng thủ công mỹ nghệ... Cụ thể hơn, những mặt hàng lâu nay Việt Nam vẫn xuất sang Trung Quốc là gạo, cà phê, rau quả, gia vị, hạt điều chế biến, thuỷ hải sản, dầu thực vật, hàng may mặc sẵn, giày dép, hàng tiểu thủ công mỹ nghệ, chất tẩy rửa, dầu thô, cao su. Trừ những mặt hàng quan trọng liên quan đến những cân đối lớn của nền kinh tế như gạo, xăng dầu, sắt thép, xi măng, phân bón mở rộng việc cấp phép kinh doanh xuất nhập khẩu cho tất cả các doanh nghiệp theo tinh thần NĐ 57/1998/NĐ-CP. Cần thận trọng khi quyết định cấm xuất khẩu những mặt hàng tiêu dùng mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng nhu cầu. Tăng cường sức sản xuất nội địa bằng các chính sách nhằm: + Nhanh chóng đổi mới công nghệ sản xuất, thiết bị, nâng cao sức cạnh tranh. + Khuyến khích đầu tư nước ngoài để tranh thủ công nghệ và kỹ năng điều hành tiên tiến, mở lối thâm nhập thị trường quốc tế và khu vực. + Điều chỉnh cơ cấu kinh tế gắn với phân công lao động quốc tế. + Bảo hộ hợp lý sản xuất nội địa thông qua các chính sách thuế quan, tài chính - tín dụng, chính sách thương mại tác động gián tiếp làm tăng thêm lợi thế khả năng cạnh tranh chứ không phải bao cấp về tài chính và không áp dụng đồng loạt cho tất cả hàng hoá sản xuất trong nước. Vì cơ chế quản lý của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay còn chồng chéo, chưa nhất quán cho nên cần có những thông tư hướng đẫn cụ thể đối với các doanh nghiệp Việt Nam xuất nhập khẩu hàng hoá sang Trung Quốc hoăc đối với mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Trung Quốc. Chẳng hạn như: thông tư số 15/2000/TT - BTM ngày 10/08/2000 của Bộ Thương mại về hướng đẫn việc kinh doanh xuất khẩu than sang Trung Quốc theo đường tiểu ngạch; thông tư số 14/2001/TT - BTM ngày 02/05/2001 của Bộ Thương mại về hướng dẫn việc mua bán hàng hoá biên giới trên bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc quy định rõ: chủ thể mua bán hàng hoá qua biên giới Việt - Trung, hàng hóa mua bán qua biên giới, chất lượng hàng hoá qua biên giới, cửa khẩu xuất khẩu nhập khẩu hàng hoá, thanh toán hàng hoá mua bán qua biên giới, thủ tục hải quan và thuế xuất nhập khẩu hàng hoá. Về phương thức buôn bán: Để khai thác ưu thế về địa lý và tiềm năng của mình, ngoài phương thức buôn bán thông thường, Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh sử dụng các hình thức trao đổi phong phú như hợp đồng hàng đổi hàng, chuyển khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, kinh doanh kho ngoại quan, hàng quá cảnh. Mặt khác, phát huy tối đa lợi thế của các khu vực kinh tế nhằm tăng nhanh kim ngạch xuất nhập khẩu, tạo công ăn việc làm, tăng thu ngân sách nhưng phải quản lý chặt chẽ theo qui định trong nước, phù hợp với thông lệ quốc tế. Sử dụng các hình thức trao đổi, buôn bán linh hoạt, có hiệu quả phù hợp với truyền thống, tập quán giữa hai nước. Với hàng hoá xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian tới phải được thay đổi theo hướng cân bằng hơn. Một mặt, cần tăng cường quản lý nhập khẩu hàng Trung Quốc nhập vào Việt Nam, nâng cao hiệu quả nhập khẩu hàng hoá. Mặt khác, cũng phải tăng cường xuất khẩu các mặt hàng có tiềm năng sang Trung Quốc và từng bước cải tiến cơ cấu hàng hoá của Việt Nam xuất sang Trung Quốc theo hướng nâng cao tỷ trọng hàng đã qua chế biến, nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Có như vậy thì mới phần thực hiện những nhiệm vụ kinh tế xã hội thông qua lượng hàng hoá hoặc ngoại tệ thu được do buôn bán thương mại tạo ra. Nhưng cụ thể ở đây là phải nâng cao trình độ quản lý Nhà nước nói chung đối với hoạt động thương mại Việt - Trung để khắc phục tình trạng “vênh” nhau về chính sách quản lý giữa hai nước. Điều đó yêu cầu phía Việt Nam cần nỗ lực sớm để đưa ra một chính sách, chiến lược rõ ràng đối với việc quản lý Nhà nước về hoạt động ngoại thương Việt Nam và Trung Quốc. Tuy nhiên, cũng phải tính đến yếu tố tác động khi Trung Quốc gia nhập WTO vào tháng 11/2001 vừa qua, điều này sẽ làm tăng sự cạnh tranh với hàng hoá Việt Nam. điều đó dẫn đến làm thay đổi nhất định về cơ cấu, chủng loại, khối lượng và giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu giữa hai nước trong tương lai không xa. Cũng cần nói thêm rằng, một khi Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ đã được hai nước thông qua vào tháng 12/ 2001 vừa qua và cùng với đó, nếu việc đàm phán Việt Nam gia nhập WTO thành công trong một tương lai gần, đến lúc ấy quan hệ thương mại Việt - Trung chắc hẳn có nhiều thay đổi và chính sách thương mại tất yếu cũng sẽ được xem xét điều chỉnh bổ sung cho phù hợp với những điều kiện mới. b. Hoàn thiện các văn bản pháp luật về hải quan: Những năm qua thủ tục hải quan đã tạo ra không ít phiền hà cho hoạt động xuất nhập khẩu hợp pháp giữa Việt Nam và Trung Quốc vì hệ thống thủ tục cồng kềnh, cách tính thuế không thuận lợi, tổ chức làm việc thiếu khoa học và hệ thống trang thiết bị quá thiếu thốn. Thời gian gần đây, những cải cách về thủ tục hải quan đã được triển khai song không thu được hiệu quả như mong muốn. Nhà nước đang từng bước hoàn thiện các văn bản pháp luật về Hải quan, cải cách thủ tục Hải quan, kiện toàn bộ máy. Phải nói rằng, hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và ở khu vực biên giới Việt Trung nói riêng khá đa dạng, phức tạp nên rất cần một môi trường pháp lý rõ ràng để phát triển thuận lợi, lành mạnh. Do vậy, phía Việt Nam cần có các chính sách liên quan đến hoạt động hải quan cần sớm xúc tiến bao gồm: - Sớm ra đời Luật Hải quan và hệ thống văn bản pháp quy đồng bộ, chặt chẽ. - Tổ chức rà soát toàn bộ hệ thống văn bản pháp luật Hải quan hiện hành, loại bỏ những văn bảo không còn phù hợp tạo điều kiện đơn giản hóa hệ thống thủ tục Hải quan bảo đảm hiệu quả. - Cải cách thủ tục hải quan theo hướng bảo đảm thuận lợi cao nhất cho hoạt động xuất nhập khẩu và hiệu quả kiểm soát hải quan. - Đầu tư trang thiết bị hiện đại cho các tổ chức hải quan bằng nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu. - Kiện toàn bộ máy, cán bộ hải quan, tiêu chuẩn hóa cán bộ, nhân viên. - Nâng cấp hệ đào tạo của trường Cao đảng hải quan để bảo đảm trình độ nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu trình độ phát triển thương mại, và tương xứng với trình độ Hải quan Trung Quốc. c. Hoàn thiện chính sách quản lý vĩ mô khác: Các chính sách thuế xuất nhập khẩu: + Mở rộng các loại thuế đánh vào hàng nhập khẩu tạo cơ hội bình đẳng cho cạnh tranh giữa hàng sản xuất trong nước + Giảm mức thuế nhập khẩu cao và quá cao vào một số mặt hàng nhập khẩu tạo điều kiện thuận lợi giảm buôn lậu. Để phát huy ưu thế nhằm thúc đẩy giao lưu kinh tế, quan hệ thương mại chính sách thuế còn có những vấn đề phải tiếp tục hoàn chỉnh: Đối với thuế xuất nhập khẩu cần nghiên cứu giảm dần thuế suất. Đối với xuất khẩu, cần khuyến khích các doanh nghiệp chủ động trong việc đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu (trừ mặt hàng thuộc diện cấm) với mức thuế suất thấp hơn hiện nay, có loại bằng 0%. Nói chung chính sách thuế xuất nhập khẩu nên hướng tới mục tiêu tăng kim ngạch xuất khẩu, phục vụ đắc lực cho sản xuất và bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Thuế thu nhập doanh nghiệp: Việc miễn giảm cần tập trung vào các đối tượng có doanh thu lớn từ hoạt động xuất khẩu. Tránh tình trạng doanh nghiệp thành lập ở các tỉnh biên giới, có doanh thu ở địa bàn khác nhưng vẫn được hưởng thuế suất ưu đãi và ngược lại. Chính sách tiền tệ - ngân hàng: Đến nay, ngân hàng chưa thực hiện được chức năng thanh toán hầu hết các hoạt động giao lưu kinh tế với bên ngoài. Do vậy, ngân hàng phải phấn đấu để giữ được vai trò chủ đạo về thanh toán trên thị trường tiền tệ và giao lưu kinh tế mới đảm bảo phát triển quan hệ thương mại một cách lành mạnh, hạn chế buôn lậu. Các ngân hàng thương mại cần tiếp tục mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng thương mại Trung Quốc, có kế hoạch phối hợp với các ngành để thiết lập quan hệ quản lý đồng bộ về hoạt động tiền tệ, tích cực phòng chống tiền giả đưa vào trong nước. Mặt khác, tổ chức sắp xếp lại các lực lượng kinh doanh ngoại hối thuộc các thành phần kinh tế tại khu vực các cửa khẩu biên giới Việt Trung. Các hoạt động này phải thông qua việc cấm phép và chịu sự quản lý chặt chẽ của ngân hàng Nhà nước. Ngành Ngân hàng tích cực tìm các biện pháp đưa hầu hết các hoạt động xuất nhập khẩu (trừ trao đổi hàng hoá cư dân biên giới) qua thanh toán ngân hàng và tổ chức hệ thống đổi tiền thuận tiện, có chính sách quản lý tỷ giá linh hoạt, phù hợp với thị trường tiền tệ. 2. đối với các doanh nghiệp: 2.1 Giải pháp về thị trường: Về mặt vi mô, các doanh nghiệp phải tăng cường nghiên cứu thị trường nắm vững các thông tin về hệ thống luật pháp và các đặc tính tiêu dùng của từng khu vực cụ thể. Trung Quốc là thị trường xuất khẩu đầy hứa hẹn với số dân trên một tỷ người, hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đã có và duy trì được những mối quan hệ nhất định với các bạn hàng Trung Quốc. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu thì việc tìm kiếm và mở rộng số lượng các bạn hàng Trung Quốc cuả các doanh nghiệp Việt Nam là chưa cao và chưa có hiệu quả. Sự phát triển của các doanh nghiệp cần trung thành với nguyên tắc dựa vào chất lượng để giành chiến thắng; thực hiện chiến lược quốc tế hoá sản xuất kinh doanh; dựa vào khoa học công nghệ tiên tiến nhằm không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh. Đồng thời, các doanh nghiệp có ý thức mạnh mẽ về nhãn hiệu sản phẩm; tạo hình tượng quốc tế; làm lành mạnh mạng lưới tiêu thụ; mở rộng thị trường quốc tế; làm tốt dịch vụ hậu mãi nhằm giành được sự tín nhiệm trên thị trường; bám sát chuyển biến của thế giới, nhanh nhạy nắm bắt cơ hội kinh doanh, có sự cân nhắc về tình thế; đầu tư mở rộng mạng lưới sản xuất và xuất khẩu ra nước ngoài. Bên cạnh đó, cần chuẩn bị cho mình một đội ngũ nhân lực có chuyên môn sâu về lĩnh vực xuất khẩu. Đội ngũ này sẽ giúp doanh nghiệp tăng cương khả năng tìm kiếm bạn hàng và tránh thua lỗ trong kí kết hợp đồng. Các doanh nghiệp Việt Nam cần phân tích đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong tổ chức hoạt động thị trường khu vực, thực hiện các chính sách về thương mại của Đảng và Nhà nước đối với từng khu vực cụ thể. Đặc biệt, thường xuyên có sự đánh giá dung lượng thị trường về các loại hàng hoá, sức mua, thị hiếu và nhu cầu trong mỗi thời kỳ để có biện pháp thích hợp điều hành quan hệ cung cầu một cách có lợi nhất cho hoạt động thương mại. Có một tư duy kinh tế rất phổ biến đó là cần sản xuất và bán những gì thị trường cần chứ không phải những gì mình có. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp Nhà nước hơn lúc nào hết là phải đối mặt trực tiếp với thị trường, sản xuất theo yêu cầu thị trường. Muốn vậy, các doanh nghiệp một mặt phải tích cực đổi mới công nghệ và quản lý, phấn đấu hạ giá thành, nâng cao sức cạnh tranh. Các doanh nghiệp Việt Nam phải hợp tác với bạn hàng Trung Quốc để học hỏi kinh nghiệm. Lúc đó, doanh nghiệp cần áp dụng công nghệ tiếp thị và quảng cáo mạnh hơn nữa cho những mặt hàng tuy mới nhưng hiện đang được khách hàng Trung Quốc ưa thích. 2.2 Doanh nghiệp xây dựng kế hoạch và chiến lược xuất khẩu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho từng mặt hàng và từng khu vực cụ thể của Trung Quốc: Các doanh nghiệp Việt Nam chuẩn bị để trong thời gian không xa, xuất khẩu sang Trung Quốc một số mặt hàng mới như các sản phẩm của công nghệ thông tin, công nghệ phần mềm, các dịch vụ tư vấn có hàm lượng trí tuệ cao. Do vậy, các doanh nghiệp phải có sự nghiên cứu đúng mức để có một chiến lược xuất khẩu hàng hoá phù hợp, tận dụng được những thế mạnh hiện có của doanh nghiệp, đồng thời khai thác thị trường mới, tránh sự cạnh tranh trực tiếp với hàng hoá cùng chủng loại, cùng thị trường với Trung Quốc mà phía bạn có ưu thế rõ rệt. Trong những năm qua, hàng Trung Quốc nhập khẩu vào Việt Nam gia tăng. Hàng Trung Quốc với giá rẻ, mẫu mã đẹp, hợp túi tiền và thị hiếu của đa số dân cư Việt Nam. Kinh nghiệm của Trung Quốc về việc xuất khẩu trong thời gian qua là không quá coi trọng thu lãi quá việc bán với giá cao mà lại coi trọng việc sản xuất, tiêu thụ được nhiều sản phẩm để tận dụng công suất thiết bị, lao động, vốn vay, kho tàng, chi phí quản lý để giảm chi phí khấu hao, tiền công, tiền lãi vay, chi phí quản lý, bảo quản trên một đơn vị sản phẩm, quay vòng vốn nhanh, khi cần có thể bán dưới giá chịu lỗ còn hơn là không thu hồi được vốn. Điều này cũng làm cho các ngành sản xuất của Việt Nam phải khốn đốn nhiều phen. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp Việt Nam cần có đối sách hợp lý như: - Nghiên cứu thị trường Trung Quốc, nắm rõ nhu cầu hàng hoá ở đó cần nhập khẩu từ phía Việt Nam, cả về mặt hàng, khối lượng, chất lượng và thị hiếu của mỗi thời kỳ. - Tìm hiểu khả năng xuất khẩu hàng hoá của Trung Quốc sang Việt Nam trong mỗi thời kỳ để có sự chủ động trong hợp tác, tránh tình trạng bị gây sức ép đối với thị trường nước ta về một số hàng hoá nhất định, gây bão hoà thị trường và có thể tạo khó khăn hoặc gây hậu quả nhất định cho kinh tế nước ta. - Nắm bắt chủ trương, chính sách của nước láng giềng về Ngoại thương nói chung và xuất nhập khẩu với Việt Nam nói riêng. Vấn đề này Trung Quốc khá linh hoạt, ta cần đi sâu tìm hiểu để có những giải pháp kịp thời tránh rủi ro, thua thiệt. - Tăng cường quan hệ giao lưu kinh tế - thương mại hai bên, tổ chức thường kỳ các cuộc hội chợ - triển lãm hàng xuất nhập khẩu, giới thiệu cho bạn hàng những sản phẩm hàng hoá mới, độc đáo, quảng cáo bán hàng, qua đó kích thích tiêu thụ hàng tiêu dùng và ký kết các hợp đồng thương mại. 2.3 Các doanh nghiệp sử dụng chuyên gia tư vấn Trung Quốc: Đây là cách mà nhiều quốc gia đã áp dụng thành công đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Vì nó giúp các doanh nghiệp đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng và thị hiếu tiêu dùng của người dân Trung Quốc một cách tốt nhất. Với tình trạng của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay thì rất cần áp dụng biện pháp này. Các chuyên gia sẽ tư vấn về chất lượng sản phẩm và đưa ra giải pháp về mặt công nghệ để đạt được chất lượng theo yêu cầu đặt ra. Đặc biệt, khi ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu với những khách hàng Trung Quốc mà mình chưa có quan hệ làm ăn lâu dài (phải kiểm tra tư cách pháp nhân của doanh nghiệp, của người đại diện, kiểm tra kỹ từng điều khoản của hợp đồng..). Các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước là nhiệm vụ quan trọng được chủ yếu giao cho các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện. Những doanh nghiệp này trong kinh doanh thương mại không những tính toán hiệu quả kinh tế, thu lợi nhuận mà còn phải tính toán hiệu quả xã hội, phi lợi nhuận. 2.4 Tăng cường đầu tư vào công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, từng bước xâm nhập thị trường Trung Quốc: Hiện nay chất lượng sản phẩm là vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam . Đầu tư vào công nghệ là một vấn đề chiến lược. Vốn để đầu tư luôn là vấn đề lớn đối với các doanh nghiệp. Nếu không tăng đầu tư cho đổi mới công nghệ thì doanh thu lại không tăng và dẫn đến vốn đầu tư cho công nghệ lại càng giảm, và cứ thế sẽ tạo nên một cái vòng luẩn quẩn. Chất lượng của sản phẩm như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của nguyên liệu đầu vào. Do vậy, doanh nghiệp cần có chính sách đầu tư đủ mạnh, có tính đột phá để đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của cán bộ, sử dụng nguồn lực một cách có hiệu quả và nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc. 2.5 Nâng cao trình độ kinh tế ngoại thương của phía Việt Nam cho ngang bằng với phía Trung Quốc: Đội ngũ nhân viên trong các doanh nghiệp của Việt Nam cần được nâng cao cả về trình độ nghiệp vụ ngoại thương nói chung và trình độ nghiệp vụ hoạt động buôn bán qua biên giới với các đối tác Trung Quốc. Đồng thời cũng phải nâng cao trình độ ngoại ngữ của những người làm công tác ngoại thương để tránh tình trạng đọc hợp đồng bằng tiếng nước ngoài do bên đối tác soạn thảo mà không hiểu kỹ nội dung của hợp đồng. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng phải có biện pháp khơi dậy lòng tự hào dân tộc, biết trân trọng những giá trị văn hoá tinh thần truyền thống của đất nước đối với mỗi cán bộ ngoại thương có như vậy thì mới mong khắc phục được những hiện tượng tiêu cực của cán bộ ngoại thương hiện nay đồng thời lại tạo ra được thiện cảm đối với đối tác Trung Quốc và được họ tôn trọng hơn, đối xử công bằng hơn trong hoạt động buôn bán giữa hai bên. Trong giai đoạn hiện nay, khi mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc vẫn sẽ là hoá chất, thuốc trừ sâu, một số chủng loại phân bón, chất dẻo nguyên liệu, bông, sắt thép, máy móc, thiết bị và phụ tùng. đồng thời, tăng cường nhập khẩu những nguyên liệu cần cho sản xuất trong nước nhất là phục vụ cho phát triển sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến. Hạn chế nhập hàng tiêu dùng chưa thiết yếu, hàng kém chất lượng hoặc loại hàng mà trong nước đã sản xuất được. Do vậy, các doanh nghiệp cần nhập khẩu các thiết bị đồng bộ, với kỹ thuật tiên tiến và công nghệ nguồn, không cho phép nhập khẩu các thiết bị lạc hậu nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn vậy, các cán bộ, đội ngũ nhân viên trong các doanh nghiệp cần phải có một sự hiểu biết, chuyên môn nhất định trong các lĩnh vực cụ thể. Vì thế, vấn đề đào tạo cho cán bộ là hết sức quan trọng trong xu thế hiện nay. Tóm lại những giải pháp đã nêu ở trên đều đòi hỏi ở mỗi doanh nghiệp một sự nỗ lực trong dài hạn. Để thực hiện được những vấn đề này, các doanh nghiệp Việt Nam cần xem xét khả năng của mình kết hợp với xu hướng của thị trường để có những bước đi hợp lý phù hợp với lợi ích của doanh nghiệp. Chỉ có một chiến lược dài hạn mới giúp doanh nghiệp xác định rõ mục tiêu, biết được tiến độ đã đạt được và cần phải làm gì tiếp theo để đạt được hiệu quả cao trong hoạt động xuất nhập khẩu với đối tác Trung Quốc. 3. Đối với các tỉnh biên giới Việt - Trung Khu kinh tế cửa khẩu là bộ phận hạt nhân của vành đai kinh tế xã hội do vậy chính sách phát triển khu kinh tế cửa khẩu cần được coi là trọng tâm quan trọng để đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc. Giao lưu kinh tế qua cửa khẩu biên giới trên bộ với các nước láng giềng cũng là nhu cầu bức xúc của nhiều quốc gia phát triển nền kinh tế thị trường. Mở cửa hội nhập quốc tế từ những hình thức đi từ thấp lên cao, từ giản đơn đến phức tạp: ban đầu chỉ là sự trao đổi hàng hoá vùng biên mang tính chất tự nhiên, sau đến là những hình thức hợp tác sản xuất kinh doanh, cao hơn là tiến tới thành lập các khu mậu dịch tự do biên giới, khu hợp tác kinh tế tiểu vùng. 3.1 Sớm hoàn thiện hệ thống chính sách thương mại cho khu vực biên giới Việt - Trung: Khu vực biên giới Việt Trung phía Việt Nam giống như phía Trung Quốc đều đứng trước thách thức của yêu cầu phát triển ổn định, giảm dần chênh lệch với các khu vực khác trong nước. Toàn bộ các huyện thị ở khu vực này đều nằm trong danh mục ưu đãi đầu tư ban hành kèm NĐ 29-CP ngày 12/05/95 của chính phủ qui định chi tiết thi hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Đây cũng là khu vực đối tượng thực hiện Nghị định 20/1998/NĐ-CP về khuyến khích phát triển thương mại miền núi. Quan hệ thương mại Việt - Trung chính là một lối ra cho kinh tế khu vực. Vì lý do đó càng sớm có một hệ thống chính sách thương mại đặc thù cho khu vực này, gắn phát triển quan hệ thương mại Việt Trung với sự phát triển kinh tế - xã hội vùng như hai mặt hỗ trợ, tương tác cùng phát triển. Việc phát triển quan hệ thương mại Việt Trung tạo điều kiện phát triển hạ tầng, thay đổi cơ cấu ngành nghề, tạo việc làm cho nhân dân trong vùng. Mặt khác sự phát triển của vùng phải xoay quanh việc tận dụng lợi thế của khu vực trong quan hệ thương mại Việt Trung. Muốn vậy hệ thống chính sách thương mại cho khu vực này nên hoàn thiện theo các hướng sau đây: - Khuyến khích việc hình thành các vùng nguyên liệu phục vụ gia công xuất khẩu bằng chính sách trợ giá thu mua, trợ giá cung cấp vật tư nông nghiệp. - Khuyến khích hình thành phát triển các ngành nghề dịch vụ trên cơ sở các quỹ đào tạo, hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu lấy từ phần thu do hoạt động xuất nhập khẩu tại khu vực. - Khuyến khích chuyển hướng sử dụng đất thích hợp bằng việc cung cấp hạ tầng kỹ thuật hình thành các khu vực phát triển thương mại biên giới. - Trung ương nên qui định khung thuế trong thời gian tương đối dài, địa phương (hoặc tổ chức quản lý thương mại biên giới) được phân cấp quyết định thuế suất và giá tính thuế để bảo đảm linh hoạt kịp thời, đáp ứng những biến đổi trong yêu cầu điều tiết quan hệ thương mại khu vực biên giới. Trong thực tế hiện trên biên giới có 6 tỉnh thì 4 tỉnh đã có quyết định thí điểm chính sách ưu đãi cho cửa khẩu, trong khi Trung Quốc có khả năng điều phối hàng hoá trên toàn tuyến rất linh hoạt. Nếu địa phương không được trao quyền tự chủ nhất định thì hoạt động thương mại khu vực biên giới không thể tiến hành thông suốt. Cần sớm nghiên cứu để đưa ra Luật chống phá giá và thuế chống phá giá đánh vào hàng nhập khẩu nhằm bảo vệ tích cực hơn sản xuất trong nước. Đây là giải pháp cấp bách để có thể giải quyết triệt để hơn vấn đề bán phá giá mà Trung Quốc thường xuyên sử dụng trong buôn bán biên giới với Việt Nam. Hiện phía Việt Nam mới chỉ có biện pháp ngăn chặn duy nhất là sử dụng biểu giá tối thiểu tại cửa khẩu đối với các mặt hàng nghi ngờ bán phá giá. Giải pháp này sẽ là không hợp pháp khi tham gia vào các cam kết thuế quan khu vực trong đó qui định giá tính thuế chỉ căn cứ vào hợp đồng thương mại. Chính sách cửa khẩu: chính sách ưu đãi áp dụng thí điểm tại các khu kinh tế cửa khẩu thể hiện ở các nội dung chủ yếu, bao gồm các chính sách ưu đãi về thuế, về tiền thuê đất, chính sách huy động vốn, chính sách đầu tư phát triển các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh và xây dựng cơ sở hạ tầng; chính sách phát triển thương mại, chính sách xuất nhập khẩu du lịch, dịch vụ... So với các vùng kinh tế khác, các chính sách được áp dụng tại đây thông thoáng, ưu đãi hơn. Chính vì thế hơn 2 năm qua chính sách kinh tế cửa khẩu sớm đi vào cuộc sống, tác động tích cực tới sự phát triển của các khu vực cửa khẩu, tạo sự khởi sắc về kinh tế - xã hội cho vùng kinh tế cửa khẩu. Hoạt động giao lưu hàng hoá ngày càng sôi động, tạo ra nhiều việc làm, đời sống nhân dân vùng này được cải thiện, tăng thêm nguồn thu cho ngân sách, cơ sở hạ tầng được nâng cấp, mở rộng theo chiều hướng hiện đại, trật tự xã hội và an ninh biên giới được giữ vững. Chính sách thương mại tiêu biểu được áp dụng thí điểm và nay đã trở thành áp dụng chính thức trong các khu kinh tế cửa khẩu là được phép ưu tiên phát triển một cách toàn diện các hình thức hoạt động trong lĩnh vực thương mại: xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, vận chuyển hàng quá cảnh, kho ngoại quan, cửa hàng miễn thuế, hội chợ triển lãm, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, các cơ sở sản xuất, gia công hàng xuất khẩu, các chi nhánh đại diện các Công ty trong và ngoài nước, chợ cửa khẩu, đầu tư cơ sở hạ tầng, dịch vụ, du lịch. Đặc biệt là tại các khu kinh tế cửa khẩu được phép thành lập khu bảo thuế với điều kiện phải cách ly các khu chức năng khác trong khu vực kinh tế cửa khẩu. Khu bảo thuế được áp dụng cơ chế phi thuế quan như đối với kho ngoại quan. Rõ ràng, trong quá trình thực hiện thí điểm, một số chính sách nói trên đã thể hiện tính đúng đắn, ưu việt trong việc khai thác lợi thế của khu vực cửa khẩu biên giới. Thành công trong việc áp dụng các chính sách cho khu vực kinh tế cửa khẩu tập trung ở 3 khía cạnh: 1. Phát huy tiềm năng tại chỗ 2. Tác động lan toả cho một số khu vực lân cận phát triển 3. Qua quá trình thực hiện đã cho thấy nhiều vấn đề cần được phát huy khắc phục để từ đó tiến tới hoàn chỉnh, hoàn thiện một số cơ chế chính sách cũng như việc thực thi chính sách cho một số khu vực khác. Tuy nhiên, quá trình thí điểm này vẫn còn những vấn đề tồn tại cần phải tiếp tục nghiên cứu giải quyết, nhưng về cơ bản quá trình đó đã thu được những kết quả khả quan, làm cơ sở cho việc ra đời Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về chính sách đối với khu kinh tế cửa khẩu biên giới, số 53/2001/QĐ-TTg ngày 19/4/2001. Để phát huy được năng lực của khu vực kinh tế cửa khẩu cần nghiên cứu kỹ chính sách đối với cửa khẩu của các nước láng giềng để trên cơ sở đó, một mặt chúng ta có đối sách phù hợp, mặt khác trên cơ sở khả năng và tình hình của từng địa phương có cửa khẩu để xác định bước đi về đầu tư, mức độ ưu tiên và cơ chế chính sách cho phù hợp. Thực tế cho thấy, khu vực cửa khẩu chủ yếu là khu vực giao lưu kinh tế, là cửa ngõ thông thương giữa ta với thị trường nước láng giềng và thị trường thế giới, bên cạnh việc miễn thuế hoặc hoàn thuế (trường hợp tạm nhập tái xuất đã nộp thuế vào NSNN) đối với các hàng hoá tạm nhập tái xuất, hàng hoá quá cảnh, chuyển khẩu cần nghiên cứu để các hàng hoá thuộc diện này không phải làm các thủ tục xuất nhập khẩu mà chỉ kê khai tờ khai hải quan. Tất nhiên, muốn thực hiện chính sách đó, Nhà nước ta phải trao đổi với các nước láng giềng để đạt được sự thoả thuận, tức là họ phải đối xử với hàng hoá tạm nhập tái xuất, quá cảnh để nhập vào nước ta cũng như ta đối xử với hàng hoá tái nhập tái xuất, quá cảnh để nhập vào nước họ. Trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá ở vùng kinh tế cửa khẩu: Bộ Thương mại nên thống nhất một đầu mối quản lý, nên sớm thành lập hiệp hội các nhà sản xuất các sản phẩm xuất khẩu để có biện pháp quản lý hàng xuất khẩu, tránh tình trạng ép cấp, ép giá, dẫn đến thua thiệt cho phía Việt Nam như đã xảy ra trong thời gian vừa qua. Ngoài ra Nhà nước cần sớm tổng kết hoạt động của các khu kinh tế cửa khẩu. Các cơ chế chính sách để tiếp tục nghiên cứu đề ra một cơ chế chính sách toàn diện đối với khu kinh tế này, không nên cho phép thí điểm kéo dài sẽ dẫn đến sự phát triển không ổn định của tỉnh có cửa khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài vào khu vực này. đồng thời, nhà nước sớm thống nhất lập qui hoạch, lựa chọn địa điểm, dự kiến trước số lượng các khu kinh tế cửa khẩu cần phát triển trong giai đoạn trước mắt và trong tương lai trên khu vực biên giới Việt Trung để có hướng đầu tư cụ thể thích đáng, khuyến khích khu kinh tế cửa khẩu phát triển, tác động tích cực lan toả đến các vùng khác trong nước. Các chính sách tuy nhanh chóng tác động song việc phối hợp giữa các ngành trên địa bàn như thuế, hải quan, quản lý thị trường và các cấp chính quyền cần phải chặt chẽ hơn nữa để đảm bảo sự thống nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế cửa khẩu. Chính phủ nên xem xét giao cho chủ tịch UBND các tỉnh có vùng kinh tế cửa khẩu thẩm quyền điều hành, giải quyết các phát sinh trên địa bàn. Đồng thời cần củng cố tổ chức bộ máy của hệ thống quản lý Nhà nước trên địa bàn của tỉnh có cửa khẩu, nhất là cấp huyện, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác quản lý đối với khu vực này. 3.2 thứ hai, các tỉnh biên giới cần tiếp tục đẩy mạnh công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu và gian lận thương mại: Chống buôn lậu luôn gắn với hoạt động thương mại biên giới như người đồng hành vì mọi quốc gia đều có chính sách thuế quan để bảo hộ mậu dịch song khu vực biên giới luôn có địa hình thức tạp cho phép buôn lậu. Thuế quan càng cao, buôn lậu và gian lận thương mại càng có cơ may thu lợi nhuận cao vì vậy hoạt động buôn lậu càng được kích thích gia tăng. Buôn lậu là một thực tế lịch sử và tồn tại lâu đời. Buôn lậu nảy sinh là do trình độ phát triển và chi phí sản xuất ở các quốc gia khác nhau. Cung cầu mất cân đối và tính đa dạng về hàng hoá của dân cư, chính sách điều tiết của Chính phủ các nước trái với qui luật lưu thông hàng hoá. Do đó, việc chống buôn lậu phải coi là một trong những giải pháp hàng đầu, trong đó chống buôn lậu bằng sự quản lý trực tiếp của các tỉnh biên giới có vị trí quan trọng đặc biệt. Hiện trạng buôn lậu xảy ra đối với hầu hết các mặt hàng có thuế suất cao và hàng tiêu dùng cấm nhập khẩu với thuế suất 50%-120% (xe đạp, đầu video...). Nếu thuế nhập khẩu ở mức thấp thì hầu như không còn buôn lậu vì lãi suất của nó không lớn hơn buôn hợp pháp mà thu ngân sách sẽ cao hơn nhiều. Lực lượng của địa phương chống buôn lậu tại chỗ là biện pháp hữu hiệu nhất vì cán bộ và đồng bào địa phương hiểu rõ hơn ai hết địa bàn mình cư trú và những thủ đoạn mà bọn buôn lậu sử dụng để hoạt động. Tất nhiên trong công việc khó khăn phức tạp này cần có sự hỗ trợ phối hợp hành động với các cơ quan hữu trách các ngành ở trung ương, trước hết là với Cục Quản lý thị trường của Bộ Thương mại. Kết quả của công việc chống buôn lậu qua biên giới sẽ có tác động tích cực đến quá trình thực hiện quy hoạch phát triển thương mại tại các vùng cửa khẩu biên giới phía Bắc nước ta. Bên cạnh đó các tỉnh biên giới cần phải được kiện toàn bộ máy quản lý thị trường: - Tiêu chuẩn hóa cán bộ gắn với nghiêm trị tham nhũng - Trang bị phương tiện kiểm tra kiểm soát - Tăng cường đào tạo nghiệp vụ, chính trị - Hoàn thiện hệ thống văn bản điều chỉnh hoạt động quản lý thị trường, chống gian lận thương mại. 3.3Hoàn thiện việc tổ chức hoạt động của các khu kinh tế cửa khẩu: Việc phát triển các khu kinh tế cửa khẩu không chỉ là nhiệm vụ của từng địa phương mà là nhiệm vụ của cả quốc gia, vì vậy đòi hỏi các ngành, các cấp cần có sự tập trung đầu tư, đề ra các biện pháp có hiệu quả thiết thực đối với sự phát triển khu vực này tùy theo từng lĩnh vực phù hợp với chức năng hoạt động của mỗi ngành. Khu kinh tế cửa khẩu trong những năm qua đã phát huy được các lợi thế khơi dậy mọi nguồn lực tại chỗ và đã khởi động cho các vùng lân cận phát triển mạnh về thương mại dịch vụ. Từ những kết quả này Nhà nước cần có những chính sách phù hợp, tiếp tục hoàn thiện để các khu kinh tế cửa khẩu này sớm chuyển hoá thành khu kinh tế hạt nhân quan trọng. + Đồng bộ hóa hệ thống chính sách ưu đãi + Sớm đổi mới mô hình hoạt động, đánh giá hiệu quả, phân tích đánh giá tổng hợp chính sách để điều chỉnh kịp thời. + Sớm ra Luật về đặc khu kinh tế để có cơ sở điều chỉnh hoạt động các khu kinh tế cửa khẩu rõ ràng chi tiết. + Hệ thống chính sách ưu đãi phải được hạn định trong một khoảng thời gian hợp lý, bảo đảm cân đối giữa quyền lợi quốc gia và quyền lợi địa phương. Hài hòa giữa phát triển khu vực và lợi ích cộng đồng, tránh tư tưởng cục bộ cố hữu. + Coi trọng chính sách đào tạo cán bộ quản lý, chuyên môn đáp ứng trình độ yêu cầu ngày càng cao của các khu kinh tế cửa khẩu. + Sớm có một tổ chức của chính phủ quản lý điều hành hệ thống các khu kinh tế cửa khẩu, đồng thời xây dựng qui hoạch phát triển rõ ràng. + quản lý chặt chẽ là việc trao đổi hàng hoá giữa khu vực cửa khẩu với nội địa, đây là vấn đề phức tạp có liên quan đến việc chống buôn lậu và gian lận thương mại. Cần có biện pháp quản lý chặt chẽ, kiểm soát được việc trao đổi hàng hoá giữa khu vực cửa khẩu với nội địa thông qua các hàng rào kiểm soát chặt chẽ của các cơ quan có thẩm quyền và ý thức trách nhiệm cao của các công chức có nhiệm vụ kiểm soát. Vấn đề đặt ra là phải có cơ chế đầu tư (như đầu tư từ nguồn kinh phí thu được của hoạt động cửa khẩu) tạo ra các hàng rào ngăn cách để chống buôn lậu, đồng thời có chính sách cán bộ, tiền lương thoả đáng đối với công chức thực thi nhiệm vụ này. Chính sách đầu tư cho các cửa khẩu tuy đã được đặt ra song trên thực tế chưa đủ lực, các vấn đề về đất cho kinh doanh, giá đất, giá dịch vụ ở một số cửa khẩu còn kém sức cạnh tranh so với phía Trung Quốc. Thủ tục đầu tư rườm rà, phức tạp, cơ sở hạ tầng còn yếu kém. Trong khi đó, công tác chỉ đạo, phối hợp giữa trung ương và địa phương trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội khu vực cửa khẩu còn thiếu đồng bộ, chưa chặt chẽ, chưa tạo thuận lợi nhằm giúp các khu vực cửa khẩu của ta giành được lợi thế trong quan hệ kinh tế đối với nước láng giềng sản xuất kinh doanh ngày càng tăng, chưa tạo điều kiện thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài vào kinh tế cửa khẩu. Việc triển khai thực hiện các quyết định của Thủ tướng Chính phủ mới tập trung vào các hoạt động nhập khẩu, dịch vụ ăn uống, các hoạt động phát triển sản xuất công nghiệp, du lịch, vui chơi giải trí, văn hoá, thể dục thể thao chưa được quan tâm đúng mức nên các khu vực cửa khẩu chưa thực sự trở thành một khu kinh tế thương mại và du lịch. Các địa phương có cửa khẩu chủ động trong việc đề xuất các đối sách thích hợp để lôi kéo các cơ sở kinh tế tham gia khai thác và sử dụng thị trường ngoài nước thông qua các cửa khẩu. 3.4 Tiếp tục hoàn thiện hệ thống môi trường pháp lý cho phát triển quan hệ thương mại khu vực biên giới Việt Trung: + Sớm ký kết hoàn thiện hệ thống điều ước quốc tế Trung Việt liên quan quan hệ thương mại Việt Trung: Hiệp ước phân định biên giới, Hiệp ước thương mại, hiệp ước về tương trợ tư pháp... + Sớm rà soát ban hành các văn bản pháp lý thay thế các qui định đã lỗi thời điều chỉnh hoạt động thương mại biên giới. + Sớm có các văn bản pháp qui liên quan đến Luật Thương mại, luật thuế, luật Hải quan, Hiệp định về mua bán hàng hoá biên giới. 3.5 Huy động vốn và xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các khu vực cửa khẩu: Việc thực hiện quy hoạch phát triển thương mại dù là tại các vùng cửa khẩu biên giới phía Bắc hoặc ở bất kỳ địa phương nào, cũng đòi hỏi phải có cơ sở vật chất - kỹ thuật nhất định. Đây là một trong những giải pháp quan trọng đối với khu vực miền núi biên giới phía Bắc. Điều kiện tự nhiên khó khăn là một lẽ, nhưng việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kết cấu hạ tầng xã hội từ trước đến nay cũng còn rất hạn chế. Do vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật trên thực tế vẫn thiếu thốn và lạc hậu. Các khu kinh tế cửa khẩu được vay vốn ưu đãi Nhà nước từ quỹ hỗ trợ phát triển để phát triển cơ sở hạ tầng. Trường hợp nếu các công trình hạ tầng trên địa bàn khu kinh tế cửa khẩu đã được xây dựng đồng bộ và hoàn chỉnh thì số vốn được để lại có thể được sử dụng đầu tư hỗ trợ các công trình khác ngoài địa bàn nhưng có liên quan và trực tiếp phục vụ khu kinh tế cửa khẩu. Xây dựng cơ sở hạ tầng trước hết cần chú ý đến việc nâng cấp, bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống nhà công vụ trên toàn tuyến biên giới đủ để phục vụ các hoạt động thương mại ngày càng tăng nhanh. Trang bị đủ những phương tiện, máy móc cần thiết về bưu chính viễn thông, về tin học, khắc phục tình trạng nhiều nơi vẫn làm thủ công, chậm trễ và thiếu chính xác về cập nhật thông tin, số liệu, phục vụ kịp thời cho quản lý điều hành. Trang bị các máy móc, phương tiện đẩy nhanh quy trình kiểm tra, kiểm soát hành lý, hành khách xuất nhập cảnh, kiểm dịch động thực vật bảo vệ môi trường sinh thái, tránh cho đất nước không bị lây nhiễm dịch bệnh khó chữa. Phát triển giao thông - vận tải phục vụ giao lưu kinh tế: Bảo đảm từ nay đến năm 2010 nâng cấp tất cả các đường quốc lộ ra biên giới. Trước mắt, ưu tiên cho các quốc lộ quan trọng nối từ các cửa khẩu lớn vào nội địa và thông ra biển, đường nối tới các khu du lịch. Khai thông tuyến vành đai biên giới quốc lộ 4 có điều kiện thì nâng cấp rải nhựa. Hệ thống đường xương cá, đường dân sinh dẫn tới các cửa khẩu, vùng sâu, vùng xa, các điểm dân cư tập trung, các trung tâm kinh tế, các cụm xã cũng cần được khẩn trương nâng cấp, xây dựng, khai thông. Có kế hoạch xây dựng đường dọc theo biên giới phục vụ công tác tuần tra. Đàm phán để tiến tới tổ chức liên vận quốc tế trên đường bộ, đường sắt không phải chuyển tải qua biên giới. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội phục vụ hoạt động thương mại đang có những yêu cầu bức xức. Vấn đề này liên quan trước hết đến đào tạo nguồn nhân lực có đủ sức khoẻ, kỹ năng và kiến thức thực thi nhiệm vụ phục vụ sản xuất, kinh doanh và quản lý. Trong điều kiện của các tỉnh vùng biên, đây là việc đầu tư có nhiều khó khăn, phải làm kiên trì, từng bước một vững chắc, bảo đảm tính kế tục lâu dài. 3.6 phát triển hệ thống chợ biên giới: Hệ thống chợ biên giới là một trong những cơ sở vật chất quan trọng phục vụ trực tiếp giao lưu kinh tế với các nước láng giềng. Các tỉnh biên giới cần nhanh chóng qui hoạch mạng lưới chợ, có kế hoạch từng bước đầu tư xây dựng và tăng cường quản lý chợ theo những nguyên tắc qui định về biên giới giữa hai nước và qui chế quản lý chợ của nước ta. Hệ thống chợ Việt - Trung hiện chủ yếu dựa trên cơ sở các điểm chợ truyền thống, Chưa có quy hoạch sắp xếp một cách có hệ thống và đầu tư thích đáng. Thậm chí một số chợ do đầu tư vội vã đã hoàn toàn không được mục đích đầu tư ban đầu như chợ trung tâm Lao Kai, Chợ cửa khẩu Tà Nùng. Việc thực hiện quy hoạch chợ biên giới cần có sự lồng ghép, phối hợp các chương trình phát triển kinh tế xã hội khu vực các xã biên giới để có được hiệu quả cao hơn. Lời Kết luận Với vị trí và ảnh hưởng đặc biệt của mình, từ lâu Trung Quốc đã có một quan hệ kinh tế - xã hội chặt chẽ với Việt Nam. Trong thời gian tới cũng như trong tương lai, trước một thực tế về một vai trò chi phối đời sống chính trị kinh tế Châu á - Thái Bình Dương của Trung Quốc đang dần được khẳng định, trong chiến lược phát triển lâu dài của mình, Việt Nam không thể không chú trọng tới nhân tố Trung Quốc. Nhìn lại chặng đường mười năm quan hệ thương mại Việt - Trung có thể thấy rằng: Cơ sở phát triển quan hệ này là tương đối vững chắc, trong đó có cả nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Trong số các nhân tố chủ quan thì nhân tố ý chí chính trị của cả hai bên là nhân tố quan trọng nhất, có tính chất quyết định đối với việc phát triển quan hệ Việt Nam - Trung Quốc nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Vì thế, muốn tranh thủ được thời cơ, khai thác mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực khi quan hệ buôn bán với Trung Quốc thì Việt Nam cần phải xây dựng được một hệ thống chính sách phù hợp với tình hình thực tế và khẩu hiệu của chúng ta là: ổn định - hợp tác - phát triển. Trong đó, ổn định bao gồm ổn định trong từng quốc gia và ổn định trong toàn khu vực làm tiền đề; phát triển là mục tiêu chung mà mỗi quốc gia và khu vực cùng hướng tới; còn hợp tác bao gồm hợp tác song phương và đa phương là phương thức và sự lựa chọn tốt nhất để thực hiện mục tiêu chung. Cuộc cạnh tranh này sẽ gay gắt, nhưng đó cũng chính là động lực đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá, tiến kịp với trình độ công nghệ của thế giới. Thực tế cuộc sống đang đòi hỏi không chậm trễ hơn nữa về sự hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý nói chung và đối với hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng, có chính sách nhất quán cùng với một cơ chế điều hành thích hợp đối với thương mại vùng biên giới đang đòi hỏi các cơ quan hữu quan kịp thời đáp ứng. Chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng rằng: dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc, với những thành tích đã đạt được và trong khuôn khổ quan hệ mới được xác lập, chúng ta có cơ sở để tin tưởng sâu sắc rằng mối quan hệ Việt - Trung sẽ mãi mãi xanh tươi và đời đời bền vững, góp phần vào thắng lợi của công cuộc đổi mới ở Việt Nam và công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc, đưa hai dân tộc Việt - Trung vững bước vào thế kỷ XXI - thế kỷ Châu á - Thái Bình Dương với tầm cao mới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33480.doc
Tài liệu liên quan