Luận văn Một số đặc điểm dịch tễ, vai trò của giun đũa neoascaris vitulorum trong hội chứng tiêu chảy bê, nghé dưới 3 tháng tuổi ở tỉnh Tuyên Quang và biện pháp điều trị

"MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ, VAI TRÒ CỦA GIUN ĐŨA NEOASCARIS VITULORUM TRONG HỘI CHỨNG TIÊU CHẢY BÊ, NGHÉ DưỚI 3 THÁNG TUỔI Ở TỈNH TUYÊN QUANG VÀ BIỆN PHÁP ĐIỀU TRỊ" LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP ĐẶT VẤN ĐỀ Những năm gần đây, ngành chăn nuôi đã được Nhà nước và nhân dân đầu tư phát triển, nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội về sản lượng và chất lượng thực phẩm cao. Một số địa phương đã tập trung phát triển đàn bò sữa, đặc biệt là đàn trâu bò thịt để đáp ứng nhu cầu về thực phẩm, góp phần nâng cao đời sống xã hội. Trong ngành chăn nuôi, chăn nuôi trâu bò nói riêng và chăn nuôi gia súc nhai lại nói chung có một ưu thế đáng chú ý là thức ăn chăn nuôi chủ yếu là cỏ và phế phụ phẩm nông nghiệp, song lại có khả năng cung cấp một lượng lớn thực phẩm có giá trị cho người tiêu dùng. Ngoài ra, chăn nuôi trâu bò đã góp phần cơ bản giải quyết sức cày kéo cũng như bổ sung một lượng phân bón hữu cơ đáng kể cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là ở các tỉnh miền núi. Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc còn rất khó khăn về điều kiện kinh tế, điều kiện địa hình phức tạp không thể áp dụng cơ giới hoá ở nhiều địa phương, vì vậy, con trâu vẫn được coi là “đầu cơ nghiệp”. Tuy nhiên, vấn đề dịch bệnh, trong đó có hội chứng tiêu chảy vẫn xẩy ra phổ biến, gây trở ngại lớn cho ngành chăn nuôi nói chung và chăn nuôi trâu bò nói riêng. Tiêu chảy thấy ở mọi lứa tuổi, nhưng ra nhiều nhất vẫn là ở bê nghé từ sơ sinh đến ba tháng tuổi. Theo Lê Minh Trí (1995), ở bê nghé có đến 70-80% tổn thất nằm trong thời kỳ bú sữa mẹ và 80-90% trong số đó là hậu quả của bệnh tiêu chảy gây ra. Tiêu chảy có thể do nhiều nguyên nhân gây ra: do khí hậu thời tiết thay đổi đột ngột, do thức ăn kém phẩm chất, do điều kiện vệ sinh chuồng trại kém, do các bệnh nội khoa, do bệnh truyền nhiễm và bệnh ký sinh trùng vv .Nhiều kết quả nghiên cứu về hội chứng tiêu chảy cho thấy: dù bất kỳ nguyên nhân nào gây ra viêm nhiễm, tổn thương niêm mạc đường tiêu hoá cũng dẫn đến rối loạn tiêu hoá và tiêu chảy (Hồ Văn Nam và cs, 1997 [25]). Đã có nhiều công trình nghiên cứu về nguyên nhân gây tiêu chảy cho bê nghé, phần lớn các tác giả tập trung vào tìm hiểu nguyên nhân gây tiêu chảy ở giai đoạn bú sữa mẹ. Trong các nguyên nhân trên, ký sinh trùng đường tiêu hoá, đặc biệt là giun đũa Neoascaris vitulorum có vai trò quan trọng đối với bê nghé dưới 3 tháng tuổi, bởi vì ngoài việc gây tiêu chảy, ký sinh trùng này còn là nguyên nhân mở đường cho các mầm bệnh khác xâm nhập. Bệnh ký sinh trùng không gây thành dịch ổ dịch lớn như các bệnh do vi khuẩn và vi rút khác, nhưng thường kéo dài âm ỉ, làm giảm năng xuất chăn nuôi, ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng và phát triển của gia súc. Theo Trịnh Văn Thịnh (1982) [38], tiêu chảy xảy ra quanh năm, trong đó tiêu chảy do giun đũa Neoascaris vitulorum chiếm tỷ lệ cao trong tổng số bê nghé sinh ra và tỷ lệ chết tới 38,97% trong tổng số bê nghé bị bệnh. Là một cán bộ của Chi cục Thú y tỉnh Tuyên Quang, trực tiếp theo dõi tình hình dịch bệnh trên đàn bê nghé, chúng tôi thấy hội chứng tiêu chảy khá phổ biến, gây nhiều thiệt hại cho người chăn nuôi, đặc biệt đối với bê nghé giai đoạn dưới 3 tháng tuổi. Xuất phát từ thực tiễn chăn nuôi trâu bò sinh sản ở tỉnh Tuyên Quang, chúng tôi đã nghiên cứu đề tài: “Một số đặc điểm dịch tễ, vai trò của giun đũa Neoascaris vitulorum trong hội chứng tiêu chảy của bê nghé dưới 3 tháng tuổi ở tỉnh Tuyên Quang và biện pháp điều trị”. Với mục đích: - Xác định một số đặc điểm dịch tễ hội chứng tiêu chảy ở bê nghé dưới 3 tháng tuổi tại Tuyên Quang. - Xác định vai trò của giun đũa Neoascaris vitulorum trong hội chứng tiêu chảy ở bê nghé. - Đề xuất biện pháp điều trị tiêu chảy ở bê nghé có hiệu quả cao.

pdf106 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2091 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số đặc điểm dịch tễ, vai trò của giun đũa neoascaris vitulorum trong hội chứng tiêu chảy bê, nghé dưới 3 tháng tuổi ở tỉnh Tuyên Quang và biện pháp điều trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. TX Tuyên Quang 78 47 60,26 19 24,3 6 12 15,3 8 - Bình thường 52 41 78,85 11 21,1 5 0 0,00 - Tiêu chảy 26 6 23,08 8 30,7 7 12 46,1 5 2. Yên Sơn 108 62 57,41 29 26,8 5 17 15,7 4 - Bình thường 76 57 75,00 19 25,0 0 0 0,00 - Tiêu chảy 32 5 15,63 10 31,2 5 17 53,1 3 3. Hàm Yên 112 53 47,32 36 32,1 4 23 20,5 3 - Bình thường 71 50 70,42 21 29,5 7 0 0,00 - Tiêu chảy 41 3 7,32 15 36,5 9 23 56,1 0 Tính chung 298 162 54,36 84 28,1 9 52 17,4 5 - Bình thường 199 148 74,37 51 25,6 3 0 0,00 - Tiêu chảy 99 14 14,14 33 33,3 3 52 52,5 3 Bảng 3.9 cho thấy: Trong tổng số 906 bê nghé kiểm tra, có 298 bê nghé nhiễm giun đũa, chiếm tỷ lệ 32,89%, trong đó, tỷ lệ bê nghé nhiễm ở cường độ nhẹ là 54,36%, bê nghé nhiễm ở cường độ trung bình 28,19% và 17,45% bê nghé nhiễm ở cường độ nặng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 62 Chúng tôi thấy, cường độ nhiễm giun đũa ở từng trạng thái phân là khác nhau: bê nghé phân bình thường chỉ nhiễm ở cường độ nhẹ và trung bình, không có bê nghé nhiễm ở cường độ nặng; ở những bê nghé tiêu chảy cường độ nhiễm nặng chiếm ưu thế. Cụ thể như sau: - Bê nghé có phân bình thường chỉ nhiễm giun đũa cường độ nhẹ và trung bình, không có bê nghé nào nhiễm ở cường độ nặng (cường độ nhẹ chiếm tỷ lệ 74,37%, cường độ trung bình chiếm tỷ lệ 25,63%). - Bê nghé bị tiêu chảy nhiễm giun đũa ở cường độ từ nhẹ đến nặng; trong đó nhiễm ở cường độ nhẹ là 14,14%, ở cường độ trung bình là 33,33%, 52/99 bê nghé nhiễm ở cường độ nặng, chiếm tỷ lệ 52,53%. Như vậy, bê nghé bị tiêu chảy có cường độ nhiễm giun đũa nặng hơn rất nhiều so với bê nghé phân bình thường (P < 0,001). Mặc dù có nhiều nguyên nhân làm cho bê, nghé tiêu chảy (do vi khuẩn, do vệ sinh thú y kém, do thời tiết thay đổi đột ngột…), nhưng trong 192 bê nghé tiêu chảy, có tới 52,53% bị nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum ở cường độ nặng (số trứng giun đũa trong 1 gam phân đếm được đều trên 1000 trứng). Điều này cho phép chúng tôi nhận xét, bê nghé dưới 3 tháng tuổi ở 3 huyện, thị của tỉnh Tuyên Quang bị tiêu chảy do nguyên nhân chính là giun đũa chiếm tới trên 50% số bê nghé nhiễm giun đũa. Nếu tính trong tổng số bê nghé tiêu chảy, tỷ lệ này chiếm 27%. Ngoài ra, còn gần 25% số bê nghé tiêu chảy do nguyên nhân khác song vẫn có sự kết hợp của giun đũa Neoascaris vitulorum (đó là những bê nghé tiêu chảy và phân có trứng giun đũa được xác định là nhiễm nhẹ và trung bình) Đây là những con số có ý nghĩa, phản ánh vai trò của giun đũa Neoascaris vitulorum trong hội chứng tiêu chảy của bê nghé dưới 3 tháng tuổi, đồng thời là cơ sở để chúng tôi khuyến cáo người chăn nuôi trâu bò sinh sản thực hiện các biện pháp kỹ thuật phòng trị tiêu chảy cho bê nghé, trong đó có các biện pháp phòng trị giun đũa Neoascaris vitulorum. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 63 ảnh 1: Nghé bị tiêu chảy, xét nghiệm thấy nhiều trứng giun đũa trong phân ảnh 2: Bê bị tiêu chảy, xét nghiệm thấy nhiều trứng giun đũa trong phân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 64 Ảnh 3: Lấy mẫu phân nghé tiêu chảy (phân màu trắng, lỏng) Ảnh 4: Mẫu phân bê nghé tiêu chảy và bình thường thu thập để xét nghiệm tìm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 65 Ảnh 5: Xét nghiệm phân bê nghé tìm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum 3.3. NGHIÊN CỨU SỰ TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRỨNG GIUN ĐŨA NEOASCARIS VITULORUM Ở NGOẠI CẢNH 3.3.1. Xác định sự lƣu hành trứng giun Neoascaris vitulorum ở ngoại cảnh Để xác định sự lƣu hành trứng giun đũa Neoascaris vitulorum ở ngoại cảnh, chúng tôi đã thu thập 921 mẫu cặn nền chuồng trâu bò, bê nghé, mẫu đất bề mặt xung quanh chuồng và mẫu đất bề mặt bãi chăn thả, xét nghiệm tìm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum. Kết quả đƣợc trình bày bảng 3.10. Bảng 3.10 cho thấy: Xét nghiệm ba loại mẫu đều thấy có trứng Neoascaris vitulorum. Trong đó, tỷ lệ mẫu cặn nền chuồng nhiễm trứng giun đũa là 19,86%, mẫu đất bề mặt xung quanh chuồng nuôi nhiễm trứng giun đũa là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 66 18,24% và các mẫu đất bề mặt bãi chăn thả nhiễm 7,81%. Cụ thể nhƣ sau: - Thị xã Tuyên Quang, tỷ lệ nhiễm trứng giun ở mẫu cặn nền chuồng 16,32%, mẫu đất bề mặt xung quanh chuồng là 15,30% và mẫu đất bề mặt bãi chăn thả là 5,10%. Bảng 3.10: Sự lưu hành trứng giun Neoascaris vitulorum ở nền chuồng, khu vực xung quanh chuồng và bãi chăn thả Địa điểm Cặn nền chuồng Đất bề mặt xung quanh chuồng Đất bề mặt bãi chăn thả Số mẫu kiểm tra Số mẫu nhiễ m Tỷ lệ (%) Số mẫu kiểm tra Số mẫu nhiễ m Tỷ lệ (%) Số mẫu kỉể m tra Số mẫu nhiễ m Tỷ lệ (%) TX. T.Quang 98 16 16,3 2 98 15 15,3 0 98 5 5,10 Yên Sơn 107 21 19,6 2 107 19 17,7 5 107 8 7,47 Hàm Yên 102 24 23,5 2 102 22 21,5 8 102 11 10,7 8 Tính chung 307 61 19,8 6 307 56 18,2 4 307 24 7,81 - Huyện Yên Sơn, có 19,62% mẫu cặn nền chuồng nhiễm trứng giun, 17,75% mẫu đất bề mặt xung quanh chuồng nhiễm và 7,47% mẫu đất bề mặt bãi chăn thả nhiễm trứng giun đũa. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 67 - Huyện Hàm Yên có tỷ lệ mẫu ở các vị trí nhiễm trứng giun đũa cao hơn cả (mẫu cặn nền chuồng 23,52%, mẫu đất bề mặt xung quanh chuồng 21,58% và mẫu đất bề mặt bãi chăn thả 10,78%). Trong 3 loại mẫu, tỷ lệ mẫu cặn nền chuồng và mẫu đất bề mặt xung quanh chuồng có trứng giun đũa Neoascaris vitulorum cao (19,86% và 18,24%), tỷ lệ mẫu đất bề mặt bãi chăn thả có trứng giun thấp (7,81%). Tuy nhiên, trứng giun đũa ở bãi chăn thả là nguồn trứng dễ nhiễm vào trâu bò mẹ. Khi ăn cỏ trâu bò mẹ có thể nuốt trứng giun đũa vào đƣờng tiêu hoá, trứng giun đũa nở thành ấu trùng tồn tại ở gan của trâu bò mẹ. Khi trâu bò mẹ có thai, ấu trùng dời khỏi gan, qua nhau thai vào bào thai, dẫn đến bê nghé sau khi đẻ ra đã bị nhiễm giun đũa. Theo nhận xét của Akyol (1993) [40], bê nghé dƣới 3 tháng tuổi bị nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum rất phổ biến và đồng cỏ là nơi có nhiều trứng giun và là nguồn gây nhiễm bệnh quan trọng cho bê nghé. Thực tế cho thấy, trứng giun Neoascaris vitulorum theo phân bê nghé phát tán nhiều ở ngoại cảnh, trứng giun ở giai đoạn cảm nhiễm có sức đề kháng cao với điều kiện ngoại cảnh, đặc biệt là trong điều kiện ẩm ƣớt, nhiệt độ không khí thấp, trứng giun có thể tồn tại hàng tháng ở ngoại cảnh. Từ kết quả nghiên cứu trên chúng tôi cho rằng, trong chăn nuôi phải thƣờng xuyên chú ý đến khâu vệ sinh chuồng trại, thu gom phân rác, chất thải để ủ, khử trùng tiêu độc môi trƣờng chăn nuôi và khu vực xung quanh chuồng. Việc vệ sinh, thu gom phân để ủ phải đƣợc thực hiện ở cả 3 khu vực: ở nền chuồng, ở xung quanh chuồng và bãi chăn thả. Công việc này phải thực hiện thƣờng xuyên mới có ý nghĩa, trứng giun đũa sẽ không có điều kiện phát tán từ chuồng trại ra các khu vực khác nhau, phát triển và gây bệnh cho bê nghé. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 68 Ảnh 6: Mẫu cặn nền chuồng, mẫu đất bề mặt xung quanh chuồng và mẫu đất bề mặt bãi chăn thả thu thập về xét nghiệm tìm trứng giun Neoascaris vitulorum 3.3.2. Xác định thời gian trứng giun Neoascaris vitulorum phát triển thành trứng có sức gây bệnh ở ngoại cảnh. Để xác định thời gian trứng giun đũa Neoascaris vitulorum phát triển thành trứng có sức gây bệnh ở ngoại cảnh, chúng tôi bố trí 3 đợt thí nghiệm: - Đợt thí nghiệm I: theo dõi 20 mẫu phân bê nghé có nhiều trứng giun đũa trong điều kiện tự nhiên, nhiệt độ không khí 28-32oC và ẩm độ 72,5-80%, hàng ngày xét nghiệm phân để kiểm tra sự phát triển của trứng giun. - Đợt thí nghiệm II: theo dõi 20 mẫu phân bê nghé có nhiều trứng giun đũa trong điều kiện tự nhiên, ở nhiệt độ không khí 26-30oC, ẩm độ 55-67%, hàng ngày xét nghiệm phân để kiểm tra sự phát triển của trứng giun. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 69 - Đợt thí nghiệm III: theo dõi 10 mẫu phân bê nghé có nhiều trứng giun đũa trong điều kiện tự nhiên, ở nhiệt độ không khí 13-20oC, ẩm độ 43-52%, hàng ngày xét nghiệm phân để kiểm tra sự phát triển của trứng giun. Kết quả theo dõi sự phát triển của trứng giun đũa Neoascaris vitulorum thành trứng có sức gây bệnh ở ngoại cảnh đƣợc trình bày ở bảng 3.11. Bảng 3.11: Thời gian trứng giun Neoascaris vitulorum phát triển thành trứng có sức gây bệnh ở ngoại cảnh Đợt thí nghiệm Nhiệt độ (oC) và độ ẩm không khí (%) Số mẫu theo dõi Số lần xét nghiệm (lần) Thời gian phát triển thành trứng có sức gây bệnh ( x mX  ) (ngày) I - t o không khí = 28-32 o C - A o không khí = 72,5- 80% 20 258 12,93 ± 0,31 (10 ÷ 15 ngày) II - t o không khí = 26- 30 o C - A o không khí = 55- 67% 20 420 21,03 ± 0,57 (18 ÷ 25 ngày) III - t o không khí = 13- 20 o C - A o không khí = 43 - 52% 10 369 36,90 ± 0,79 (33 ÷ 40 ngày) Kết quả bảng 3.11 cho thấy: - Đợt thí nghiệm I: theo dõi 20 mẫu phân có nhiều trứng giun đũa hàng ngày, qua 258 lần xét nghiệm, thời gian trứng giun Neoascaris vitulorum đã phát triển thành trứng có khả năng gây bệnh sớm nhất là 10 ngày, muộn nhất là 15 ngày và bình quân là 12,93 ± 0,31 ngày. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 70 - Đợt thí nghiệm II: theo dõi 20 mẫu phân có nhiều trứng giun đũa hàng ngày, với 420 lần xét nghiệm, trứng giun Neoascaris vitulorum phát triển hoàn toàn thành trứng có khả năng gây bệnh sau 21,03 ± 0,57 ngày (thời gian phát triển sớm nhất là sau 18 ngày và muộn nhất là 25 ngày). - Đợt thí nghiệm III: theo dõi 10 mẫu có nhiều trứng giun đũa, chúng tôi đã xét nghiệm 369 lần, trứng giun đũa Neoascaris vitulorum phát triển hoàn toàn thành trứng có khả năng gây bệnh thời gian sớm nhất là 33 ngày, muộn nhất là 40 ngày và bình quân sau 36,90 ± 0,79 ngày. Trong quá trình theo dõi thí nghiệm, chúng tôi thấy sự thay đổi rõ rệt về cấu tạo của trứng giun Neoascaris vitulorum: khi mới theo phân ra ngoài trứng giun hình hơi tròn, màu vàng nâu, phôi bào xếp kín bên trong vỏ. Sau vài ngày phôi bào bắt đầu phân chia, các khối nguyên sinh chất dần co nhỏ lại. Cuối cùng ấu trùng đƣợc hình thành đầy đủ trong trứng với thời gian nhƣ đã trình bày ở trên. Quá trình phân chia và phát triển đến giai đoạn cảm nhiễm đƣợc hoàn thành ở thời gian khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện tự nhiên nhƣ: điều kiện nhiệt độ và ẩm độ không khí. Điều kiện tự nhiên (nhiệt độ và ẩm độ không khí) khác nhau ảnh hƣởng rõ rệt đến sự phát triển của trứng giun đũa Neoascaris vitulorum ở ngoại cảnh. Như vậy, khi theo phân ra ngoài, trứng giun Neoascaris vitulorum có khả năng phát triển thành trứng có sức gây bệnh trong điều kiện tự nhiên khác nhau. Phân để tự nhiên, ở nhiệt độ 28-32oC trứng phát triển thành trứng có sức gây bệnh nhanh hơn (12,93 ngày); còn trong điều kiện nhiệt độ không khí thấp (13-20oC), độ ẩm từ 43-52% không làm ngừng sự phát triển mà ngược lại trứng vẫn phát triển thành trứng có khả năng gây bệnh sau 36,9 ngày theo dõi. Kết quả theo dõi về sự phát triển trứng giun Neoascaris vitulorum thành trứng có khả năng gây bệnh ở ngoại cảnh của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên cứu của Dƣơng Công Thuận (1978): ở điều kiện nhiệt độ trong phòng khoảng 15-22oC trứng phát triển thành trứng có sức gây bệnh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 71 sau 20 ngày. Ở nhiệt độ 15-17oC thì phải sau 38 ngày mới phát triển thành trứng có sức gây bệnh. Ảnh 7: Trứng giun đũa Neoascaris vitulorum mới thải ra ngoài (x 200) Ảnh 8: Phôi bào phân chia ngày thứ 8 (x 200) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 72 Ảnh 9: Phôi bào phân chia và co lại ở ngày thứ 10 (x 200) Ảnh 10: Ấu trùng hình thành trong trứng ở ngày thứ 12 (x 300) 3.3.3. Xác định thời gian tồn tại của trứng giun đũa Neoascaris vitulorum ở ngoại cảnh Sau khi theo dõi sự phát triển của trứng giun Neoascaris vitulorum đến giai đoạn cảm nhiễm, chúng tôi tiếp tục theo dõi khả năng tồn tại trứng giun đũa có sức gây bệnh ở ngoại cảnh của 3 đợt thí nghiệm. Cứ 5 ngày một lần Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 73 chúng tôi lấy mẫu xét nghiệm, kiểm tra khả năng tồn tại của trứng. Kết quả theo dõi được trình bày ở bảng 3.12. Bảng 3.12. Thời gian tồn tại của trứng Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh ở ngoại cảnh Đợt thí nghiệm Nhiệt độ (oC) và độ ẩm không khí (%) Số mẫu theo dõi Số lần xét nghiệm (lần) Thời gian tồn tại ( x mX  ) (ngày) I - t o không khí = 29 - 35 o C - A o không khí = 73,5- 78,8% 20 56 13,75 ± 0,51 (10 ÷ 15 ngày) II - t o không khí = 25 - 30 o C - A o không khí = 56 - 65% 20 79 19,75 ± 0,95 (17 ÷ 25 ngày) III - t o không khí = 14,5 - 21 o C - A o không khí = 45 - 63% 10 61 30,50 ± 1,23 (27 ÷ 34 ngày) Bảng 3.12 cho thấy: - Đợt thí nghiệm I: trứng giun có khả năng gây bệnh trong 20 mẫu phân để tự nhiên trong phòng thí nghiệm, ở nhiệt độ 29-35oC, ẩm độ 73,5-78,8%, qua 56 lần xét nghiệm, trứng giun có khả năng gây bệnh bị vỡ, ấu trùng trong trứng bị phân huỷ hoàn toàn sau thời gian 13,75 ± 0,51 ngày (thời gian trứng bị phân huỷ sớm nhất là sau 10 ngày và muộn nhất là 15 ngày). - Đợt thí nghiệm II: so với trứng giun có khả năng gây bệnh trong 20 mẫu phân ở đợt thí nghiệm I, trong điều kiện nhiệt độ thấp hơn (25-30oC), ẩm độ 56-65%, thời gian sống của trứng ở đợt thí nghiệm II trung bình 19,75 ± 0,95 ngày (sớm nhất sau 17 ngày và muộn nhất là 25 ngày) mới bị huỷ hoàn toàn, với 79 lần xét nghiệm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 74 - Đợt thí nghiệm III: Trứng có ấu trùng bên trong tồn tại khá lâu, trong điều kiện nhiệt độ từ 14,5-21oC và ẩm độ từ 45-63%, sau 61 lần xét nghiệm, đến ngày thứ 30,5 ± 1,23 ngày, sớm nhất là sau 27 ngày và muộn nhất sau 34 ngày, trứng mới bị nứt vỡ và hỏng hoàn toàn. Chúng tôi đã quan sát thấy sự biến đổi bên trong của trứng giun Neoascaris vitulorum như sau: lớp vỏ trứng mỏng dần, méo mó, biến dạng, nứt vỡ, ấu trùng bị phân huỷ. Kết quả thí nghiệm trên cho thấy: nhiệt độ và ẩm độ không khí có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại của trứng giun đũa có sức gây bệnh. Trong cả 3 đợt thí nghiệm, các mẫu phân đều để ở điều kiện tự nhiên trong phòng, trứng giun đũa Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh chỉ sống được 13,75 ngày ở nhiệt độ 29-35oC (tương ứng với điều kiện nóng bức của mùa hè), còn ở nhiệt độ từ 14,5-21oC (tương ứng với điều kiện giá lạnh của mùa đông) trứng giun sống hàng tháng mới bị chết hoàn toàn. Mùa Đông là thời gian nhiệt độ và ẩm độ không khí tương ứng với đợt thí nghiệm 3. Đây cũng là thời gian bê nghé được sinh ra nhiều nhất trong năm. Nếu trong thời gian này trứng giun đũa có sức gây bệnh tồn tại hàng tháng trên đồng cỏ, bãi chăn thả thì sẽ có nguy cơ nhiễm vào trâu bò, mẹ rồi truyền sang bào thai hoặc bê nghé sơ sinh trực tiếp nuốt phải trứng giun đũa có sức gây bệnh, do đó bê nghé bị nhiễm giun đũa nhiều. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nhận xét của Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh (1978) [32]: trứng ở giai đoạn cảm nhiễm chứa ấu trùng có sức đề kháng cao với điều kiện ngoại cảnh, tuy nhiên sự khô hạn và sức nóng làm cho trứng không phát triển được và bị phân huỷ hoàn toàn; dưới ánh nắng trực tiếp của mùa hè sau một tuần trứng bị huỷ; vào vụ đông xuân nếu để khô, trứng vẫn sống bình thường sau một tháng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 75 Từ kết quả nghiên cứu ở bảng 3.10 và 3.11, chúng tôi thấy rằng, việc đảm bảo chuồng nuôi luôn khô ráo, sạch sẽ là rất quan trọng, định kỳ vệ sinh chuồng trại xung quanh và bãi chăn thả, thu gom phân rác ủ để tiêu diệt mầm bệnh, hạn chế tối đa sự lây nhiễm trứng giun ở ngoại cảnh cho trâu, bò mẹ và bê nghé. Từ đó hạn chế những thiệt hại do bệnh giun đũa gây ra cho bê nghé dưới 3 tháng tuổi. Ảnh 11: Trứng Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh ở ngày thứ 27 (một số trứng đã bị hƣ hỏng) (x 300) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 76 Ảnh 12: Trứng Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh đang chuyển sang hƣ hỏng ở ngày thứ 30 (x 300) Ảnh 13: Trứng Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh ở ngoại cảnh bị hỏng hoàn toàn ở ngày thứ 34 (x 300) 3.3.4. Xác định khả năng bê nghé nhiễm trực tiếp do nuốt trứng giun đũa có sức gây bệnh khi bú mẹ Kết quả nghiên cứu về tỷ lệ trâu, bò mẹ mang trứng giun đũa có sức gây bệnh trên bầu vú, núm vú và tỷ lệ bê nghé nhiễm giun đũa được thể hiện qua bảng 3.13. Bảng 3.13 cho thấy: trong 906 trâu, bò mẹ kiểm tra có 39 con mang trứng giun đũa Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh trên bầu vú và núm vú, chiếm tỷ lệ 4,30%. Số trứng giun chúng tôi tìm thấy được trên bầu vú và núm vú trâu, bò mẹ bình quân là 1,85 ± 0,11 trứng/vi trường kính hiển vi. Trong đó: thị xã Tuyên Quang có tỷ lệ trâu bò mẹ mang trứng giun có sức gây bệnh trên bầu vú và núm vú là 2,35%. Huyện Yên Sơn tỷ lệ này Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 77 chiếm 4,11% và huyện Hàm Yên có tỷ lệ trâu, bò mẹ mang trứng giun là 6,48%. Bảng 3.13: Tỷ lệ trâu, bò mẹ mang trứng Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh trên bầu vú, núm vú và tỷ lệ bê nghé nhiễm giun đũa Địa phƣơng Số trâu bò mẹ kiểm tra (con) Số trâu bò mẹ mang trứng giun (con) Tỷ lệ (%) Số trứng giun/ vi trƣờng ( x mX  ) Số bê nghé kiểm tra (con) Số bê nghé nhiễm (con) Tỷ lệ (%) Thị xã Tuyên Quang 297 7 2,35 1,86±0,28 297 78 26,26 - Nông Tiến 142 4 2,96 2,00 ±0,47 142 38 26,76 - Ỷ La 95 1 1,05 2,00 95 24 25,26 - Hưng Thành 60 2 3,33 1,50±0,70 60 16 26,67 Yên Sơn 316 13 4,11 2,00±0,20 316 108 34,18 - An Tường 104 6 5,76 2,17±0,34 104 36 34,61 - Phú Lâm 97 4 4,12 2,00±0,47 97 29 29,89 - Thái Bình 115 3 2,60 1,67±0,40 115 43 37,39 Hàm Yên 293 19 6,48 1,74±0,15 293 112 38,23 - Đức Ninh 120 9 7,50 1,89±0,28 120 48 40,00 - Thái Sơn 101 4 3,96 1,50±0,33 101 35 34,65 - Thái Hoà 72 6 8,33 1,67±0,23 72 29 40,27 Tính chung 906 39 4,30 1,85±0,11 906 298 32,89 Như vậy, huyện Hàm Yên là địa phương có tỷ lệ trâu bò mẹ mang trứng giun có sức gây bệnh trên bầu vú và núm vú cao nhất 6,48% và số trứng tìm thấy bình quân là 1,74 trứng/vi trường kính hiển vi. Qua điều tra thực trạng chăn nuôi trâu bò sinh sản, chúng tôi thấy: những trâu, bò mẹ mang trứng trên bầu vú và núm vú này đều là những trâu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 78 bò được chăn nuôi ở các hộ gia đình thực hiện công tác vệ sinh kém, chuồng trại ẩm thấp, lầy lội. Đồng thời, lại được chăn dắt ở những bãi chăn ô nhiễm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum. Ngoài con đường lây nhiễm qua bào thai, thì bê nghé non còn bị nhiễm giun đũa trong khi bú sữa mẹ, do trong khi chăn dắt hoặc khi nằm xuống nền chuồng hoặc trên đất, trứng giun đũa Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh bám vào bầu vú, núm vú của trâu bò mẹ. Vì vậy, khi bê nghé sơ sinh bú sữa mẹ dễ nuốt phải trứng giun đũa có sức gây bệnh và bị bệnh. Kết quả ở bảng 3.13 còn cho thấy: tỷ lệ bê nghé ở thị xã Tuyên Quang nhiễm giun đũa là 26,26%, ở huyện Yên Sơn là 34,18%, ở huyện Hàm Yên là 38,23%. Như vậy, tỷ lệ bê nghé nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum tỷ lệ thuận với tỷ lệ trâu bò mẹ mang trứng giun đũa trên bầu vú và núm vú. Điều này bước đầu cho phép chúng tôi có nhận xét rằng, tình trạng trâu bò mẹ có bầu vú và núm vú bẩn dễ nhiễm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh, điều này là một trong những nguy cơ làm cho bê nghé nhiễm giun đũa và mắc bệnh. Vì vậy, trong chăn nuôi trâu bò sinh sản, ngoài vấn đề vệ sinh thú y đối với chuồng trại, bãi chăn, thì vấn đề rửa và lau sạch bầu vú, núm vú cho trâu bò mẹ hàng ngày là cần thiết, nhằm loại bỏ trứng giun đũa để tránh trứng giun đũa nhiễm vào cơ thể bê nghé. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 79 Ảnh 14: Mẫu giấy mềm và ƣớt lau bầu vú và núm vú trâu, bò mẹ để tìm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum 3.4. SỬ DỤNG MỘT SỐ PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ TIÊU CHẢY CHO BÊ, NGHÉ Để điều trị tiêu chảy đạt hiệu quả cao, một trong những yêu cầu quan trọng là xác định được nguyên nhân gây tiêu chảy. Trên cơ sở nghiên cứu tìm ra các nguyên nhân gây tiêu chảy cho bê nghé, từ đó lựa chọn những loại thuốc điều trị cho phù hợp. Chúng tôi sử dụng 3 phác đồ để điều trị cho 99 bê nghé tiêu chảy và nhiễm giun đũa. Trong các phác đồ điều trị tiêu chảy, chúng tôi sử dụng các loại thuốc tẩy giun đũa, kết hợp với thuốc điện giải và vitamin C để cung cấp chất điện giải, tăng cường sức đề kháng cho con vật. Kết quả điều trị tiêu chảy cho bê nghé được trình bày ở bảng 3.14. Bảng 3.14: Kết quả sử dụng 3 phác đồ điều trị tiêu chảy cho bê nghé Phác đồ điều trị Loại thuốc điều trị tiêu chảy Cách dùng và liều lƣợng Thời gian điều trị Số con điều trị (con) Số khỏi tiêu chảy (con) Tỷ lệ khỏi (%) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 80 Phác đồ 1 Levasol 7,5% Tiêm bắp 1ml/10kgTT (7,5mg/kg thể trọng) 1 lần 39 27 69,23 Thuốc điện giải Pha với nước cho uống 2-4 lần/ngày Trong 5 ngày Vitamin C 5% Tiêm bắp 10ml/25kg TT (20mg/kg thể trọng) 1 lần/ngày trong 5 ngày Phác đồ 2 Mebendazol 10% Cho uống 200mg/kg TT 1 lần 32 17 53,12 Thuốc điện giải Pha với nước cho uống 2-4 lần/ngày Trong 5 ngày Vitamin C 5% Tiêm bắp 10ml/25kg TT (20mg/kg thể trọng) 1 lần/ngày trong 5 ngày Phác đồ 3 Hanmectin 0,25% Tiêm bắp 1ml/10kg TT (0,25mg/kg thể trọng) 1 lần 28 18 64,28 Thuốc điện giải Pha với nước cho uống 2-4 lần/ngày trong 5 ngày Vitamin C 5% Tiêm bắp 10ml/25kg TT (20mg/kg thể trọng) 1 lần/ngày trong 5 ngày 3 phác đồ 99 62 62,63 Bảng 3.14 cho thấy: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 81 Ở trong phác đồ điều trị 1, có 27/39 bê nghé khỏi tiêu chảy, chiếm tỷ lệ 69,23%. Ở phác đồ 2, số bê nghé khỏi tiêu chảy là 17/32 con, đạt tỷ lệ 53,12%. Phác đồ 3, số bê nghé khỏi tiêu chảy là 18/28%, đạt tỷ lệ 64,28%. Ba phác đồ điều trị cho kết quả bê nghé khỏi tiêu chảy khác nhau. Tỷ lệ khỏi tiêu chảy ở phác đồ 1 cao nhất (69,23%), ở phác đồ 2 là 53,12% và ở phác đồ 3 là 64,28%, tỷ lệ khỏi tiêu chảy chung là 62,63%. - Trong 99 bê nghé được điều trị là những bê nghé vừa tiêu chảy, vừa nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum với cường độ từ nhẹ đến nặng (trong đó 14,14% nhiễm nhẹ; 33,33% nhiễm ở cường độ trung bình và 52,53% nhiễm ở cường độ nặng). - Số bê nghé nhiễm nhẹ và nhiễm ở mức độ trung bình, ngoài tác động của giun đũa, còn có thể do các nguyên nhân khác (không nằm trong phạm vi xác định của đề tài). Như vậy, có thể thấy rằng, trong 99 bê nghé tiêu chảy này, chỉ có 62,63% bị tiêu chảy do nguyên nhân chính là giun đũa Neoascaris vitulorum. Vì vậy, sau khi điều trị, trong 99 con vẫn còn 37 con chưa khỏi tiêu chảy. Để đánh giá hiệu lực tẩy giun đũa cho bê nghé của 3 phác đồ điều trị trên, chúng tôi đã kiểm tra phân của những bê nghé được dùng thuốc. Kết quả được trình bày ở bảng 3.15. Bảng 3.15 cho thấy: Ở phác đồ 1, điều trị cho 39 bê nghé nhiễm giun đũa ở cường độ từ +  +++, sau khi dùng thuốc 10 ngày, chúng tôi kiểm tra phân thấy cả 39/39 bê nghé điều trị đều sạch trứng giun đũa (đạt tỷ lệ 100%). Ở phác đồ 2, sau khi dùng thuốc 10 ngày kiểm tra phân thấy có 28/32 bê nghé sạch trứng (chiếm tỷ lệ 87,5%), còn 4 bê nghé nhiễm vẫn ở cường độ nhẹ (+). Phác đồ 3 cho thấy, tỷ lệ sạch trứng của bê nghé là 96,42%, chỉ có 1 nghé còn trứng giun trong phân ở cường độ nhiễm nhẹ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 82 Bảng 3.15: Hiệu lực tẩy giun đũa của thuốc tẩy trong các phác đồ điều trị tiêu chảy Phác đồ điều trị Số bê nghé điều trị (con) Trƣớc khi dùng thuốc Sau khi dùng thuốc 10 ngày Hiệu lực tẩy đối với giun đũa Số bê nghé nhiễm giun đũa (con) Cƣờng độ nhiễm Số bê nghé còn nhiễm giun đũa (con) Cƣờng độ nhiễm Số bê nghé sạch trứng (con) Tỷ lệ sạch trứng (%) 1 39 39 +  +++ 0 _ 39 100 2 32 32 +  +++ 4 + 28 87,50 3 28 28 +  +++ 1 + 27 96,42 3 phác đồ 99 99 +  +++ 5 + 94 94,95 Từ kết quả trên, có thể đánh giá được hiệu lực tẩy giun đũa của phác đồ 1 và phác đồ 3 là rất tốt, do vậy có thể khuyến cáo cho người chăn nuôi trâu bò sinh sản sử dụng điều trị cho những bê nghé mắc tiêu chảy khi xác định được nguyên nhân là do giun đũa Neoascaris vitulorum. Qua 3 phác đồ điều trị tiêu chảy cho 99 bê nghé tiêu chảy và nhiễm giun đũa, số bê nghé khỏi tiêu chảy là 62 con, còn lại 37 bê nghé vẫn tiêu chảy có thể do các nguyên nhân khác, trong đó có nguyên nhân do vi khuẩn. Vì vậy chúng tôi tiếp tục điều trị cho những bê nghé còn tiêu chảy bằng các loại thuốc kháng sinh, kết hợp với chất điện giải và vitamin C. Kết quả được trình bày ở bảng 3.16. Bảng 3.16: Điều trị cho những bê nghé sau dùng thuốc vẫn tiêu chảy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 83 Phác đồ điều trị Loại thuốc điều trị tiêu chảy Cách dùng và liều lƣợng Thời gian điều trị Số con điều trị (con) Số khỏi tiêu chảy (con) Tỷ lệ khỏi (%) Phác đồ 1 Colistin Tiêm bắp 0,5ml/20kg TT (15mg/kg thể trọng) 2 lần/ngày trong 3-5 ngày 21 19 90,4 7 Thuốc điện giải Pha với nước cho uống 2-4 lần/ngày trong 5 ngày Vitamin C 5% Tiêm bắp 10ml/25kg TT (20mg/kg thể trọng) 1 lần/ngày trong 5 ngày Phác đồ 2 Norfacoli Tiêm bắp 1ml/20kg TT (5mg/kg thể trọng) 2 lần/ngày trong 3-5 ngày 16 16 100 Thuốc điện giải Pha với nước cho uống 2-4 lần/ngày trong 5 ngày Vitamin C 5% Tiêm bắp 10ml/25kg TT (20mg/kg thể trọng) 1 lần/ngày trong 5 ngày 3 phác đồ 37 35 94,5 9 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 84 Kết quả bảng 3.16 cho thấy: Ở phác đồ điều trị tiêu chảy 1, chúng tôi dùng Colistin để điều trị cho 21 bê nghé còn tiêu chảy, kết quả có 19 bê nghé khỏi tiêu chảy hoàn toàn chiếm tỷ lệ 90,47%. Ở phác đồ 2, chúng tôi sử dụng Norfacoli điều trị cho 16 bê nghé tiêu chảy, kết quả 100% bê nghé khỏi tiêu chảy. Như vậy, phác đồ 1 điều trị tiêu chảy cho bê nghé đạt hiệu quả 90,47%, còn 2 nghé vẫn tiêu chảy sau 5 ngày điều trị. Chúng tôi tiếp tục dùng nước sắc búp ổi cho uống với mục đích để làm se niêm mạc ruột. Sau 2 ngày kiểm tra lại thấy 2 nghé đã khỏi tiêu chảy hoàn toàn. Từ kết quả điều trị tiêu chảy trên, chúng tôi thấy, muốn điều trị tiêu chảy hiệu quả, việc xác định đƣợc nguyên nhân chính gây tiêu chảy để điều trị là rất quan trọng, kết hợp điều trị theo sinh bệnh và triệu chứng. Trong thực tế ở những nơi vùng sâu, vùng xa, miền núi bà con không có điều kiện để chẩn đoán nguyên nhân gây tiêu chảy, thì trƣớc hết phải chú ý đến chế độ ăn uống của trâu, bò mẹ, vệ sinh chuồng trại, sử dụng thuốc kháng sinh có tác dụng đặc trị tiêu chảy nhƣ thuốc Norfacoli hoặc Colistin để điều trị. Sau vài ngày có thể dùng thuốc tẩy giun đũa cho bê nghé dƣới 3 tháng tuổi với mục đích điều trị cho những nghé bị bệnh và tẩy phòng cho những nghé mang giun đũa. Trong quá trình điều trị phải bổ sung chất điện giải và vitamin C để tăng cƣờng sức đề kháng cho con vật. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 85 ảnh 15: Các loại thuốc dùng điều trị tiêu chảy cho bê nghé Ảnh 16: Tiêm thuốc điều trị tiêu chảy cho nghé Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 86 Ảnh 17: Giun đũa bị tẩy theo phân sau dùng thuốc 2 ngày Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 87 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 1. KẾT LUẬN: 1.1. Về một số đặc điểm dịch tễ hội chứng tiêu chảy ở bê nghé dưới 3 tháng tuổi tại Tuyên Quang. - Tỷ lệ bê nghé dưới 3 tháng tuổi mắc tiêu chảy ở 3 huyện, thị của tỉnh Tuyên Quang là 21,19%, biến động từ 17,30% đến 25,83%. - Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy cao nhất ở 16 - 30 ngày tuổi, sau đó giảm dần. - Tỷ lệ tiêu chảy không có sự sai khác giữa bê nghé cái và bê nghé đực (bê nghé cái 20,99% và bê nghé đực 21,39%). - Tỷ lệ tiêu chảy ở bê nghé cao nhất là mùa Xuân (23,37%), thấp nhất là mùa Thu (17,76%). - Tỷ lệ tiêu chảy của bê nghé theo địa hình bằng phẳng là 18,70% và địa hình đồi núi có xen kẽ ruộng nước là 23,17%. - Tỷ lệ tiêu chảy ở bê là 22,40% và ở nghé là 20,56%. - Chăn nuôi trâu, bò mẹ theo phương thức chăn thả hoàn toàn thì tỷ lệ bê nghé tiêu chảy là 26,53%, phương thức chăn nuôi trâu, bò mẹ bán chăn thả có bổ sung thức ăn thì tỷ lệ bê nghé tiêu chảy thấp hơn (14,46%). 1.2. Giun đũa Neoascaris vitulorum có vai trò trong hội chứng tiêu chảy của bê nghé dưới 3 tháng tuổi - Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở bê nghé tiêu chảy là 51,56%, ở bê nghé bình thường là 27,87%. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 88 - Ở bê nghé tiêu chảy cường độ nhiễm giun đũa nặng hơn nhiều so với bê nghé phân bình thường, (33,3% nhiễm trung bình và 52,53% bê nghé nhiễm ở cường độ nặng), bê nghé phân bình thường không nhiễm giun đũa ở cường độ nặng. 1.3. Ngoại cảnh bị ô nhiễm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum. - Có 19,86% số mẫu cặn nền chuồng; 18,24% mẫu xung quanh chuồng và 7,81% mẫu đất bề mặt bãi chăn nhiễm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum. - Thời gian trứng giun phát triển ở ngoại cảnh thành trứng có sức gây bệnh là 12,93 - 36,90 ngày, phụ thuộc vào nhiệt độ và ẩm độ không khí. - Thời gian tồn tại của trứng giun đũa có sức gây bệnh ở ngoại cảnh cũng là 13,75 - 30,50 ngày ở trong các điều kiện nhiệt độ và ẩm độ không khí khác nhau. 1.4. Tỷ lệ trâu, bò mẹ mang trứng giun đũa trên bầu vú, núm vú là 4,30%, số trứng giun đũa là 1,85 ± 0,11 trứng/vi trường, tỷ lệ thuận với tỷ lệ bê nghé nhiễm giun đũa. 1.5. Kết quả điều trị tiêu chảy cho bê nghé. - Sử dụng phác đồ điều trị cho bê nghé vừa tiêu chảy vừa nhiễm giun đũa, gồm thuốc tẩy giun đũa kết hợp thuốc điện giải, vitamin C, đạt hiệu quả khỏi là 62,6%, tỷ lệ bê nghé sạch trứng giun đũa là 94,9%. - Điều trị tiêu chảy đợt 2 bằng kháng sinh kết hợp thuốc điện giải và vitamin C cho những bê nghé sau đợt 1 vẫn còn tiêu chảy, cho kết quả điều trị khỏi 94,5%. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 89 2. ĐỀ NGHỊ: Để hạn chế tiêu chảy cho bê nghé từ sơ sinh đến dưới 3 tháng tuổi cần chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý tốt đàn gia súc mẹ và con, thường xuyên vệ sinh sạch sẽ khu vực chuồng nuôi, luôn giữ khô, sạch ấm cho bê nghé, nhất là trong những ngày đầu mới sinh và trong những ngày thời tiết thay đổi. Khi có điều kiện cần xác định chính xác nguyên nhân gây tiêu chảy để đưa ra phác đồ điều trị có hiệu quả và đỡ tốn kém. Việc điều trị tiêu chảy ngoài sử dụng các loại thuốc điều trị nguyên nhân cần bổ sung thêm chất điện giải, vitamin C để tăng cường sức đề kháng cho con vật. Tiếp tục xác định những nguyên nhân khác gây tiêu chảy cho bê nghé, từ đó có cơ sở khoa học đầy đủ hơn để hoàn thiện quy trình phòng, trị tiêu chảy cho bê nghé. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT: 1. Vũ Triệu An (1978), Đại cương sinh lý bệnh học, Nxb Y học, Hà Nội, tr. 171-353. 2. Vương Đức Chất (1995), Khảo sát giun tròn ký sinh đường tiêu hoá của đàn bò sữa Hà Nội, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y , Tập 2, số 1, tr. 95. 3. Vương Đức Chất (1995), “Kết quả sử dụng Benzimidazole tẩy giun sán trâu bò vùng ngoại thành Hà Nội”, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, Tập1, (số 5). 4. Phạm Chức (1980), “Sức đề kháng của trứng các loài giun đũa đối với các chất hoá học”, Kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật Thú y 1968-1978, Nxb Nông nghiệp, tr. 339-406. 5. Lê Minh Chí (1995), Bệnh tiêu chảy ở gia súc, Bộ Nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm. tr. 22. 6. Tô Ngọc Đại (1953), “Những nhận định về bệnh trạng bê nghé ỉa cứt trắng”, Tập san kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, (số 11-12). 7. Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng, Lê Ngọc Mỹ (1995), Bệnh đường tiêu hoá ở lợn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 221-293. 8. Đào trọng Đạt (1996), Bệnh lợn con ỉa phân trắng, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 9. Phạm Khắc Hiếu (1997) "Một số vấn đề dược lý học đối với gia súc non", Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, tr. 71-74. 10. Phạm Khuê (1998), "Điều chỉnh nước và điện giải", Cẩm nang điều trị nội khoa, Nxb Y học, Hà Nội, tr. 73-90. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 91 11. Phạm Văn Khuê, Phan Trịnh Chức (1981), “Khái quát về tình hình và kết quả điều tra giun sán trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai 1976 - 1980”, Tạp chí khoa học kỹ thuật Nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp IV, (số 4), tr.195-201. 12. Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996), Ký sinh trùng thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 124-127. 13. Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Quang Tuyên (1999), Giáo trình ký sinh trùng thú y, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 94-97. 14. Cao Thị Tuyết Lan (1996), “Bệnh giun đũa bê nghé ở thị xã Lai Châu và biện pháp phòng trừ”, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, Tập 3, (số 3), tr. 66-67. 15. Phan Văn Lan, Phùng Mạnh Tường (1965), “Kết quả điều tra và chữa bệnh bê nghé ỉa cứt trắng ở Tuyên Quang”, Tạp chí khoa học và kỹ thuật nông nghiệp, (số 7), tr.433. 16. Phan Địch Lân, (1986), "Tình hình nhiễm ký sinh trùng ở đàn bò nhập nội", Kết quả nghiên cứu khoa học và kỹ thuật nông nghiệp (1979-1984), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 119-121. 17. Phan Địch Lân, (1993), "Nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật thú y vào sản xuất, phục vụ chương trình lương thực, thực phẩm", Công trình nghiên cứu khoa học năm 1990-1991, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 18. Phan Địch Lân, Phạm Sỹ Lăng, Đoàn Văn Phúc (2005), Bệnh giun tròn của động vật nuôi ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 84-91. 19. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (1999), Bệnh ở trâu bò và biện pháp phòng trị, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 176-177. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 92 20. Phạm Sỹ Lăng, Lê Văn Tạo (2002), Bệnh truyền nhiễm ở bò sữa và biện pháp phòng trị, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 108-113. 21. Phạm Sỹ Lăng, Lê Văn Tạo (2002), Hướng dẫn phòng trị bệnh ký sinh trùng, bệnh nội khoa và nhiễm độc ở bò sữa, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 5- 10; tr.125-131. 22. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (1996), Bệnh thường thấy ở đàn bò sữa Việt Nam và kỹ thuật phòng trị, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 78-85. 23. Phan Lục (1996), “Thí nghiệm phòng trị ký sinh trùng đường tiêu hoá trâu bò bằng Dertil và Benzimidazole”, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, Tập 3, (số 2), tr. 72-75. 24. Phan Lục (1993), "Tình hình nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hoá của trâu bò vùng đồng bằng sông Hồng và thuốc phòng trị". Kết quả nghiên cứu khoa học, khoa chăn nuôi thú y Trường Đại học nông nghiệp I (1991-1993), Nxb nông nghiệp, tr. 92-93. 25. Hồ Văn Nam, Nguyễn Thị Đào Nguyên, Phạm Ngọc Thạch (1997), Giáo trình bệnh nội khoa gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 200-210. 26. Sử An Ninh (1993), "Kết quả bước đầu tìm hiểu nhiệt độ, độ ẩm thích hợp phòng bệnh lợn con phân trắng", Kết quả nghiên cứu khoa học, khoa chăn nuôi thú y, Đại học Nông nghiệp 1 Hà Nội, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr.43-48. 27. Vũ Văn Ngũ và cs (1997), Loạn khuẩn đường ruột và tác dụng điều trị của Colistin, Nxb Y học, Hà Nội. 28. Nguyễn Vĩnh Phước (1974), Vi sinh vật học Thú y, Nxb khoa học kỹ thuật, tr. 57-61; 75-79. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 93 29. Nguyễn Bá Phụ (1992), Khoa học kỹ thuật thế giới, Tuần báo Nông nghiệp, số 27. 30. Nguyễn Văn Sửu (2005), Nghiên cứu tình hình tiêu chảy của bê, nghé dưới 6 tháng tuổi tại 3 tỉnh miền núi phía Bắc và xác định một số yếu tố gây bệnh của vi khuẩn Escherichia coli, Salmonella và Clostridium perfrigens. Luận án tiến sĩ Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 56. 31. Đoàn Thị Băng Tâm (1987), Bệnh động vật nuôi, Tập 1, Nxb KHKT, tr.119-134. 32. Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh (1978), Công trình nghiên cứu ký sinh trùng ở Việt Nam, Tập 2: Giun sán ở động vật nuôi, Nxb khoa học kỹ thuật, Hà Nội, tr. 91, 259-275. 33. Chu Đức Thắng (1997), Một số chỉ tiêu sinh lý, sinh hoá, lâm sàng trong bệnh viêm ruột lợn con sau cai sữa, Luận án PTS khoa học Nông nghiệp, Hà Nội, tr.10. 34. Nguyễn Văn Thiện, Vũ Ngọc Tý, Phan Văn Lan, Nguyễn Danh Kỹ (1977), Sổ tay chăn nuôi trâu bò - Tập 1, Nxb Nông nghiệp, tr. 94-95. 35. Trịnh Văn Thịnh (1959), “Nắm vững quy luật, tích cực phòng trị bệnh giun đũa nghé”, Tạp chí Nông lâm, (số 10). 36. Trịnh Văn Thịnh (1962), “Bệnh giun đũa bê nghé do Neoascaris vitulorum”, Tạp chí khoa học kỹ thuật nông nghiệp, Hà Nội, (số 2), tr. 35. 37. Trịnh Văn Thịnh (1966), Ký sinh trùng của gia súc nuôi Việt Nam, Nxb khoa học, Hà Nội, tr. 66-69. 38. Trịnh Văn Thịnh, Phan Trọng Cung, Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1982), Giáo trình ký sinh trùng Thú y, Nxb Nông nghiệp Hà Nội, tr. 137-141, 279. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 94 39. Dương Công Thuận, Nguyễn Văn Lốc (1986), "Tình hình nhiễm giun đũa ở nghé Murrah và kết quả thí nghiệm phòng trị", Kết quả nghiên cứu khoa học và kỹ thuật nông nghiệp 1979-1984, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 123- 125. 2. TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI 40. Akyol C.V. (1993), Epidemiological of Neoascaris vitulorum in around Barsa, Turkey, J-Helminthol, pp. 73-77. 41. Barbosa M.A; Correa F.M.A. (1989), Natural parasitism of buffaloes in Botucatu, Sao Paulo, Brazil. I. Observations on Toxocara vitulorum (Goeze 1782), Arquivo-Brasileiro-de-Medicina-Veterinaria-e-Zootecnia, pp.511-525. 42. Blackwell T.E. (1989), Enteritidis and diarrhoea, Veterinary climate North American large animal pract, pp. 547-575. 43. Daniels G. (1990), Nutritional factors in the Pathogenesis of proliferative enteritis and swine dysentery, 11 th IPVS congress, pp. 119-125. 44. Fairbrother J.M., Betschinger H.U., Nielsen O.N., Pohlenz J.F. (1992), "Escherichia coli infections Diseases of Swine", Seventh edition - Wolfe Publishing Ltd - Austrailian, pp. 489-497. 45. Gupta R.P., Yadav C.l., Ghosh J.D. (1985), Epidemiology of helminth infection in calves of Haryana State, Agricultural-Science-Digest,-India, pp. 53-56. 46. Horchner F., Srikitijikarn L. (1987), Efficacy of a metaphylactic worming program of buffalo calves in Thailand, Mitteilungen-der-Osterreichischen- Gesellschaft-fur-Tropenmedizin-und-Parasitilogie, pp.173-177. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95 47. Iskander A.R., Tawjeek AFarid A.F. (1987), Cryptosporidial infection among buffalo calves in Egyp, Indian-Journal-of-Animal-Science, pp. 1057-1059. 48. Muangyai M. (1989), Parasitic diseases of buffalo calves and the control in Thailand, Buffalo-Journal, pp. 109-120. 49. Nagy B., Fekete P.Z.S. (1985), Veterinary research Special issue, Inra FNV, Touluose France, pp. 259-284. 50. Panday V.S., Hill F.W.G., Hensman D.G., Baragwanth L.C. (1990), Toxocara vitulorum in beef, calves kept on effluent-irrigated pastures in Zimbabwe, Veterinary-Parasitology, pp. 349-355. 51. Prokopic J., Sterba J. Neoascaris vitulorum a scanning electronic microsope study (Goeze 1782), Folia-Parasitologica (1989), pp 67-69. 52. Purvis G.M., Tremblay R.R. (1985), "Diseases of the newborn", Veterinary Mcrobiology, pp. 192-206. 53. Radostits O.M., Blood D.C., and Gay C.C. (1994), "Veterinary medicine, the texbook of Disease the cattles, sheeps, pigs, goatls and horses" Disease caused by Escherichia coli, disease caused by Salmonella spp, London, Philadelphia, Sydney, Tokyo, Toronto, pp. 703-730. 54. Roberts J.A. (1989), Neoascaris vitulorum: treatment based on the duration of the infectivity of buffalo cows (Bubalus bubalis) for their calves, Journal-of veterinary-Pharmacolory-and-Therapeutics, pp. 5-13. 55. Roberts J.A. (1990), The life cycle of Toxocara vitulorum in Asian buffalo (Bubalus bubalis), International-Journal-for-Parasitology, pp.833-840. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96 56. Rosenberg N.J. (1974), Micromate the biological environment, New York. pp. 125-150. 57. Sokol A., Mikula I., Sova C. (1991), "Neonatal Coli Infencie", Laboratorina diagnostic and preventional U/OLV-Kosice. 58. Starke Wa., Machado R.Z., Bechara G.H., Zocoller M.C. (1996), Skin hypersensitivity tests in buffaloes parasitized vith Neoascarit vitulorum, Vet- Parasitol, Brazil, pp. 283-290. 59. Swain G.D; Misra S.C., Panda D.N. (1987), Incidence and chemotherapy of Neoascaris vitulorum infection in Murrah buffalo calves at Bhubanneswar, Indian-Veterinary-Journal, pp. 198-202. 60. Taira N., Fujita J. (1991), Morphological observaition of Toxocara vitulorum found in Japanese calves, J-Vet-Med-Sci, pp. 409-413. 61. Vichitr Sukhapesna. (1982), Study of natural nematode infection in buffalo calves, Kasetsart - Veterinary (Thailand), pp. 157-164. 62. Weinstein D.L., Casiotis M., Lissner C.H.R., Osrien A.D. (1984), "Flagella help S.typhimurium survive within murine macrophages", Infection and Immuniti, pp. 819-825. 63. Wen Y.L., Zhuang Z.L., Lin M.B., Pan Y.D., Gao B.Z., Wang T.J. (1986), An epiemiologic survey of neoascaris in calves, Chinese-Journal-of- Science-and-Technology, pp. 18-20. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 1. Đặt vấn đề. 1 2. Mục đích của đề tài. 2 Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3 1.1. Hội chứng tiêu chảy ở bê nghé 3 1.1.1. Khái niệm về hội chứng tiêu chảy 3 1.1.2. Nguyên nhân gây tiêu chảy ở bê nghé 3 1.1.2.1. Nguyên nhân do điều kiện ngoại cảnh 4 1.1.2.2. Nguyên nhân tiêu chảy do thức ăn dinh dƣỡng 4 1.1.2.3. Nguyên nhân do vi khuẩn và vi rút 5 1.1.2.4. Nguyên nhân tiêu chảy do rối loạn hệ vi khuẩn đƣờng ruột 6 1.1.2.5. Nguyên nhân do ký sinh trùng 7 1.1.3. Bệnh lý và lâm sàng hội chứng tiêu chảy ở bê nghé 8 1.1.3.1. Bệnh lý 8 1.1.3.2. Lâm sàng của hội chứng tiêu chảy ở bê nghé 10 1.1.4. Chẩn đoán hội chứng tiêu chảy ở bê nghé 12 1.1.5. Biện pháp điều trị tiêu chảy cho bê nghé 14 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98 1.2. Giun đũa Neoascaris vitulorum và bệnh giun đũa ở bê nghé 19 1.2.1. Đặc điểm sinh học của giun tròn Neoascaris vitulorum 19 1.2.1.1. Đặc điểm hình thái của Neoascaris vitulorum 19 1.2.1.2. Đặc điểm vòng đời của Neoascaris vitulorum 20 1.2.2. Đặc điểm của bệnh do giun đũa Neoascaris vitulorum gây ra ở bê nghé 23 1.2.2.1. Cơ chế sinh bệnh 23 1.2.2.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh giun đũa bê nghé 24 1.2.2.3. Biểu hiện lâm sàng và bệnh tích 29 1.2.3. Chẩn đoán bệnh giun đũa Neoascaris vitulorum ở bê nghé 30 1.2.4. Biện pháp phòng trị bệnh 31 Chương 2. ĐỐI TƢỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 33 2.1. Đối tƣợng, địa điểm, thời gian nghiên cứu 33 2.1.1. Đối tƣợng nghiên cứu 33 2.1.2. Địa điểm nghiên cứu 33 2.1.3. Thời gian nghiên cứu 33 2.2. Vật liệu nghiên cứu 33 2.3. Nội dung nghiên cứu 34 2.3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ hội chứng tiêu chảy 34 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99 ở bê nghé dƣới 3 tháng tuổi tại 3 huyện, thị của tỉnh Tuyên Quang 2.3.2. Vai trò của giun đũa Neoascaris vitulorum trong hội chứng tiêu chảy của bê, nghé dƣới 3 tháng tuổi 34 2.3.3. Nghiên cứu sự tồn tại và phát triển của trứng giun Neoascaris vitulorum ở ngoại cảnh 34 2.3.3.1. Xác định sự phát tán trứng giun Neoascaris vitulorum ở chuồng trại, khu vực xung quanh chuồng và bãi chăn thả trâu bò, bê nghé 34 2.3.3.2. Xác định thời gian trứng giun Neoascaris vitulorum phát triển thành trứng có sức gây bệnh trong các điều kiện khác nhau ở ngoại cảnh 34 2.3.3.3. Xác định khả năng tồn tại của trứng giun Neoascaris vitulorum trong các điều kiện khác nhau ở ngoại cảnh. 34 2.3.3.4. Xác định khả năng bê nghé nuốt trứng giun đũa có sức gây bệnh khi bú mẹ. 35 2.3.4. Thử nghiệm một số phác đồ điều trị tiêu chảy do giun đũa gây ra ở bê nghé 35 2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu 35 2.4.1. Theo dõi các chỉ tiêu về dịch tễ hội chứng tiêu chảy ở bê nghé 35 2.4.2. Phƣơng pháp xét nghiệm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum 35 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100 2.4.3. Phƣơng pháp theo dõi trứng giun Neoascaris vitulorum phát triển thành trứng có sức gây bệnh ở ngoại cảnh 36 2.3.4. Phƣơng pháp xác định khả năng tồn tại của trứng giun đũa bê, nghé ở ngoại cảnh 37 2.4.5. Phƣơng pháp xác định sự ô nhiễm trứng Neoascaris vitulorum ở ngoại cảnh 37 2.4.6. Phƣơng pháp xác định khả năng bê nghé nhiễm giun đũa do nuốt trứng giun có sức gây bệnh khi bú mẹ 38 2.4.7. Phƣơng pháp điều trị tiêu chảy cho bê, nghé 38 2.4.8. Phƣơng pháp xử lý số liệu 40 Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 42 3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ của hội chứng tiêu chảy ở bê nghé dƣới 3 tháng tuổi tại Tuyên Quang 42 3.1.1. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy ở 3 huyện, thị của tỉnh Tuyên Quang 42 3.1.2. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo lứa tuổi 44 3.1.3. Tỷ lệ tiêu chảy ở bê nghé theo tính biệt 46 3.1.4. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo mùa vụ 47 3.1.5. Tỷ lệ bê nghé mắc tiêu chảy theo địa hình 49 3.1.6. Tỷ lệ tiêu chảy theo loại gia súc (bê, nghé) 40 3.1.7. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo phƣơng thức chăn nuôi trâu 51 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 101 bò mẹ 3.2. Vai trò của giun đũa Neoascaris vitulorum trong hội chứng tiêu chảy của bê nghé dƣới 3 tháng tuổi 53 3.2.1. Tỷ lệ nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum ở bê nghé tiêu chảy và bê nghé bình thƣờng 53 3.2.2. Cƣờng độ nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum ở bê nghé tiêu chảy và bê nghé bình thƣờng 55 3.3. Nghiên cứu sự tồn tại và phát triển của trứng giun đũa Neoascaris vitulorum ở ngoại cảnh 59 3.3.1. Xác định sự phát tán trứng giun Neoascaris vitulorum ở ngoại cảnh 59 3.3.2. Xác định thời gian trứng giun Neoascaris vitulorum phát triển thành trứng có sức gây bệnh ở ngoại cảnh 62 3.3.3. Xác định thời gian tồn tại của trứng giun đũa Neoascaris vitulorum ở ngoại cảnh 65 3.3.4. Xác định khả năng bê nghé nhiễm giun đũa do nuốt trứng giun có sức gây bệnh khi bú mẹ 68 3.4. Sử dụng một số phác đồ điều trị tiêu chảy cho bê, nghé 72 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 78 1. Kết luận 78 2. Tồn tại và đề nghị 79 2.1. Tồn tại 79 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 102 2.2. Đề nghị 79 TÀI LIỆU THAM KHẢO 81 1. Tài liệu tham khảo tiếng việt 81 2. Tài liệu tham khảo tiếng Anh 84 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 103 DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU Bảng Trang 3.1. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy ở một số địa phƣơng 43 3.2. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo lứa tuổi 44 3.3. Tỷ lệ tiêu chảy ở bê nghé theo tính biệt 46 3.4. Tỷ lệ bê nghé mắc tiêu chảy theo mùa vụ 47 3.5. Tỷ lệ bê nghé mắc tiêu chảy theo địa hình 49 3.6. Tỷ lệ tiêu chảy theo loại gia súc (bê hoặc nghé) 50 3.7. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo phƣơng thức chăn nuôi trâu bò mẹ 51 3.8. Tỷ lệ nhiễm giun đũa ở bê nghé tiêu chảy và bê nghé bình thƣờng 53 3.9. Cƣờng độ nhiễm giun đũa ở bê nghé tiêu chảy và bê nghé bình thƣờng 55 3.10. Sự lƣu hành trứng giun Neoascaris vitulorum ở nền chuồng, khu vực xung quanh chuồng và bãi chăn thả 60 3.11. Thời gian trứng giun Neoascaris vitulorum phát triển thành trứng có sức gây bệnh ở ngoại cảnh 62 3.12. Thời gian tồn tại của trứng Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh ở ngoại cảnh 66 3.13. Tỷ lệ trâu, bò mẹ mang trứng Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh trên bầu vú, núm vú và tỷ lệ bê nghé nhiễm giun đũa 70 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104 3.14. Kết quả sử dụng 3 phác đồ điều trị tiêu chảy cho bê nghé 3.15. Hiệu lực tẩy giun đũa của thuốc tẩy trong các phác đồ điều trị tiêu chảy 74 3.16. Điều trị cho những bê nghé sau dùng thuốc vẫn tiêu chảy 75 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105 DANH MỤC CÁC ẢNH MINH HOẠ Ảnh Trang 1. Nghé bị tiêu chảy, xét nghiệm thấy nhiều trứng giun đũa trong phân 57 2. Bê bị tiêu chảy, xét nghiệm thấy nhiều trứng giun đũa trong phân 57 3. Lấy mẫu phân nghé tiêu chảy (phân màu trắng, lỏng) 58 4. Mẫu phân bê nghé tiêu chảy và bình thƣờng thu thập về xét nghiệm tìm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum 58 5. Xét nghiệm phân bê nghé tìm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum 59 6. Mẫu cặn nền chuồng, mẫu đất bề mặt xung quanh chuồng và mẫu đất bề mặt bãi chăn thả thu thập về xét nghiệm tìm trứng giun Neoascaris vitulorum 61 7. Trứng giun đũa Neoascaris vitulorum mới thải ra ngoài (x 200) 64 8. Phôi bào phân chia ngày thứ 8 (x 200) 64 9. Phôi bào phân chia và co lại ở ngày thứ 10 (x 200) 65 10. Ấu trùng hình thành trong trứng ngày thứ 12 (x 300) 65 11. Trứng Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh ở ngày thứ 27 (một số trứng đã bị hƣ hỏng) (x 300) 68 12. Trứng Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh đang chuyển sang hƣ hỏng ở ngày thứ 30 (x 300) 68 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 106 13. Trứng Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh ở ngoại cảnh hỏng hoàn toàn ở ngày thứ 34 (x 300) 68 14. Mẫu giấy mềm và ƣớt lau bầu vú và núm vú trâu, bò mẹ để tìm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum 71 15. Các loại thuốc dùng điều trị tiêu chảy cho bê nghé 76 16. Tiêm thuốc điều trị tiêu chảy cho nghé 77 17. Giun đũa bị tẩy theo phân sau dùng thuốc 2 ngày 77

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdoc318.pdf
Tài liệu liên quan