Đối với một bài luận văn tốt nghiệp, đây là một đề tài khá lớn. Những điều nói đến trong này là những nghiên cứu mà em thực hiện trong thời kì gần đây. Một đề tài lớn như vậy mà lại chỉ do một sinh viên thực hiện thì điều không tránh khỏi là khá nhiều mảng của đề tài này đã bị bỏ qua, hoặc do em không đủ khả năng thực hiện toàn bộ hoặc do kiến thức không đủ. Tuy nhiên những điều em viết ra là những điều em đã tìm hiểu, đã rất tâm đắc trong quá trình nghiên cứu của mình.
Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân đối với sự phát triển của nền kinh tế là rất to lớn. Khu vực này giải quyết công ăn việc làm cho một số lượng rất lớn lao động và đóng góp vào GDP Việt Nam một khoản đáng kể. Bên cạnh đó các doanh nghiệp này còn tận dụng được các nguồn lực địa phương mà các doanh nghiệp lớn có thể đã bỏ qua. Tuy nhiên, dù có nhiều ưu điểm các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân vẫn còn các hạn chế, khó khăn cả về chủ quan và khách quan. Các khó khăn này khiến cho họ không thể hội nhập môi trường quốc tế một cách hoàn toàn đầy đủ và hiệu quả được. Luận văn này đã nêu lên các hạn chế, khó khăn đó.
Các giải pháp được đề nghị sử dụng để giải quyết các khó khăn hạn chế đó có một số đã và đang được áp dụng như giải pháp Làng nghề truyền thống. Các giải pháp mới như Thị trường “ngách” đang được các cơ quan nghiên cứu. Tuy nhiên giải pháp này và giải pháp Thương mại điện tử là hai giải pháp em rất tâm đắc. Hai điều này phù hợp với chiến lược phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ dù là của Việt Nam hay của thế giới, cho phép tập trung nguồn lực có hạn vào các mục tiêu hẹp để đạt được hiệu quả lớn nhất.
Các giải pháp em nêu lên trong bài có một đặc điểm là hơi thiên về tầm vĩ mô. Tuy một số giải pháp có thể được doanh nghiệp sử dụng nhưng phần lớn chúng đều đòi hỏi sự thực hiện của các cơ quan Chính phủ. Điều này có khó khăn là các doanh nghiệp nếu chỉ dựa vào các giải pháp đó sẽ không chủ động được.
82 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1144 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân trong nước hội nhập quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong các thể lệ tín dụng, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không thể tiếp cận được với các nguồn tín dụng để lập cơ sở kinh doanh mới của mình. Không có tài sản thế chấp là trở ngại chính đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc vay vốn tại Việt Nam. Thậm chí ngay cả khi các doanh nghiệp này có tài sản thế chấp thì cũng sẽ gặp nhiều khó khăn trong sử dụng tài sản thế chấp do những trở ngại trong việc xin giấy chứng nhận quyền sử dụng, kể cả những khó khăn về thủ tục công chứng và thủ tục định giá tài sản cầm cố , thế chấp. Mặt khác, chi phí giao dịch trong nghiệp vụ vay vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam là rất cao. Vì vậy các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh đang gặp khó khăn trong việc vay vốn tín dụng nói chung và vay vốn đầu tư trung và dài hạn nói riêng. Những thể chế tín dụng này rõ ràng là có sự phân biệt đối xử gây bất lợi cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, dành sự ưu tiên cho các doanh nghiệp nhà nước, bởi vì các doanh nghiệp nhà nước không cần phải có tài sản thế chấp cho các khoản vốn vay. Đó là một nhân tố đã đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ ra khỏi thị trường tín dụng và hệ thống ngân hàng.
Nhân tố thứ hai ngăn cản sự tham gia vào thị trường tín dụng và hệ thống ngân hàng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đến từ bản thân doanh nghiệp. Thứ nhất, chi phí cho nghiệp vụ giao dịch cao, dẫn đến khả năng sinh lời thấp. Thứ hai, các ngân hàng đều coi các doanh nghiệp vừa và nhỏ là những khách hàng có độ rủi ro cao. Điều này là hậu quả của số lượng hạn chế các thông tin sẵn có về một doanh nghiệp nhỏ và mức chi phí để thu thập được lượng thông tin đó. Một doanh nghiệp lớn có mối quan hệ lâu dài chặt chẽ đối với một vài ngân hàng hoặc tổ chức tài chính nhất định, các hệ thống bên trong công ty sẽ được duy trì với các nguyên tắc điều hành tài chính chặt chẽ... Các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhìn chung, không làm được như vậy. Với mức rủi ro cao các ngân hàng yêu cầu mức thế chấp cao. Như vậy, các doanh nghiệp nhỏ và vừa rất khó đáp ứng yêu cầu này, dẫn đến là tỷ lệ cho vay của các ngân hàng thương mại dành cho khu vực này thấp.
Vì vậy các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ tư nhân phải dựa vào nguồn tín dụng phi chính thức. Các nguồn tài trợ ngắn hạn và dài hạn cho tư nhân chủ yếu đến tư nguồn vốn tự có, sau đó là vốn vay gia đình, người thân, bạn bè. Kết cục là chi phí vốn của doanh nghiệp lại càng cao hơn. Điều này ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh.
Một vấn đề thứ hai cần lưu ý là thị trường chứng khoán. Ở nước ngoài thị trường chứng khoán là nơi các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu. Tuy nhiên ở Việt Nam, do thị trường chứng khoán chưa phát triển nên các tiêu chuẩn niêm yết rất nghiêm ngặt, cho nên tiềm năng huy động vốn trong nước của doanh nghiệp thông qua con đường này rất hạn chế.
Tóm lại, các khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn vay chính là nguyên nhân trực tiếp và đầu tiên cản trở quá trình hội nhập quốc tế của doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân Việt Nam. Muốn đẩy mạnh hoạt động hội nhập quốc tế của các doanh nghiệp này thì vấn đề chính phủ phải giải quyết đầu tiên chính là làm sao để họ có thể vay dễ dàng hơn. Không có vốn thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ có cố đến đâu cũng rất khó tiến ra thế giới.
Chương III:
Các giải pháp thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân của Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế
Lịch trình hội nhập quốc tế và tác động của nó tới việc hội nhập quốc tế của các PSSME của Việt Nam
Để gắn kết kinh tế Việt Nam với các nền kinh tế của các khu vực cũng như nền kinh tế toàn cầu, Chính phủ Việt Nam đã cam kết thực hiện các điều ước quốc tế, các Hiệp định Thương mại song phương và đa phương cũng như thực hiện các điều kiện để có thể tham gia vào các khối kinh tế khu vực và các tổ chức kinh tế toàn cầu. Ở đây chúng ta đang nói đến quá trình gia nhập của Việt Nam vào AFTA, WTO và Hiệp định thương mại song phương Việt-Mỹ.
Quá trình đó của Việt Nam như sau:
Năm 1986: Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ sáu đã mở đường cho chiến lược hội nhập và phát triển
Năm 1992: Quan sát viên ASEAN.
Năm 1995: Chính thức gia nhập ASEAN
Năm 1996: Triển khai thực hiện chương trình AFTA
Năm 1998: Thành viên APEC
Năm 2000: Ký kết Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
Năm 2005: Phấn đấu trở thành thành viên của WTO
Dưới đây ta sẽ lần lượt xem xét ba quá trình : thực hiện AFTA, tham gia WTO và thực hiện Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa kỳ.
Lịch trình hội nhập Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
Vị trí địa lý của Việt Nam gần như nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á. Vì vậy có thể thấy là ảnh hưởng của các nền kinh tế láng giềng nói riêng, nền kinh tế của cả khối ASEAN nói chung có một ảnh hưởng hết sức quan trọng tới sự phát triển bền vững của Việt Nam. Chính phủ Việt Nam đã ưu tiên lớn cho việc hội nhập kinh tế khu vực.
Với điểm mốc lịch sử 28/7/1995 Việt Nam được kết nạp làm hội viên chính thức của ASEAN. Việc tham gia của Việt Nam mang lợi ích cho cả hai phía: sự bền vững ổn định hơn nữa trong khu vực và uy tín ASEAN tăng lên trên diễn đàn quốc tế; đối với Việt Nam đó là các cơ hội phát triển kinh tế, các chương trình hợp tác phát triển, các bài học trong quá trình xây dựng... Bên cạnh đó điều này cũng mở đường cho Việt Nam gia nhập các hiệp định kinh tế khu vực như CEPT và AFTA.
Để có thể tham gia Hiệp định Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN Việt Nam phải thực hiện một loạt các cam kết, phần lớn liên qua đến việc giảm và loại bỏ các mức thuế nhập khẩu hàng hoá từ các nước ASEAN cũng như loại bỏ các hàng rào phi thuế quan. Năm 2001 đã có 712 hạng mục hàng hoá được chuyển từ Danh mục loại trừ tạm thời sang Danh mục loại trừ ngay, năm 2002 và 2003 con số này tương ứng là 500 và 700 hạng mục hàng hoá, hiện nay số lượng hàng hoá thuộc CEPT là 4233, chiếm 60% tổng số (6283) danh mục hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam. Gần 5000 dòng thuế nhỏ hơn 20% được đưa vào Danh mục loại trừ ngay để thực hiện AFTA, nông sản (thô và sơ chế), đồ uống giải khát có thuế suất lớn hơn 20% đã được giảm xuống 20% trong năm 2001. Tháng 2/2001 Việt Nam đã công bố chính thức lịch trình cắt giảm thuế cho giai đoạn 2001-2006 cho tất cả các hạng mục hàng hoá thuộc Danh mục loại trừ ngay và loại trừ tạm thời.
Cam kết thực hiện AFTA của Việt Nam:
Lịch trình cắt giảm
Thuế quan
Đối với hàng hoá thuộc danh mục loại trừ ngay: mức thuế giảm xuống còn từ 0-5%, cắt giảm theo 2 lộ trình:
1996 - 2006
- Cắt giảm bình thường: Thực hiện chủ yếu đối với các sản phẩm máy móc, thiết bị, sắt thép: mức thuế cao hơn 20% sẽ giảm xuống 20% vào tháng 1/2003 và tiếp tục giảm xuống 0-5% vào tháng 1/2006; mức thuế bằng/thấp hơn 20% giảm xuống 0-5% vào 2003
2001 - 2006
- Cắt giảm nhanh: gồm 15 nhóm sản phẩm như dầu thực vật, hoá phẩm phân bón, cao su, bột giấy, giấy, gỗ, sản phẩm mây đan... ; mức thuế cao hơn 20% phải giảm xuống 0-5% vào tháng 1/2003; mức thuế thấp hơn 20% phải giảm xuống 0-5% vào tháng 1/2001.
2001 - 2003
Đối với hàng hoá thuộc danh mục loại trừ tạm thời
- giảm mức thuế suất xuống còn 0-5%
1999 - 2006
- giảm 20% hàng năm và chuyển sang danh mục loại trừ ngay
1999 - 2003
Đối với danh mục nhạy cảm: giảm mức thuế suất xuống còn 0-5%
2018
Đối với các hạng mục hàng hoá thuộc Khuôn khổ hợp tác công nghiệp ASEAN giảm mức thuế suất xuống còn 0-5%
2015
Đối với các sản phẩm công nghệ thông tin, truyền thông giảm thuế suất xuống còn 0%
2003 - 2008
Phi thuế quan
Đối với các hàng hoá thuộc danh mục loại trừ ngay và danh mục nhạy cảm các hàng rào phi thuế sau phải được dỡ bỏ:
1996 - 2006
- Hạn chế định lượng (quota, cấm nhập khẩu, giấy phép)
1996 - 2003
- Hạn chế ngoại hối liên quan đến việc chi trả hàng hoá
1996
- Các khoản phụ thu hải quan dưới thuế
1996 - 1999
- Hàng rào phi thuế quan khác
1996 - 2006
Đối với các sản phẩm công nghệ thông tin, truyền thông: tất cả các hàng rào phi thuế quan phải được dỡ bỏ.
2003-2008
Lịch trình tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới WTO
Tổ chức Thương mại Thế giới được thành lập và chính thức đi vào hoạt động ngày 1/1/1995, là sự kế thừa và phát triển của GATT (Hiệp định chung về thương mại và thuế quan)-một tổ chức được thành lập từ năm 1948, nhằm thúc đẩy tự do ngoại thương và không áp dụng chính sách phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại.
Với hai nguyên tắc lớn là không phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại giữa các nước và thực hiện bảo hộ sản xuất bằng thuế quan, WTO đảm nhận các chức năng hoạt động chủ yếu sau:
Tổ chức các cuộc đàm phán mậu dịch đa biên nhằm thúc đẩy quá trình tự do hoá mậu dịch giữa các quốc gia
Xây dựng các quy tắc quốc tế mới về thương mại và tổ chức thực hiện các quy tắc đó. Các nước đã ký kết và thừa nhận các hiệp định của WTO đều phải thực hiện các quy tắc này. Theo Hiệp định, các nước thành viên của WTO cắt giảm 38% thuế nhập khẩu, đưa mức thuế trung bình toàn cầu từ 5% giảm xuống còn 3% trong 10 năm tới, dự tính đến năm 2005 lượng trao đổi hàng hoá tăng 12% (tương đương 755 tỷ USD) và GDP của thế giới tăng 235 tỷ USD/năm.
Giải quyết các mâu thuẫn và tranh chấp mậu dịch quốc tế.
Phát triển kinh tế thị trường.
Tuy nhiên trên thực tế do sự phát triển kinh tế không đồng nhất nên việc vận dụng các quy tắc và quy chế cũng có sự điều chỉnh thích hợp, đặc biệt là một số ưu đãi dành cho các quốc gia đang phát triển như miễn giảm hoặc bãi bỏ nghĩa vụ và cung cấp các điều kiện thuận lợi khác tuỳ theo mức độ phát triển của mỗi quốc gia. Cụ thể:
u Các nước đang phát triển hoặc kém phát triển được giảm hoặc miễn nghĩa vụ khi thực hiện những nghĩa vụ của những hiệp định mới về sở hữu trí tuệ hay các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, các nước đang phát triển được kéo dài thời gian thực hiện hơn các nước tiên tiến.
v Các nước đang phát triển có thể áp dụng mức thuế quan cao hơn mức của các nước phát triển trong các thoả thuận quốc tế về thuế quan.
w WTO áp dụng hệ thống ưu đãi chung cho các nước đang phát triển và hệ thống ưu đãi cho các nước kém phát triển. Theo đó các nước phát triển áp dụng mức thuế thấp cho hàng hoá nhập khẩu từ các nước đang phát triển/kém phát triển, thậm chí có trường hợp mức thuế này thấp hơn cả mức thuế theo tối huệ quốc.
x WTO kế thừa GATT thực hiện nguyên tắc “có đi có lại”, theo đó nước nào có trình độ phát triển kinh tế càng thấp thì phải chịu mức độ và phạm vi của nghĩa vụ và bồi thường càng ít.
Nhận thức tầm quan trọng của quá trình tham gia WTO, từ cuối thập kỉ 80 Việt Nam đã làm quan sát viên một phần của tổ chức GATT. Ngày 20/7/1994 Việt Nam là quan sát viên chính thức của GATT, tạo điều kiện cho nước ta tham dự tất cả các cuộc hội nghị của Tổ chức Thương mại Quốc tế, tiếp cận thuận lợi hơn với thị trường thế giới thúc đẩy quan hệ buôn bán quốc tế.
Để có thể tham dự thực sự vào hoạt động thương mại thế giới cùng với các thành viên khác và trở thành thành viên của WTO, các thủ tục và tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam gồm 6 giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: Nộp đơn gia nhập.
Giai đoạn 2: Gửi “Bị vong lục về chế độ ngoại thương của Việt Nam” tới Ban công tác. Bị vong lục giới thiệu tổng quan về nền kinh tế: chính sách vĩ mô, cơ sở hoạch định và thực thi chính sách cùng với thông tin chi tiết về chính sách liên quan tới thương mại hàng hoá dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ.
Giai đoạn 3: Làm rõ chính sách thương mại. Đến nay Ban công tác đã tổ chức 3 phiên họp tại trụ sở WTO tại Giơnevơ-Thuỵ sĩ, hai lần vào năm 1998, và một lần vào tháng 7 năm 1999 để đánh giá tình hình chuẩn bị và để Việt Nam trực tiếp giải thích chính sách.
Giai đoạn 4: Đưa ra bản chào ban đầu và tiến hành đàm phán song phương. Các bản chào ban đầu bao gồm: Bản chào ban đầu về thuế, là dự kiến thuế suất thuế nhập khẩu cho tất cả các mặt hàng ta định cam kết ràng buộc khi là thành viên. Bản chào ban đầu về loại bỏ các hàng rào phi thuế: dự kiến lộ trình loại bỏ các hàng rào phi thuế như cấm nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu và các biện pháp hạn chế định lượng nhập khẩu khác. Bản chào ban đầu về dịch vụ: dự kiến những lĩnh vực dịch vụ cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia và các điều kiện kinh doanh, như hình thức cung cấp dịch vụ (chi nhánh, văn phòng đại diện), mức vốn, số lao động, yêu cầu về bằng cấp... Gia nhập WTO Việt Nam có quyền tiếp cận với thị trường của tất cả các nước thành viên khác trên nguyên tắc MFN. Tuy nhiên để có được quyền lợi đó, Việt Nam cũng phải cam kết chấp nhận nguyên tắc đa biên, giảm bảo hộ bằng việc cam kết thuế xuất nhập khẩu tối đa và lộ trình loại bỏ các hàng rào phi quan thuế. Đồng thời phải mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia kinh doanh trong nhiều lĩnh vực dịch vụ với điều kiện thông thoáng hơn, đặc biệt là một số lĩnh vực đang được chú ý như: viễn thông, tài chính ngân hàng, xây dựng, vận tải. Mức độ mở cửa cũng được tiến hành thông qua đàm phán song phương với mọi thành viên quan tâm đến thị trường Việt Nam.
Giai đoạn 5: Hình thành nghị định thư. Khi mọi thủ tục đã hoàn tất và đơn xin gia nhập đã được chấp thuận (với sự chấp thuận của 2/3 số nước thành viên) nghị định thư gia nhập sẽ được đàm phán. Nghị định thư này sẽ quy định các điều kiện về tư cách hội viên. Trong một số trường hợp có thể có các điều kiện đặc biệt.
Giai đoạn 6: Phê chuẩn Nghị định thư.
Qua 4 vòng đàm phán kể từ 7/1998, Việt Nam đã hoàn tất việc công bố làm rõ chính sách kinh tế, thương mại với các nước thành viên WTO, tháng 12/2001 bản chào đầu đã được Chính phủ Việt Nam phê duyệt và gửi cho Ban Thư ký WTO. Theo mục tiêu phấn đấu Việt Nam có thể được gia nhập WTO vào năm 2004. Hiện nay (tháng 5/2003) Chính phủ tuyên bố đã hoàn thành 5 vòng đàm phán và đang chính thức tiến vào giai đoạn 6.
Hiệp định song phương Việt-Mỹ
Các dấu mốc lịch sử trong mối quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ
14/12/1992 - Mỹ cho phép các công ty mở văn phòng đại diện tại Việt Nam.
3/2/19994 - Lệnh bãi bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt Nam có hiệu lực.
11/7/1995 - Thiết lập mối quan hệ ngoại giao hai nước.
21-26/9/1996 - Vòng đàm phán thương mại đầu tiên giữa hai nước.
13/7/2000 - Ký Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ trên cơ sở nguyên tắc WTO.
1/1/2001 - Hiệp định Thương mại song phương Việt - Mỹ có hiệu lực.
Hoa kỳ là một quốc gia có vị thế chiến lược, có ảnh hưởng và khả năng chi phối đến chiến lược phát triển thương mại toàn cầu, một quốc gia có nhiều điểm nhạy cảm trong quan hệ với Việt Nam, đã triển khai chương trình bình thường hoá quan hệ với Việt Nam và Hiệp định thương mại Việt-Mỹ chính thức có hiệu lực từ ngày 10/12/2001 là kết quả tốt đẹp của quan hệ hợp tác này. Thời kì 1991-1995 cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ chỉ chiếm 1%, đến năm 2000 đã tăng lên đến 8% và dự kiến năm 2010 và 2020 tương ứng là 12% và 15%.
Nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại Việt-Mỹ, ngày 12/3/2002 Chính phủ Việt Nam đưa ra Chương trình hành động, khuyến khích các doanh nghiệp phát triển quan hệ với thị trường Mỹ, với 8 nội dung quan trọng là: phổ biến Hiệp định, rà soát các văn bản pháp luật, lộ trình mở cửa thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh, kiểm tra hàng hoá xuất nhập khẩu và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, xúc tiến thương mại, đầu tư, an ninh quốc phòng, đào tạo nguồn nhân lực và tổ chức. Việc mở rộng mối quan hệ thương mại Việt-Mỹ là bước phát triển đầy triển vọng, tiến đến mục tiêu gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới.
Những điều khoản trong Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ đặt ra trước các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân nói riêng những thách thức không nhỏ trong việc mở rộng thị trường đã có ở trong nước và tiến ra thị trường Mỹ.
Cam kết mở cửa dịch vụ trong Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ
Về viễn thông: đối với các dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng, liên doanh với các đối tác Việt Nam được phép kinh doanh sau 2 năm (sau 3 năm nếu với dịch vụ Internet) kể từ khi Hiệp định có hiệu lực và phần vốn góp của phía Hoa Kì không quá 50% vốn pháp định của liên doanh. Đối với các dịch vụ viễn thông cơ bản, liên doanh với đối tác Việt Nam được phép kinh doanh sau 4 năm và phần vốn góp của phía Hoa Kỳ không quá 49% vốn pháp định của liên doanh. Đối với các dịch vụ điện thoại cố định liên doanh với các đối tác Việt Nam được phép kinh doanh sau 6 năm và phần vốn góp của phía Hoa Kỳ không quá 49% vốn pháp định của liên doanh.
Về bảo hiểm nhân thọ và các lĩnh vực không bắt buộc khác: sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, phía Hoà Kỳ được lập liên doanh với các đối tác Việt Nam được phép kinh doanh các dịch vụ này và phần vốn góp của phía Hoa Kỳ không quá 50% vốn pháp định của liên doanh. Sau 5 năm Hiệp định có hiệu lực thì các đối tác Hoa Kỳ được lập công ty 100% vốn pháp định.
Về dịch vụ ngân hàng và tài chính: sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực liên doanh với đối tác Việt Nam được phép hoạt động.
Về việc thành lập ngân hàng liên doanh: sau 9 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực các ngân hàng Hoa kỳ được lập các ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ tại Việt Nam. Trong vòng 9 năm đó, các ngân hàng Hoa Kỳ được lập liên doanh với đối tác Việt Nam, trong đó phần vốn góp của phía Hoa Kỳ không dưới 30% nhưng không vượt quá 49% vốn pháp định. Trong vòng 8 năm đầu kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam có quyền hạn chế quyền của một chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ các pháp nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng theo mức vốn pháp định của chi nhánh phù hợp với biểu thời gian. Sau thời gian đó hạn chế bị bãi bỏ.
Nguồn: VER tháng 1/1999
Các giải pháp thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế
Nhằm để khắc phục khó khăn cho các doanh nghiệp tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, thúc đẩy hơn nữa tốc độ và tính hiệu quả của quá trình này, Nhà nước và các doanh nghiệp cũng đã chủ động đưa ra các giải pháp sau đây. Các biện pháp này vừa dành cho Nhà nước để sửa đổi những bất cập trong cơ chế chính sách của mình vừa dành cho doanh nghiệp để doanh nghiệp có thể cải thiện trạng thái vốn có của mình nhằm hội nhập và tồn tại được trong một môi trường có tính quốc tế hoá cao và độ cạnh tranh ngày càng tăng.
Các biện pháp thuế quan
Các sắc thuế đánh vào các mặt hàng xuất khẩu đang gây ảnh hưởng xấu tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nó làm tăng chi phí hàng hoá dẫn đến giảm sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam trên trường quốc tế. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi cạnh tranh với nước ngoài phải dựa vào mức giá thấp của hàng hoá, vì vậy các sắc thuế xuất khẩu ảnh hưởng đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhiều hơn các doanh nghiệp lớn. Kiến nghị : miễn giảm thuế tối đa đối với mọi mặt hàng xuất khẩu, kể cả các mặt hàng và dịch vụ “xuất khẩu tại chỗ” (ví dụ như thực hiện các dịch vụ cho một tổ chức và cá nhân nước ngoài, thanh toán bằng ngoài tế và được chuyển từ nước ngoài vào).
Thuế nhập khẩu: các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam có một phần quan trọng là các nguyên liệu vật tư và máy móc thiết yếu cho sản xuất kinh doanh và các doanh nghiệp cải tạo nâng cấp công nghệ. Các thuế nhập khẩu đánh vào các mặt hàng này sẽ làm tăng chi phí sản xuất, giới hạn khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Bởi vậy nên đề nghị cắt giảm sớm thuế nhập khẩu các mặt hàng là nguyên vật liệu phục vụ sản xuất xuất khẩu, máy móc, phụ tùng để nâng cấp cải tiến công nghệ; xóa bỏ cách đánh thuế dựa trên mục đích sử dụng; giảm số thuế và mức thuế.
Cơ chế tài chính kế toán đơn giản để các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ nộp thuế:
Các chính sách thuế ở Việt Nam không tạo ra ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Phương thức thu thuế áp dụng cho các loại hình doanh nghiệp ngày là phương thức thu thuế khoán do sổ sách kế toán ở các hộ kinh doanh của các hộ kinh doanh cá thể thực sự nghèo nàn. Theo số liệu thống kê của Tổng cục thuế, trong năm 2001, cả nước mới có 112 500 hộ kinh doanh cá thể lớn thực hiện chế độ kế toán hộ kinh doanh, tỷ lệ 85% số hộ kinh doanh phải thực hiện chế độ kế toán. Hệ thống sổ sách kế toán áp dụng cho các hộ kinh doanh cá thể là một trong những cản trở không cho phép các doanh nghiệp này tiếp cận các ưu đãi từ các chương trình quốc gia (mặc dù hệ thống này được Bộ Tài chính ban hành nhưng lại không được coi là chính thức).
Các tiêu chí để áp dụng mức thuế cũng không rõ ràng.
Hy vọng rằng các giải pháp thuế quan này sẽ làm giảm bớt chi phí không đáng có của các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân của Việt Nam, giúp các doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả hơn trong môi trường quốc tế.
Giảm thiểu sự quản lý quá mức của nhà nước đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Thanh tra kiểm tra:
Như đã nói ở trên, trong ba loại hình doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thì lạo hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ tư nhân bị thanh tra kiểm tra nhiều nhất. Các cuộc thanh tra kiểm tra đó, không chỉ chồng chéo lên nhau gây lãng phí cho xã hội, chúng còn ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Đề nghị các cơ quan Nhà nước xem xét và tìm cách áp dụng một cách thích hợp kinh nghiệm của các nước khác trong vấn đề thanh tra, kiểm tra. Đặc biệt là kinh nghiệm của Nhật Bản trong vấn đề này: các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhật Bản tự nguyện xin được thanh tra và các thanh tra viên giúp họ chuẩn đoán công việc kinh doanh, khắc phục các vấn đề đang nẩy sinh và sắp nẩy sinh để tránh những hậu quả ngoài ý muốn.
Bảng 3.1: So sánh môi trường kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp
A: Thuận lợi
B: Bình thường
C: Khó khăn
STT
Tiêu chí so sánh
Doanh nghiệp Nhà nước
Doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài
Doanh nghiệp tư nhân
1
Về thành lập và đăng ký kinh doanh
C
B
A
2
Về giải thể doanh nghiệp
C
B
A
3
Về phá sản doanh nghiệp
C
B
A
4
Về vay vốn và tham gia và tham gia vào thị trường vốn
A
B
C
5
Tuyển dụng lao động
B
C
A
6
Chính sách tiền lương, tiền công
C
B
A
7
Thuế và các chính sách tài chính
B
A
C
8
Chính sách đất đai
A
B
C
9
Chuyển giao công nghiệp và sở hữu công nghiệp
C
A
B
10
Hợp tác liên doanh với nước ngoài
A
B
C
11
Xuất, nhập khẩu và xúc tiến thương mại
A
B
C
12
Thanh tra kiểm tra doanh nghiệp
B
A
C
(Nguồn: Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền cạnh tranh, NXB Giao thông Vận tải, 2002 thuộc Dự án Hoàn thiện môi trường kinh doanh VIE/97/016)
Các chi phí vật chất và tinh thần phát sinh trong quá trình thanh tra sẽ làm giảm đi các nguồn lực mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể dành cho hoạt động kinh doanh quốc tế. Bằng việc làm giảm bớt các hoạt động thanh tra và trao quyền tự chủ hơn nữa cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhà nước đã làm tăng thêm khả năng hoạt động hiệu quả của các doanh nghiệp này, giúp họ có thêm cơ hội và hội nhập quốc tế tốt hơn.
Phát triển các làng nghề và làng nghề truyền thống
Hiện nay cả nước có 1450 làng nghề trong đó có 300 làng nghè truyền thống, thu hút khoảng 4 triệu lao động thu hút khoảng 4 triệu lao động. Mô hình về sự phát triển thành công của làng nghề Bát Tràng là một ví dụ điển hình của sự phát triển kết hợp công-nông-tiểu thủ công nghiệp tại các vùng nông nghiệp. Cùng lúc mô hình này đã giải quyết được cả các vấn đề kinh tế và xã hội tại các vùng nông nghiệp, duy trì và phát triển văn hoá, bản sắc dân tộc trong kinh doanh , khôi phục thị trường trong nước và tạo hình ảnh của Việt Nam trên thị trường thế giới.
Tại một số tỉnh Miền Bắc như Hà Tây, Bắc Ninh, mô hình làng nghề cũng đang được nhân rộng. Bên cạnh mô hình một nghề, Bắc Ninh còn xây dựng các cụm công nghiệp đa nghề. Hiện nay đã có cụm sản xuất thép Đa Hội – Châu Khê, cụm sản xuất đồ gỗ mĩ nghệ Đông Quang và cụm Tân Hồng - Từ Sơn và các cụm khác đang được hình thành. Những hình ảnh về làng nghề đang dần làm thay đổi bộ mặt nông thôn và sửa sang cho bộ mặt của loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân ở nông thôn.
Tuy nhiên việc phát triển các làng nghề hiện nay đang gặp phải nhiều khó khăn. Tại các tỉnh, các làng nghề vẫn chưa được qui hoạch phát triển dài hạn, chủ yếu vẫn mang tính tự phát, quy mô sản xuất nhỏ bé, phân tán và chưa được sự quan tâm đúng mức của các cơ quan chính quyền địa phương. Cơ sở hạ tầng hiện tại chưa tương xứng với sự phát triển làng nghề, thiếu mặt bằng sản xuất, đường giao thông nông thôn xuống cấp, điện sản xuất không đủ công suất. Vốn cho phát triển làng nghề bị hạn chế, thêm vào đó khi cần vay vốn các thủ tục còn kéo dài, khó huy động các nguồn vốn khác vào sản xuất kinh doanh.Thiết bị công nghệ tại các làng nghề chủ yếu vẫn là thủ công nửa cơ khí nên năng suất và chất lượng không cao, và chưa đồng đều, ảnh hưởng đến sức tiêu thụ của hàng hoá. thị trương tiêu thụ sản phẩm chưa được mở rộng, mẫu mã sản phẩm chậm được cải tiến, khả năng cạnh tranh thấp. Ngoài ra các vấn đề về môi trường vẫn chưa được xem xét một cách đầy đủ khi xây dựng phát triển làng nghề.
Để tạo thuận lợi cho việc phát triển các làng nghề, ngoài việc trông mong vào các chính sách khuyến khích của Nhà nước, các làng nghề nên tập hợp sức mạnh nội lực, thành lập các hiệp hội theo ngành hàng. Theo đó từng bước quy hoạch phát triển mở rộng thị trường theo làng nghề, giúp lẫn nhau về thông tin thị trường, tổ chức tiêu thụ sản phẩm, xúc tiến thương mại qua nhiều mối quan hệ trong và ngoài nước, thành lập các tổ chuyên môn giới thiệu sản phẩm, quảng bá sản phẩm trên mạng, xây dựng nhãn hiệu hàng hoá của làng nghề.
Các làng nghề là nơi để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể hình thành và hoạt động có hiệu quả và tận dụng được các nguồn lực địa phương. Bằng việc tổ hợp nguồn lực của nhiều doanh nghiệp trong một làng nghề, các doanh nghiệp đó có thể làm giảm thiểu chi phí trông việc quảng bá hình ảnh sản phẩm của mình ra thị trường quốc tế và cắt giảm chi phí sản xuất kinh doanh. Đây là môi trường thuận lợi nhất để các doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ của nước ta hoạt động mà vẫn có thể cạnh tranh với nước ngoài.
Tăng cường nghiên cứu , phát triển chiến lược khai thác thị trường “ngách”.
Thị trường “ngách” là cách gọi những khoảng trống, khe hở trên thị trường chính, tồn tại nhu cầu về một loại hàng hoá nào đó mà các công ty tập đoàn chiếm lĩnh thị trường đó không phát hiện ra hoặc cho rằng đầu tư vào đó không có lợi thế. Các khe hở đó bao giờ cũng được các doanh nghiệp vừa và nhỏ tận dụng triệt để ,vì đó có thể nói là “nguồn sống” của họ khi họ không thể cạnh tranh với các tập đoàn bá chủ thị trường lớn. Thị trường ngách phù hợp với kích cỡ quy mô không lớn của các doanh nghiệp nhỏ, không thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp lớn, tránh được cạnh tranh trực tiếp hết sức nguy hiểm. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể chuyên môn hoá phục vụ một nhóm khách hàng cụ thể hoặc chuyên môn hoá môt hay vài khâu theo chiều dọc của một chu kì sản xuất-phân phối, chuyên môn hoá theo khu vực địa lý, theo mặt hàng và/hoặc một vài đặc tính chuyên nghề của một số nhóm sản phẩm.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong điều kiện hạn hẹp về tài chính,, khả năng xâm nhập thị trường lớn tương đối thấp, khả năng điều tiết các mối quan hệ có lợi cho mình về giá cả và số lượng gần như không có, mạng lưới thông tin thị trường gần như không có, đầu tư cho R&D thấp nên việc phát triển thị trường ngách đặc biệt quan trọng. Sự phù hợp trong việc nhắm đích vào thị trường ngách còn thể hiện ở chỗ: với lượng vốn đầu tư nhỏ, chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng thấp, doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể dễ đầu tư kinh doanh đáp ứng nhóm nhu cầu nhỏ, mức rủi ro thấp, có khả năng kiểm soát dòng vốn thuận tiện. Hơn nữa do có sự gần gũi thị trường nên những biến động trong nhu cầu dễ được doanh nghiệp phát hiện ra và điều chỉnh cung ứng, thêm vào đó do quy mô nhỏ nên sự chuyển giao công nghệ cũng được tiến hành gọn gàng và ít phức tạp. Điều này tạo lợi thế lớn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nâng cao năng lực cạnh tranh, linh hoạt và năng động thích nghị nhanh với đòi hỏi của thị trường. Tại một số địa phương, doanh nghiệp vừa và nhỏ thương sử dụng những lao động thuộc chuyên môn làng nghề hoặc lao động trong thời kì nông nhàn và kết hợp chặt chẽ lao động thủ công với công nghệ hiện đại, điều này các doanh nghiệp lớn khó thực hiện do biên chế và bộ máy cồng kềnh. Do quy mô nhỏ nên chi phí cho bộ máy quản lý, hạ tầng cơ sở và các khoản chi phí hành chính khác cũng đỡ tốn kém hơn. Với các khoản chi phí đã tiết kiệm được , doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tập trung cho sản xuất nâng cao chất lượng, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Thực tế trên thương trường trong nước và quốc tế đã cho thấy những bài học kinh nghiệm trong khai thác thành công thị trường ngách của các công ty Nhật Bản sau Chiến tranh Thế giới thứ hai khi cạnh tranh với các công ty của Mỹ và Châu Âu, sự phát triển từng bước của Sony đặc biệt với sản phẩm Walkman. Các quốc gia khác như Hàn Quốc, Đài Loan, Hongkong, Singapore... cũng đã chú ý áp dụng thị trường ngách để khẳng định vị thế của mình trên thương trường quốc tế. Việt Nam với đặc điểm phát triển kinh tế của mình đang gặp phải những thách thức to lớn. Các doanh nghiệp của Việt Nam sẽ phải tiếp cận các thị trường nước ngoài đã có người làm chủ là những tập đoàn lớn có sức mạnh hùng hậu về kỹ thuật, công nghệ, mạng lưới tiêu thụ sản phẩm... Thị trường ngách là câu trả lời hợp lý nhất cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của chúng ta.
Tư tưởng nhất quán trong việc khai thác thị trường này là phải kinh doanh những sản phẩm/dịch vụ mà khách hàng cần chứ không bị bó chặt vào những năng lực có sẵn của doanh nghiệp. do vậy doanh nghiệp cần phải lấy việc tìm hiểu nhu cầu khách hàng làm bước khởi phát cho mọi hoạt động kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khai thác nắm bắt nhu cầu khách hàng có thể thực hiện dưới nhiều hình thức: hỏi trực tiếp khách hàng, quan sát thị trường và hoạt động kinh doanh của các đối thủ cạnh tranh, khai thác thông tin từ hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng, hoặc qua mối quan hệ bạn bè, gia đình. Các chủ doanh nghiệp cần có khả năng nhìn ra những vấn đề mà người chưa nhìn ra, nhận ra những nhu cầu tiềm năng mà thậm chí ngay cả khách hàng còn chưa hình dung được một cách đầy đủ.
Tiếp đó phải tận dụng mọi thời cơ và nguồn lực cho việc khai thác thị trường, ở điểm này sự cẩn trọng và quyết đoán nhanh là những đức tính cần thiết nhất đối với chủ doanh nghiệp. Chi phí cơ hội phải trả sẽ là rất lớn cho những ai không nắm bắt đúng thời cơ. Trong cuộc cạnh tranh gay gắt, phần thắng sẽ thuộc về những ai “biết mình biết người”, linh hoạt lúc công lúc thủ, biết chọn người để hợp tác kinh doanh và biết giữ chữ tín trong làm ăn. Với thực lực của mình các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần định hướng khu vực thị trường mục tiêu tại những nơi mà đối thủ cạnh tranh lớn bỏ qua, hoặc chưa đáp ứng đủ nhu cầu, phần thị trường có mức cạnh tranh thấp hoặc nơi mà đối thủ cạnh tranh ít quan tâm đổi mới, cải tiến mẫu mã sản phẩm. Khi phán đoán xác định mức cầu tại các thị trường này, doanh nghiệp cần làm rõ cấu trúc của cầu, tỷ trọng thu nhập dân cư và sức mua tiềm năng; sự chuyển biến về quy mô và cơ cấu người tiêu dùng thường là thời điểm tốt nhất để doanh nghiệp nhận ra thị trường ngách.
Với vùng thị trường ngách, các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ phải lựa chọn và quyết định phương án kinh doanh. Một phương án kinh doanh tốt phải có tính khả thi cao, đáp ứng những yêu cầu về kinh tế (doanh thu, lợi nhuận), xã hội (công ăn việc làm, chất lượng cuộc sống, môi trường) và khả năng tồn tại lâu dài. Trong các phương án kinh doanh được lựa chọn, dựa vào đặc trưng của nhóm khách hàng mục tiêu, doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ dự tính các cách thức đáp ứng với các giải pháp markerting hữu hiệu, như thiết kế các sản phẩm đảm bảo các đặc tính, lợi ích tiêu dùng, chất lượng thích hợp, có chính sách định giá hợp lý, thiết kế các kênh phân phối nhằm kiểm soát được sức tiêu thụ của hàng hoá và hỗ trợ bán hàng bằng các hạot động xúc tiến thương mại (quảng cáo, khuyến mại, tuyên truyền cổ động...).
Trong khi xây dựng các giải pháp marketing, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần nỗ lực xây dựng năng lực chủ chốt của mình để làm cơ sở cho sự khác biệt hoá, tạo ra tính đơn nhất của sản phẩm/dịch vụ và danh tiếng uy tín của thương hiệu.
Trong kinh doanh cho dù mọi trù tính có cẩn trọng đến đâu cũng không phải lúc nào cũng thành công như ý muốn. Trong những tình thế khó khăn doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng cần lưu ý đến những rủi ro có thể, và tính đến đường rút an toàn cho doanh nghiệp. Thông thường việc rút lui cũng phải vấp phải một số khó khăn do phải thanh lý các tài sản cố định, hoặc mất một số khách hàng quen thuộc, thậm chí ảnh hưởng cả đến nhãn hiệu hàng hoá. Nhưng chủ động đối phó vẫn luôn được coi là đơn thuốc trị bệnh hiệu quả hơn cả. Điều quan trọng là nhu cầu thị trường luôn biến động, nếu một phần thị trương này bị lấp đầy thì chắc chắn sẽ có những lỗ hổng thị trường khác chưa được đáp ứng, điều này sẽ tạo thêm sự tự tin và sức hấp dẫn khai phá thị trường của các chủ doanh nghiệp.
Tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Giống như rất nhiều các nước đang phát triển trên thế giới, ở Việt Nam thị trường vốn dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có hai kênh cơ bản: kênh chính thức và kênh phi chính thức.
Kênh tài chính chính thức có các nhà cung cấp vốn vay là các ngân hang thương mại quốc doanh, ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh , chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, công ty tài chính và công ty thuê mua tài chính. Trong các đơn vị này thì các ngân hàng thương mại quốc doanh gần như thống trị thị trường vốn vay.
Về vấn đề thế chấp tài sản : có hai vấn đề ảnh hưởng nặng đến việc vay ngân hàng của doanh nghiệp vừa và nhỏ có liên quan đến thủ tục thế chấp tài sản. Thứ nhất là thị trường bất động sản kém phát triển. Thứ hai là công tác đánh giá chất lượng tài sản thế chấp nằm trong tay ngân hàng nên ngân hàn đã lợi dụng để đánh giá thấp giá trị tài sản so với giá thực của nó.
Về các quy định chi phối việc cho vay: các quy định này do Luật Ngân hàng và Luật các tổ chức tín dụng quy định. Chúng cụ thể tới mức các doanh nghiệp có thể tự xác định xem mình có hy vọng tiếp cận nguồn vốn đó hay không. Trong rất nhiều trường hợp doanh nghiệp không nỗ lực gì vì họ biết ngay là mình chẳng có hy vọng gì. Chẳng hạn như quy định về doanh nghiệp phải có uy tín với ngân hàng (doanh nghiệp vay lần đầu chịu chết) hay doanh nghiệp phải có tài sản thế chấp (doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ gặp khó khăn).
Kết cục của vấn đề là doanh nghiệp đói vốn còn ngân hàng thì ứ đọng vốn.
Để giải quyết vấn đề người viết xin đề xuất hai điều sau:
Thành lập một cơ quan riêng rẽ với ngân hàng có nhiệm vụ đánh giá tài sản thế chấp. Cơ quan này sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu đánh giá sai.
Nới lỏng các quy định liên quan đến các khoản vay dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, tháo bỏ các điểm bất hợp lý và nói chung là thoáng hơn.
. Một ví dụ về hội nhập quốc tế là việc thâm nhập vào một thị trường mới của một quốc gia khác. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ cần có vốn để tiến hành điều tra thị trường mở rộng, thiết lập mạng lưới phân phối hàng thông qua các cửa hàng sẵn có của địa phương, tiến hành quảng cáo... Tất cả các hoạt động đó đòi hỏi một lượng vốn mà nói chung là vượt xa các nguồn dự trữ sẵn có của các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân Việt Nam.
Các vấn đề về vốn là rào cản đầu tiên đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc mở rộng kinh doanh và xâm nhập thị trường mới. Để hội nhập quốc tế thành công, các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân cần có một số vốn ban đầu nhất định. Bằng việc tạo điều kiện cho các PSSME có thể vay vốn dễ dàng, Nhà nước cũng đã khiến cánh cửa hội nhập quốc tế của họ mở ra.
Nâng cao năng lực của đội ngũ nhân lực và quản trị trong doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nâng cao năng lực kinh doanh :
Nguồn nhân lực là một trong những lợi thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để tồn tại được trên thị trường với hạn chế về nguồn lực do đặc trưng quy mô nhỏ, đội ngũ cán bộ quản trị của doanh nghiệp phải có một tư duy năng động và có năng lực kinh doanh tốt. Để nâng cao được năng lực kinh doanh bằng việc phát triển các kĩ năng quản trị chiến lược, các nghiệp vụ về marketing, kế toán tài chính, nhân sự và thông tin. Với tư duy marketing, việc lựa chọn chuẩn xác thị trường mục tiêu để theo đuổi sẽ mở đầu cho một loạt các cơ hội đầu tư đúng, định vị sản phẩm trong các nhóm khách hàng trọng điểm, tổ chức chủ động đáp ứng nhu cầu khách hàng. Với tiêu điểm thoả mãn ngày càng cao nhu cầu khách hàng , các công cụ marketing-sản phẩm phù hợp, mức giá thoả đáng, hệ thống phân phối tiện lợi, khuyếch trương hợp lý- sẽ giúp công ty kiểm soát tốt hoạt động sản xuất kinh doanh . Cùng với các hoạt động marketing, công tác tài chính-kế toán nhằm tạo ra sự lưu thông trong hệ thống huyết mạch của công ty, sẽ cho phép công ty kiểm soát đầy đủ sự vận động của các dòng tiền và tính chi tiết của các dạng chi phí. Quản trị tốt về tài chính là một yêu cầu quan trọng cho phép doanh nghiệp vừa và nhỏ nhận định về thời điểm có thể tạo ra những bước đột phá trong danh mục đầu tư, giảm thiểu rủi ro đồng thời nhân nhanh giá trị của vốn đầu tư.
Năng động trong tiếp thu các tri thức mới
Nhu cầu tri thức cho phát triển cần thiết tất cả mọi người, thuộc mọi tầng lớp, nghề nghiệp, mọi lĩnh vực kinh tế xã hội của quốc gia. Tri thức phục vụ phát triển bao gồm cả tri thức bản địa và tri thức hiện đại du nhập từ bên ngoài. Kinh nghiệm thực tế cho thấy các quốc gia cũng như các doanh nghiệp cần có chương trình hành động sử dụng tri thức cho phát triển với một môi trường thể chế kích thích kinh tế hướng đầu tư vào tri thức và khai thác một cách có hiệu quả tri thức cho phát triển kinh tế, đẩy mạnh liên kết giữa các doanh nghiệp với các viện nghiên cứu, các trường đại học và các cơ sở nghiên cứu khoa học , nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, tăng cường trao đổi thông tin, phổ biến tri thức và công nghệ tới khu vực sản xuất và dịch vụ, chuyển giao tri thức và công nghệ hiện đại, khai thác kết cấu hạ tầng viễn thông, mở rộng khả năng truy cập các nguồn thông tin trên thế giới mà trong đó Internet là một phương tiện chính. Những dấu hiệu tích cực trong thời gian gần đây cho thấy mức độ sử dụng máy tính cá nhân của Việt Nam tăng đáng kể, số lượng truy cập Internet cũng đang có chiều hướng gia tăng. Từ khi chính thức đi vào hoạt động tháng 11 năm 1997 , đến nay số điểm truy cập Internet đã phủ kín các tỉnh trên toàn quốc, với trên 70 000 thuê bao. Theo số liệu của Ban Khoa giáo Trung ương Đảng (9/2000) tỷ lệ sử dụng kết cấu hạ tầng bình quân trên 100 dân của Việt Nam (so với thế giới) là :
(trên 100 dân)
Điện thoại
Điện thoại di động
Máy thu hình
Máy tính cá nhân
Thuê bao Internet
Việt Nam
2.1
0.2
18
0.5
0.001
Thế giới
14.4
4.0
28
5.8
0.01
Dịch vụ thông tin liên lạc hiện nay của Việt Nam còn hạn chế trong khu vực kinh tế nhà nước, do Nhà nước nắm độc quyền phát triển và khai thác các mạng thông tin liên lạc, nắm sở hữu hoàn toàn các cổng (gateway), nắm quyền định giá thống nhất. Do vậy, so với các nước trong khu vực giá cước dịch vụ còn rất cao : giá thuê bao đường truyền 64Kb của Việt Nam cao gấp 1.5 lần so với Thái lan, 3.1 lần so với Malaysia và 4.2 lần so với Singapore. Ngày 8/2/2002 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định QĐ 33/2002/QĐ-TTg Phê duyệt kế hoạc phá triển Internet Việt Nam 2001-2005, theo đó đến năm 2005, tỷ lệ dân sử dụng Internet là 4-5%, mật độ bình quân là 1,3-1,5 người thuê bao Internet/100 dân và đến 2010 tỷ lệ dân sử dụng Internet đạt mức trung bình trong khu vực.
Để tạo điều kiện cho người dân nói chung và nguồn lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân Việt Nam nói riêng có thể tiếp cận và sử dụng các tri thức mới đặc biệt là các tri thức liên quan tới Internet, nhà nước cần giảm chi phí sử dụng các dịch vụ liên lạc viễn thông đặc biệt là các dịch vụ Internet. Về phần các doanh nghiệp, để xây dựng tinh thần năng động trong tiếp thu cái mới thì họ cần phải chủ động thực hiện điều này. Đây là một việc mà kết quả của nó không phải là hữu hình và thấy ngay được nên đòi hỏi xí nghiệp phải kiên nhẫn và kiên trì thực hiện. Điểm quan trọng nhất đối với doanh nghiệp là phải quyết tâm xây dựng tinh thần này. Sau đó thì mỗi doanh nghiệp có thể tìm thấy con đường riêng cho mình.
Trong thời đại hiện nay, các thông tin về thị trường biến đổi liên tục cùng với sự thay đổi của công nghệ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân Việt Nam khi hội nhập quốc tế sẽ phải đối mặt với một thực tế là sự biến động nhanh chóng của thị trường và đòi hỏi ngày càng cao về trình độ ở đội ngũ cán bộ và người chủ doanh nghiệp. Bằng việc nâng cao năng lực kinh doanh với một tinh thần sẵn sàng tiếp thu các tri thức mới, các doanh nghiệp này sẽ có một cơ hội tốt hơn khi cạnh tranh ở nước ngoài trong một môi trường có mức độ cạnh tranh khốc liệt hơn trong nước rất nhiều.
Thương mại điện tử
Thương mại điện tử là hoạt động sử dụng các giải pháp điện tử trên nền Internet/website để thực hiện các quan hệ giao dịch và trao đổi thương mại. Thông thường các quan hệ giao dịch và trao đổi được thực hiện dưới hai hình thức: doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B) và giữa doanh nghiệp với khách hàng (B2C).
Về cơ bản, thương mại điện tử có các hoạt động sau:
àQuảng cáo.
àĐặt hàng trực tuyến. (giao hàng qua các con đường bình thường)
àMua bán hàng hoá và dịch vụ trên mạng (các sản phẩm hàng hoá dịch vụ đó là các phần mềm).
àCác nghiệp vụ Marketing được tiến hành qua mạng.
àCác dịch vụ hậu mãi tiến hành được trên mạng (Các dịch vụ hỗ trợ kĩ thuật...).
àCác dịch vụ giúp khách hàng phản hồi lại ý kiến về doanh nghiệp.
àCác dịch vụ luân chuyển tiền trên mạng
Thương mại điện tử là một trong những công cụ hữu hiệu trong thời đại “kinh doanh thành công nhờ tư duy tốc độ”, nó giúp cho cả người mua và người bán có thông tin rộng rãi về các loại hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ, thông tin giá cả, tạo cơ hội cho sự lựa chọn mua sắm hiệu quả của người tiêu dùng. Nhờ có kinh doanh điện tử khách hàng sẽ dễ dàng thực hiện các giao dịch với công ty, rút ngắn thời gian giao dịch, cải thiện dịch vụ với khách hàng, thoả mãn cao hơn nhu cầu của khách hàng. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể cung cấp những thông tin cơ bản về sản phẩm và dịch vụ của mình 24/24h và 7 ngày/tuần, đồng thời các doanh nghiệp có thể sử dụng thông tin phát sinh trong quá trình khách hàng truy cập vào trang web của mình để tìm hiểu thêm nhu cầu của khách hàng, về nhữgn thói quen và hành vi mua sắm của khách, điều này giúp doanh nghiệp có thêm nhiều cơ hội bán hàng với các loại sản phẩm, đồng thời chủ động tiếp thị các sản phẩm mới. Mặt khác thương mại điện tử không chỉ giúp công ty có thêm khách hàng mà còn giúp công ty có thêm các mối quan hệ bạn hàng(lựa chọn nhà cung cấp) tốt hơn nhờ hoạt động mua hàng trực tuyến (e-procurement). Một doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể sử dụng thông tin từ Internet để so sánh giá cả từ nhiều nàh cung cấp, cho phép họ thương lượng với những điều kiện tối ưu về giá, và thông qua Internet để đơn giản hoá các thủ tục mua hàng, hoá đơn, giấy biên nhận, hồ sơ đơn đặt hàng. Trong tương lai, với sự hỗ trợ của thương mại điện tử, các ngành kinh doanh điện toán, viễn thông, tài chính, bán lẻ, du lịch và công nghiệp năng lượng sẽ có nhiều thay đổi về phương thức quản lý, kinh doanh, giảm chi phí giao dịch, đáp ứng nhanh nhất nhu cầu của khách hàng.
Việt Nam, trong một cuộc điều tra năm 2001 của Bộ Thương mại tiến hành trên 70 000 doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cho thấy, chỉ có 3% doanh nghiệp quan tâm đến thương mại điện tử, 7% bắt đầu triển khai thương mại điện tử và 90% doanh nghiệp không có chút khái niệm gì về thương mại điện tử. Theo báo cáo tại Hội thảo “Phát triển nguồn nhân lực về thương mại điện tử trong khu vực sông Mêkông” ngày 8/10/2002 tại Thành phố Hồ Chí Minh, hiện chỉ có 2% doanh nghiệp Việt Nam có website, 8% tham gia có tính chất phong trào, còn lại 90% chưa tham gia, chưa biết sử dụng. Năm 198 KPMG cũng đã tiến hành một điều tra về khả năng áp dụng thương mại điện tử ở Việt Nam, hơn 90% cho rằng trở ngiạ chính cho việc áp dụng thương mại điện tử là sự thiếu niềm tin về độ an toàn, 90% cho rằng xây dựng trang web cho doanh nghiệp là để mở rộng kênh truyền thống hiện có và tạo kênh mới cho các hoạt động marketing, bán sản phẩm và giảm chi phí. Hoạt động của Internet tại Việt Nam chính thức từ tháng 11/1997, đến nay số điểm truy cập Internet đã phủ kín toàn quốc, có trên 70 000 thuê bao, 1 nhà cung dịch vụ truy cập Internet độc quyền VDC, 5 nhà cung cấp dịch vụ Internet và 16 nhà cung cấp nội dung Internet (theo “Một khuôn khổ cho kế hoạch hành động về tri thức của Việt Nam giai đoạn 2001-2005” TS. Lê Đình Tiến, trong Kỉ yếu hội thảo quốc tế-Sử dụng tri thức phục vụ phát triển đối với Việt Nam. NXB Văn hoá Thông tin) , hiện cả nước có hơn 4000 trang web (theo Thương mại điện tử với sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ, NXB Thống kê) 38% các trang web thuộc các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại thành phố Hồ Chí Minh, và dự báo năm 2003 doanh thu của thương mại điện tử Việt Nam đạt mức 10% tổng doanh thu thương mại.
Bảng 3.4: So sánh giữa Việt Nam và thế giới (Phương tiện giao tiếp viễn thông)
Bình quân /100 dân
Điện thoại
Điện thoại di động
TV
PC
Internet
Việt Nam
2.1
0.2
18
0.5
0.001
Trung bình thế giới
14.4
4.0
28
5.8
0.01
Nguồn: Ban Khoa giáo Trung ương Đảng 9/2000
Sự phát triển của thương mại điện tử là một trong những bước tiến lớn nhằm làm gia tăng năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp, tuy nhiên trong giai đoạn đầu khi chi phí để tổ chức thương mại điện tử vẫn còn cao, kinh nghiệm sử dụng thương mại điện tử chưa nhiều, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần lưu ý một số điểm để nâng cao hiệu quả sử dụng thương mại điện tử: Thứ nhất: ý thức đầy đủ vai trò tiềm năng thực sự của Internet và tiến hành tận dụng chúng. Trong khi xây dựng và sử dụng các trang web đội ngũ cán bộ quản lý nên có hiểu biết về thương mại điện tử để chủ động hơn, không nên “khoán trắng” cho các thông tin viên, trong việc lựa chọn các công cụ, giải pháp, tiện ích, thông tin và nguồn thông tin thích hợp cho mục đích của mình trên Internet. Thứ hai: không chỉ xây dựng một trang web thôi mà còn phải nâng cấp, cập nhật thông tin thường xuyên. Đây là một lỗi hay mắc phải của các doanh nghiệp chưa hiểu rõ lắm về Internet và e-commerce. Sự đổi mới thông tin liên tục trên trang web không chỉ có ý nghĩa cụ thể về kinh doanh (thông báo kịp thời các thông tin cho khách hàng...), nó còn tạo ra một bộ mặt trên mạng của doanh nghiệp. Thứ ba: Website không thay thế được các công cụ truyền thống của kinh doanh như marketing và các kỹ thuật khác. Song song với việc sử dụng website cần phải sử dụng các kĩ thuật kinh doanh khác để bổ sung cho nó. Trong tương lai e-commerce có thể sẽ tiến hoá đến mức thay thế cho các nghiệp vụ truyền thống nhưng hiện tại thì vẫn cần đến marketing.
Những rào cản hiện nay đối với sự phát triển của thương mại điện tử là :
Chi phí sử dụng và truy cập Internet quá cao so với khu vực và quốc tếà Chi phí cơ hội của khoản đầu tư vào website doanh nghiệp cao.
Số người sử dụng Internet ở Việt Nam tuy nhiều nhưng chưa thể bằng các nước khác, số giờ và số lần trên mạng (websurf) . Lượng chưa đủ để biến thành chất
An toàn trên mạng (Security): mối đe doạ của tin tặc (Breakers, Phreakers), virus máy tính...
Sự phát triển của hệ thống tài chính: các giao dịch trên mạng trong nhiều trường hợp có đòi hỏi sự tham gia của ngân hàng... (tài chính điện tử)
Các công cụ của thương mại điện tử sẽ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ giảm bớt chi phí kinh doanh trong một số hoạt động. Khi tiến hành các hoạt động kinh tế quốc tế các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân của Việt Nam sẽ có thêm được cơ hội. Họ có thể cạnh tranh với các công ty tập đoàn lớn thông qua mạng mà không gặp nhiều cản trở như ở trên các môi trường kinh doanh khác.
Các chủ doanh nghiệp phải có một thái độ tích cực trong việc tiếp thu và tận dụng các kiến thức mới cũng như Chính phủ phải có biện pháp giúp các doanh nghiệp tiếp cận các tri thức này một cách hữu hiệu nhất, đó là nền tảng cốt lõi hiện nay của giải pháp Thương mại điện tử.
Kết Luận
Đối với một bài luận văn tốt nghiệp, đây là một đề tài khá lớn. Những điều nói đến trong này là những nghiên cứu mà em thực hiện trong thời kì gần đây. Một đề tài lớn như vậy mà lại chỉ do một sinh viên thực hiện thì điều không tránh khỏi là khá nhiều mảng của đề tài này đã bị bỏ qua, hoặc do em không đủ khả năng thực hiện toàn bộ hoặc do kiến thức không đủ. Tuy nhiên những điều em viết ra là những điều em đã tìm hiểu, đã rất tâm đắc trong quá trình nghiên cứu của mình.
Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân đối với sự phát triển của nền kinh tế là rất to lớn. Khu vực này giải quyết công ăn việc làm cho một số lượng rất lớn lao động và đóng góp vào GDP Việt Nam một khoản đáng kể. Bên cạnh đó các doanh nghiệp này còn tận dụng được các nguồn lực địa phương mà các doanh nghiệp lớn có thể đã bỏ qua. Tuy nhiên, dù có nhiều ưu điểm các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân vẫn còn các hạn chế, khó khăn cả về chủ quan và khách quan. Các khó khăn này khiến cho họ không thể hội nhập môi trường quốc tế một cách hoàn toàn đầy đủ và hiệu quả được. Luận văn này đã nêu lên các hạn chế, khó khăn đó.
Các giải pháp được đề nghị sử dụng để giải quyết các khó khăn hạn chế đó có một số đã và đang được áp dụng như giải pháp Làng nghề truyền thống. Các giải pháp mới như Thị trường “ngách” đang được các cơ quan nghiên cứu. Tuy nhiên giải pháp này và giải pháp Thương mại điện tử là hai giải pháp em rất tâm đắc. Hai điều này phù hợp với chiến lược phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ dù là của Việt Nam hay của thế giới, cho phép tập trung nguồn lực có hạn vào các mục tiêu hẹp để đạt được hiệu quả lớn nhất.
Các giải pháp em nêu lên trong bài có một đặc điểm là hơi thiên về tầm vĩ mô. Tuy một số giải pháp có thể được doanh nghiệp sử dụng nhưng phần lớn chúng đều đòi hỏi sự thực hiện của các cơ quan Chính phủ. Điều này có khó khăn là các doanh nghiệp nếu chỉ dựa vào các giải pháp đó sẽ không chủ động được.
Đó là hạn chế của em vì không tìm được các giải pháp tốt hơn. Hy vọng trong tương lai em có thể trở lại đề tài này với sự chín chắn hơn về kinh nghiệm và kiến thức để hoàn thiện nghiên cứu này.
Hà Nội ngày 28 tháng 5 năm 2003
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37147.doc