Luận văn Một số đặc điểm của thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại (từ 1945 đến nay)

Đề tài: Một số đặc điểm của thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại (từ 1945 đến nay) 1. Lý do chọn đề tài Thơ ca dân tộc Mông là một bộ phận quan trọng trong nền thơ của các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Nó đã góp phần tạo nên sự đa sắc màu cho đời sống thơ ca dân tộc vốn đã rất phong phú và giàu bản sắc. Vì vậy, khi nghiên cứu thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam không thể không nghiên cứu thơ ca dân tộc Mông - tiếng nói văn học của một dân tộc có số cư dân đông vào hàng thứ tám trong cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam và cũng là một dân tộc có truyền thống văn hoá rất độc đáo và đặc sắc. Trong quá trình nghiên cứu về thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, đã có những tác giả có sự quan tâm đến việc tìm hiểu thơ ca của dân tộc Mông. Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc tuyển chọn và giới thiệu thơ của một số tác giả dân tộc Mông trong các tuyển tập thơ ca các dân tộc thiểu số nói chung; hoặc điểm qua tên tuổi của một số nhà thơ người Mông đã phần nào trở nên quen thuộc trong số các nhà thơ dân tộc thiểu số như: Mã A Lềnh, Mùa A Sấu, Hùng Đình Quí Nhìn chung, tất cả các công trình nghiên cứu, bài viết nói trên - dù trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến thơ ca hiện đại dân tộc Mông - cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ điểm qua, như những nét phác thảo, chưa toàn diện và hệ thống, chưa làm nổi bật được những nét đặc sắc cũng như những đóng góp của thơ ca hiện đại dân tộc Mông đối với nền thơ ca các dân tộc thiểu số nói riêng và nền thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung. Do đó, rất cần thiết phải có một công trình nghiên cứu chuyên biệt, nghiên cứu một cách hệ thống và thấu đáo, nhằm chỉ ra những đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật, sự vận động và phát triển cũng như những giá trị của thơ ca hiện đại dân tộc Mông trong việc góp phần tạo nên một nền thơ ca dân tộc thiểu số nói riêng, thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung, phong phú và giàu bản sắc dân tộc. Chính vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Một số đặc điểm của thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại (từ 1945 đến nay)” cho luận văn của mình. Vốn là một cán bộ của Trung tâm đào tạo bồi dưỡng cho cán bộ giáo viên các dân tộc tỉnh Thái Nguyên, lại có dịp tiếp xúc nhiều với cộng đồng dân tộc Mông, tôi rất yêu quí và trân trọng những nét đẹp văn hoá mang tính bản sắc và đặc biệt là thơ ca của dân tộc Mông (cả thơ ca truyền thống và thơ ca hiện đại). Vì vậy, nếu đề tài được thực hiện thành công, tôi hy vọng sẽ góp phần nhỏ bé của mình vào việc chỉ ra được những vẻ đẹp đặc trưng, mới lạ và độc đáo của thơ ca dân tộc Mông. Mặt khác, qua việc thực hiện đề tài, người viết cũng muốn góp thêm một tiếng nói vào việc giữ gìn, bảo tồn những nét đẹp của bản sắc văn hoá dân tộc Mông, cũng như mong muốn thực hiện được chủ trương đưa vào chương trình giảng dạy các tác phẩm văn học dân tộc thiểu số - trong đó có các tác phẩm thơ ca hiện đại dân tộc Mông- trong nhà trường phổ thông, cao đẳng, đại học hiện nay,đặc biệt là các trường thuộc khu vực miền núi phía Bắc. 2. Lịch sử vấn đề Theo tìm hiểu bước đầu của chúng tôi thì tình hình nghiên cứu về thơ ca dân tộc Mông (cũng như thơ ca các dân tộc thiểu số khác) mới chỉ được bắt đầu từ những năm 60 của thế kỷ XX trở lại đây. Mặc dù đã có một số thành tựu nhất định nhưng nhìn chung, việc giới thiệu, nghiên cứu và phê bình văn học các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, còn lâm vào tình trạng “rời rạc, lẻ tẻ, chắp vá ” (Lò Ngân Sủn). Một phần do tình trạng “ảnh hưởng của văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số còn khá mờ nhạt trong nhận thức và đánh giá của xã hội” [25;10], dẫn đến nhiều tác giả, tác phẩm chưa được chú ý, “nhiều thực tế phong phú chưa được tổng kết, thậm chí chưa được tập hợp lại một cách tương đối hệ thống; nhiều vấn đề lí luận và thực tiễn chưa được xới ra xem xét, nghiên cứu chặt chẽ, thấu đáo” (Nguyên Ngọc). Về thơ ca dân tộc Mông nói chung, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu, song chủ yếu là về thơ dân gian với các công trình sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu dân ca Mông như: Dân ca Mèo (Doãn Thanh, Nxb Văn học 1967). Các cuốn sách giới thiệu các tác phẩm văn học dân gian do Ty Văn hoá Thông tin các tỉnh Hà Giang, Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn xuất bản trong khoảng thời gian từ 1971 đến 1978; năm 1984, cuốn Dân ca Mông được tác giả Doãn Thanh biên soạn lại và xuất bản với lời giới thiệu của nhà thơ Chế Lan Viên. Từ 1994 đến nay, Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc lần lượt giới thiệu một số tác phẩm sưu tầm dân ca, tục ngữ, câu đố dân tộc Mông của tác giả Hùng Đình Quí, Hờ A Di, Lê Trung Vũ, đặc biệt là việc xuất bản 6 tập Dân ca HMông do nhà thơ, nhà sưu tầm văn học dân gian Hùng Đình Quí biên soạn. Theo khảo sát của chúng tôi, một công trình nghiên cứu có tính hệ thống, qui mô và toàn diện hơn cả là đề tài, luận văn Thạc sĩ của Hùng Thị Hà: Thơ ca dân gian HMông (2003).[17] Nên có thể nói, thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại là mảng nghiên cứu hiện nay còn bỏ ngỏ, ngoại trừ một số các công trình mang tính chất tập hợp, tuyển chọn và giới thiệu thơ văn các dân tộc thiểu số, trong đó có dân tộc Mông, như: Hợp tuyển thơ văn các dân tộc thiểu số Việt Nam 1945 - 1985 (Nxb Văn hoá, 1981); tuyển tập Thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX (Nxb Văn hoá Dân tộc, 2000); hay các tác phẩm chuyên sâu về nghiên cứu, phê bình văn học các dân tộc thiểu số (ít nhiều có liên quan đến thơ văn hiện đại dân tộc Mông) như: 40 năm văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (Nxb Văn hoá Dân tộc, 1985); Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại của Lâm Tiến (Nxb Văn hoá Dân tộc, 1995); Vấn đề đặt ra với các nhà thơ dân tộc thiểu số của Lò Ngân Sủn (Nxb Văn hoá Dân tộc, 2002) . Một điều dễ nhận thấy là hầu như tất cả các công trình nghiên cứu này chỉ điểm qua mảng văn học dân tộc Mông, đặc biệt là thơ hiện đại như một cách để “nói cho đủ”. Trong đó Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại của nhà nghiên cứu, phê bình văn học Lâm Tiến có thể coi là một công trình nghiên cứu qui mô nhất về văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại từ trước cách mạng tháng tám năm 1945 trên cả ba lĩnh vực: Thơ, văn xuôi và kịch. Tuy nhiên, công trình này mới chỉ đi sâu nghiên cứu đánh giá về một số tác giả tác phẩm tiêu biểu của các dân tộc thiểu số xét trên từng giai đoạn lịch sử, chứ chưa phác thảo về diện mạo cũng như chưa đi sâu nghiên cứu về đặc điểm văn học nói chung và thơ ca nói riêng của từng dân tộc. Vì thế, thơ ca hiện đại dân tộc Mông cũng không được đề cập ngoài vài dòng điểm tên các tác giả, tác phẩm nhằm minh hoạ cho việc phân tích, diễn giải một luận điểm nào đó của người viết; cuốn Vấn đề đặt ra với các nhà thơ dân tộc thiểu số của Lò Ngân Sủn đi sâu bàn luận thơ ca của các tác giả dân tộc thiểu số. Trong đó, một vài nhà thơ hiện đại dân tộc Mông cũng đôi lần được nhắc đến cùng với những đánh giá, bình xét về đặc điểm thơ của các tác giả này. Năm 2008, Viện Văn học đã nghiệm thu đề tài khoa học Thơ dân tộc ít người giai đoạn 10 năm cuối thế kỷ XX - truyền thống và hiện đại của nhóm tác giả Hà Công Tài, Nguyễn Thị Thanh Lưu, Đỗ Thị Thu Huyền. Lý do mà các tác giả đưa ra khi chọn nghiên cứu đề tài này là, thơ dân tộc ít người giai đoạn 10 năm cuối thế kỷ XX (1990 - 1999) có những thành tựu nhất định, biểu hiện ở việc xuất hiện những “tác giả thật đặc sắc”, đã gây được “những ảnh hưởng không chỉ đến sáng tác văn học dân tộc thiểu số mà cả sáng tác văn học nói chung”. Đây được coi là cơ sở bước đầu để “triển khai nghiên cứu, tổng kết 50 năm xây dựng văn học dân tộc thiểu số (từ sau Cách mạng thành công tháng 8/1945) [59]. Nhìn chung, đây là một công trình nghiên cứu nghiêm túc, công phu và khá toàn diện trong nhìn nhận, đánh giá những thành tựu của thơ ca các dân tộc thiểu số. Đặc biệt là việc bước đầu đánh giá mối quan hệ giữa thơ ca dân gian và thơ ca hiện đại của các dân tộc ít người qua khảo sát hệ thống biểu tượng, cùng với việc giới thiệu một số chân dung tác giả tiêu biểu đại diện cho thơ ca hiện đại các dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, do khuôn khổ và nội dung của đề tài, thơ ca hiện đại dân tộc Mông (cũng như một số dân tộc thiểu số khác) chưa được các tác giả xem xét và đánh giá một cách đúng mức. Có thể khẳng định một điều: Tất cả những công trình, bài viết về thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại, cho đến nay mới chỉ dừng lại ở phạm vi nhỏ lẻ, tản mạn (cả dưới góc độ tác phẩm và tác giả), mà chưa đi sâu vào phân tích, đánh giá và chỉ ra những đặc điểm cụ thể về nội dung và nghệ thuật. Vì thế, cũng có thể khẳng định, cho đến nay, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về thơ ca hiện đại dân tộc Mông. Điều đó dẫn tới sự cần thiết về việc phải nghiên cứu văn học Mông nói chung và thơ ca hiện đại Mông nói riêng một cách thấu đáo và nghiêm túc, để thấy được diện mạo thơ ca hiện đại của một dân tộc vốn có truyền thống văn hoá lâu đời, có những bản sắc riêng độc đáo. Mặt khác, đó cũng chính là những động thái hết sức tích cực trong việc góp phần bảo tồn và phát triển một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn hội nhập quốc tế một cách toàn diện hiện nay. 3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích Nghiên cứu đề tài “Một số đặc điểm thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại (từ 1945 đến nay)”- luận văn nhằm chỉ rõ những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của thơ ca hiện đại dân tộc Mông. Đồng thời khẳng định những đóng góp tích cực của thơ ca dân tộc Mông đối với sự phát triển của thơ ca các dân tộc thiểu số nói riêng, góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng của nền thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Để thực hiện luận văn, chúng tôi đã đọc, tham khảo và nghiên cứu các loại tài liệu sau: - Các tác phẩm thơ của các tác giả dân tộc Mông từ 1945 đến nay. - Một số tác phẩm thơ dân tộc Mông trước 1945, đặc biệt là thơ ca dân gian Mông (để so sánh đối chiếu). - Một số tác phẩm thơ của các dân tộc thiểu số khác nhằm so sánh, đối chiếu, làm nổi bật những đặc điểm riêng biệt của thơ ca hiện đại dân tộc Mông. - Các công trình, bài nghiên cứu về thơ ca dân tộc Mông nói riêng và thơ ca các dân tộc thiểu số nói chung. - Một số tài liệu về lí luận, lí thuyết có liên quan đến đề tài. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn cố gắng làm sáng tỏ và đi đến khẳng định những đặc điểm nổi bật của thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại ở hai phương diện cơ bản: - Phản ánh những nét đặc sắc về đời sống văn hoá, tinh thần của dân tộc Mông (thiên nhiên, con người, những phong tục tập quán, sinh hoạt cộng đồng, đời sống tâm linh ) thông qua những sáng tác của các nhà thơ hiện đại dân tộc Mông (trong sự đối chiếu, so sánh với thơ ca hiện đại của các dân tộc anh em khác). - Nghiên cứu một số hình thức nghệ thuật được sử dụng một cách đặc sắc và hiệu quả (ngôn ngữ, hình ảnh thơ, hình thức kết cấu, lối tư duy, diễn đạt ) của các nhà thơ dân tộc Mông. Qua đó, chỉ ra sự kế thừa một cách sáng tạo, độc đáo những giá trị nghệ thuật của thơ ca dân gian, cũng như sự phát triển, sự cách tân của các nhà thơ dân tộc Mông thời kỳ hiện đại. Từ việc nghiên cứu, tìm hiểu những đặc điểm cơ bản của thơ ca dân tộc Mông từ sau 1945 đến nay, luận văn đi đến khẳng định những thành tựu và hạn chế cũng như những đóng góp của thơ ca hiện đại dân tộc Mông đối với thơ các dân tộc thiểu số nói riêng và nền thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện luận văn, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp chính sau: - Phương pháp thống kê, phân loại. - Phương pháp phân tích, tổng hợp. - Phương pháp so sánh, đối chiếu. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành và một số phương pháp tổng hợp khác. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có cấu trúc gồm 3 chương: Chương 1: Một số đặc điểm về đời sống văn hoá xã hội của dân tộc Mông. Chương 2: Thơ Mông thời kỳ hiện đại- bức tranh sinh động về thiên nhiên, cuộc sống, con người của một dân tộc đầy bản sắc. Chương 3: Một số đặc điểm về nghệ thuật của thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại. . MC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 5 1. Lý do chọn đề tài . 5 2. Lịch sử vấn đề 3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu 9 3.1. Mục đích 9 3.2. Phạm vi nghiên cứu . 10 4. Nhiệm vụ nghiên cứu. 10 5. Phương pháp nghiên cứu . 11 6. Cấu trúc luận văn . 11 PHẦN NỘI DUNG 12 Chương 1. VÀI NÉT VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ XÃ HỘI CỦADÂN TỘC MÔNG 12 1.1. Một số đặc điểm về cộng đồng dân tộc Mông ở Việt Nam 12 1.1.1. Đặc điểm tộc người và điều kiện tự nhiên . 12 1.1.2. Đặc điểm phong tục tập quán và sinh hoạt cộng đồng 17 1.1.3. Đặc điểm về đời sống tâm linh . 24 1.1.4. Đặc điểm về ngôn ngữ, chữ viết . 27 1.2. Vài nét về thơ ca dân tộc Mông 30 1.2.1. Thơ ca dân gian 30 1.2.2. Thơ ca hiện đại . 33 Chương 2. THƠ MÔNG THỜI KỲ HIỆN ĐẠI -ỨC TRANH SINH ĐỘNG VỀ THIÊN NHIÊN, CUỘC SỐNG, CON NGƯỜI CỦA MỘT DÂN TỘC ĐẦY BẢN SẮC .41 2.1. Hình ảnh thiên nhiên trong thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại . 41 2.2. Hình ảnh con người và cuộc sống vùng cao trong thơ dân tộc Mông thời kỳ hiện đại . 46 2.2.1. Con người dân tộc Mông chân chất, mạnh mẽ và tài hoa. 46 2.2.2. Cuộc sống đơn sơ nhưng phong phú và giàu bản sắc . 51 Chương 3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT TRONG THƠ CA DÂN TỘC MÔNG THỜI KỲ HIỆN ĐẠI62 3.1. Dấu ấn của các thể loại thơ ca dân gian trong thơ ca dân tộcMông thời kỳ hiện đại. 62 3.1.1. Sự vận dụng sáng tạo, hiệu quả vốn tục ngữ, ca dao, dân ca Mông . 62 3.1.2. Sự vận dụng các hình thức nghệ thuật thơ ca dân gian trong thơ dân tộc Mông thời kỳ hiện đại 69 3.2. Ngôn ngữ hình ảnh trong thơ Mông thời kỳ hiện đại . 73 3.2.1. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của đồng bào Mông. 73 3.2.2. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, giàu nhạc điệu . 77 3.2.3. Ngôn ngữ, hình ảnh mang sắc thái đặc trưng của dân tộc Mông . 78 3.3. Cấu trúc, nhịp điệu trong thơ Mông thời kỳ hiện đại . 81 3.3.1. Cấu trúc, nhịp điệu chịu ảnh hưởng của thơ ca truyền thống dân tộc Mông 81 3.3.2. Xu hướng hiện đại trong cấu trúc, nhịp điệu của thơ ca Mông thời kỳ hiện đại. 83 3.4. Tư duy, diễn đạt trong thơ Mông thời kỳ hiện đại . 86 3.4.1. Tư duy trực quan hình ảnh . 86 3.4.2. Tư duy, diễn đạt mang đậm bản sắc dân tộc Mông . 87 PHẦN KẾT LUẬN 94 TÀI LIỆU THAM KHẢO .

pdf105 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1900 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số đặc điểm của thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại (từ 1945 đến nay), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở lại cùng hợp tác xã trồng cấy” để “cho cuộc sống bền nơi ở” (Sùng A Giàng). Ca ngợi cuộc sống định canh định cư, theo lời của Đảng, thể hiện tấm lòng biết ơn Đảng: “Có Đảng đưa đường chỉ lối/Người Mèo vùng cao ta/Ở bền nơi, làm bền nơi” (Giàng A Gia). Tin tưởng vào tương lai hạnh phúc sẽ đến với dân tộc nhà thơ Mông bày tỏ “Ta ngọt lòng/Bền nơi làm, bền nơi ở”. Kêu gọi mọi người hăng hái tích cực tham gia trồng rừng, bảo vệ rừng, nhà thơ bày tỏ ước nguyện phải giữ cho được “Rừng cây bát ngát đậm đặc/Ở bền cùng ta như người yêu” (Sùng A Trống). Người Mông có tiếng là thuỷ chung trong tình cảm vợ chồng, hình ảnh người phụ nữ Mông lặng lẽ xoè ô bên vệ đường che cho chồng nằm ngủ, kiên nhẫn chờ chồng vãn cơn say là một hình ảnh quen thuộc trong các chợ phiên miền núi. Người Mông xác định rất rõ sự cần thiết phải có cuộc sống thuỷ chung “Một vợ một chồng/Sống đời như nàng tiên hoa đẹp/Vợ cả vợ lẽ/Sống đời rối mù như cầy cào nhau”. Sở dĩ có sự so sánh như vậy là vì cách nói “nàng tiên hoa đẹp” và “rối mù như cầy cào nhau” rất quen thuộc, rất gần gũi với người Mông, đó là ngôn ngữ hàng ngày nên dễ hiểu, gây được ấn tượng và cảm tình của đồng bào dân tộc Mông. Cách lựa chọn những từ ngữ hình ảnh quen thuộc đưa vào thơ ca góp phần tạo cho thơ Mông có một nét bản sắc riêng. Tuy nhiên, việc lặp lại quá nhiều từ ngữ hình ảnh như vậy cũng đồng thời là một hạn chế, nó tạo ra sự khuôn mẫu, sáo mòn đôi khi đến tẻ nhạt, thiếu đi những từ ngữ hình ảnh sáng tạo, độc đáo tạo nên dấu ấn riêng của từng nhà thơ. Việc sử dụng những từ ngữ hình ảnh quen thuộc mà vẫn đặc sắc và thi vị là tài năng riêng của mỗi nhà thơ, có xuất hiện nhưng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 77 không nhiều trong thơ Mông. Ta có thể nhận ra điều đó trong thơ của Mã A Lềnh với hình ảnh người đàn ông Mông phong trần với “mái đầu trơ một mỏm đá hoang” và tính cách mạnh mẽ phóng túng “nghênh ngang, xù xì như hòn đá tảng giữa ngàn lau”. Nếu thành công trong việc sử dụng những từ ngữ hình ảnh quen thuộc như vậy, thơ hiện đại dân tộc Mông chắc chắn sẽ có được một vị trí cao hơn nữa trong sự mến mộ của người đọc cũng như trong nền thơ ca hiện đại của dân tộc. 3.2.2. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, giàu nhạc điệu Ngôn ngữ thơ Mông hiện đại rất giàu tính biểu cảm, giàu cảm xúc và nhạc điệu. Đây cũng chính là đặc trưng của ngôn ngữ thơ ca nói chung. Tuy nhiên, thơ Mông đặc sắc ở chỗ tính biểu cảm và nhạc điệu của thơ phù hợp với thị hiếu thẩm mĩ của người Mông, bởi nó xuất phát từ việc phản ánh đời sống tình cảm của mỗi cá nhân trong cộng đồng Mông mà những nhà thơ là người đại diện. Họ có tâm thế của người trong cuộc nên hiểu rõ cách nghĩ, cách cảm của đồng bào. Người dân tộc thiểu số nói chung ưa nói những lời có vần, một phần do văn học truyền miệng ngự trị quá lâu trong đời sống tinh thần của họ, vì chữ viết xuất hiện muộn. Cách nói vần vè có ưu thế là dễ nhớ, dễ thuộc, đặc biệt là những thành ngữ tục ngữ được vận dụng trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày. Dân tộc Mông cũng vậy, từ thơ ca dân gian đến thơ hiện đại không có sự cách biệt quá lớn về mặt hình thức và cả cách tư duy, biểu hiện. Bởi vậy, thơ hiện đại Mông cho dù có được sáng tác ghi lại bằng chữ Mông hay bằng chữ quốc ngữ, con đường đi đến trái tim, khối óc của đồng bào Mông vẫn chủ yếu là con đường truyền khẩu. Cách nói vần vè là cơ hội thuận lợi để các nhà thơ Mông bày tỏ tình cảm của mình phù hợp với việc diễn tả nội dung của các bài thơ mang cảm hứng chung là ngợi ca. Từ cảnh cảnh đẹp của thiên nhiên rực rỡ và tráng lệ trên những triền núi cao quê hương của người Mông: “Mặt trời Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 78 nâng hoa mây/Bồng bềnh sáng núi đá”, đến cảnh đẹp của đời sống người Mông đầm ấm, tươi vui trong vụ mùa thu hoạch “Bậc thang vút lên mây/Mùa vào thơm lúa chín/Hương lúa tràn quê hương”, và tình cảm yêu mến đến tự hào về môi trường sống đặc trưng của dân tộc mình: “Người Mèo ta trên núi/Rừng trập trùng mây bay mây lượn” (Giàng A Páo). Cách nói vần vè làm cho thơ hiện đại Mông mang một đặc điểm chung là giàu nhạc điệu. Những nhà thơ là những nhạc sĩ tài hoa trong việc phối kết các âm thanh của ngôn từ để tạo ra một bản nhạc riêng của các bài thơ. Âm điệu chung của thơ Mông là âm điệu gần gũi với dân ca và chịu ảnh hưởng nặng nề của dân ca Mông. Điều đó lí giải tại sao các bài thơ của các tác giả Mông lại có thể hát lên trong các sinh hoạt tập thể, các lễ hội mà không cần phải phổ nhạc. Sự phối hợp tài tình các âm vực cao thấp trong ngôn ngữ thơ tạo cho thơ Mông một sự cân đối, hài hoà: “Nắng trời con chim con sâu lượn/Trời nắng con chim con bướm đỗ”. Sự cân đối trong hình thức các câu thơ không chỉ ở số lượng câu chữ mà ở cả sự cân đối về thanh điệu. Ở đó các thanh bằng, thanh trắc được kết hợp với nhau một cách nhịp nhàng, uyển chuyển. Cách kết hợp như vậy tạo ra vần điệu cho thơ Mông như là một nét đặc trưng, khó lẫn với thơ ca của các dân tộc khác. Ta gặp rất nhiều trong các bài thơ của các tác giả Mông lối diễn đạt như vậy: “Cái ao ruộng hai đầu bằng/Cái ruộng ao hai đầu lặng” (Hùng Đình Quí), “Hoa chàm nở chênh chênh dốc sườn đồi/Hoa chàm nở chênh chênh cao sườn núi” (Giàng A Páo); “Người mẹ giỏi tay nuôi/Người cha khéo tay đặt” (Sùng A Thào); “Cha trao cho tôi tuổi tác/Mẹ ban phát linh hồn/Cha đắp bồi trí tuệ/Mẹ cho trọn điều khôn” (Mã A Lềnh) … 3.2.3. Ngôn ngữ, hình ảnh mang sắc thái đặc trưng của dân tộc Mông Ngôn ngữ, hình ảnh của một dân tộc là sản phẩm của đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc ấy. Thơ hiện đại dân tộc Mông cũng vậy. Các nhà thơ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 79 bao giờ cũng có nét tương đồng, thậm chí trùng hợp trong việc sử dụng hình ảnh thơ, nhất là những hình ảnh đặc trưng cho thiên nhiên con người và cuộc sống cộng đồng mình. Trong thơ Mông hiện đại, ta bắt gặp rất nhiều những hình ảnh thơ được trở đi trở lại nhiều lần có giá trị như những biểu tượng. Biểu tượng cho thiên nhiên của dân tộc Mông có lẽ là những hình ảnh “núi”, “mây”, và “mặt trời”. Có lẽ, do sống trên những triền núi đá cao nên gần gũi nhất với người Mông là núi; do khí hậu khắc nghiệt gần như quanh năm sương mù che phủ nên mặt trời là biểu tượng của sự ấm áp; những buổi chiều mùa hè trời như cao hơn, nắng pha sắc màu cho những đám mây nên mây là biểu tượng của cái đẹp. Khác với thơ của người Kinh và các dân tộc thiểu số khác, thiên nhiên của người Mông không có những dòng sông nên vì vậy mà trong thơ hiện đại Mông hình ảnh những dòng sông cũng rất hiếm hoi hoặc gần như không xuất hiện. Hay như trong thơ của người Thái, hình ảnh hoa ban xuất hiện nhiều, như là nét đặc trưng thì trong thơ Mông hình ảnh của loài hoa đặc trưng lại là hoa đào, hoa phong lan: “Ngọn núi lưng rừng nào cũng đến mùa xuân hoa đào mới nở” (Mùa A Sấu), “(Em) trắng đẹp trắng xinh như hoa mạch hoa lan nở giữa rừng” (Hùng Đình Quí). Những hình ảnh “núi”, “đá núi” xuất hiện trong thơ Mông hiện đại không chỉ đơn thuần là nội dung phản ánh của hiện thực cuộc sống người Mông, cuộc sống của một dân tộc “Sinh trên đá đợi bạn tình trên đá” (Triệu Kim Văn) mà nhiều khi, như những hình ảnh của sự so sánh, liên tưởng, ẩn dụ rất độc đáo và đặc sắc. Dáng vẻ uy nghi, sừng sững của những ngọn núi là hình ảnh để so sánh với công ơn của Đảng của Bác Hồ đối với người Mông: “ơn Bác Hồ người Mông nợ/Chồng cao bằng núi đất/chất cao bằng núi đá”. Có khi để diễn tả niềm vui, nhà thơ Mông dùng hình ảnh “đá nở hoa, hang sai quả”. Hình ảnh người đàn ông Mông phóng túng, phong trần với “mái đầu trơ một mỏm đá hoang”, và tính cách “nghêng ngang, xù xì như hòn đá tảng giữa ngàn lau”... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 80 Hình ảnh “nắng” “mặt trời” xuất hiện trong thơ Mông với một mức độ gần như dầy đặc, với những ẩn dụ, so sánh, liên tưởng hết sức phong phú. Mặt trời là Đảng, là Bác Hồ, là cuộc sống no ấm, hạnh phúc: “Mặt trời đến sớm toả tia nắng/Như ánh sáng của Đảng soi”, “Mặt trời chiếu tia nắng xuống bên đồi dốc/Ta có Bác Hồ - Bác Hồ bảo người Mông ta cách làm ăn” (Sùng Nhìa Tú). Nhiều bài thơ sử dụng cách so sánh ví von trực tiếp hình ảnh mặt trời như: “Có cụ Hồ về”(Giàng A Của), “Mặt trời hoa mây” (Giàng A Páo), “Ánh mặt trời” (Giàng A Lử), “Mặt trời, mặt trăng và Bác Hồ” (Sùng Nhìa Tú), “Nhớ đến Chính phủ” (Vừ Thị Dưa)... Bên cạnh đó, có những bài thơ mà hình ảnh “nắng” “mặt trời” mang ý nghĩa ẩn dụ, bộc lộ kín đáo suy nghĩ, tình cảm của các tác giả: “Ngửa mặt lên tôi say uống nắng vàng”, “Ở trên đầu nắng rọi mênh mang”, “Nắng lại toả xua tan u ám - trong lòng ta mang sắc nắng tràn trề”. Hơn ai hết người Mông nhận thức sâu sắc sự cần thiết của nắng đối với sự sống: “Cuộc sống này sinh sôi vì có nắng/Nắng đậu trên môi nụ cười tươi rạng” (Mã A Lềnh)... Những bài thơ viết về cuộc sống đồng bào Mông xuất hiện rất nhiều những hình ảnh “cây lanh”, “sợi lanh”, “con ong”, “chim ri”, “chim khướu”, “ruộng bậc thang”... như những hình ảnh vừa gần gũi với cuộc sống, vừa là đặc trưng cho cuộc sống của người Mông. Sợi lanh dường như là một thứ “bất li thân” của người phụ nữ Mông, khi đi nương, đi rẫy, khi làm bếp, ngay cả trong lúc nghỉ ngơi, người phụ nữ vẫn luôn luôn tước lanh để rồi dệt nên những trang phục vừa bền chắc, vừa rực rỡ sắc màu. Vì vậy, trong thơ Mông, hình ảnh sợi lanh như một biểu tượng cho sự cần mẫn chăm chỉ và cho cả tình yêu chung thuỷ: “Sợi lanh căng do em se/ Đôi ta kết đường tình duyên”, “Trước cửa nhà em có cây lanh mọc/Ong mới về tìm đậu” (dân ca Mông), “Guồng se lanh nối dài vô tận sợi lanh/ Mùa xuân này trời xui đất khiến cho em gặp anh” (Mã A Lềnh). Hình ảnh “tổ ong khoái, ong mật” thường được Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 81 các nhà thơ Mông sử dụng để thể hiện sự đoàn kết và niềm vui trong cuộc sống: “Mẹ con, bố con/ Sống tưng bừng như một tổ ong mật”, “Để người vùng cao vùng thấp/ Mới được ở ầm vang như tổ ong khoái ong mật” (Hùng Đình Quí), “Có ngày cuộc sống của ta như ong khoái” (Sùng A Trống), “Đôi ta thành vợ chồng/ Nảy nở sinh sôi như tổ ong mật” (dân ca Mông)... Chúng tôi không có điều kiện để khảo sát đầy đủ những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng trong thơ ca Mông, sự xuất hiện với tần số cao những hình ảnh tiêu biểu của thiên nhiên con người và cuộc sống vật chất tinh thần của người Mông góp phần làm cho thơ hiện đại Mông mang một đặc trưng riêng hay nói cách khác, đó là một trong những biểu hiện của bản sắc dân tộc trong thơ Mông hiện đại. Những hình ảnh “chim khướu, chim ri”, “tiếng khèn”, “đàn môi” … là những biểu tượng đặc trưng cho những nét phong cách và sinh hoạt của người Mông, rất cần những nghiên cứu một cách cụ thể, riêng biệt. Thiết nghĩ, chắc chắn đó sẽ là những khám phá lí thú về vấn đề đặc trưng bản sắc của dân tộc Mông. 3.3. Cấu trúc, nhịp điệu trong thơ Mông thời kỳ hiện đại 3.3.1. Cấu trúc, nhịp điệu chịu ảnh hưởng của thơ ca truyền thống dân tộc Mông Kết cấu của bài thơ là một trong những phương tiện để biểu đạt nội dung. Kết cấu của bài thơ còn phần nào bộc lộ những đặc điểm về tâm lí, cách tư duy, biểu đạt của từng tác giả. Thơ Mông hiện đại mang những đặc trưng riêng mà theo chúng tôi có thể phân chia thành hai xu hướng kết cấu của các bài thơ: Xu hướng kết cấu truyền thống và xu hướng kết cấu hiện đại. Kết cấu theo lối truyền thống là một trong những đặc trưng nổi bật của thơ Mông hiện đại. Đó vừa là một ưu thế đồng thời vừa là một hạn chế nhất định của thơ Mông. Sử dụng các hình thức kết cấu của thơ ca truyền thống tạo cho thơ Mông có đặc điểm riêng biệt, dễ nhận ra, giàu bản sắc. Tuy nhiên, sử dụng quá Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 82 nhiều hình thức kết cấu đó sẽ làm cho các bài thơ trở nên đơn điệu, dễ nhàm chán, không bắt kịp được với lối tư duy hiện đại, là một sự kìm hãm trong việc chuyển tải nội dung phản ánh cũng như ý đồ nghệ thuật của các tác giả. Thơ Mông hiện đại chịu ảnh hưởng rất lớn của dân ca Mông về mặt hình thức kết cấu. Lối kết cấu đối ngẫu, lặp lại nhiều lần những từ ngữ, hình ảnh, cấu trúc câu thơ kết hợp với sự phối âm các thanh điệu bằng trắc làm cho thơ Mông hiện đại có những giai điệu rất gần với dân ca Mông: Em gầu Mông Nếu em nhớ dài, anh nhớ lâu Thì cho dù hang ra hoa, đá ra quả Cũng chẳng ai tách rời được hai ta đâu! Nếu em nhớ đầy, anh nhớ đủ Thì cho dù đá ra quả, hang ra hoa Cũng chẳng ai tách rời hai ta được! (Đợi chờ - Hùng đình Quí) Thậm chí, có những bài thơ Mông đọc lên chúng ta có cảm giác đã thấy rõ những giai điệu để có thể cất ngay lên tiếng hát: Trên vòm trời mây quang Dưới vòm trời trăng sáng Con chim hoạ mi nhảy nhót Con chim khướu đậu cành lan hót vang Qua hội xuân này kẻo mình đi nhà mình, ta trở về nhà ta thôi Đôi ta không còn tựa lưng nhau thổi đàn môi (Hội xuân - Mã A Lềnh) Thơ Mông giàu nhạc điệu, một phần là do âm hưởng của dân ca Mông quá sâu đậm chi phối từ cảm xúc đến kết cấu, từ hình ảnh đến nhịp điệu của từng câu thơ: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 83 Em là cô gái Mèo hoa Anh là chàng trai Tày trắng Trời có mắt trời cho ta thấy Đất có lòng, đất cho ta duyên Trời đất se duyên bên sườn núi (Tình ca ở Chu Lầu Thí - Giàng Xuân Hồ) Tuy nhiên, ảnh hưởng quá nhiều từ hình thức kết cấu của dân ca làm cho thơ Mông hiện đại không tránh khỏi sự lặp lại đến đơn điệu, đôi khi cũ kĩ, sáo mòn: “Con bướm vàng mặc váy hoa vàng/ Ngày ngày làm dáng /chạy loăng quăng bên rừng/ Con bướm mặc váy mới hoa lụa/ Ngày ngày làm dáng chạy nhênh nhang” (Giàng A Tủa), “Anh trai Mông/ Nước trong, trong vắt không vẩn đục/ Anh hãy đi rồi mau trở lại/ Nước trong, trong vắt không vẩn ngầu /Anh hãy đi rồi mau rồi trở về” (Hùng Đình Quí). Kết cấu đối ngẫu, trùng điệp làm cho thơ Mông trở nên dàn trải, thiếu sự cô đọng cần thiết. Đây cũng chính là một trong những hạn chế của những bài thơ chịu ảnh hưởng quá nặng nề của hình thức dân ca. Tuy nhiên, nó có vẻ lại là món ăn “hợp khẩu vị” của người Mông ở khả năng hành dụng hát không cần phổ nhạc. Vì thế mà những bài thơ của Hùng Đình Quí, Giàng A Páo trước nay vẫn được nhiều người Mông ưu thích. 3.3.2. Xu hướng hiện đại trong cấu trúc, nhịp điệu của thơ ca Mông thời kỳ hiện đại Bên cạnh xu hướng kết cấu thơ chịu ảnh hưởng của thơ ca truyền thống, thơ ca hiện đại Mông còn mang những đặc điểm của cấu trúc thơ ca hiện đại. Điều này thể hiện rất rõ trong việc dồn nén câu chữ, đặc biệt là cách gieo vần, ngắt nhịp trong các câu thơ, bài thơ. “Nếu so với dân ca dân tộc thiểu số thì thơ hiện đại dân tộc thiểu số đã có một bước nhảy vọt về nội dung tư tưởng và nghệ thuật thể hiện” [58;59]. Thơ Mông hiện đại cũng vậy, xu hướng thoát li Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 84 truyền thống trong hình thức thơ bộc lộ rất rõ. Trước hết, sự cô đọng thể hiện ở nhan đề các bài thơ. Nếu như giai đoạn trước năm 1975, thơ Mông thường chỉ có nội dung dàn trải, giọng điệu giãi bày, kể lể; tên các bài thường dài (chẳng hạn, các bài thơ “Mặt trời, mặt trăng và Bác Hồ” của Sùng Nhìa Tú; “Ánh đuốc trên đỉnh Vần Chải” của Hùng Đình Quí; “Chim Câu kỉ Giàng gọi mùa” của Giàng A Của, “Núi mọc trong mặt gương” của Mùa A Sấu …) thì thơ Mông sau 1975 thiên về những bài thơ ngắn với cách đặt tiêu đề cũng rất cô đọng, chắt lọc. Tập “Mã A Lềnh thơ” (2002) gồm 42 bài thơ, trong đó, xuất hiện tới 22 bài thơ nhan đề chỉ có từ một đến hai chữ. Bài thơ có tiêu đề dài nhất cũng chỉ có bốn chữ. đặc biệt xuất hiện những bài thơ tứ tuyệt mà gần như chưa bao giờ xuất hiện trong thơ Mông trước đây. Thậm chí có những bài thơ nhỏ chỉ có hai câu (“Nhà văn”, “Thực tế”, “Văn”, “Thơ”, “Truyện ngắn”, “Trường ca” - gần như là những định nghĩa riêng, độc đáo trong “chùm thơ đạo nghiệp” của Mã A Lềnh). Thể loại lục bát là một hình thức kết cấu gần như độc quyền phổ biến của thơ ca dân tộc Kinh, đã được sử dụng khá thành công trong thơ của các dân tộc thiểu số khác từ sau cách mạng tháng Tám, cũng đã xuất hiện trong thơ hiện đại của dân tộc Mông một cách khá nhuần nhuyễn: Lương hưu đầu tháng lĩnh rồi Đưa em nguyên vẹn. Em cười cất đi (Hưu - Mã A Lềnh) Thậm chí, có những bài thơ mà cấu trúc thể loại lục bát đã được cách điệu, tạo nên cách ngắt nhịp mang dấu ấn nghệ thuật khá rõ: Tuyết buông nhoà trắng góc trời Sương sa trên má một người Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 85 vợi xa Cánh chim chấp chới chiều tà Thinh không lá rụng vỡ oà hoàng hôn (Chiều xưa - Mã A Lềnh) Cách ngắt nhịp theo kiểu chẻ nhỏ các câu thơ, “đánh rơi” từng con chữ hay lối thơ bậc thang từng xuất hiện trong thơ của Nguyễn Vĩ trong phong trào thơ mới mà theo các nhà nghiên cứu phê bình, chịu ảnh hưởng rõ rệt của thơ Maiacopxki trước đây cũng được các tác giả người Mông như Mã A Lềnh, Mã Ngân Hà sử dụng, cũng không thể nói là không được những hiệu quả nghệ thuật nhất định: Đường con đi phía trước bắt đầu từ CHA (Cha - Mã Ngân Hà) Có giọt đau nào trót sa nơi ngực rồi phải không cha? (Với cha - Mã A Lềnh) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 86 Thậm chí, thơ văn xuôi là một biến thể đặc biệt của thơ trữ tình cũng đã được các nhà thơ Mông sử dụng với sự bộc lộ, tuôn chảy mãnh liệt của cảm xúc: “Tôi chợt vô ý nước mắt chan ra say đắm lang thang một mình đứng xem các bạn Chăm say sưa với điệu dân ca dân vũ suốt ngàn năm sương rừng gió núi và hoàn thiện qua bấy nhiêu năm ánh sáng cách mạng soi đường” (Từ Vân Hồ ‟86 - Mã A Lềnh). Có thể nói, các nhà thơ hiện đại dân tộc Mông đang kiên tâm bền bỉ trên hành trình đổi mới cho thơ, với những mong ước rất đáng trân trọng là để thơ dân tộc Mông tạo nên một nguồn mạch mới, bắt nhịp và chan hoà vào dòng chảy chung của thơ ca hiện đại các dân tộc thiểu số nói riêng và thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung. 3.4. Tƣ duy, diễn đạt trong thơ Mông thời kỳ hiện đại 3.4.1. Tư duy trực quan hình ảnh Tư duy trực quan hình ảnh là đặc điểm chung của người miền núi, đúng hơn là đặc điểm chung của người dân tộc thiểu số. Đó là sự tự biểu hiện của khả năng nhận thức và biểu đạt của cá nhân trước một vấn đề trừu tượng đòi hỏi phải diẽn đạt bằng ngôn ngữ với mục đích để người đọc, người nghe dễ dàng tiếp nhận. Thơ dân tộc thiểu số nói chung và thơ dân tộc Mông nói riêng, rất giàu hình ảnh. Tư duy hình ảnh tạo nên sự phong phú độc đáo cho hình tượng thơ. Lựa chọn những hình ảnh có khả năng diễn tả chính xác nội dung cần biểu hiện làm cho những câu thơ, bài thơ trở nên sinh động và có tính biểu cảm cao, gây được ấn tượng mạnh mẽ với người đọc. Chẳng hạn, để miêu tả cái nắng nóng gay gắt đến khắc nghiệt của những ngày hè, nhà thơ Nông Quốc Chấn có những câu thơ đầy hình ảnh: “Mặt trời như bốc lửa/ Nắng vỡ ống bương/Bụi mù trên nương/Ngoài ruộng nhe nanh, chim cu đánh sảng… (Thần nông). Nhà thơ La Quán Miên (dân tộc Thái) có cách nói rất hình ảnh khi kể về giặc Mỹ ném bom bắn phá quê hương: “Cái máy bay Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 87 thằng Mỹ/Ném bom xuống bom to như cái chum/Bản nhà sàn của ta ăn lửa” (Tiễn dặn người trai bản). Cách tư duy của người miền núi làm cho tất cả mọi sự vật hiện tượng đều có cuộc sống riêng có suy nghĩ và hành động như con người: “Núi già, núi có râu đầy cằm/Núi có máu, có xương núi sống” (Núi - Lương Quy Nhân). Trong thơ Mông hiện đại, cách tư duy trực quan hình ảnh cũng thể hiện rất rõ. Diễn tả không khí lao động khẩn trương cho kịp mùa vụ, Giàng A Của dùng hình ảnh “đưa hết cánh tay ra đồng ruộng”. Khuyên mọi người có ý thức bảo vệ rừng, Sùng A Trống chỉ ra tác hại của việc tàn phá rừng đầu nguồn: “Ta đem rừng triệt hại/Có ngày cuộc sống của ta/Như là con mương ruộng đã vỡ/Còn trơ lại cái rãnh khô”. Hùng Đình Quí ca ngợi cuộc sống hạnh phúc một vợ một chồng, lên án hủ tục lấy vợ lẽ, ông khuyên những người Mông không nên “tranh đục cũ người dùng”, “cướp dao mẻ người liếc”. Tư duy trực quan hình ảnh tạo cho thơ Mông có sức khái quát cao hơn, gần với nếp cảm, nếp nghĩ, với cách diễn đạt trong ngôn ngữ hàng ngày của người Mông. 3.4.2. Tư duy, diễn đạt mang đậm bản sắc dân tộc Mông Mặc dù cách tư duy diễn đạt bằng hình ảnh không phải là cách biểu hiện mang tính đặc thù trong ngôn ngữ thơ ca của bất cứ dân tộc nào, nhưng sắc thái để khu biệt tính đặc trưng trong thơ của từng dân tộc lại rất rõ. Nó được biểu hiện bằng cách sử dụng những hình ảnh gần gũi quen thuộc với cuộc sống của từng vùng, từng dân tộc, thậm chí cả đặc điểm tâm lí và cá tính của dân tộc cũng phần nào được bộc lộ qua những hình ảnh đó. Chẳng hạn, những hình ảnh so sánh ví von với “cá” thường được sử dụng như một đặc trưng trong thơ của các dân tộc Mường, Thái do đặc trưng sinh sống ở ven các con sông và việc canh tác lúa nước. Vậy nên, trong thơ Thái hiện đại mới hay xuất hiện những hình ảnh so sánh như: “Cổ tay em tròn đuôi cá” (Sầm Nga Di), “Bàn chân xinh xắn như đuôi cá xoè” (Lương Quy Nhân). Chính từ phong tục Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 88 tập quán “ăn theo nước” nên người Thái mới có sự gắn bó máu thịt với ruộng đồng, sông suối. Các câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao của người Thái nói nhiều đến hình ảnh cá như: “Quí thóc - thóc về. Quí cá - cá lên” hay “Được nắm xôi ngon chớ quên ruộng/Được khúc cá bùi chớ quên suối”. Trong tập hợp những hình ảnh được diễn đạt, biểu hiện theo tư duy của người Mông, dường như chưa một lần có những sự so sánh ví von liên quan đến cá. Tuy nhiên, lại xuất hiện với một mật độ khá lớn các hình ảnh đặc trưng của người Mông: Nếu là hoa thì đó là phong lan, hoa mận, hoa đào …, nếu là chim thì đó là hoạ mi, chim ri, chim khướu …, nếu là cây thì đó là cây ngô, cây lanh v.v… Không chỉ hình ảnh mà cách diễn đạt hình ảnh trong thơ Mông cũng rất độc đáo và giàu bản sắc. Chẳng hạn, nói về tác hại của tệ nạn nghiện rượu và thuốc phiện, các nhà thơ Mông thường sử dụng cách diễn đạt rất hình ảnh và cũng rất độc đáo: “Người tài chui vào hũ”, “Người giỏi chui vào chai”. Những cơn đói thuốc vật vã làm cho con nghiện như “cầy điên chết bệnh”, “mèo dại chết nắng”, tài sản bị tiêu tan: “dưới nhà còn đất/trên gác chỉ còn bồ hóng” (Hùng Đình Quí), để rồi nhà thơ đưa ra những lời khuyên nhủ chân tình: “Chàng trai muốn áo bông lồng áo lụa/Hay để cái tẩu hơ ngọn đèn?” (Mùa A Lao), “Nay ta đem con đường hút thuốc phiện chặt phăng đi” (Giàng Sùng Tủa). Nhiều hình ảnh thơ là sản phẩm của lối tư duy trực quan mộc mạc đến hồn nhiên, chân thật đến ngộ nghĩnh. Lời người trai Mông lên đường đánh Mỹ thể hiện một ý chí cao, một quyết tâm sắt đá: “Chỉ có con cóc mới đi không hết đường/Trở về chết dưới bàn tay vợ”. Để rồi: “Đi gặp giặc Mỹ giữa đường/ Anh trai Mông đánh như sét đánh chó/Đi gặp giặc nguỵ giữa lối/Anh trai Mông đánh như sét đánh rắn”. Núi rừng, con người Việt Bắc thay da đổi thịt, tưng bừng trong cuộc sống mới “khác nào rắn xanh lột da”, “khác nào măng mai lột bẹ”. Người Mông vui vẻ, hạnh phúc “sống tưng bừng như một tổ ong mật”, con người trở nên những nhân cách đẹp: “Anh trai Mông tốt bạc/Em gái Mông tốt vàng”… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 89 Tư duy nghệ thuật của nhà thơ một phần là sản phẩm của đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc mà nhà thơ là người đại diện, một phần là do sự từng trải và vốn tri thức văn hoá mà nhà thơ do học hỏi, rèn luyện mà có được. Cũng như thơ ca của các dân tộc khác, thơ hiện đại dân tộc Mông có cách tư duy, diễn đạt in đậm dấu ấn văn hoá của dân tộc mình. Nhà thơ Chế Lan Viên nhận xét: “Thơ HMông có yếu tố của tình cảm, có yếu tố của bản năng. Nhưng thơ HMông cũng diễn tả suy nghĩ. Trong thơ HMông có yếu tố rất rõ của lí trí. Người HMông là người muốn biết rõ lí lẽ phải trái, nguyên nhân vì đâu” [77]. Một nét đặc trưng trong cách tư duy, diễn đạt của người Mông là cách nói bóng bẩy bằng những hình ảnh, hình tượng mang ý nghĩa triết lí và sự lí giải cặn kẽ để khẳng định đúng sai, khẳng định chân lí cuộc sống. Người Mông sống vui vẻ lạc quan là vậy nhưng cũng có lúc suy tư, cũng có lúc phải xót xa chiêm nghiệm về cuộc đời, nhất là cuộc đời trong xã hội cũ: “Đời người như bóng râm từ từ ngả bên đồi”, “Đời người như củ cải phơi nắng/Già cứ dần trẻ lại qua mau” (dân ca Mông). Cuộc sống khắc nghiệt qua những cuộc thiên di từ trong quá khứ đau thương của lịch sử dân tộc đã đúc kết cho người Mông một chân lí mới mẻ mà giản dị: “Ở đâu có bầu trời, đó là Tổ quốc”. Sự lựa chọn cuộc sống ở thế cheo leo trên những đỉnh núi là một sự lựa chọn cẩn trọng. Bởi chỉ ở đó, người Mông mới thật sự thanh thản, mới có cảm giác của sự bình yên, được che chở, nương tựa: “Chiếc nôi êm là tảng đá giữa non ngàn”. Những triết lý trong thơ dân tộc thiểu số nói chung, dân tộc Mông nói riêng “thường bằng những hình ảnh thấm thía, bắt người đọc phải suy tư và tự lý giải. Những triết lý thường không dễ dãi, không quen thuộc. Đó là những khám phá, sáng tạo của nhà thơ” [59; 18] Người Mông thật thà cả tin nhưng cũng rất tỉnh táo, nhìn nhận sự việc bằng lí trí. Đạo “Vàng Chứ” lan tràn trong các vùng của người Mông một Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 90 cách ồ ạt trước đây không phải chỉ có nguyên nhân từ niềm tin mù quáng mà một phần do thực tế khắc nghiệt của cuộc sống đặt ra: Môi trường thiên nhiên của người Mông đã bị tàn phá; đời sống kinh tế bấp bênh. Niềm tin đôi khi là cứu cánh cuối cùng của sự giải thoát. Không phải không có những người Mông nhận ra điều này: “ Người rước đạo về lừa ta/Là kẻ muốn ta hết giống/Người đem đạo về dối mình/Là kẻ muốn ta tiệt gốc”. Nhận ra những điểm yếu trong tính cách, tâm lí của dân tộc mình để cầu tiến bộ là một thái độ rất đáng trân trọng, khích lệ: “Người ta khen người ta sức khoẻ/Người Mông khen người Mông lợn béo” để rồi thực tế “Lợn béo không thấy/Chỉ thấy mê li chén rượu cồn/Lại còn toan tính theo đường Vàng Chứ luôn”. Sứ mạng vẻ vang của những nhà thơ Mông là đi tiên phong trong cuộc chiến chống hủ tục lạc hậu, các niềm tin mù quáng trong đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc mình. Nhà thơ người Mông giảng giải, phân tích cặn kẽ, chí lí chí tình để làm cho những người Mông nhẹ dạ, cả tin có nhận thức đúng: “Người ta lừa rằng/Theo Vàng Chứ không làm cũng có ăn/Thách các người cứ thử đợi?Nếu đúng như vậy/Tôi xin đi bằng đầu xuống đất!”. Một lẽ giản đơn, người Mông rất coi trọng tổ tiên ông bà vậy mà những người theo đạo “Vàng Chứ” đang tâm phá bỏ bàn thờ tổ tiên. Nhà thơ Mông khẳng định như một chân lí: “Người Mông nếu không còn tổ tiên ông bà/Dù cho còn sống tròn đôi mắt/Cũng chẳng khác chi con ngươi bị mù loà”. Để biểu đạt tư duy và bộc lộ suy nghĩ, tình cảm một cách chí lí chí tình, thơ Mông hiện đại sử dụng nhiều những thủ pháp nghệ thuật trong đó phổ biến hơn cả là các biện pháp so sánh, nhân hoá, ẩn dụ … Đó cũng chính là các thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của thơ ca. đặc trưng của thơ Mông nằm ở nội dung diễn đạt, biểu hiện của các thủ pháp nghệ thuật ấy. Khả năng diễn đạt bằng so sánh hình ảnh như là một nét tâm lí “thiên bẩm” của người miền núi nói chung. Trong thơ Mông hiện đại khả năng ấy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 91 được bộc lộ một cách đa dạng. đặc biệt là xu hướng sử dụng liên tiếp nhiều hình ảnh để biểu đạt sự so sánh. Chẳng hạn, để nói về cuộc sống bi thảm của người Mông trong xã hội cũ, nhà thơ Mông sử dụng hình ảnh “Như con ma không mẹ cha ăn của thừa”, “Như con ma mồ côi chăn trâu người”. Ca ngợi cuộc sống đổi mới, nhà thơ Mông sử dụng những hình ảnh liên tiếp “khác nào rắn xanh lột da”, “khác nào măng mai lột bẹ”. Các hình ảnh so sánh ví von trùng điệp này tạo cho vấn đề được biểu đạt vừa cụ thể hơn, vừa sâu sắc hơn. Bên cạnh đó, các thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ, nhân hoá cũng thường xuyên được sử dụng và sử dụng có hiệu quả trong thơ Mông hiện đại. Muốn nói lên nạn mù chữ, thất học là nguyên nhân của sự đói nghèo, thơ Mông dùng cách nói hình ảnh “cái miệng muốn ăn/Nhưng tay chẳng với tới”. Niềm vui hạnh phúc được thơ Mông diễn đạt bằng những hình ảnh mới lạ và độc đáo: “Bò đực biết đẻ con”, “đá nở hoa, hang sai quả”.v.v.. 3.5. Một số hạn chế về nghệ thuật của thơ Mông thời kỳ hiện đại Một đặc điểm đồng thời cũng là một hạn chế của thơ Mông hiện đại là nội dung các bài thơ, câu thơ thường là đơn giản, chỉ thể hiện được một lớp nghĩa. Nó phù hợp với tâm lí nhận thức và phản ánh chân thực và thẳng thắn của người Mông. Tuy nhiên, nó làm cho thơ Mông thiếu đi sự súc tích, tính đa nghĩa vốn là một tiêu chí cần thiết của thơ: “Thơ phải được ý ở ngoài lời. Trong thơ hàm súc vô cùng thì mới là tôn chỉ của người làm thơ. Cho nên ý thừa hơn lời thì tuy cạn mà vẫn sâu, lời thừa hơn ý thì tuy công phu và vẫn vụng” (Ngô Lôi Pháp) [4;54]. Thơ Mông hiện đại vẫn chỉ phù hợp với giọng điệu giãi bày, kể lể vốn đã rất quen thuộc trong thơ Mông truyền thống. Phương thức biểu đạt chủ yếu trong thơ Mông là phương thức tạo hình, lấy việc phản ánh hiện thực làm chính, thiếu đi sức gợi và sự lắng đọng cần thiết để người đọc phải suy ngẫm, chiêm nghiệm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 92 Về mặt nghệ thuật, thơ Mông hiện đại đã có được những ưu điểm nhất định. Đó là những thành công cần được ghi nhận. Trước hết, thơ Mông đã tạo ra được một giọng điệu riêng biệt, mang đặc trưng của thơ miền núi, gần gũi với thơ dân tộc thiểu số nói chung nhưng vẫn giữ lại cho mình những nét bản sắc riêng. Từ kết cấu các bài thơ, câu thơ, đến cách lựa chọn hình ảnh và cách diễn đạt có một ranh giới khu biệt, tuy không phải lúc nào cũng được phân định rõ ràng song vẫn có thể nhận ra. Thơ Mông hiện đại đã thể hiện được cách nghĩ, cách cảm của người miền núi, bằng lối tư duy trực quan hình ảnh, bằng cách diễn đạt đậm đặc chất dân tộc và miền núi. Điều quan trọng là những tác giả thơ người Mông đã biết lựa chọn, chắt lọc những hình ảnh, biểu tượng và ngôn ngữ quen thuộc với thiên nhiên, con người và cuộc sống của dân tộc mình. Trong thơ Mông hiện đại, có sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại. Điều đó được thể hiện qua việc tiếp thu, kế thừa những giá trị của thơ ca truyền thống và việc không ngừng tìm tòi, khám phá, sáng tạo, tích cực đổi mới cho thơ để bắt nhịp và hoà nhập với cuộc sống hiện đại. Những biểu hiện của các giá trị truyền thống và hiện đại tạo nên tính thống nhất, hài hoà cho thơ Mông. Ở đó tính truyền thống được bảo lưu, tính hiện đại được tiếp nhận, đây là yếu tố để thơ Mông hiện đại tồn tại như một cá tính riêng giàu bản sắc. Tuy nhiên, thơ Mông còn bộc lộ những hạn chế nhất định, khó tránh khỏi do đặc điểm tâm lí và khả năng, trình độ nhận thức của dân tộc cũng như của từng cá nhân mỗi nhà thơ. Đó là tính đơn giản, đơn nghĩa trong phản ánh hiện thực và diễn đạt thơ, sự lặp lại những yếu tố cả về nội dung, cả về hình thức nghệ thuật làm cho thơ Mông đôi khi trở nên cũ kĩ, sáo mòn. Thơ hiện đại Mông thiên về tả, kể nhiều hơn gợi, chưa đặt ra được và gợi lên những vấn đề lớn lao của hiện thực; thiếu tính khái quát tính đa nghĩa vốn rất cần Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 93 thiết của thơ hiện đại. Một số bài thơ còn gượng ép trong cách nghĩ, cách viết, bộc lộ những non kém cả về mặt nội dung biểu hiện và hình thức nghệ thuật. “Dân tộc thiểu số hay đa số, nhà văn đều bình đẳng trước nghệ thuật” (Cao Duy Sơn). Trên hành trình đến với những giá trị đích thực của thơ ca, các nhà thơ dân tộc Mông đã có những cố gắng không mệt mỏi bằng đam mê và sáng tạo để đưa thơ hiện đại dân tộc Mông lên một tầm cao mới, với một vị thế mới trong nền thơ các dân tộc thiểu số nói riêng và thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung, đưa tiếng nói thơ ca của người Mông chan hoà vào tiếng nói thơ ca của các dân tộc anh em khác. Trong nỗ lực đó, thơ Mông hiện đại thể hiện được những đặc trưng trong tư duy nghệ thuật, biểu hiện ở ngôn ngữ, hình ảnh thơ, ở cấu trúc thơ,ở cách tư duy và biểu đạt. Thơ Mông hiện đại là một thứ thơ chân mộc, giản dị. Ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh và nhạc điệu. Cấu trúc thơ vừa chịu ảnh hưởng của cấu trúc thơ ca truyền thống dân tộc Mông, vừa phát triển theo xu hướng cấu trúc mang tính nghệ thuật cao của thơ hiện đại. Lối tư duy biểu đạt vừa gần gũi với cách nghĩ, cách cảm, cách thể hiện của người dân tộc thiểu số, vừa bộc lộ rõ đặc trưng bản sắc của dân tộc Mông. Các nhà thơ Mông đã không ngừng sáng tạo, tự đổi mới cho thơ, làm cho thơ Mông ngày càng tiệm cận những chuẩn mực khắt khe về giá trị nghệ thuật của thơ ca đương đại. Mặc dù còn bộc lộ những hạn chế nhất định do những yếu tố khách quan và chủ quan chi phối khả năng nhận thức và sáng tạo nghệ thuật, thơ ca hiện đại Mông cũng đã bước đầu khắc hoạ được bức tranh thiên nhiên, con người và cuộc sống đa sắc và độc đáo của dân tộc Mông, khắc hoạ được diện mạo và bức chân dung tinh thần của dân tộc Mông - một dân tộc còn ẩn chứa bao điều kỳ diệu trong tâm hồn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 94 PHẦN KẾT LUẬN Trong nền thơ Việt Nam hiện đại, thơ ca Mông như một bông hoa nở muộn, nhưng cũng đã góp mặt và toả hương, một thứ hương độc đáo và quyến rũ giữa vườn hoa thơ ca muôn màu sắc của dân tộc. Dân tộc Mông với chiều dài lịch sử khởi đầu bằng một “Vương quốc Miêu”, trải qua những cuộc thiên di đầy nước mắt và máu trước khi đến Việt Nam, cùng với điều kiện sống khắc nghiệt đã sản sinh ra một nền văn hoá Mông rất độc đáo, mang đậm dấu ấn miền núi cao. Thơ ca dân gian Mông là kho tàng văn hoá đặc sắc phản ánh chân thực và sinh động cuộc sống của dân tộc Mông, tồn tại như một món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống của đồng bào. Đó vừa là cơ sở, vừa là một trong những yếu tố quyết định cho sự hình thành và phát triển của thơ ca hiện đại Mông. Thơ ca hiện đại dân tộc Mông xuất hiện muộn hơn so với thơ ca hiện đại của một số dân tộc thiểu số anh em khác như Tày, Thái, Mường, Chăm… nhưng cũng đã đạt được một số thành tựu nhất định. Trước hết, thơ Mông hiện đại đã khắc hoạ được một cách khá sâu sắc và toàn diện bức tranh thiên nhiên vừa khắc nghiệt dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình của dân tộc Mông. Thiên nhiên - hoàn cảnh sống của người Mông mang những nét đặc trưng: Đó là chót vót những đỉnh núi cao hùng vĩ và hoang sơ, khí hậu khắc nghiệt, thiếu nước, thậm chí có nơi còn hiếm hoi cả đất. Bù lại, thiên nhiên trên núi cao của người Mông cũng không thiếu sự thơ mộng đến lãng mạn: vẻ trầm tĩnh thâm u của đá, vẻ rực rỡ muôn sắc màu của hoa lá, cỏ cây; vẻ sinh động đến náo nhiệt của chim muông. Ở đó, người Mông sống dường như vừa lệ thuộc vào hoàn cảnh, vừa tìm mọi cách để chế ngự hoàn cảnh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95 Hình ảnh con người và cuộc sống trong thơ ca hiện đại Mông hiện lên với những dáng vẻ độc đáo và đặc sắc. Đó là những con người đầy bản lĩnh và cá tính: Vừa chân thật giản dị, vừa mạnh mẽ quyết liệt; chân thật đến hồn nhiên, mạnh mẽ đến táo bạo, dũng cảm đến liều lĩnh, phóng túng đến ngang tàng, cốt cách như dao chém đá, ý chí như những ngọn núi cao. Khi yêu, yêu đến nồng nàn đam mê, khi ghét, ghét đến tận cùng xương tuỷ. Cuộc sống của người Mông trong xã hội cũ thường xuyên du canh du cư như những thử thách khắc nghiệt của số phận. Cuộc sống đó đã thay da đổi thịt từ khi có Đảng, có Cách mạng. Người Mông được “ăn bền nơi, ở bền nơi” để mà “trồng chè đầy núi, trồng rừng xanh rờn”… Đời sống văn hoá tinh thần của người Mông cũng đã bước đầu được phản ánh trong thơ ca hiện đại Mông với sự thi vị vốn có của nó. Những phong tục tập quán, những lễ hội “gầu xống”, “gầu tào”, những cuộc hát “gầu plềnh”, những sinh hoạt „văn hoá chợ”…là những nét đặc trưng mang đậm bản sắc dân tộc Mông. Hình ảnh những chàng trai Mông ngây ngất trong men tình men rượu với những điệu múa khèn nghiêng ngả đất trời; những cô gái Mông tươi tắn trong những bộ váy áo thổ cẩm như những bông hoa rực rỡ đắm say hương sắc núi rừng, tình tứ và đam mê trong những giaii điệu réo rắt, véo von của tiếng đàn môi, kèn lá; những cụ già cởi mở tâm tình bên nồi “thắng cố"... là bức tranh sinh động về cuộc sống của người Mông. Bên cạnh đó, những hủ tục lạc hậu đôi khi còn rơi rớt lại là hệ luỵ của đói nghèo và niềm tin ngây thơ cũng đã được các tác giả Mông phản ánh trong thơ ca với một thái độ gay gắt, quyết liệt, đồng thời như một sự cảnh tỉnh cho đồng bào mình, dân tộc mình biết đi đúng con đường thoát khỏi đói nghèo, tăm tối. Thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại tương đối phong phú về nội dung và cũng khá đặc sắc về nghệ thuật. Cách sử dụng những từ ngữ, hình Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96 ảnh chân mộc, giản dị; sự tiếp thu và vận dụng sáng tạo ngôn ngữ, hình ảnh của thơ ca truyền thống cùng với xu hướng tìm tòi, khám phá, thể nghiệm, cách tân trong tư duy và biểu hiện, tạo cho thơ Mông vừa mang đậm cốt cách truyền thống, vừa có được những đặc trưng nghệ thuật của thơ hiện đại, tiệm cận và bước đầu bắt nhịp, chan hoà vào dòng chảy chung của đời sống thơ ca đương đại. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thơ ca Mông thời kỳ hiện đại cũng có một số những hạn chế nhất định: Đó là đội ngũ sáng tác còn mỏng và không đồng đều; nội dung phản ánh còn chưa thật sự phong phú và toàn diện; những phong tục tập quán, đời sống tinh thần, đời sống tâm linh... của dân tộc Mông chưa được chuyển tải vào thơ ca như sự phong phú và thi vị vốn có của nó. những sinh hoạt cộng đồng mang đậm nét bản sắc dân tộc chưa được các nhà thơ quan tâm đề cập đúng mức. Mặt khác, tư duy nghệ thuật trong thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại còn chịu ảnh hưởng nặng nề của thơ ca truyền thống; chưa định hình được phong cách, cá tính của các nhà thơ một cách rõ rệt; chưa có được những tác phẩm thật sự có giá trị đối với thơ ca dân tộc thiểu số nói riêng cũng như thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung. Từ việc nêu ra những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại, chúng tôi mạnh dạn đưa ra ý kiến, kiến nghị của cá nhân về việc giữ gìn và phát huy các giá trị của thơ ca Mông nói riêng và bản sắc văn hoá Mông nói chung. Đó là: Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập Quốc tế đang diễn ra với một nhịp độ ngày càng nhanh, chi phối và làm biến đổi ngày càng lớn đời sống vật chất và tinh thần của tất cả các dân tộc. Hiện tượng giao thoa văn hoá, “xâm lăng” văn hoá ngày càng phổ biến cả về chiều sâu và bề rộng. Trong bối cảnh đó, việc phản ánh kịp thời những biến động trong đời Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97 sống vật chất, tinh thần của người Mông là một thách thức lớn đối với những nhà thơ Mông. Thơ Mông hiện đại khó có thể biểu hiện được những vấn đề lớn lao của cuộc sống đặt ra, càng không thể là công cụ để chuyển tải tư tưởng, tình cảm của đồng bào dân tộc Mông. Tiếng nói chung của cả dân tộc đang ngày càng bị mờ nhoè trong tiếng nói riêng của cá nhân mỗi nhà thơ. Vấn đề đặt ra đối với thơ dân tộc Mông hiện nay là vừa phải bắt nhịp được với đời sống thơ ca đương đại, có những sáng tác có giá trị so với mặt bằng thơ ca chung của cả nước, vừa phải giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống mang tính bản sắc của dân tộc Mông, tức là phải có được (hay đạt tới) một thứ thơ vừa truyền thống vừa hiện đại. Trước tiên, nó phải thật sự là hoa trong vườn hoa thơ ca của các dân tộc Việt Nam nhưng đồng thời phải là một thứ hoa lạ, độc đáo về màu sắc và hương thơm. Tuy nhiên, xu hướng tiếp thu cái mới, biểu hiện cái mới trong tư duy nghệ thuật của các tác giả Mông lại gắn liền với việc thoát ly những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, làm cho thơ Mông hiện đại có xu hướng “Kinh hoá” trong lối tư duy và biểu đạt. Để khắc phục tình trạng này, theo chúng tôi, trước hết phải có những chính sách và biện pháp nhằm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ tác giả thơ người Mông, nhất là giới trẻ. Quan tâm phát hiện những học sinh người Mông có năng khiếu để bồi dưỡng. Bên cạnh đó, các Hội Văn học Nghệ thuật Trung ương và Địa phương cần tăng cường tổ chức các đợt tham quan, học tập, giao lưu văn học nghệ thuật, mở các trại sáng tác cho những văn nghệ sĩ người Mông, khuyến khích các tác giả người Mông cũng như các tác giả dân tộc khác viết về cuộc sống của người Mông. Xuất bản và phổ biến các sáng tác văn học nghệ thuật, sáng tác thơ ca của các tác giả Mông nhằm tạo điều kiện cho thơ ca Mông đến được với độc giả cả nước. Ngoài ra, vấn đề quan trọng là phải Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98 cải tạo, khôi phục và thiết lập môi trường sinh hoạt, diễn xướng nhằm bảo lưu các giá trị văn hoá, văn học dân gian vốn rất phong phú và độc đáo của người Mông. Việc giữ gìn và phát triển triển tiếng nói và chữ viết của dân tộc Mông cũng là những vấn đề can hệ đến sự phát triển của văn hoá Mông nói chung, của văn học Mông và thơ ca Mông nói riêng. Việc nghiên cứu thơ ca dân tộc Mông (bao gồm cả thơ ca dân gian và thơ ca hiện đại) dưới góc độ văn hoá thông qua việc khảo sát những mô típ, những biểu tượng ngôn ngữ cũng là những vấn đề hết sức lý thú đòi hỏi một hướng tiếp cận, nghiên cứu qui mô và nghiêm túc. Bởi đó cũng chính là một trong những yếu tố mang tính bản sắc riêng của dân tộc Mông mà chúng ta cần gìn giữ và phát triển. Vấn đề đó đang đặt ra và chờ đợi giải quyết trong những nghiên cứu tiếp sau. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoàng Văn An (2007), Nét đẹp văn hoá trong thơ văn và ngôn ngữ dân tộc, Nxb Hội Nhà văn. 2. Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (2007), Nhà văn Việt Nam hiện đại, Hội nhà văn Việt Nam. 3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Tài liệu tập huấn giáo viên dạy tiếng Mông cho cán bộ công chức công tác ở vùng dân tộc Mông 4. Nguyễn Phan Cảnh (2006), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn học 5. Nông Quốc Chấn (1998), Tuyển tập văn học dân tộc & miền núi, Nxb Giáo dục 6. Nông Quốc Chấn (1995), Văn học các dân tộc thiểu số Việt nam, Nxb Văn hoá dân tộc 7. Nguyễn Văn Chỉnh chủ biên (1996), Từ điển Việt - Mông, Nxb Văn hoá dân tộc 8. Đại học Thái Nguyên - Trường đại học Sư phạm (2005), Kỷ yếu hội thảo khoa học, Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, văn hoá dân tộc Mông, Hà Giang. 9. Đại học Thái Nguyên - Trường đại học Sư phạm (2005), Kỷ yếu hội thảo khoa học, Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, văn hoá dân tộc Cao Lan, Mông, Tuyên Quang. 10. Nguyễn Tấn Đắc (2005), Văn hoá Đông Nam Á, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh 11. Nguyễn Anh Đào (2007), Chàng trai Mông họ Mã và xứ sở Mường Tiên, Tạp chí Văn hoá các dân tộc, số 11 12. Gia Dũng biên soạn (2000), Tuyển tập thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Văn hoá dân tộc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100 13. Nguyễn Đăng Duy (2002), Văn hoá học Việt Nam, Nxb Văn hoá thông tin 14. Trần Trí Dõi (1999), Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 15. Giàng Seo Gà (2004), Tang ca (Kruôz cê) của người Mông Sa Pa, Nxb Văn hoá dân tộc 16. Lê Sĩ Giáo chủ biên (2005), Dân tộc học đại cương, Nxb Giáo dục 17. Hùng Thị Hà (2003) Thơ ca dân gian HMông, Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Trường Đại học 18. Nguyễn Văn Hiệu (2005), Dân tộc Mông ở Việt Nam, HMông- mienstudy.net 19. Lê Như Hoa chủ biên, Văn hoá ứng xử các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin. 20. Lưu Kim Hoa (2007), Giữ gìn, pháy huy bản sắc Văn hoá dân tộc, cùng nhau phấn đấu và phát triển, Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam (số11) 21. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1996), Văn hoá dân tộc trong quá trình mở cửa ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia 22. Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (1999), Văn học các dân tộc - Từ một diễn đàn, Nxb Văn hoá Dân tộc 23. Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (2003), Nhà văn các dân tộc thiểu số - Đời và Văn, Nxb Văn hoá Dân tộc 24. Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Lào Cai (1997), Thơ Lào Cai 1991 - 1995 25. Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (2007), Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số thời kỳ đổi mới, Nxb Văn hoá Dân tộc. 26. Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (2007), Từ Đại hội đến Đại hội Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 101 27. Đỗ Huy (2002), Cơ sở triết học của Văn hoá Nghệ thuật Việt Nam, Viện Văn hoá, Nxb Văn hoá - Thông tin. 28. Nguyễn Chí Huyên, Hùng Hoa Toàn, Lương Văn Bảo, Nguồn gốc lịch sử tộc người vùng biên giới phía Bắc Việt Nam, Nxb Khoa học - Xã hội 29. Đỗ Thị Thu Huyền (2008), Thơ ca Tày hiện đại qua một số gương mặt tiêu biểu, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (số 5) 30. Hà Lâm Kỳ (2007), Minh Khương và tác phẩm sưu tầm, dịch nghiên cứu văn hoá Mông, Hội Văn học nghệ thuật Yên Bái. 31. Hùng Đại Kỳ (2006), Cây khèn trong đời sống ở bản làng HMông, Tạp chí Dân tộc và thời đại, số 88 32. Mã A Lềnh (2002), Mã A Lềnh thơ, Nxb Văn hoá dân tộc 33. Mã A Lềnh (1999), Tần ngần trước văn chương, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Lào Cai 34. Mã A Lềnh (1995), Bên Suối Nậm Mơ, Nxb Văn hoá Dân tộc 35. Đinh Liên (2002), Phương ngôn tục ngữ Thái - Kinh nghiệm sống của người miền núi, Tạp chí Văn hoá dân tộc (số 3) 36. Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lược giới thiệu nhóm dân tộc Tày - Nùng - Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học - Xã hội 37. Nguyễn Văn Lộc chủ biên (2006), Báo cáo tổng hợp nghiên cứu bảo tồn và phát triển ngôn ngữ văn hoá một số dân tộc thiểu số ở Việt Bắc, Đề tài độc lập cấp Nhà nước, Mã số ĐTĐL - 2004/27 38. Đỗ Đức Lợi (2002), Tập tục chu kì đời người của các tộc người, ngôn ngữ Mông - Dao ở Việt Nam, Nxb Văn hoá Dân tộc 39. Trường Lưu, Hùng Đình Quí (1998), Người Mông ở Hà Giang, Sở Văn hoá thông tin Hà Giang Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 102 40. La Quán Miên (1999), Con đường bản Đôn, Nxb Nghệ An 41. Nhiều tác giả (1996), Văn hoá truyền thống dân tộc Tày, Nùng, Nxb Văn hoá Dân tộc 42. Ma Trường Nguyên (2007), Bắc cầu vồng thăm nhau, Nxb Hội Nhà văn 43. Ma Trường Nguyên (2006), Vài ý nghĩ tản mạn về thơ và bản sắc dân tộc trong thơ, Báo Văn nghệ Thái Nguyên (số 22) 44. Vi Hồng Nhân (2004), Văn hoá các dân tộc- Từ một góc nhìn. Nxb Văn hoá Dân tộc 45. Võ Quang Nhơn (1983), Văn hoá các dân tộc ít người ở Việt Nam. Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp 46. Lò Cao Nhum (1996), Rượu núi. Nxb Văn hoá Dân tộc 47. Phạm Hồng Quang (2002), Giáo dục bản sắc văn hoá dân tộc cho sinh viên sư phạm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 48. Hùng Đình Quý (1993), Người Mông nhớ Bác Hồ, Nxb Văn hoá dân tộc. 49. Hùng Đình Quý (1994), Văn hoá truyền thống các dân tộc ở Hà Giang, Sở Văn hoá thông tin Hà Giang 50. Hùng Đình Quý (2001), Dân ca Mông Hà Giang (Tập 1), Sở Văn hoá thông tin Hà Giang 51. Hùng Đình Quý (2002), Dân ca Mông Hà Giang (Tập 2), Sở Văn hoá thông tin Hà Giang 52. Hùng Đình Quý (2003), Dân ca Mông Hà Giang (Tập 3), Sở Văn hoá thông tin Hà Giang 53. Hùng Đình Quý (1998), Chỉ vì quá yêu, Nxb Văn hoá dân tộc 54. Hoàng Quyết, Tuấn Dũng (1994), Văn hoá truyền thống các dân tộc ở Việt Bắc, Nxb Văn hoá dân tộc. 55. Đặng Đức Siêu (2003), Nhà văn hoá cổ truyền phương Đông, Nxb Giáo dục. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 103 56. Trần Hữu Sơn (2005), Xây dựng đời sống văn hoá ở vùng cao, Nxb Văn hoá dân tộc. 57. Trần Hữu Sơn (1996), Văn hoá HMông, Nxb Văn hoá dân tộc 58. Lò Ngân Sủn (2002), Vấn đề đặt ra với các nhà thơ dân tộc thiểu số (Hoa văn thổ cẩm tập 3), Nxb văn hoá dân tộc. 59. Hà Công Tài, Nguyễn Thị Thanh Lưu, Đỗ Thị Thu Huyền (2007), Thơ dân tộc ít người giai đoạn 10 năm cuối thế kỷ XX - Truyền thống và hiện đại, đề tài cấp Viện 2007, Viện Văn học Hà Nội 60. Vũ Minh Tâm (2004), Bản sắc văn hoá dân tộc- Một cách tiếp cận, Tạp chí Dân tộc và Thời đại (số 47) 61. Nguyễn Năng Tân chủ biên (1996), HMôngz ntơưn, Nxb Giáo dục 62. Lê Ngọc Thắng, Lê Bá Nam (1994), Bản sắc văn hoá các dân tộc ở Việt nam, Nxb Văn hoá dân tộc 63. Doãn Thanh (1984), Dân ca HMông, Nxb Văn học 64. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục 65. Dương Thuấn (2000), Nét mới của văn học dân tộc và miền núi, Tạp chí Văn hoá các dân tộc (số 7). 66. Lâm Tiến (1995), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, Nxb Văn hoá dân tộc. 67. Lâm Tiến (2007), Mấy suy nghĩ về lí luận phê bình văn học các dân tộc thiểu số, Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 155. 68. Lâm Tiến (1999), Về một mảng văn học dân tộc, Nxb Văn hoá dân tộc 69. Lâm Tiến (2002), Văn học và miền núi, Nxb Văn hoá dân tộc 70. Lâm Tiến (2007), Mấy suy nghĩ về lí luận phê bình Văn học các dân tộc thiểu số, Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam (số135) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104 71. Vũ Thị Vân, Trần Thị Việt Trung (2007), Nghiên cứu một số đặc điểm riêng của thơ ca dân tộc Thái thời kì hiện đại, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Thái Nguyên, số 43. 72. Triệu Kim Văn (2002), Bản sắc dân tộc - nỗi lo của người cầm bút, Tạp chí Văn hoá các dân tộc. 73. Triệu Kim Văn (1999), Lá tìm nhau, Nxb 74. Triệu Kim Văn (2002), Lửa của mồ côi, Nxb 75. Triệu Kim Văn (1994), Mùa sa nhân, Nxb 76. Cư Hoà Vần, Hoàng Nam (1994), Dân tộc Mông ở Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc. 77. Chế Lan Viên (1984), Tâm hồn và tiếng hát HMông, Lời giới thiệu cuốn „Dân ca Mông”, Nxb Văn học 78. Viện Thông tin khoa học xã hội (2002), Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam từ những năm 90, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLV_08_SP_VH_NKT.pdf