Chăm lo phát triển con người là sự ưu việt của Việt Nam trong nhiều năm qua thể hiện bởi chỉ số HDI cao hơn hẳn so với nhiều nước có GDP tương đương. Những năm gần đây Nhà nước càng chú trọng hơn nữa phát triển nguồn nhân lực do nhận thức vai trò hết sức đặc biệt của nó trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đã đạt nhiều kết quả khả quan được ghi nhận đánh giá cao.
Mặc dù vậy, so với nhu cầu chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam còn rất hạn chế, đặc biệt tỷ lệ lao động trình độ văn hóa cấp II, III và có chuyên môn kỹ thuật rất thấp. Thêm vào đó, cơ cấu bậc đào tạo và sự phân bổ giữa các ngành, vùng kinh tế cũng rất không đồng đều, còn nhiều bất hợp lý. Đây là những thách thức lớn cho quá trình phát triển, nhất là hiện nay đang có nhu cầu lớn về lao động trình độ cao để tiếp thu và ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, tạo sức cạnh tranh cho nền kinh tế. Nguyên nhân quan trọng trực tiếp dẫn đến tình trạng trên là một số chính sách trong lĩnh vực y tế, giáo dục còn khiếm khuyết, thiếu đồng bộ và không thích ứng kịp với sự biến chuyển của nền kinh tế. Những thực trạng và nguyên nhân được chỉ ra cùng với tham khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là yêu cầu bức thiết hiện nay.
Xuất phát từ quan điểm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đồng nghĩa với việc phát triển toàn diện con người và hệ thống giáo dục đào tạo giữ vai trò quyết định để thực hiện điều đó, luận văn đã phân tích và đưa ra một số giải pháp định hướng trong lĩnh vực y tế, giáo dục. Mục đích của các giải pháp này là hoàn thiện chính sách hiện nay theo hướng đổi mới hệ thống y tế, giáo dục nhằm mục tiêu công bằng và hiệu quả, nhanh chóng tạo được nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
113 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1376 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp định hướng trong lĩnh vực y tế, giáo dục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dục, sự đối xử như nhau với mọi học sinh khi học tại các cơ sở đào tạo khác nhau. Do đó phải tiếp tục duy trì chính sách ưu tiên, hỗ trợ giáo dục cho các khu vực khó khăn, đối tượng chính sách xã hội, học sinh nghèo... Đồng thời cũng phải có chính sách khuyến khích tạo điều kiện cho những học sinh giỏi, người có năng lực được học tập thuận lợi ở tất cả các bậc học không bị chi phối bởi khả năng tài chính cá nhân. Do vậy cần chú ý các biện pháp về tài chính, giáo viên, huy động sự tham gia của địa phương, gia đình vào giáo dục nhằm thực hiện tốt công bằng xã hội trong giáo dục.
Thứ ba, coi trọng hướng nghiệp, dạy nghề, tập trung vào mục tiêu nhân lực.
Phương hướng hiện nay là phải làm cho toàn bộ nền giáo dục thích ứng với nhu cầu và đòi hỏi của sự phát triển kinh tế – xã hội đất nước, giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển giáo dục theo kế hoạch và theo yêu cầu của thị trường lao động. Do đó, hệ thống giáo dục cần coi trọng hướng nghiệp, dạy nghề, tập trung vào mục tiêu nhân lực.
3.2. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
3.2.1. Đổi mới chính sách y tế
Như đã phân tích ở trên, do nhiều lý do chính sách y tế của Việt Nam hiện nay còn khiếm khuyết, ảnh hưởng đến việc nâng cao sức khỏe của nguồn nhân lực. Do vậy một nội dung quan trọng của việc đổi mới ngành y tế theo hướng công bằng, hiệu quả là hoàn thiện và xây dựng chính sách phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội, đáp ứng các yêu cầu phát triển.
Hoàn thiện chính sách tài chính cho công tác chăm sóc sức khỏe
Các chiến lược tài chính cho y tế là một trong những công cụ quan trọng nhất để đạt được các mục tiêu đã đề ra về hiệu quả kinh tế, công bằng trong cung cấp tài chính và khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe thiết yếu theo nhu cầu. Dưới đây là những phân tích và đề xuất giải pháp cơ bản hoàn thiện chính sách tài chính cho công tác chăm sóc sức khỏe trên các mặt:
Thứ nhất, các nguồn lực tài chính
Hiện tại kinh phí của hệ thống y tế công của Việt Nam được cung cấp từ các nguồn chủ yếu là thuế ( ngân sách nhà nước ), bảo hiểm y tế bắt buộc, viện phí và viện trợ nước ngoài. Trong đó thuế chiếm tỷ trọng lớn nhất khoảng 60%, tiếp theo là bảo hiểm y tế trên 15% và viện phí, viện trợ đều trên 10%. Đề cập đến vấn đề này bởi vì bản thân mỗi nguồn tài chính đều có những đặc điểm riêng, hoặc là tạo điều kiện thuận lợi, hoặc có thể hạn chế về mặt con người và khu vực trong việc sử dụng các nguồn này. So với các hình thức khác, cung cấp tài chính cho y tế theo cách chi trả trước tạo ra một cơ hội để phân bổ lại các quỹ cho dịch vụ y tế từ những người khỏe mạnh sang hỗ trợ cho người ốm yếu; từ những người giàu hoặc địa phương có kinh tế phát triển sang cho người nghèo, địa phương kém phát triển hơn.
Chính vì vậy, cung cấp tài chính qua thuế là hình thức chủ yếu để đẩy mạnh tính nhất quán trong cung cấp tài chính cho y tế và nâng cao công bằng khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Với quan điểm như vậy thì nguồn tài chính lấy từ thuế không được xem là để cung cấp cho những người không có khả năng chi trả được hưởng dịch vụ y tế mà phải coi nó là một nguồn tài chính để từng bước phát triển một hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn diện theo định hướng công bằng. Từ quan điểm đó cho thấy những khả năng để hoàn thành chiến lược này tăng lên cùng với sự tăng trưởng kinh tế tạo khả năng để có được khoản thu bổ sung từ thuế. Xu hướng này chưa xuất hiện ở Việt Nam bởi tốc độ tăng thu nhập quốc dân những năm gần đây cao dần lên trong khi đó chi ngân sách cho y tế giảm đều và đến nay chỉ còn khoảng 2%. Do đó trong thời gian tới cần có sự điều chỉnh để tăng cường mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và đẩy mạnh công cuộc cải cách, đổi mới của hệ thống thuế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển hơn nữa một hệ thống y tế toàn diện theo định hướng công bằng, hiệu quả.
Hình thức bảo hiểm y tế bắt buộc và phương thức cấp tài chính cho y tế qua thuế có nhiều điểm tương đồng bởi vì vả hai đều là những hình thức thanh toán trước bắt buộc. Hơn nữa, với hai hình thức này thì vai trò của Nhà nước thường rất lớn vì như vậy có thể xây dựng mức phí bảo hiểm mà người sử dụng lao động và người lao động phải đóng góp. Do đó, việc xếp nguồn thu từ thuế và bảo hiểm y tế bắt buộc vào cùng loại “quĩ công” là hoàn toàn logic. Tuy nhiên, giữa hai hình thức này cũng có những điểm khác biệt lớn về khía cạnh “ai là người phải trả” và “ ai là đối tượng có thể sử dụng các quĩ huy động được”. Trái với hệ thống cấp tài chính qua thuế, giữa việc thanh toán phí bảo hiểm và tiếp nhận dịch vụ có mối liên hệ trực tiếp. Có nghĩa là thường chỉ những người mua bảo hiểm mới có thể được sử dụng các quĩ huy động được qua hình thức bảo hiểm y tế bắt buộc. Do vậy như đã nêu ở chương 2, hình thức này hiện nay trước hết là phục vụ cho cán bộ, công nhân viên Nhà nước và người có biên chế tại các doanh nghiệp lớn. Những khả năng phân bổ lại các quĩ này cho nhóm dân cư khác như nông dân nghèo là rất hạn chế. Hiện nay, Nhà nước đã tìm cách giải quyết vấn đề trên bằng cách cấp thẻ bảo hiểm y tế không mất tiền cho trên 4 triệu người nghèo. Hệ thống cấp tài chính từ thuế này sẽ được mở rộng và phát triển. Theo hướng này, Nhà nước có thể mở rộng hệ thống bảo hiểm y tế cho những đối tượng có điều kiện kinh tế khó khăn như nông dân, người làm nghề phụ thông qua việc cấp thẻ khám chữa bệnh bao cấp với một mức phí rất thấp. Lợi ích mà nhóm này được hưởng là họ sẽ được hỗ trợ khoảng 70-75% mệnh giá. Điểm tốt của hình thức này so với cơ chế viện phí trả trực tiếp là dựa vào các khoản thanh toán định sẵn, do đó khuyến khích người dân tiết kiệm đủ số tiền cần thiết hơn là khi cần sử dụng dịch vụ y tế thì buộc phải thanh toán các khoản phí sử dụng dịch vụ không dự tính. Hơn nữa, hệ thống thẻ bảo hiểm y tế bao cấp phục vụ cả người khỏe mạnh và ốm đau nên có khả năng chia sẻ rủi ro trong khi điều này không thể có trong cơ chế phí dịch vụ thu trực tiếp. Xét ở khía cạnh kinh phí thu được từ cá nhân thì hệ thống bảo hiểm y tế có bao cấp có khả năng huy động được lượng kinh phí nhiều hơn hệ thống chi trả trực tiếp mà lại tránh được các tác động tiêu cực như thiếu công bằng trong khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe có chất lượng. Tuy nhiên áp dụng hình thức có hai trở ngại là: (i) làm thế nào huy động được các quĩ công cần thiết; và (ii) so với hệ thống y tế công được nhà nước trực tiếp cấp ngân sách thì nó tương đối phức tạp và khó triển khai hơn do chỉ có người hay đau ốm mới quan tâm đến việc mua bảo hiểm. Nói tóm lại, so với hệ thống cấp ngân sách từ thuế thì bảo hiểm y tế bắt buộc không tiến bộ bằng mà chỉ hạn chế trong việc ưu tiên phục vụ cho các nhóm dân khá giả trong cả việc thanh toán lẫn sử dụng dịch vụ và khó có thể phân bổ lại nguồn tài chính sang các nhóm dân có thu nhập thấp hơn. Những khả năng để mở rộng hệ thống bảo hiểm y tế bao cấp cũng có nhiều khó khăn về tài chính và quản lý hành chính. Do đó giai đoạn hiện nay, mặc dù có vai trò quan trọng nhưng chưa nên coi bảo hiểm y tế là nguồn cung cấp tài chính chủ yếu cho đến khi đã hoàn thiện và chứng minh được tính khả thi, ưu việt của nó.
Mức phí dịch vụ cao mà thiếu mất các biện pháp miễn phí được thực hiện tốt là rào cản lớn nhất khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của người nghèo. Có quan điểm cho rằng thu phí dịch vụ sẽ có điều kiện nâng cao chất lượng dịch vụ, hỗ trợ khám chữa bệnh miễn phí và các vùng có điều kiện khó khăn. Tuy nhiên thực tế hoàn toàn không phải như vậy, các tác động tiêu cực nảy sinh như tình trạng thiếu công bằng về xã hội và địa lý trong khả năng tiếp cận và chất lượng dịch vụ ngày càng gia tăng. Những tác động này sẽ tăng khi phí dịch vụ tăng và có thể giảm đi bằng cách cấp thẻ khám chữa bệnh không mất tiền, được bao cấp từ thuế cũng như phân bổ lại nguồn ngân sách Nhà nước từ những địa phương có khả năng thu được nhiều tiền từ phí sử dụng dịch vụ, bảo hiểm y tế bắt buộc hơn sang địa phương nghèo. Phí dịch vụ ở Việt Nam hiện nay ở vào mức trên 10% tổng các nguồn lực là một vấn đề đáng lưu ý và cần có hướng giảm xuống khi nguồn thu từ ngân sách Nhà nước tăng.
Trong các nguồn lực tài chính thì viện trợ nước ngoài chỉ nên coi là một nguồn tạm thời tạo điều kiện cho các chính sách lâu dài của Nhà nước nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, cải thiện khả năng tiếp cận về kinh tế và xã hội. Tuy nhiên viện trợ nước ngoài có thể gây những tác động tiêu cực như rút mất nhiều nguồn lực ngân sách từ việc tăng chi phí cho việc duy tu, bảo dưỡng và vật tư thay thế sau khi đầu tư quá nhiều vào xây dựng cơ bản, nhập máy móc, trang thiết bị... Do vậy cần phải có các cuộc đối thoại và thỏa thuận nhất định giữa hai bên cũng như xây dựng các chính sách để sử dụng viện trợ nước ngoài một cách hữu hiệu nhất đạt được các mục tiêu chung trong chăm sóc sức khỏe.
Thứ hai, phân bổ nguồn lực.
Trong các nguồn lực tài chính khác nhau thì chỉ có nguồn từ thuế là có thể phân bổ lại giữa các vùng giàu và nghèo. Các quĩ huy động được từ bảo hiểm y tế bắt buộc theo lý thuyết chỉ có thể phân bổ lại qua hình thức bao cấp chéo nhưng cũng không thể thực hiện được trong tình trạng lúc nào cũng thiếu ngân sách. Các quĩ thu được từ phí dịch vụ có thể được hỗ trợ cho việc cung cấp dịch vụ y tế cho người nghèo ở tuyến cơ sở và trong chừng mực nhất định ở tuyến huyện và tỉnh. Vì thế chỉ có nguồn thuế là có hiệu quả phân bổ cao để giải quyết mức chênh lệch trong phân bổ ngân sách giữa các vùng. Hiện nay hệ thống phân bổ ngân sách Nhà nước trên cơ sở đầu người và có một phần theo yêu cầu biểu hiện bằng sức mua nên tạo ra sự ưu tiên cho các tỉnh và khu vực kinh tế khá giả hơn như đã chỉ ra ở chương 2. Phân bổ theo đầu người thực chất không công bằng do không phải mọi nhóm dân cư đều có cùng nhu cầu sử dụng dịch vụ, tức là có cùng gánh nặng bệnh tật. Người nghèo thường mắc bệnh nặng hơn và khả năng lành bệnh cũng lâu hơn do thể trạng và điều kiện sống kém. Vì thế kiểu phân bổ theo đầu người sẽ càng mất công bằng khi tình trạng thiếu công bằng xã hội và kinh tế nói chung gia tăng trong xã hội. Do vậy việc phân bổ ngân sách nhà nước giữa các tỉnh cần phải dựa vào đánh giá nhu cầu để đảm bảo sự đồng đều cho những nhu cầu tương ứng. Phân bổ theo nhu cầu dựa trên dự tính bằng cách xem xét số dân sẽ được phục vụ, gánh nặng bệnh tật mà các nhóm dân khác nhau phải gánh chịu cũng như các điều kiện nhất định của từng địa phương như mật độ dân cư thấp làm tăng đơn giá cho mỗi dịch vụ được cung cấp. Trong điều kiện hiện nay, phương thức phân bổ nguồn lực nhà nước dựa trên nhu cầu sẽ được xây dựng và áp dụng cần tính đến cả những quĩ huy động được qua hình thức bảo hiểm y tế bắt buộc và phí dịch vụ.
Thứ ba, sử dụng nguồn lực có sẵn một cách hiệu quả.
Sử dụng nguồn lực có sẵn một cách hiệu quả là vấn đề hết sức cần thiết và liên quan đến nhiều lĩnh vực, do vậy ở đây chỉ xét những khía cạnh có liên quan đến chính sách tài chính như: ngân sách tổng thể so với phí dịch vụ, sử dụng dịch vụ, sắp xếp lại cơ cấu dịch vụ bệnh viện, đào tạo về quản lý.
Giải pháp xây dựng hệ thống ngân sách tổng thể dựa trên đầu ra như kết quả về tình hình sức khỏe được cải thiện và sự hài lòng của bệnh nhân là phương pháp khắc phục tình trạng không khuyến khích các cơ sở tăng năng suất, thiếu tập trung vào kết quả đạt được như hiện nay để tăng hiệu quả kinh tế. Các công cụ chủ yếu để xây dựng ngân sách tổng thể tính đến đầu ra như vậy là các đánh giá công nghệ y tế và các phương pháp khác để nghiên cứu, tìm hiểu tác động thực tế của các hoạt động can thiệp về y tế khác nhau và việc xác định, giới thiệu chỉ số chất lượng dịch vụ nhất định như những trường hợp tử vong có thể tránh được. Một công cụ quan trọng khác vừa phục vụ cho việc đánh giá những tác động tự cảm đối với sức khỏe, các mức dịch vụ và thái độ nói chung là phỏng vấn bệnh nhân đều đặn, có hệ thống. Tóm lại, cách thích hợp hiện nay là cố gắng xây dựng các ngân sách tổng thể có tính đến đầu ra nhiều hơn, trong đó có cả đánh giá thường xuyên xem những dịch vụ được cung cấp có gắn với mục tiêu của nhà chuyên môn cũng như bệnh nhân hay không.
Một vấn đề thường thấy là bệnh nhân có chiều hướng tìm kiếm dịch vụ ở tuyến quá cao trong hệ thống y tế một cách không cần thiết. Việc sử dụng dịch vụ không phù hợp như vậy rất tốn kém vì giá thành của các dịch vụ được cung cấp ở các bệnh viện tuyến tỉnh cao hơn rất nhiều so với chi phí dịch vụ cung cấp tại các trạm y tế xã. Vì thế những cố gắng để đảm bảo người bệnh sử dụng các tuyến y tế thích hợp hơn cũng rất quan trọng trong việc quản lý nguồn lực.
Kinh nghiệm thế giới cho thấy việc sắp xếp lại cơ cấu dịch vụ bệnh viện theo hướng giảm thời gian giảm điều trị nội trú sang ngoại trú dựa trên các kỹ thuật y tế hiện đại có ý nghĩa rất tích cực cả về khía cạnh y tế và tài chính. Tuy nhiên, vì hiện nay số giường bệnh là một chỉ tiêu phân bổ ngân sách nhà nước quan trọng nên điều quan trọng là phải xem xét lại phương pháp này còn phù hợp hay không căn cứ vào công nghệ y học mới và nhu cầu cấp thiết phải sử dụng các nguồn lực công khan hiếm cho y tế một cách hiệu quả.
Thiếu kỹ năng quản lý, trong đó có cả những kiến thức cơ bản về kinh tế y tế là đánh giá mà các chuyên gia của Bộ y tế đã chỉ ra là rất nghiêm trọng so với các ngành công cộng khác vì hầu hết các vị trí quản lý then chốt đều do các bác sĩ được đào tạo rất hạn chế hay không được đào tạo trong lĩnh vực này nắm giữ. Do vậy việc đào tạo đội ngũ cán bộ y tế nắm giữ các vị trí quản lý chắc chắn sẽ là giải pháp tốt với chi phí thấp mà hiệu quả đạt được cao.
Những phân tích và đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính nêu trên chắc chắn cần phải cần phải cân nhắc kỹ hơn dựa vào tình hình thực tế về chính trị, kinh tế và xã hội nhằm khắc phục những tồn tại của hệ thống y tế đang có ảnh hưởng không tốt đến chất lượng nguồn nhân lực hiện nay.
Sử dụng chiến lược thúc đẩy sức khỏe để nâng cao sức khỏe cho người dân
Bên cạnh khám chữa bệnh thì việc nâng cao sức khỏe cho người dân thông qua cung cấp tri thức bằng các chương trình truyền thông thường hay được áp dụng. Các nghiên cứu đánh giá cho thấy ở Việt Nam những chương trình như vậy không đem lại nhiều kết quả như mong muốn, do vậy việc vận dụng những kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực này là điều cần được xem xét.
Thúc đẩy sức khoẻ là một phương pháp có thể áp dụng cho nhiều vấn đề sức khoẻ. Giống như các dịch vụ khám chữa bệnh tập trung vào ốm đau và chẩn đoán các loại bệnh tật, thúc đẩy sức khoẻ tập trung vào sức khoẻ và cách phòng bệnh. Phương pháp thúc đẩy sức khoẻ có thể được áp dụng vào tất cả các lĩnh vực nếu không có sự tham gia của cộng đồng và hưởng ứng của từng cá nhân thì không thể giải quyết được vấn đề như lối sống, môi trường, bệnh truyền nhiễm ...
Chính phủ cần phải ủng hộ nhu cầu, tạo điều kiện để nhân dân có được thông tin, sống và làm việc trong những môi trường đảm bảo sức khỏe. Quan trọng hơn hết là nhân dân cần phải biết rằng chính họ kiểm soát phần nào đó cuộc sống và sức khoẻ của bản thân. Nếu họ không được trực tiếp tham gia vào việc xác định nhu cầu, lựa chọn ưu tiên, thiết kế những hoạt động can thiệp thì sẽ không có gì ràng buộc họ thực hiện những thay đổi đó. Tóm lại, những phương pháp đáp ứng các nhu cầu này tạo ra phương pháp thúc đẩy sức khoẻ.
Phải có sự thay đổi lối sống ở các ngành, tổ chức và trong cộng đồng, những nơi mà người ta sống, học tập, làm việc, vui chơi và chăm lo sức khoẻ. Đây chính là những cơ sở hình thành nên hành vi. Việc duy trì những cải thiện về tình trạng sức khoẻ đòi hỏi: (i) thay đổi về chế tài kinh tế, luật pháp và xã hội nhằm hạn chế các hành vi không lành mạnh trong cộng đồng; (ii) phát triển các lực lượng hỗ trợ về xã hội, văn hoá và kinh tế nhằm khuyến khích hành vi lành mạnh; và (iii) phát triển năng lực của cá nhân cũng như của tổ chức để có thể giúp cho cộng đồng đương đầu được với những thách thức về sức khoẻ.
Kinh nghiệm từ các chiến dịch tuyên truyền sức khỏe ở Việt Nam cho thấy kết quả đạt được không cao chính vì không có được những yếu tố như nêu trên. Chiến lược thúc đẩy sức khoẻ đáp ứng bất cứ vấn đề nào đã được vạch ra đòi hỏi phải có một phương pháp toàn diện và một loạt các phương thức:
Thứ nhất, xây dựng các chương trình liên ngành
Sức khoẻ phần lớn là kết quả của cuộc sống con người, nó có liên hệ đến tất cả các yếu tố xã hội, văn hoá, kinh tế và chính trị. Việc giải quyết tất cả những yếu tố này vượt quá khả năng những nhà chuyên môn y tế. Vì thế chiến lược thúc đẩy sức khoẻ đòi hỏi toàn dân và các tổ chức ngoài ngành y tế tham gia đóng góp trong các nỗ lực nhằm cải thiện sức khoẻ của nhân dân. Các Bộ, các cơ quan phải cùng làm việc để đảm bảo xây dựng những chương trình phù hợp và có thể áp dụng được ở các ngành khách nhau và trong các điều kiện khác nhau. Ví dụ tham gia vào chương trình chống hút thuốc lá không chỉ có Bộ Y tế mà phải có các cơ quan khác như Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hoá - Thông tin, Bộ Quốc phòng... cũng như các tổ chức phi Chính phủ trong và ngoài nước.
Thứ hai, lồng ghép các chương trình dọc
Các chương trình thúc đẩy sức khoẻ có xu hướng chỉ chú trọng vào một khía cạnh của công tác dự phòng, một loại bệnh, một hành vi nguy cơ, một thông điệp. Thế nhưng các hành vi nguy cơ lại khu trú trong những hoàn cảnh có nguy cơ. Phương pháp một vấn đề duy nhất (không đề cập đến các nguyên nhân ngầm) sẽ trở nên có hiệu quả trong việc đưa một vấn đề quan trọng vào chương trình nghị sự chính trị, nếu có phương pháp tốt để giành được sự ủng hộ. Nó cũng có hiệu quả trong việc truyền tải những thông điệp đơn giản tới đông đảo quần chúng. Tuy nhiên, các phương pháp một vấn đề rất hiếm khi có hiệu quả đối với nhóm đối tượng khó khăn, những người thường có tình trạng sức khoẻ kém nhất. Các hành vi, lối sống nguy hại khác nhau đều có chung gốc rễ trong nhân dân, trong cộng đồng, môi trường và nền văn hoá. Sức khoẻ bà mẹ kém và bệnh đái đường đều liên quan đến vấn đề thiếu dinh dưỡng; thiếu dinh dưỡng lại liên quan tới nghèo đói, vệ sinh, nông nghiệp và giáo dục.
Trong tất cả lĩnh vực trên, những chiến dịch giải quyết duy nhất một vấn đề cần phải trở thành một bộ phận của các chương trình lồng ghép trong đó có tính đến các mối quan hệ qua lại giữa các lĩnh vực.
Thứ ba, phát triển năng lực cộng đồng
Có nghiên cứu tiến hành trong hơn hai mươi năm qua đưa đến kết luận là một khi những nhu cầu cần thiết yếu đã được đáp ứng thì yếu tố quan trọng nhất đối với sức khoẻ con người là mức độ họ kiểm soát được cuộc sống của chính mình. Những người có ý thức điều chỉnh cuộc sống của mình là người có khả năng đặt ra phương hướng riêng chống lại được các nguy hiểm về sức khoẻ đang huỷ hoại người không có phòng ngừa. Việc gắn liền ý thức về giới hạn và điều chỉnh với cuộc sống của con người cũng dẫn đến việc chú trọng vào sự tham gia của các tổ chức và cộng đồng. Vì vậy cần phát triển năng lực của cộng đồng trong việc xác định, xây dựng những phương thức mới để bổ sung, thậm chí thay thế các vai trò và quan hệ xã hội đang bị đe doạ dưới sức ép mới về kinh tế và văn hoá. Những thành tựu đáng kể về y tế chỉ đạt được ở nơi có sự tham gia, hỗ trợ của các nhóm đối tượng trong việc đề ra mục tiêu và đạt các mục tiêu đó. Quá trình tham gia thực sự liên quan đến việc xác định các nhu cầu và chọn ưu tiên - sử dụng niềm hứng khởi thực của cộng đồng, chứ không dùng marketing xã hội cố kích thích họ. Chiến lược thúc đẩy sức khoẻ là một phương pháp tiếp cận sức khoẻ dựa trên nhu cầu và theo định hướng của người sử dụng.
Thứ tư, tranh thủ sự ủng hộ của các cơ quan có liên quan và toàn xã hội.
Chiến lược thúc đẩy sức khoẻ bao gồm cả việc vận động Chính phủ đưa ra cam kết có những quyết định đem lại lợi ích cho nhân dân trong lâu dài. Chiến lược thúc đẩy sức khoẻ phải tạo ra những con người được đào tạo giúp Chính phủ soạn thảo luật lệ y tế và một Chính phủ được trang bị kiến thức để sẵn sàng đảm nhận trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp y tế. Các cơ quan làm công tác thúc đẩy sức khoẻ phải có khả năng cố vấn và vận động Chính phủ về những vấn đề y tế công cộng quan trọng. Ngoài ra, cũng cần phải có sự ủng hộ trong các vấn đề có ảnh hưởng lớn tới sức khoẻ nhưng lại không thuộc phạm vi thông thường của ngành y tế như bảo vệ môi trường, chống ô nhiễm.
Thứ năm, dựa vào chăm sóc sức khoẻ ban đầu
Chiến lược thúc đẩy sức khoẻ phải được coi là một bộ phận của chăm sóc sức khỏe ban đầu. Có thể lồng công tác thúc đẩy sức khoẻ vào hệ thống y tế bằng cách sử dụng các trạm y tế làm trung tâm thúc đẩy sức khoẻ.
Tóm lại, thúc đẩy sức khỏe đòi hỏi một chiến lược toàn diện, sử dụng đồng thời nhiều phương thức có sự phối hợp với nhau để làm thay đổi cả những yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường tự nhiên vốn là nguyên nhân của tình trạng sức khỏe yếu kém chứ không chỉ đơn giản là truyền thông sức khỏe cộng đồng như đã từng thực hiện ở Việt Nam hiện nay. Do đó, để có thể phát triển và duy trì nỗ lực thúc đẩy sức khỏe ở Việt Nam cần xây dựng một cơ sở hạ tầng làm nền móng cho các cố gắng đó. Một cơ sở hạ tầng như vậy sẽ là trọng tâm trong quá trình phát triển chiến lược thúc đẩy sức khoẻ, nó hỗ trợ việc phát triển năng lực thúc đẩy sức khoẻ. Đây là một tổ chức được xây dựng từ cấp trung ương đến địa phương có đủ năng lực lập kế hoạch cấp nhà nước, cũng như có khả năng vận động các ngành, tổ chức và cá nhân hỗ trợ cho công tác thúc đẩy sức khoẻ thông qua phát triển chính sách, luật pháp, quy chế và cung cấp nguồn lực.
Thúc đẩy sức khoẻ bao gồm các chiến lược dài hạn và cần phải có sự cam kết lâu dài tương ứng của Chính phủ để việc cung cấp tài chính cho công tác này không bị biến động. Có thể thấy một giải pháp cho vấn đề này như trong mô hình thuế thuốc lá. Đánh thuế đối với thuốc lá và sử dụng số tiền đó cho công tác chống hút thuốc lá, uống rượu hoặc cờ bạc, rộng hơn nữa là cho những chương trình thúc đẩy sức khoẻ lồng ghép, cùng một lúc mang lại nhiều lợi ích. Việc đánh thuế lên các hành vi và các chất có hại làm tăng giá thuốc lá, rượu hoặc cờ bạc cũng là một cách để hạn chế sử dụng. Ví dụ như ở bang Victoria, tiền thuế thu từ thuốc lá đã được dùng để tài trợ cho việc cải thiện sức khoẻ trong toàn bang như chống hút thuốc, phòng chống thương tích, thức ăn và dinh dưỡng, nghiện rượu và ma tuý, sức khoẻ tình dục và sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tâm thần và thể chất khoẻ mạnh, sức khoẻ môi trường. Sự xuất hiện thường xuyên của các hoạt động đã tạo ra một bầu không khí chính trị. Trong môi trường này việc tăng thuế lên nữa có thể hoàn toàn cho phép vì thúc đẩy sức khoẻ đã trở thành một ưu tiên đặc biệt của cộng đồng.
Chiến lược thúc đẩy sức khoẻ nhằm giúp cho người dân có đủ sức mạnh cải thiện sức khoẻ của chính họ. Nó cung cấp cho cộng đồng và cá nhân những kiến thức, kỹ năng, nguồn lực, động cơ, sự chủ động, hỗ trợ, khuyến khích để tập trung giải quyết các vấn đề sức khoẻ quan trọng đối với họ. Thúc đẩy sức khoẻ hữu hiệu đòi hỏi phải có một chiến lược kiên định, phối hợp giữa các ngành, các cấp và được lồng ghép vào kế hoạch của trung ương, tỉnh, huyện và xã. Công tác thúc đẩy sức khoẻ chứa đựng các yếu tố về phát triển cộng đồng đã được chứng minh là có giá trị ở Việt Nam và nhiều nước khác. Hiện nay Việt Nam cần phải lập kế hoạch cho việc xây dựng một hệ thống thúc đẩy sức khoẻ hữu hiệu. Kế hoạch này phải được đánh giá về tính khả thi, được điều chỉnh sau khi đưa ra thảo luận và lấy ý kiến, thông qua và lồng vào các ưu tiên y tế quốc gia. Phương pháp tổng hợp về thúc đẩy sức khoẻ giúp cho ngành y tế một khả năng đưa vào chương trình nghị sự những cách thức đương đầu với các vấn đề sức khoẻ trọng tâm hiện nay và trong tương lai của xã hội.
3.2.2. Cải tiến kế hoạch phát triển giáo dục đào tạo
Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế kinh tế từ phương thức kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Vì vậy trong nhiều trường hợp, cơ chế quản lý kinh tế mới chưa theo kịp sự biến đổi nhanh chóng của nền kinh tế, trong đó có giáo dục mang sắc thái thị trường. Lâu nay phê phán đào tạo thừa "thày" thiếu "thợ", nhưng thiếu "thợ" ở đâu? Địa chỉ cụ thể nào cần đào tạo? Tỷ lệ lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp, nhưng tỷ lệ thất nghiệp của số này ở thành thị khá cao, lĩnh vực, ngành nghề nào thất nghiệp nhiều? Việc lập kế hoạch giáo dục cần dựa trên những thông tin này để đào tạo gắn kết được với sản xuất và đời sống. Giữ vai trò định hướng, Nhà nước phải từng bước khắc phục tình trạng mất cân đối về bậc, ngành nghề đào tạo thông qua cải tiến cơ chế, chính sách và phương pháp kế hoạch hoá phù hợp với nền kinh tế thị trường. Để đạt được mục tiêu này có thể sử dụng các giải pháp sau:
Thiết lập được hệ thống thông tin thị trường lao động để cung cấp, xử lý thông tin tạo cơ sở tin cậy xác định nhu cầu đào tạo và bồi dưỡng, gắn sử dụng nhân lực với việc làm.
Mô hình dưới đây là một loại hệ thống thu thập thông tin về thị trường lao động, cung cấp những số liệu cơ bản cho phân tích nhu cầu đào tạo có thể nghiên cứu áp dụng ở nước ta.
Mô hình hệ thống thông tin thị trường
Điều tra lao động (1)
Thất nghiệp
Có việc làm có thu nhập hoặc hưởng lương
Nghề gì?
Điều tra yêu cầu đào tạo của doanh nghiệp (II)
Yêu cầu kỹ năng/ nghề nghiệp
Tính hiệu quả của các trường đào tạo
Nhận biết những cái mới
Kỹ năng nghề nghiệp gì?
Làm cho 1 hay nhiều tỉnh?
Nghiên cứu theo dấu vết tương lai đối với các cơ sở (III)
Tính hiệu quả của các trường đào tạo
Tình trạng thất nghiệp/ có việc làm của người đào tạo sau 1 năm theo nghề/ kỹ năng
Mã của nghề nghiệp
Dự báo kịch bản lao động (IV)
Cung cấp lao động theo giáo dục / kỹ năng / nghề nghiệp
Mã nghề nghiệp dùng điều tra lao động hiện hành?
Tỉnh và Quốc gia
Nghiên cứu lần theo dấu vết ngược (V)
Tính hiệu quả của các trường đào tạo
Nhận biết những yêu cầu đào tạo mới
Thất nghiệp / có việc làm / tiền lương
Khung mẫu gì?
Quốc gia?
Từ những nguồn này có thể hệ thống các số liệu cơ bản phục vụ lập kế hoạch quản lý nhân lực như sau:
Nguồn số liệu
Loại số liệu
Mục đích
Điều tra hộ gia đình
Quốc gia
Dân số
Hoạt động của LLLĐ
Việc làm
Thất nghiệp
Thu nhập và tiền lương
Giáo dục và đào tạo
Tỷ lệ của những nghiên cứu quay lại
Xu hướng của việc làm và tiền lương
Phân tích thị trường lao động
Các điều tra cơ sở sản xuất Quốc gia / Địa phương
Việc làm trong công nghiệp
Thu nhập
Quy mô cơ sở sản xuất
Yêu cầu về đào tạo
Xu hướng việc làm và tiền lương
Phân tích năng suất và thị trường lao động
Đánh giá về yêu cầu đào tạo ở mức độ địa phương
Các số liệu quản lý bảo hiểm xã hội
Việc làm
Thất nghiệp
Thu nhập bởi công việc
Xu hướng việc làm và tiền lương
Các nghiên cứu về việc làm đã qua và tương lai
Việc làm
Thất nghiệp
Thủ nhập bởi công việc
Thiết lập đào tạo
Chi phí và lợi ích của việc thiết lập các trường đào tạo
Các nghiên cứu về chi phí
Chi phí về vốn
Chi phí định kỳ
Gia nhập
Năng lực đào tạo
Nghiên cứu về chi phí và lợi ích
Các đánh giá về yêu cầu đào tạo
Yêu cầu đào tạo
Nghề nghiệp/kỹ năng
Điều tra công việc
Điều tra cá nhân
Trợ giúp chính sách yêu cầu đào tạo
Hình thành hệ thống thông tin này, đưa vào vận hành sẽ giúp giám sát việc vận hành của thị trường lao động, cung cấp thông tin cho cá nhân, doanh nghiệp, cơ sở đào tạo cũng như cân bằng giữa lợi ích xã hội và chi phí đào tạo.
Trên cơ sở này, cơ quan lập kế hoạch Nhà nước có khả năng tiến hành các nghiên cứu trung hạn chính xác về loại công nghệ, thành phần và trình độ chuyên môn của lực lượng lao động tương lai làm cơ sở quyết định qui mô, ngành nghề, nội dung chương trình giảng dạy. Như vậy chương trình, kế hoạch đào tạo sẽ gắn với nhu cầu thị trường lao động, tăng tính thiết thực của giáo dục và sát với thực tế.
Quy hoạch và lập kế hoạch giáo dục đào tạo gắn với quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế-xã hội của cả nước, từng vùng và ngành kinh tế.
Xây dựng kế hoạch tổng thể về đào tạo nhân lực cho cả nước trên cơ sở phân tích nhu cầu nhân lực của từng ngành, từng vùng, từng đơn vị cơ sở, là giải pháp khắc phục hiện trạng mất cân đối cơ cấu, ngành nghề và phân bổ lao động đào tạo. Nhà nước có thể sử dụng công cụ kế hoạch và tài chính (giao chỉ tiêu có ngân sách đảm bảo đào tạo những ngành nghề cần thiết, hoặc ở những vùng khó khăn) để điều tiết quy mô, cơ cấu, hướng vào nhu cầu nhân lực theo yêu cầu CNH - HĐH, mở rộng các hình thức đào tạo nghề để nâng tỷ trọng, khắc phục tình trạng mất cân đối hiện nay. Kế hoạch giáo dục đào tạo phát triển nguồn nhân lực là một bộ phận của kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, phải được cân đối đảm bảo các điều kiện thực hiện và triển khai đồng bộ với nhiều mục tiêu khác của nền kinh tế trong kế hoạch dài hạn và hàng năm. Cụ thể, trong các chương trình phát triển kinh tế (theo ngành hoặc theo vùng) như xoá đói giảm nghèo, khuyến nông, khuyến lâm, phát triển khoa học công nghệ mũi nhọn cần có chương trình giáo dục đào tạo tương ứng như một bộ phận cấu thành chương trình tổng thể với dự án đầu tư các nguồn lực hợp lý. Quan điểm này cần được quán triệt ở mọi cấp và có tác động quyết định chất lượng nguồn nhân lực.
Tóm lại, các giải pháp sử dụng công cụ kế hoạch và tài chính để khắc phục tồn tại hiện nay, nâng cao chất lượng về mặt trí lực là phát huy vai trò của Nhà nước trong xây dựng kế hoạch tổng thể về phát triển nguồn nhân lực.
3.2.3. Cải tiến chính sách đầu tư phát triển giáo dục đào tạo
Để sử dụng hiệu quả đồng vốn đầu tư thì việc đầu tiên cần làm là điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho hợp lý bao gồm chi trong nội bộ chi phí thường xuyên, đầu tư xây dựng và giữa các bậc học, ngành học.
Điều chỉnh cơ cấu vốn đầu tư theo hướng tăng cường trang thiết bị phục vụ giảng dạy học tập.
Phân tích thực trạng ở chương 2 về cơ cấu chi thường xuyên cho giáo dục thì chi lương, các khoản mục theo lương và chi hoạt động bộ máy thường chiếm tỷ trọng cao, chi phục vụ học tập giảng dạy thấp dẫn tới tình trạng dạy chay, học chay, ảnh hưởng chất lượng. Để khắc phục tình trạng này, giai đoạn tới, phần tăng chi giáo dục thường xuyên cho giáo dục đào tạo cần dành cho chi phục vụ mua sắm trang thiết bị, đồ dùng dạy học, tư liệu, sách giáo khoa. Phấn đấu để đến năm 2005 tất cả các cơ sở giáo dục phổ thông đều đạt tỷ lệ chi cho các khoản mục ngoài lương tối thiểu từ 30% trở lên, các cơ sở đào tạo đạt tỷ lệ tối thiểu 50% trở lên.
Điều chỉnh cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản
Trong thời gian tới cần cân đối lại giữa tỷ lệ chi xây lắp (xây dựng vật kiến trúc như nhà xưởng, cơ sở hạ tầng…) và vốn thiết bị. Tỷ lệ chi thiết bị phải chiếm tối thiểu 30% tổng vốn đầu tư để thay thế thiết bị cũ, từng bước hiện đại hoá trang thiết bị giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học của các cơ sở đào tạo. Ngoài ra để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này, ngành giáo dục đào tạo cần sớm hoàn thiện quy hoạch mạng lưới trường ĐHCĐ, THCN và dạy nghề trình Chính phủ phê duyệt để làm căn cứ đầu tư. Các tiêu chí về trường trọng điểm phải sớm được ban hành để xác định danh mục trường trọng điểm đầu tư nhằm đạt được các mục tiêu đề ra trong chiến lược giáo dục đào tạo đến 2010
Điều chỉnh cơ cấu đầu tư giữa các bậc học
Phân bổ chi phí giáo dục, đào tạo các cấp những năm gần đây đã diễn ra theo hướng tích cực với tỷ lệ đầu tư cho giáo dục phổ thông xấp xỉ 70% ngân sách, “phù hợp với thông lệ quốc tế” nên duy trì trong giai đoạn tới [32]. Tuy nhiên trong phân bổ cơ cấu chi giữa các bậc học cần chú trọng cân đối nguồn lực hỗ trợ triển khai phổ cập giáo dục trung học cơ sở ở những vùng khó khăn, đặc biệt trong khu vực nông nghiệp để cải thiện trình độ văn hoá lao động phục vụ công nghiệp hoá nông thôn.
Cơ cấu chi trong đào tạo cũng cần điều chỉnh tăng chi phí cho dạy nghề đạt mức khoảng10% vì đây là lĩnh vực đang có yêu cầu mở rộng quy mô, củng cố chất lượng để đào tạo công nhân kỹ thuật, lao động lành nghề. Ngoài ra, cũng nên tập trung đầu tư khoảng 12 – 15% tổng chi ngân sách nhà nước dành cho giáo dục đào tạo so với hiện nay là 10% cho những chương trình phục vụ trực tiếp đào tạo nhân lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Bên cạnh điều chỉnh cơ cấu đầu tư, quản lý và sử dụng ngân sách giáo dục đào tạo một cách hiệu quả có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi nó còn góp phần tăng khả năng huy động các nguồn vốn cho giáo dục. Điều đó có thể được thực hiện bằng các biện pháp:
Xây dựng các tiêu chuẩn, định mức khoa học phù hợp với thực tế và nhu cầu phát triển để làm cơ sở phân bổ ngân sách giáo dục đào tạo cả về đầu tư và về chi thường xuyên. Xác định chính xác chi phí đơn vị trên đầu học sinh để làm cơ sở điều chỉnh định mức chi hiện hành.
Thể chế hoá quy chế về các khoản thu và sử dụng các khoản đóng góp khác ngoài học phí như đóng góp xây dựng trường, phí hội cha mẹ học sinh, bảo hiểm và các khoản đóng góp khác trong các cơ sở giáo dục.
Công khai hoá mức thu học phí và các khoản đóng góp khác vào đầu năm học. Giám sát nguồn thu và chủ động cân đối nguồn lực cho giáo dục đào tạo từ các nguồn trong lập kế hoạch phát triển.
3.2.4. Cải tiến chính sách đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng lao động chuyên môn kỹ thuật.
Vấn đề sửa đổi, hoàn thiện chính sách sử dụng, bồi dưỡng nhân lực để phát huy tối đa năng lực và khả năng cống hiến của họ cho công việc có vai trò rất quan trọng bởi nó tác động trực tiếp vào nguồn nhân lực.
Như đã phân tích, thực trạng sử dụng nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật đang nổi cộm những vấn đề như: hiệu quả sử dụng thấp, tỷ lệ lao động đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng làm việc trái ngành nghề và thất nghiệp khá cao, nhất là ở khu vực thành thị; trong quá trình sử dụng không quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới... Để tạo chuyển biến một cách hiệu quả có thể sử dụng những giải pháp sau:
Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn kỹ thuật.
Hiện nay hầu hết số cán bộ chuyên môn kỹ thuật cao, phát huy tốt đều có tuổi đời khá lớn. Số còn lại chiếm phần đông nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học. Mặt khác sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật trên thế giới, sự chuyển đổi sang cơ chế thị trường… đã khiến đội ngũ chuyên môn kỹ thuật có những hẫng hụt nhất định. Từ thực tế đó đặt ra yêu cầu phải đào tạo và đào tạo lại thì mới đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để thực hiện điều này, hàng loạt vấn đề từ cải tiến mục tiêu, đổi mới nội dung, chương trình giảng dạy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giáo viên đến tổ chức sắp xếp mạng lưới các trường… cần được giải quyết. Trong những năm trước mắt cần tập trung giải quyết những nội dung sau:
Thứ nhất, cải tiến mục tiêu đào tạo. Đây là vấn đề quan trọng nhất, quyết định nhiều đến chất lượng đào tạo, nó xác định sản phẩm đào tạo có đặc thù riêng với mỗi trường đại học. Từ mục tiêu này xây dựng nội dung chương trình giảng dạy thích hợp, xuyên suốt. Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu của thời đại công nghệ phải gắn đào tạo với thực tiễn sản xuất, nhu cầu xã hội.
Thứ hai, đổi mới nội dung chương trình giảng dạy. Các nội dung chương trình đào tạo của các trường đại học đều cần xem xét đổi mới cho phù hợp với mục tiêu đào tạo, thích ứng với kinh tế thị trường và phát triển của khoa học công nghệ. Trong chương trình học bổ sung những kiến thức mới, phần học mang tính thực hành để khi ra trường có thể vận dụng được ngay kiến thức được đào tạo. Ngoài ra, có thể ký hợp đồng đào tạo với cơ sở sử dụng nhân lực khoa học kỹ thuật nhằm giúp học viên gắn với thực tế, hiểu nhu cầu công việc, kiến thức cần phải có, tạo điều kiện khi ra trường phát huy tốt năng lực, vốn tri thức. Giải pháp này cũng rất có ích trong việc huy động nguồn vốn tài chính hỗ trợ cho học viên và nhà trường trong quá trình học tập, đào tạo.
Thứ ba, quy hoạch mạng lưới trường. Sắp xếp lại các trường đại học theo các lĩnh vực khoa học phù hợp với điều kiện lãnh thổ. Mặt khác, các cơ sở đào tạo cũng phải sắp xếp lại tổ chức cho hợp lý, có nhu vậy mới nâng cao được chất lượng đào tạo. Các tổ chức này nên chia thành ba hệ thống cơ bản là hệ thống giảng dạy và nghiên cứu khoa học, hệ thống quản lý và điều hành, hệ thống phục vụ giảng dạy. Trong đó đặc biệt coi trọng nâng cao chất lượng hệ thống giảng dạy và nghiên cứu khoa học vì đây quyết định chất lượng của đối tượng đào tạo. Để khắc phục nguy cơ hẫng hụt giảng viên giỏi, có chính sách khuyến khích, thu hút sinh viên tốt nghiệp giỏi các trường đai học, cao đẳng gia nhập đội ngũ giảng viên. Đào tạo trên đại học là rất cần thiết nhằm nâng cao chất lượng cán bộ chuyên môn kỹ thuật nói chung và chất lượng cán bộ giảng dạy nói riêng. Các trường đại học, các viện nghiên cứu cần mở rộng diện đào tạo cán bộ có trình độ này với những phương thức đào tạo hợp lý. Ưu tiên gửi giảng viên đại học, cao đẳng đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài bằng nhiều nguồn kinh phí.
Thứ tư, đào tạo lại, bồi dưỡng cán bộ chuyên môn kỹ thuật. Để cán bộ chuyên môn kỹ thuật đáp ứng nhiệm vụ của giai đoạn mới, đào tạo lại và bồi dưỡng thường xuyên là yêu cầu tất yếu, rất cấp bách của công tác đào tạo. Nhưng để đào tạo một cách hiệu quả, cần có quy hoạch, chương trình, nội dung phù hợp, tổ chức đào tạo khoa học riêng cho mỗi loại cán bộ chuyên môn kỹ thuật và tiến hành làm thường xuyên.
Các cơ sở đào tạo có thể áp dụng nhiều hình thức đào tạo lại như tập trung, tại chức, học từ xa… phù hợp với điều kiện công tác của học viên. Cũng như các nội dung đào tạo khác, cần tăng cường việc trao đổi trực tiếp giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo để chương trình, nội dung đào tạo phù hợp với thực tế. Phương thức này nhằm giúp người học có việc làm ngay sau khi học. Thành phố Hồ Chí Minh đã có một số cơ sở thực hiện đào tạo nghề theo nhu cầu cụ thể của doanh nghiệp. Kết quả 99% học sinh học nghề được tuyển dụng sau tốt nghiệp, tránh được lãng phí về kinh phí đào tạo. Phương thức này cần được rút kinh nghiệm và nhân rộng.
Mở rộng các hình thức đào tạo theo địa chỉ, đào tạo tại chỗ cho các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu. Phương thức này gắn đào tạo với sử dụng, khắc phục tình trạng mất cân đối trong phân bổ và sử dụng nhân lực đã qua đào tạo như hiện nay. Mặt khác có thể thử nghiệm phương án Nhà nước tuyển và đảm bảo kinh phí đào tạo nhưng học sinh phải tuân theo sự phân công của Nhà nước trong thời gian nhất định thông qua hợp đồng lao động. Điều này không chỉ giúp vùng khó khăn có cán bộ mà còn tạo cơ hội cho người nghèo được đào tạo, có việc làm.
Việc đào tạo lại cán bộ công chức có thuận lợi là kinh phí được cân đối từ ngân sách nhà nước trong chương trình “đào tạo lại, bồi dưỡng cán bộ công chức Nhà nước” do Ban tổ chức Chính phủ chủ trì. Với các doanh nghiệp. Xí nghiệp, theo Luật doanh nghiệp, Nhà nước quy định được chi một số khoản trong doanh thu cho đào tạo lại. Vấn đề là phải xây dựng được nội dung, chương trình và tổ chức đào tạo phù hợp với nhu cầu công việc. Nhiều đơn vị hiện nay, ngoài tổ chức học ngoại ngữ, không tổ chức được các lớp nghiệp vụ khác vì không xây dựng được chương trình, nội dung đào tạo phù hợp với yêu cầu của người học.
Sử dụng nguồn nhân lực chuyên môn kỹ thuật
Chính sách quản lý, sử dụng lao động chuyên môn kỹ thuật ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống tinh thần, vật chất của họ, trực tiếp nâng cao năng suất lao động của nguồn nhân lực. Tuỳ theo điều kiện cụ thể, một số giải pháp sau có thể nghiên cứu áp dụng để phát huy tối đa năng lực làm việc của số lao động này như: (i) xây dựng quy hoạch sử dụng trên phạm vi quốc gia và từng ngành, làm cơ sở chính sách đào tạo bồi dưỡng thích hợp với từng đối tượng; (ii) cải tiến chính sách, chế độ trong việc sử dụng nguồn có chuyên môn kỹ thuật đặc biệt đội ngũ nhân lực có trình độ cao nhằm tạo điều kiện và môi trường làm việc thuận lợi đồng thời với các chế độ đãi ngộ vật chất để phát huy tối đa chất xám, năng lực của đội ngũ này.
Nhà nước cần đổi mới chính sách sử dụng, chế độ kiêm nhiệm, kiêm chức để tạo điều kiện cho nguồn nhân lực đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật có cơ hội làm việc rộng rãi. Các doanh nghiệp có thể ký hợp đồng với cán bộ khoa học kỹ thuật là công chức Nhà nước trong những công việc mà quy chế công chức không cấm.
Gần đây chúng ta nói nhiều đến tình trạng mất chất xám tại chỗ do việc những người lao động có chuyên môn cao rời bỏ khu vực Nhà nước sang làm việc cho các cơ sở tư nhân hoặc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Điều đáng lo ngại ở đây là những người có chuyên môn kỹ thuật không được sử dụng đúng ngành nghề, không có điều kiện để làm việc có hiệu quả. Nếu họ phát huy được năng lực nghề nghiệp thì dù trong hoặc ngoài khu vực Nhà nước vẫn có sự đóng góp nhất định cho sự phát triển của đất nước. Do vậy thay vì tìm cách ngăn cản họ làm việc cho khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, Nhà nước nên sớm có quy định buộc người sử dụng phải trả cho Nhà nước một khoản tiền bù đắp những chi phí đào tạo. Mặt khác, Nhà nước cũng nên tạo điều kiện hỗ trợ chủ sử dụng có thể tìm được lao động phù hợp với yêu cầu công việc. Qua đó kiểm tra việc thực hiện hợp đồng lao động, yêu cầu họ nộp đầy đủ các khoản đóng góp cho quỹ bảo hiểm đảm bảo quyền lợi người lao động.
Để động viên có hiệu quả tính tích cực, sáng tạo của người lao động thì vấn đề quan trọng nhất là tạo điều kiện để người lao động có việc làm và thu nhập cao. Thực tế cho thấy nó là yếu tố tác động mạnh nhất đến động cơ, thái độ làm việc của hầu hết người lao động hiện nay. Do vậy, Nhà nước phải tạo ra một thước đo chính xác, công bằng để đánh giá mức độ cũng như hiệu quả cống hiến của lao động làm cơ sở trả công tương xứng, nhất là đối với đội ngũ chuyên môn kỹ thuật cao và trong những ngành nghề đặc biệt đòi hỏi hàm lượng tri thức cao.
Hiện nay vì nhiều lý do nên phần lớn nhân lực sau đào tạo đều muốn sống làm việc tại thành phố, thị xã. Chính vì vậy vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo thiếu nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật một cách trầm trọng. Tuy nhiên, việc thu hút nhân lực đã qua đào tạo đến các vùng nông thôn, miền núi ít có chuyển biến mặc dù Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích. Trước mắt, nên nghiên cứu bổ sung một số chế độ cụ thể, thiết thực hơn như chính sách luân phiên có thời hạn, quyền khi trở về được lựa chọn nơi công tác, ưu đãi hưởng chế độ đào tạo, bồi dưỡng kiến thức để đảm bảo khả năng phát triển nghề nghiệp trong tương lai. Ngoài ra có thể xây dựng quy chế đối với học sinh hệ dài hạn tập trung trong các trường công lập được phân bổ ngân sách Nhà nước về nghĩa vụ công tác, phục vụ theo yêu cầu xã hội trong thời gian tối thiểu là 5 năm.
Việc phân chia các giải pháp trên đây chỉ có ý nghĩa tương đối bởi chúng có mối quan hệ qua lại với nhau. Do vậy, thực hiện đồng bộ các giải pháp đó là điều hết sức cần thiết để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
KẾT LUẬN
Chăm lo phát triển con người là sự ưu việt của Việt Nam trong nhiều năm qua thể hiện bởi chỉ số HDI cao hơn hẳn so với nhiều nước có GDP tương đương. Những năm gần đây Nhà nước càng chú trọng hơn nữa phát triển nguồn nhân lực do nhận thức vai trò hết sức đặc biệt của nó trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đã đạt nhiều kết quả khả quan được ghi nhận đánh giá cao.
Mặc dù vậy, so với nhu cầu chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam còn rất hạn chế, đặc biệt tỷ lệ lao động trình độ văn hóa cấp II, III và có chuyên môn kỹ thuật rất thấp. Thêm vào đó, cơ cấu bậc đào tạo và sự phân bổ giữa các ngành, vùng kinh tế cũng rất không đồng đều, còn nhiều bất hợp lý. Đây là những thách thức lớn cho quá trình phát triển, nhất là hiện nay đang có nhu cầu lớn về lao động trình độ cao để tiếp thu và ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, tạo sức cạnh tranh cho nền kinh tế. Nguyên nhân quan trọng trực tiếp dẫn đến tình trạng trên là một số chính sách trong lĩnh vực y tế, giáo dục còn khiếm khuyết, thiếu đồng bộ và không thích ứng kịp với sự biến chuyển của nền kinh tế. Những thực trạng và nguyên nhân được chỉ ra cùng với tham khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là yêu cầu bức thiết hiện nay.
Xuất phát từ quan điểm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đồng nghĩa với việc phát triển toàn diện con người và hệ thống giáo dục đào tạo giữ vai trò quyết định để thực hiện điều đó, luận văn đã phân tích và đưa ra một số giải pháp định hướng trong lĩnh vực y tế, giáo dục. Mục đích của các giải pháp này là hoàn thiện chính sách hiện nay theo hướng đổi mới hệ thống y tế, giáo dục nhằm mục tiêu công bằng và hiệu quả, nhanh chóng tạo được nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nghiên cứu chất lượng nguồn nhân lực là một đòi hỏi vừa cấp bách, vừa cơ bản do đó cần được tiến hành thường xuyên và trên nhiều phương diện nhằm phát huy cao nhất vai trò của yếu tố con người trong sự phát triển kinh tế xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính, Ngân hàng thế giới (2000), Nghiên cứu tài chính cho giáo dục Việt Nam.
Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường – Tổng cục Thống kê (1998), Một số kết quả điều tra tiềm lực khoa học công nghệ, NXB Thống kê, Hà Nội.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2002) , Niên giám thống kê Lao động – Thương binh và Xã hội 2001, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2002), Số liệu thống kê Lao động – Việc làm ở Việt Nam 2001, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (1998), Tác động của những biến đổi kinh tế đến sự phát triển nguồn nhân lực, việc làm và khu vực phi kết cấu ở Việt Nam và Đông Nam A, Nxb Lao động.
Các thuyết trình tại lễ trao giải thưởng Nobel về khoa học kinh tế 1991-1995 (2000), Nxb CTQG Hà Nội.
Chiến lược phát triển xuyên thế kỷ của Singapore, Tạp chí những vấn đề thế giới (1997), 46 (2).
Chính sách phát triển nguồn nhân lực của các nước ASEAN, Tạp chí nghiên cứu ĐNá ( 1999), 4
Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc (2001), Báo cáo phát triển con người 2001: Công nghệ mới vì sự phát triển con người, Nxb CTQG Hà Nội.
Vũ Hy Chương ( chủ biên ) (2002), Vấn đề tạo nguồn lực tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb CTQG Hà Nội.
Đỗ Minh Cương- Nguyễn Thị Doan (2001), Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học Việt Nam, Nxb CTQG Hà Nội.
Lê Đăng Doanh – Nguyễn Minh Tú ( chủ biên ) (1998), Tác động của những cải cách kinh tế đối với sự phát triển vùng, Nxb CTQG Hà Nội.
Phạm Tất Dong ( 2001), Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH, Nxb CTQG Hà Nội.
Thành Duy (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb CTQG Hà Nội.
Đỗ Đức Định ( chủ biên ) (1999), CNH, HĐH phát huy lợi thế so sánh: Kinh nghiệm của các nền kinh tế đang phát triển ở châu á, Nxb CTQG Hà Nội.
N.Goodwin – Phạm Vũ Luận (2002), Kinh tế vi mô trong nền kinh tế chuyển đổi, Nxb CTQG Hà Nội.
Phạm Minh Hạc ( chủ biên ) (2001), Nghiên cứu con người: đối tượng và những hướng chủ yếu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Phạm Minh Hạc ( chủ biên ) (1996), Vấn đề con người trong CNH, HĐH, Nxb CTQG Hà Nội.
Phạm Minh Hạc ( chủ biên ) (2001), Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb CTQG Hà Nội.
N.Henaff – J.Y. Martin ( 2001), Lao động, việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới, Nxb Thế giới, Hà Nội.
P. Hersey (1995), Quản lý nguồn nhân lực, Nxb CTQG Hà Nội.
Học viện Hành chính quốc gia ( 2000), Quản lý nguồn nhân lực, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Đặng Thanh Huyền (1997), Kinh nghiệm Nhật Bản trong giáo dục phổ thông và phát triển nguồn nhân lực, Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới, 50(6).
Lý luận – Thực tiễn xây dựng chiến lược phát triển con người, Tạp chí nghiên cứu giáo dục (2000), 3
N.G.Mankiw (1999), Kinh tế vĩ mô, Trường ĐH KTQD, Nxb Thống kê, Hà Nội.
E.W. Nafziger (1998), Kinh tế học của các nước đang phát triển, Nxb Thống kê.
Ngân hàng phát triển châu á (1996), Những vấn đề cơ bản trong cung cấp tài chính của các dịch vụ xã hội ở Việt Nam, Dự án cung cấp tài chính của các dịch vụ xã hội.
Ngân hàng thế giới (1998), Báo cáo về tình hình phát triển thế giới: Tri thức là sức mạnh, Nxb CTQG Hà Nội.
Ngân hàng thế giới (2000), Báo cáo đánh giá về kết quả điều tra sinh viên tốt nghiệp năm 1999, Dự án giáo dục đại học, Hà Nội.
Ngân hàng thế giới (1999), Đông á: con đường dẫn đến phục hồi, Nxb CTQG Hà Nội.
Ngân hàng thế giới (2000), Kết quả điều tra tài chính các trường đại học – cao đẳng Việt Nam, Dự án giáo dục đại học, Hà Nội.
Ngân hàng thế giới (1996), Nghiên cứu tài chính cho giáo dục Việt Nam.
Ngân hàng thế giới (1995), Những ưu tiên và chiến lược cho giáo dục.
Ngân hàng thế giới (2002), Suy ngẫm lại sự thần kỳ Đông á, Nxb CTQG Hà Nội.
Ngân hàng thế giới ( 1999), Việt Nam chuẩn bị cất cánh, Báo cáo kinh tế.
Ngân hàng thế giới (1999), Việt Nam tấn công vào đói nghèo, Hà Nội.
Ngân hàng thế giới – Ngân hàng phát triển châu A – Chương trình phát triển của Liên hiệp Quốc (2000) , Việt Nam 2010: Tiến vào thế kỷ 21- Các trụ cột của sự phát triển.
Ngân hàng thế giới – Sida Thụy Điển – Bộ Y tế Việt Nam (2001), Việt Nam khỏe để phát triển bền vững: Nghiên cứu tổng quan ngành y tế Việt Nam.
Ngân hàng thế giới ( 2002), Báo cáo phát triển Việt Nam 2002: Thực hiện cải cách để tăng trưởng và giảm nghèo nhanh hơn.
Nguyễn Thanh (2002), Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb CTQG Hà Nội.
Phát triển nguồn nhân lực trong công vụ và đào tạo công chức tại một số nước ASEAN, Tạp chí Quản lý Nhà nước (1998), 9(35).
Tổng cục Thống kê ( 2002 ), Số liệu thống kê dân số và kinh tế – xã hội Việt Nam 1975 – 2001.
Bùi Tất Thắng (chủ biên) (1997), Các nhân tố ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ CNH, HĐH ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Trần Văn Tùng ( chủ biên )(2002), Mô hình tăng trưởng kinh tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
Trần Văn Tùng (2001), Nền kinh tế tri thức và yêu cầu đổi mới giáo dục ở Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.
Trần Văn Tùng (1996), Phát triển nguồn nhân lực: Kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta, Nxb CTQG Hà Nội.
Lưu Ngọc Trịnh (1996), Chiến lược con người trong thần kỳ kinh tế Nhật Bản, Nxb CTQG, Hà Nội.
UNESCO, Hiểu để hành động
Việt Nam quản lý tốt hơn nguồn lực Nhà nước: Đánh giá chi tiêu công năm 2000 (2000).
Viện chiến lược phát triển (2001), Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, Nxb CTQG Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37063.doc