Luận văn Một số giải pháp góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại Tổng công ty Dệt May Việt Nam

Nền kinh tế chỉ có thể hoạt bình thường và phát triển trong một môi trường chính trị xã hội và kinh tế vĩ mô ổn định.Với nước ta tình hình chính trị xã hội được thừa nhận là ổn định và thuận lợi cho kinh tế phát triển.Tuy nhiên,việc đảm bảo bình ổn kinh tế vĩ mô còn nhiều yếu kém.chẳng hạn trong năm 2006,2007 đã xẩy ra tình trạng lạm phát tăng cao,ảnh hưởng xấu đến mức sống người dân và nền kinh tế.Để khắc phục những nhược điểm này ta có các biện pháp sau: +) Chính phủ phải đưa ra được mục tiêu phát triển kinh tế mang tính cơ bản,lâu dài và bao trùm đó là giải phóng lực lượng sản xuất,nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế. +) Chính phủ phải làm tốt công tác dự báo những xu hướng,thay đổi của kinh tế thế giới để có những biện pháp kịp thời đối phó. +) Đào tạo các chuyên gia giỏi trong việc phân tích và xử lí thông tin của các chỉ số kinh tế vĩ mô. +) Phối hợp hoạt động giữa các cơ quan quản lý nhà nước dể đạt hiệu quả cao nhất,chẳng hạn cần có sự phối hợp để điều hành kinh tế vĩ mô giữa 3 bộ như bộ tài chính,bộ kế hoạch đầu tư và bộ công thương.

doc77 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1459 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại Tổng công ty Dệt May Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh hình thành từ quỹ phúc lợi. Điều này gây khó khăn cho các doanh nghiệp chuẩn bị tiến hành cổ phần hóa làm cho quá trình cổ phần hóa bị chậm lại. Chẳng hạn như công ty may Hồ Gươm, tài sản cố định theo như sổ sách kế toán là 4.369.011.869 triệu đồng, số liệu xác định lại là 3.055.986.092 triệu đồng, như vậy chênh lệch là 1.313.025804 triệu đồng. Còn giá trị vô hình (giá trị lợi thế của doanh nghiệp) giá trị các tài sản cố định không nhìn thấy, sờ mó, cân đo đong đếm được như giá trị nhãn mác sản phẩm, địa thế doanh nghiệp, tài năng giám đốc, trình độ tay nghề. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, hầu như chúng ta mới chỉ có giá trị hữu hình mà chưa quan tâm đến giá trị vô hình, vì vậy việc xác định giá trị vô hình của doanh nghiệp thường bị coi nhẹ, bỏ qua nhiều yếu tố như lợi thế trong quyền sử dụng đất đai, nhà xưởng sẵn có. Như công ty may Hồ Gươm, là một đơn vị mới được tách ra thành lập từ một đơn vị hạch toán phụ thuộc của Tổng công ty Dệt May Việt Nam từ tháng 3- 1998 cơ sở vật chất còn sơ sài lạc hậu. Công ty hiện nay đang sở hữu 535 m2 nhà xưởng gồm một ngôi nhà hai tầng 683 m2 và một nhà xưởng 3 tầng 483 m2 sử dụng. Do mới tách ra nên thời gian làm ăn có lãi ít, chủ yếu là thua lỗ không có lãi nên hội đồng đánh giá giá trị doanh nghiệp không xác định giá trị lợi thế của công ty. Kết quả định giá doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào khả năng nhận thức đánh giá của các chuyên gia, tức là phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Do đó sự tồn tại của nhiều quan điểm trái ngược nhau (có quan điểm cho rằng đánh giá như thế là quá cao, có quan điểm cho rằng đánh giá như thế là quá thấp) về vấn đề này sẽ làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả định giá doanh nghiệp. Mặt khác việc sử dụng ngay kết quả định giá doanh nghiệp làm giá bán, giá giao dịch khi bán cổ phần doanh nghiệp đã làm thất thoát không nhỏ lượng vốn cho hoạt động của doanh nghiệp. Với chủ chương cổ phần hóa 11 doanh nghiệp của Tổng công ty trong năm 1999 nhưng thực tế chỉ cổ phần hóa được 5 doanh nghiệp, 6 doanh nghiệp còn lại thì trong đó mới chỉ có 3 doanh nghiệp là may Sài Gòn, May Thăng Long, May Độc Lập đã được xác định xong giá doanh nghiệp. Các doanh nghiệp chủ chương cổ phần hóa vào năm nay đều là các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả do đó giá trị lợi thế sẽ bằng 0 hoặc âm, nhưng trên thực tế những doanh nghiệp không thể không có giá trị lợi thế. Hiện nay quá trình định giá doanh nghiệp phần lớn vẫn mang tính chủ quan được thực hiện bởi chính doanh nghiệp và được thẩm định, quyết định bởi chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty, xem xét quyết định những doanh nghiệp có vốn Nhà nước theo sổ sách kế toán tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp từ 10 tỷ đồng trở xuống. Còn Bộ trưởng Bộ tài chính xem xét quyết định doanh nghiệp có vốn từ 10 tỷ đồng trở lên sau khi đã thoả thuận bằng văn bản của Bộ trưởng Bộ quản lý ngành, chủ tịch UBND tỉnh, thành phố, chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty. Như vậy doanh nghiệp vừa là người bán, vừa là người mua và giá trị doanh nghiệp do người bán quyết định, còn người mua thụ động do đó có xu hướng đánh giá thấp. Rõ ràng là điều này không phù hợp với nguyên tắc hoạt động của một nền kinh tế thị trường. Việc xác định giá trị doanh nghiệp trong Tổng công ty Dệt May Việt Nam có quan điểm cho rằng việc xác định như thế là quá thấp, có quan điểm cho rằng việc xác định như thế là quá cao. Để đẩy nhanh công tác CPH, đáp ứng kịp thời các yêu cầu, Chính phủ nên uỷ quyền cho Tổng công ty Dệt May Việt Nam cho phép được tiến hành CPH đối với những doanh nghiệp trực thuộc TCT do Bộ tài chính trực tiếp làm chủ tịch Hội đồng thẩm định khi các doanh nghiệp có số vốn nhỏ hơn 10 tỷ đồng. Những DNNN đóng trên địa bàn các địa phương có nhiều lợi thế về địa điểm, tài sản, nhà cửa vật kiến trúc đã được tái tạo, xây dựng thêm nhưng khi CPH thì không có cơ sở để tính vào giá trị doanh nghiệp, không được kéo dài thời gian sử dụng đất, chưa được chuyển những tài sản này thành nguồn vốn ngân sách cấp. Trong khi đó UBND tỉnh, thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh lại cho phép các DNNN thuộc địa phương mình khi CPH được chuyển thành tài sản doanh nghiệp, coi như ngân sách cấp, đã tạo sự khác biệt giữa doanh nghiệp Trung ương và doanh nghiệp địa phương. Tất cả những vấn đề này đã gây ra khó khăn, cản trở tiến trình cổ phần hóa của các DNNN, đòi hỏi phải có phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp trong đó phương pháp tính giá trị vô hình cần chính xác phù hợp với điều kiện của các doanh nghiệp Nhà nước cho quá trình cổ phần hóa trong thời gian tới. 3.4. Khó khăn trong việc giải quyết việc làm cho người lao động tại DNNN tiến hành CPH Chính sách đối với người lao động tại DNNN cổ phần hóa là vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi của hầu hết tất cả cán bộ công nhân viên ở mỗi doanh nghiệp nên đã tác động không nhỏ tới tiến độ thực hiện cổ phần hoá. Trong các doanh nghiệp cổ phần hóa có rất nhiều nội dung kinh tế xã hội liên quan đến người lao động, bên cạnh những chính sách chung theo quy định của pháp luật (Bộ luật lao động, các Nghị định của Chính phủ) còn có chính sách riêng đối với người lao động. Có thể điểm lại như chính sách với người lao động trong doanh nghiệp trước và sau khi cổ phần hóa. Trước khi cổ phần hóa doanh nghiệp có trách nhiệm giải quyết về các chế độ xã hội đối với người lao động hưởng theo chế độ bảo hiểm, thôi việc tại thời điểm cổ phần hóa, hoặc sẽ chuyển sang làm ở công ty cổ phần thì thực hiện theo điều 6 Nghị định 44/CP "Doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa có trách nhiệm sắp xếp, sử dụng hết lao động hiện có tại doanh nghiệp. Công ty cổ phần có trách nhiệm tiếp nhận bàn giao số lao động được chuyển sang làm việc tại công ty và thực hiện các cam kết trong hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể đã được kí kết trước đó cho đến khi kết thúc hợp đồng hay thương lượngđể bổ sung thay thế một số nội dung của hợp đồng lao động". Về bảo hiểm xã hội: các công ty cổ phần tiếp tục thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hộ theo quy định tại điều lệ bảo hiểm xã hội Việt Nam ban hành kèm Nghị định 12/CP của Bộ lao động thương binh xã hội. Theo đó trong thời gian làm việc kể cả DNNN hay công ty cổ phần, người lao động được hưởng 5 chế độ bảo hiểm xã hội (hưu trí, tử tuất, bệnh nghề nghiệp, thai sản ốm đau, tai nạn lao động). Về tiền lương thì khi chuyển sang công ty cổ phần sẽ đảm bảo ít nhất là bằng khi làm việc tại DNNN. Nhưng thực tế tại các công ty cổ phần trong thời gian qua hầu hết người lao động được tăng lương và tăng thu nhập. Đồng thời các doanh nghiệp tạo điều kiện để cho người lao động có cổ phần. Về việc đào tạo, đào tạo lại người lao động: Để sử dụng tối đa số dư lao động hiện nay và nâng cao tay nghề đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh cũng là một đòi hỏi cấp thiết trợ giúp cho tiến trình cổ phần hóa. Tóm lại chính sách ưu đãi đối với người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa đã được hình thành cả trong hệ thống pháp luật và trong thực tiễn, khi đó đáp ứng được một phần nào đó những yêu cầu chung đặt ra của tiến trình cổ phần hóa nhưng không phải là không có những khúc mắc cần giải quyết. Về vấn đề lao động dư dôi: Đây là một trong những mặt trái của quá trình cải tổ lại khu vực kinh tế Nhà nước, trong đó cổ phần hóa DNNN là một bộ phận. Vấn đề lao động thừa tại các DNNN thực hiện cổ phần hóa của Tổng công ty thực sự đã và sẽ là một lực cản lớn đối với tốc độ cổ phần hóa. Biên chế lao động quá lớn tại các DNNN hiện nay là hậu quả của một thời kì dài nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, khi mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều thực hiện theo chỉ tiêu giao từ trên xuống do đó đa phần số lao động trong các doanh nghiệp hiện nay là làm việc theo kinh nghiệm lâu năm chứ không có trình độ đào tạo về chuyên môn. Đây là sức ép lớn đến các DNNN nói chung và các DNNN thuộc Tổng công ty cũng không nằm ngoài tình trạng đó. Hiện nay, biên chế thuộc các doanh nghiệp của Tổng công ty là rất lớn - Tổng số lao động trong doanh nghiệp (gồm biên chế, hợp đồng dài hạn), năm 1996 là 89.476 người, năm 1997 là 89.421 người, năm 1998 là 90.661 người, năm 1999 là 91.902 người. Số lao động trong các doanh nghiệp chưa có việc làm năm 1996 là 819 người, năm 1997 là 1.948 người, năm 1998 là 1.839 người. Khi chuyển sang công ty cổ phần các doanh nghiệp này phải tinh lọc lại lao động để cho phù hợp với điều kiện mới. Trong điều 6 của Nghị định 44/CP quy định đã phần nào làm cho người lao động yên tâm hơn về việc làm, nhưng điều 143 lại quy định khác: "Sau 12 tháng kể từ khi doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần, nếu do nhu cầu tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh, thay đổi công nghệ dẫn đến người lao động mất việc làm thì chính sách đối với người lao động này được giải quyết theo quy định hiện hành của Chính phủ". Điều đó có nghĩa là người lao động chỉ được tiếp tục làm việc ổn định sau đó sẽ tuỳ thuộc vào tình hình thực tế của doanh nghiệp mà được mà có được tiếp tục làm việc hay không". Mặt khác trong vòng 12 tháng người lao động có yên tâm đôi chút về việc làm nhưng gánh nặng lại đè lên vai doanh nghiệp. Điều đó hoàn toàn có căn cứ, bởi vì sau khi cổ phần hóa doanh nghiệp thực hiện cơ cấu lại bộ máy, đổi mới trang thiết bị và công nghệ tất yếu sẽ phát sinh lao động dôi dư và trách nhiệm giải quyết thuộc về doanh nghiệp. Đây thực sự là một vấn đề khó khăn cả về tình, về lý đối với doanh nghiệp trong khi chế độ trợ cấp giá và bảo hiểm xã hội chưa hoàn thiện Về thu nhập của người lao động thể hiện qua những ưu đãi về tài chính là sự trăn trở của người lao động. Những ưu đãi cho người lao động luôn được xác định trên nguyên tắc vì lợi ích của người lao động, vì sự công bằng bình đẳng của người lao động trong doanh nghiệp. Các DNNN tại Tổng công ty cũng đã, đang vận dụng theo Nghị định 44/1998/NĐ-CP nhưng cũng nảy sinh một số vướng mắc như: người lao động chỉ được hưởng ưu đãi khi bỏ tiền ra mua cổ phần, nếu không tham gia mua thì sẽ không được hưởng ưu đãi thực tế không phải người lao động nào cũng có sẵn tiền lớn (số lao động này chiếm tỷ trọng khá lớn trong doanh nghiệp) để đầu tư vào doanh nghiệp. Khi áp dụng mức ưu đãi sẽ buộc họ bỏ ưu đãi hay vay tiền Chính phủ để hưởng ưu đãi và chấp nhận rủi ro nếu có tức nhỏ hơn lãi vay, hoặc vay tiền mua cổ phần sau đó bán lại cho người đầu tư khác để lấy chênh lệch. Như vậy cơ hội tham gia làm chủ doanh nghiệp của người lao động còn nhiều hạn chế. Hơn nữa việc bán chịu cổ phần cho người lao động nghèo trong doanh nghiệp cũng là một vấn đề bởi vì thế nào là người lao động nghèo trong doanh nghiệp. Như vậy đối với ngay cả doanh nghiệp đã cổ phần hóa còn phải giải quyết rất nhiều tồn tại sau khi còn phải giải quyết rất nhiều tồn tại sau khi cổ phần hóa về lao động, làm cho quá trình cổ phần hóa diễn ra chậm, đồng thời điều này là vật cản tâm lý rất lớn đối với các doanh nghiệp chưa bị cổ phần hóa. Tiến trình cổ phần hóa của Tổng công ty ngoài những vướng mắc trên còn có một số tồn tại khác cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến việc cổ phần hóa quá chậm như hiện nay: Công tác tổ chức triển khai cổ phần hóa còn chậm chạp, lúng túng do đội ngũ cán bộ chỉ đạo còn kiêm nhiệm nên chưa tập trung vào công tác cổ phần hóa một cách toàn tâm toàn lực. Chưa lựa chọn được chính xác xem doanh nghiệp nào nên cổ phần hóa trước (năm 1999 Tổng công ty có 3 doanh nghiệp đã được chỉ định cổ phần hóa nhưng lại từ chối cổ phần hóa đó là: công ty cơ khí may Gia Lâm, công ty may Hoà Bình, công ty may Phương Đông). Hơn nữa công tác tuyên truyền, hướng dẫn người lao động cũng như nhân dân tham gia tích cực vào quá trình cổ phần hóa của doanh nghiệp còn chậm và rời rạc. Trong khi người dân Việt Nam chưa có thói quen chấp nhận rủi ro đầu tư mua cổ phiếu, tâm lý lo lắng của người lao động không có việc làm khi tiến hành cổ phần hóa... thì việc tuyên truyền cổ phần hóa là hết sức cần thiết. Trên thực tế cho thấy những nơi cán bộ lãnh đạo chú trọng công tác tuyên truyền thì công tác cổ phần hóa có nhiều thuận lợi và phát triển tốt, cụ thể là các doanh nghiệp địa phương có cổ phần hóa. Còn lại địa phương khác không chú trọng đến công tác tuyên truyền nên đến nay vẫn chưa CPH được doanh nghiệp nào. Tuy nhiên với những công việc khác nhau như định giá TSCĐ hoặc chính sách đối với người lao động nếu được quy định cụ thể thì công tác tuyên truyền sẽ tốt hơn. chương III một số giải pháp góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hoá dnnn thuộc Tổng công ty Dệt May Việt Nam Như đã phân tích ở chương II, tiến trình CPH các DNNN tại Tổng công ty Dệt- May Việt Nam mới bắt đầu được một năm cùng với chủ trương đẩy mạnh CPH DNNN của Nhà nước. Qua một số kết quả ban đầu cho thấy TCT thực hiện CPH là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với điều kiện hiện nay. Với chủ trương lựa chọn DNNN để CPH theo trục công nghệ sợi dệt cùng với các yếu tố khác về chính trị - xã hội. TCT chọn 10 đơn vị thành viên để CPH vào năm 2000, đến năm 2005 ngoài số doanh nghiệp lớn trong ngành may và một số doanh nghiệp dệt thuộc sở hữu 100% vốn Nhà nước, các doanh nghiệp còn lại sẽ thực hiện CPH xong. Theo kế hoạch của TCT thì tới năm 2010, toàn ngành sẽ tiến hành CPH xong 40 doanh nghiệp trong tổng số 61 đơn vị trực thuộc hiện nay, chỉ giữ lại khoảng 10 doanh nghiệp không CPH, trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp chuyên kinh doanh ngành dệt. Tuy nhiên thực tế cho thấy, mặc dù TCT rất có thiện chí muốn đẩy nhanh quá trình CPH nhưng cũng giống như tình trạng chung của các DNNN thuộc các ngành, địa phương khác, đó là có những tồn tại như đã phân tích ở trên.Do vậy mọi nghiên cứu và đề xuất các giải pháp cho các vấn đề liên quan đến công cuộc CPH đều rất cần thiết.Tại chương III này, tôi xin đưa ra một ssó giải pháp, kiến nghị góp phần thúc đẩy tiến trình CPH DNNN của Tổng công ty, dựa trên những tồn tại thực tế và những chủ trương đã đề ra. 1. Xác định giá trị doanh nghiệp hợp lý Những vướng mắc trong khâu xác định giá trị doanh nghiệp đang là một trở ngại không nhỏ cho việc đẩy mạnh tiến trình CPH các DNNN tại TCT. Quá trình thực hiện một số đề án CPH cho thấy công tác xác định giá trị doanh nghiệp ở Việt Nam còn nhiều hạn chế, cần sớm bổ sung và khắc phục. Các điều kiện cơ sở pháp lý trong việc xác định giá trị doanh nghiệp chưa được thiết lập đầy đủ. Biểu hiện ở đây là thiếu một hệ thống văn bản pháp quy quy định và hướng dẫn việc xác định giá trị doanh nghiệp và sự thiếu hụt đội ngũ chuyên gia định giá chuyên nghiệp. Do đó khi triển khai các doanh nghiệp bị lúng túng trong việc xử lý các vấn đề phát sinh (như vướng mắc nguồn vốn, đất đai...) làm tăng thêm chi phí, kéo dài thời gian thực hiện CPH của doanh nghiệp và tạo tâm ký ngần ngại trong đội ngũ cán bộ và người lao động. Như vậy để tăng cường tính hiệu quả trong khâu xác định giá trị doanh nghiệp, Chính phủ cần sớm nghiên cứu và ban hành những văn bản pháp quy liên quan đến vấn đề này, đồng thời tăng cường công tác đào tạo đội ngũ cán bộ đánh giá giá trị doanh nghiệp. Vì vậy Nhà nước cần quy định thống nhất để tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương khi tổ chức CPH. Cụ thể là Chính phủ phải yêu cầu các tỉnh, thành phố và địa phương ban hành các quyết định về giá nhà xưởng, kho tàng, bến bãi, phương tiện vận tải, máy móc thiết bị...Bên cạnh đó có thể tổ chức hình thức bán đấu giá để xác định giá bán hợp lý mà cả người bán và người mua đều chấp nhận được (người bán là doanh nghiệp không thể định giá cao hơn giá trị và người mua trở thành chủ động cùng thống nhất về mức giá với người bán). Tuy nhiên việc bán đấu giá phải công khai, có cả sự tham gia của những người ngoài doanh nghiệp muốn mua cổ phần tại doanh nghiệp, tránh tình trạng cấu kết ép giá của công nhân trong doanh nghiệp. Bên cạnh đó phương pháp duy nhất để xác định lợi thế của doanh nghiệp căn cứ vào kết quả kinh doanh trong 3 năm liên tiếp trước khi CPH so với một doanh nghiệp cùng loại trong cùng một thời gian- theo như thông tư số 104/1998/TT-BTC, là không khoa học, không tính đến đặc thù của mỗi ngành khác nhau, do đó đã không tính được lợi thế của doanh nghiệp so với doanh nghiệp ở các ngành khác. Hơn nữa, trên thực tế không có đủ thông tin đáng tin cậy về doanh nghiệp được so sánh cho nên giá trị doanh nghiệp được tính chỉ là kết quả của sự thoả thuận giữa Nhà nước và doanh nghiệp chứ không phải là kết quả của sự áp dụng phương pháp trên. Cho nên chúng ta có thể giải quyết vấn đề này như sau: + Đối với những doanh nghiệp có quy mô nhỏ (từ 1 đến 2 tỷ đồng) và đặc biệt là làm ăn có hiệu quả cao có thể bỏ giá trị lợi thế của doanh nghiệp, không tính vào giá trị doanh nghiệp mà coi đây là khoản Nhà nước khuyến khích các cá nhân và tổ chức trong, ngoài nước mua cổ phiếu của doanh nghiệp. Có thể có quan điểm cho rằng như vậy doanh nghiệp không có lợi thế, nhưng thực tế thì lợi thế được thể hiện ở uy tín của doanh nghiệp trên thị trường về chất lượng sản phẩm, về lợi thế địa điểm kinh doanh và phương thức quản lý mới tiến bộ hơn. Kinh nghiệm cho thấy một số lượng lớn doanh nghiệp có quy mô nhỏ, sản xuất kinh doanh mang tính cầm chừng, việc tính lợi thế kinh doanh chỉ làm kéo dài thêm thời gian CPH, trong khi đó thì doanh nghiệp lại không có uy tín và lợi thế gì ngay cả trên thị trường nội địa. Vì vậy theo cách này có thể là động lực kích thích các đối tượng mua cổ phiếu của công ty, góp phần đẩy nhanh quá trình CPH. + Đối với những doanh nghiệp có quy mô lớn vẫn tính lợi thế của doanh nghiệp tuy nhiên phải thay đổi một số điểm về phương thức xác định theo mô hình sau: Ta gọi: V : Giá trị ròng của doanh nghiệp A : Giá trị tài sản ròng hữu hình đã được đánh giá lại GW : Giá trị tài sản vô hình (đã được quy đổi về hiện tại) S : Tài sản hữu hình được sử dụng cho các mục đích hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. i (%) : Chi phí phải trả cho việc sử dụng các tài sản hữu hình r(%) : Hệ số quy đổi về hiện tại d: Mức chênh lệch giữa lợi nhuận thu được và chi phí sử dụng vốn (giá trị các yếu tố vô hình thu được hàng năm) n : Thời kì vốn hoá (thời gian quy đổi về hiện tại) của tiền lời (năm) Giá trị các yếu tố vô hình thu được hàng năm sẽ là: (công thức 1) d = R - (S x i ) Giá trị tài sản vô hình đã được quy đổi về hiện tại: - Trường hợp khoảng thời gian xem xét là trong tương lai: Ta phải quy tất cả các giá trị về thời điểm hiện tại: (công thức 2) Goodwill = GW = = - Trường hợp khoảng thời gian đánh giá là trong quá khứ, dựa vào các số liệu đã có trong quá khứ, thì ta phải quy đổi các giá trị này về thời điểm đánh giá: (công thức 3) Goodwill = GW = = Khi đó giá trị ròng của doanh nghiệp sẽ thu được bằng cách cộng GW với giá trị tài sản ròng đã được đánh giá lại: Mô hình: V = A + GW Trong đó: Hệ số hiện tại hoá (hệ số quy đổi về hiện tại - r): Do ảnh hưởng của lạm phát cho nên lợi nhuận tại mỗi thời điểm khác nhau có giá trị khác nhau vì vậy cần phải quy đổi tất cả các giá trị này về cùng một thời điểm xem xét. Tỷ lệ này có thể lấy bằng tỷ lệ lạm phát hằng năm. Khoảng thời gian đánh giá (thời kỳ vốn hoá - n): khoảng thời gian này không xác định cho tất cả các doanh nghiệp đang hoạt động trong một môi trường kinh tế pháp lý không ổn định. Nhưng có thể giới hạn trong vòng từ 3- 5 năm bởi vì đây là khoảng thời gian đủ để cho doanh nghiệp hoạt động ổn định và ít có biến động. Lợi nhuận thu được hàng năm (R) có thể tính trong vòng từ 3 -5 năm. Tài sản hữu hình theo như phương pháp xác định hiện nay chưa hợp lý có thể điều chỉnh như sau: "tài sản có" phải cộng thêm vào những khoản đầu tư cần thiết cho kinh doanh mà doanh nghiệp là chủ sở hữu các khoản đầu tư đó (có thể bao gồm các tài sản cố định thuê mướn, cho hoặc cung cấp theo hợp đồng tín dụng), trừ đi những yếu tố vật chất hay phi vật chất không tham gia trực tiếp vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh (như giá trị các văn bằng sáng chế không được doanh nghiệp sử dụng mà đem cho thuê...).Việc sử dụng các "tài sản có" này được trả một khoản chi phí (i%) để chứng minh giá trị kinh tế hay tính hữu ích của nó. Để tính toán được i (chi phí cho việc sử dụng các khoản vốn đã tài trợ cho tài sản có), do có tính phức tạp về cơ cấu các nguồn vốn trong tổng nguồn vốn tài trợ, ta có thể lấy bằng với mức lãi suất các khoản vay dài hạn của ngân hàng, bởi thay vì dùng vốn đầu tư tài trợ cho các tài sản có dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh, khoản tiền đó có thể được đem cho vay dài han để được hưởng lãi. Có thể so sánh sự khác nhau giữa phương án mới so với quy định hiện tại như sau: Theo quy định hiện tại Đối với doanh nghiệp nhỏ (1-2 tỷ đồng) làm ăn có hiệu quả: + Trường hợp đã đánh giá được giá trị lợi thế thì lấy trên sổ sách kế toán. + Trường hợp chưa xác định được giá trị lợi thế thì căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận bình quân của 3 năm liền kề với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Giá trị lợi thế doanh nghiệp = A x B x 30% Trong đó: A: Là vốn Nhà nước theo sổ kế toán 3 năm liền kề. B: Tỷ suất lợi nhuận siêu ngạch. + Đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ (1-2 tỷ đồng), làm ăn kém hiệu quả có thể bỏ giá trị này. + Đối với doanh nghiệp có quy mô lớn giá trị lợi thế tính theo công thức (1), (2), (3) như đã trình bày ở trên. áp dụng công thức trên ta có thể tính lại giá trị thực của công ty may Bình Minh trong ví dụ ở chương II như sau: + Xác định tài sản hữu hình: Giá trị tài sản hữu hình của công ty = 44.545.932.322 đ. Giá trị thực tế phần vốn Nhà nước (A) = 17.635.707.290 đ. + Xác định giá trị các yếu tố vô hình (lợi thế thương mại -GW) Căn cứ để xác định giá trị: Dựa vào bảng số liệu kế toán về tình hình sử dụng tài sản cho hoạt động sản xuất kinh doanh và lợi nhuận thu được trong 3 năm cuối (1995, 1996, 1997) Nội dung 31/121995 31/12/1996 31/12/1997 Giá trị tài sản có dùng vào sản xuất kinh doanh –S 32.564.985.354 38.476.480.325 44.474.144.845 Lợi nhuận thực hiện -R 4.654.167.800 5.489.654.784 6.651.000.000 Lãi suất vay dài hạn tại thời điểm đánh giá 1/1/1998: i = 13%/năm. Tỷ suất hiện tại hoá (lấy trung bình theo mức lạm phát của 2 năm 1996,1997): r = 9%. Bảng tính toán: Đơn vị: triệu đồng Năm S x i R d = R - (S x i) (1 + r)t d(1 + r)t 1995 4.233.488.069 4.654.167.800 420.719.704 1.1888 499.815.008 1996 5.001.942.442 5.489.654.454 487.712.341 11.09 513.606.453 1997 5.781.638.830 6.651.000.000 869.361.170 1 869.361.170 Giá trị các yếu tó vô hình của công ty - GW = 1.900.782.631 V = A + GW = 19.563.489.921 Vậy giá trị công ty sau khi đánh giá lại là: 19.536.489.921 Ta có bảng so sánh giữa hai cách tính như sau: Chỉ tiêu Phương án cũ Phương án mới 1. Giá trị tài sản cố định hữu hình 44.545.932.322 44.545.932.322 2. Giá trị các yếu tố vô hình 0 1.900.782.631 3. Giá trị thực tế của doanh nghiệp (1+2) 44.545.932.322 45.446.714.953 4. Nợ thực tế phải trả 26.910.225.032 26.910.225.032 5. Giá trị doanh nghiệp sau khi đánh giá lại 17.635.707.290 19.530.489.921 Theo như cách này cũng có những ưu điểm và những nhược điểm như: bổ sung các yếu tố mà phương pháp cũ không đề cập đến trong tài sản hữu hình, còn về đánh giá giá trị lợi thế thì đã chỉ ra được các yếu tố liên quan đến lợi thế của doanh nghiệp, cách tính lại độc lập không phụ thuộc vào chỉ tiêu của ngành. Tuy nhiên theo cách này giá trị lợi thế của doanh nghiệp lại phụ thuộc vào các hệ số như hệ số quy đổi về hiện tại, thời gian đánh giá, phải xác định được giá trị tài sản có dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh, cơ cấu của vốn tài trợ cho tài sản... Hơn nữa không áp dụng được cho những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ hay không có lãi vì sẽ làm giảm giá trị ròng của doanh nghiệp. Như vậy theo em cách giải quyết tốt nhất là nên cho các doanh nghiệp tính giá trị vô hình theo các phương pháp khác nhau như phương pháp tỷ suất lợi nhuận siêu ngạch bình quân của 3 năm liền kề với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp, phương pháp mới như đã trình bày... nhưng có sự thay đổi về số năm tính lợi nhuận (lớn hơn hoặc nhỏ hơn 3 năm) sao cho phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp mà người mua có thể chấp nhận được. 2. Hình thành một bộ máy tổ chức và điều hành đủ mạnh Cổ phần hoá DNNN là yêu cầu cấp thiết hiện nay cho việc đổi mới khu vực DNNN và được điều hành bởi Ban đổi mới doanh nghiệp do Thủ tướng đứng đầu. Nhưng thực tiễn hiện nay tất cả các ban đổi mới doanh nghiệp tại các Bộ quản lý ngành, tỉnh, thành phố, Tổng công ty 91 và doanh nghiệp đều kiêm nhiệm. Mặc dù thời gian qua họ đã thực hiện tốt vai trò của mình và đã đảm bảo cho tiến trình CPH được diễn ra theo đúng tiến độ nhưng số cán bộ còn quá ít, lại phải thực hiện các công việc khác do đó phần nào ảnh hưởng đến công tác CPH. Bởi công việc tiến hành trên sự kiêm nhiệm thì người thực hiện rất khó có thể toàn tâm toàn lực mà lo cho công việc mặt khác lại khó quy kết trách nhiệm khi có vấn đề, vướng mắc xảy ra. Từ thực trạng đó thì cần phải có những thay đổi là: Trước hết đội ngũ cán bộ cho các ban, các tổ CPH phải đủ người, đồng thời cán bộ phân công đảm nhiệm công tác CPH tại DNNN dù ở cấp nào, chuyên trách hay kiêm nhiệm, lãnh đạo hay thừa hành đều phải mang tính chất chuyên nghiệp. Nghĩa là không được tuỳ tiện thay đổi cán bộ, phải có những cán bộ tâm huyết với công việc, có chuyên môn và được theo dõi công việc liên tục, ổn định, thành thạo quy trình CPH, không kiêm nhiệm nhiều chức vụ khác nhau. Với một đội ngũ cán bộ chỉ đạo CPH như vậy thì công tác CPH chắc chắn sẽ được thực hiện tốt hơn, tiến trình CPH sẽ được đẩy mạnh hơn. 3. Có những chính sách tài chính ưu đãi hơn đối với người lao động Thực ra chuyển DNNN sang một hình thức hoạt động khác không phải là điều quan tâm lớn nhất đối với người lao động. Vậy họ quan tâm đến điều gì ? Có lẽ họ chỉ quan tâm đến hai điều: có việc làm ổn định và thu nhập sẽ tăng trong tương lai. Vậy giải quyết vấn đề này như thế nào để người lao động có thể yên tâm tham gia tích cực vào quá trình CPH. * Về đảm bảo việc làm cho người lao động Tại điều 6 Nghị định 44/1998/NĐ-CP quy định "Doanh nghiệp tiến hành CPH có trách nhiệm sử dụng hết số lao động hợp đồng hiện có tại doanh nghiệp. Đối với số lao động tự nguyện chấm dứt thì giải quyết theo pháp luật hiện hành". Khi CPH doanh nghiệp huy động được một nguồn vốn nhất định để có thể đứng vững và phát triển, các doanh nghiệp với thực trạng hiện tại tất yếu phải từng bước đổi mới công nghệ. Khi trình độ công nghệ hiện đại hơn, trình độ hiện đại hóa cao thì lao động giảm mà doanh nghiệp không được phép giảm số lượng lao động, vậy chẳng lẽ doanh nghiệp "nuôi không" những người này đây chính là một gánh nặng đè lên vai doanh nghiệp. Tại điều 9 khoản 2 Nghị định 44/1998/NĐ-CP "doanh nghiệp sử dụng tiền bán cổ phần thuộc vốn Nhà nước trợ cấp cho lao động dư dôi" thật sự mâu thuẫn với quy định trên. Thực tế thì lao động trong doanh nghiệp CPH vẫn thừa mà chính sách giải quyết cụ thể lại không có. Vậy chúng ta phải phân loại lao động trong doanh nghiệp để từ đó có cách giải quyết cụ thể với từng loại. Lao động trong doanh nghiệp có thể chia thành 3 loại sau: - Loại thứ nhất là số người chưa được đào tạo hoặc đã được đào tạo nhưng trình độ chưa đáp ứng được yêu cầu công việc hiện tại, cần phải đào tạo và đào tạo lại. - Loại thứ hai là những người tự nguyện chấm dứt hợp đồng lao động trước khi doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ phần. - Loại thứ ba là những người không thuộc hai loại trên nhưng không bố trí sử dụng lại, cần phải có trợ cấp mất việc để họ có thể tự tìm kiếm việc làm mới. Trước hết đối với số người lao động đã có quá trình cống hiến cho Nhà nước nhiều, tuổi cao, muốn nghỉ hưu nhưng theo quy định tuổi nghỉ hưu (55 tuổi đối với nữ, 60 tuổi đối với nam) và tỷ lệ phần trăm giảm lương lớn (1%) cho mỗi năm nghỉ trước tuổi đã làm doanh nghiệp khó khăn trong việc giải quyết. Do vậy cần nghiên cứu xem xét theo hướng thông thoáng hơn, có thể là không trừ phần trăm nào để người lao động có thể tự nguyện xin nghỉ hưu. Về trợ cấp thôi việc, đây là loại trợ cấp mà doanh nghiệp trừ cho người lao động khi họ tự nguyện xin thôi việc nhằm hỗ trợ một phần để tạo điều kiện cho người lao động ổn định tìm việc làm mới. Bên cạnh các chế độ quy định, áp dụng thêm một số chính sách đặc cách như nâng cao mức khuyến khích thôi việc theo hướng tạo điều kiện về vốn để người lao động tự tìm việc làm mới cụ thể như tại công ty may Bình Minh: Hưởng trợ cấp theo năm công tác: Một tháng lương cho thời gian làm việc từ 1-5 năm, một đến hai tháng cho thời gian làm việc từ 6-10 năm trở lên. Hưởng trợ cấp theo tuổi đời: Dưới 35 tuổi không được trợ cấp, từ 35-45 tuổi mức trợ cấp là 1,5 triệu đồng, từ 45-55 tuổi mức trợ cấp là 3 triệu đồng/người. Với sự thay đổi trên doanh nghiệp sẽ phần nào giải quyết được một số lao động dôi dư không cần thiết khi chuyển sang công ty cổ phần. Tạo điều kiện để người lao động đến tuổi nghỉ hưu luôn vui vẻ, tự nguyện xin nghỉ. Đồng thời với mức trợ cấp như thế sẽ khuyến khích những người lao động sắp đến tuổi nghỉ hưu cũng muốn xin thôi việc. Tuy nhiên ngân sách để thực hiện việc này rất lớn, chúng ta có thể chấp nhận qua một quỹ trung gian nhận nợ với người lao động và kiểm soát tiến trình chi trả như một khoản tiền tiết kiệm có thời hạn. Nguồn kinh phí chi trả của quỹ này được cấp một phần từ quỹ bảo hiểm xã hội, phần khác từ quỹ hỗ trợ CPH DNNN. Người lao động ở xa có thể được hỗ trợ tiền tàu xe về quê sinh sống và yêu cầu chính quyền địa phương tạo điều kiện cấp đất cho họ sản xuất. Bên cạnh đó doanh nghiệp cần tiến hành các hoạt động đào tạo, đào tạo lại cho người lao động theo hai hướng sau: - Hướng thứ nhất: Đào tạo lại tay nghề cho đối tượng lao động còn tiếp tục làm việc tại doanh nghiệp thực hiện CPH. Nội dung chương trình cũng như mục đích đào tạo phải thực hiện theo yêu cầu của doanh nghiệp nhằm đáp ứng được công việc sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần trong tương lai. Doang nghiệp phải lên kế hoạch đào tạo cụ thể và dự trù kinh phí, từ đó Nhà nước sẽ quyết định dành bao nhiêu phần trăm tiền bán cổ phần từ vốn của Nhà nướctại doanh nghiệp để lại cho doanh nghiệp làm kinh phí đào tạo. -Hướng thứ hai: đào tạo và đào tạo lại nghề cho số lao động dư dôi, thôi không làm việc tại doanh nghiệp thực hiện CPH nữa. Nội dung chương trình dạy nghề cần phù hợp theo khả năng, sở thích của người lao động cũng như phải đáp ứng kịp thời xu thế phát triển những ngành nghề kinh tế then chốt trong tương lai. Kinh phí đào tạo cần được cung cấp đầy đủ ở quỹ hỗ trợ CPH. Doanh nghiệp cũng có thể chuyển người lao động sang doanh nghiệp khác hay gửi người lao động đó đến các trung tâm đào tạo việc làm. Như thế người lao động sẽ yên tâm hơn và tham gia tích cực khi doanh nghiệp tiến hành CPH. * Về chính sách ưu đãi cho người lao động tại các DNNN thực hiện CPH Để tiến hành CPH thuận lợi chúng ta cần cho người lao động thấy được những quyền lợi hấp dẫn mà có thể có được nếu doanh nghiệp của họ chuyển sang công ty cổ phần từ đó họ sẽ yên tâm hơn và thực hiện tốt công việc, bằng các hình thức sau: + Chia cho người lao động một phần tài sản thuộc vốn ngân sách và bổ sung của doanh nghiệp Để tính toán được điều này trước hết ta đi phân loại doanh nghiệp Với doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả: Tiêu chí là tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (vốn Nhà nước và vốn tự bổ sung). Tỷ suất này chí ít cũng phải trên 15%, có nghĩa là phải cao hơn mức lãi suất tiết kiệm thì đồng vốn mới thực sự sinh lời. Đối với doanh nghiệp thuộc loại này, ta có thể áp dụng các quy định trong Nghị định 44/CP nhưng với mức bán cổ phần ưu đãi cho người lao động cao hơn, có thể tới 50% giá trị số cổ phần tài sản cố định thuộc vốn ngân sách mà người lao động được hưởng tuỳ theo số năm công tác. Riêng phần vốn tự bổ sung của doanh nghiệp có thể chia toàn bộ cho cán bộ công nhân viên để mọi người có tiền mua cổ phần. Với DNNN hoạt động kém hiệu quả: Tỷ suất lợi nhuận không đạt tiêu chí trên, Nhà nước có thể cho cán bộ công nhân viên 100% giá trị cổ phần tài sản cố định thuộc vốn vay và vốn lưu động, sau khi đánh giá lại Nhà nước sẽ bán cổ phiếu để thu hồi lại vốn và trả nợ. Lý do là các DNNN hầu hết có tài sản đã cũ, khấu hao hết, có tài sản còn khấu hao đến lần thứ hai. Do đó có cho không công nhân thì Nhà nước cũng không thiệt, dù cho hay không cho tài sản đó vẫn nằm tại doanh nghiệp, thuộc Nhà nước chỉ trên danh nghĩa, chỉ có điều khác là hàng năm Nhà nước thu được một khoản thu trên vốn là 3,6% cho ngân sách. Nếu Nhà nước cho bán cổ phiếu phần tài sản cố định thuộc vốn ngân sách, thì mặc nhiên người mua phải suy nghĩ nên mua cái gì, không nên mua cái gì và đắt rẻ như thế nào. Trong trường hợp đó có thể Nhà nước sẽ không thu gom được một phần giá trị nào và cũng không biết phải sử dụng vào đâu, cuối cùng là để lại doanh nghiệp cho hư hỏng. Trong khi đó đối với công nhân việc chia cổ phần như vậy tạo ra những chủ sở hữu đích thực cho doanh nghiệp. + Nâng mức phần trăm giá bán cổ phần ưu đãi tại doanh nghiệp Theo quy định người lao động tại doanh nghiệp được mua cổ phần giảm gía 30% so với cổ phần bán cho đối tượng tuỳ theo số năm công tác. Trong thực tế tiền lương và thu nhập của người lao động còn hạn hẹp. Do vậy có thể có một số tiền đủ lớn để mua cổ phiếu ưu đãi là một chuyên không dễ và dù tiến hành mua cổ phần thành nhiều đợt thì không ít người lao động cũng không đủ tiền để mua. Mức khống chế giá trị cổ phiếu ưu đãi là 20-30% giá trị phần vốn góp của Nhà nước cũng chưa được hợp lý. Lý do là số năm công tác trong khu vực Nhà nước của người lao động là khá lớn, trong khi giá trị phần vốn Nhà nước tại đây lại ít nên có doanh nghiệp thì đủ 10 cổ phiếu cho mỗi năm công tác, có đơn vị lại chỉ đủ 6-8 cổ phần thay vì 10 cổ phần cho 1 năm công tác. Do đó cần phải căn cứ vào điều kiện cũng như tình hình cụ thể về số lao động và số năm công tác cuả mỗi người trong doanh nghiệp để có mức phần trăm cổ phần ưu đãi hợp lý trong mỗi doanh nghiệp chẳng hạn như sau: STT Theo quy định hiện tại Phương án thay đổi (1) Số cổ phần tối đa cho một năm công tác 10 10 (Đối với doanh nghiệp có số lao động và số năm công tác ít) 6-8 (Đối với doanh nghiệp có số lao động và số năm công tác nhiều) (2) Mức giảm trên một cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp 30% 35% (3) Tổng giá trị cổ phiếu ưu đãi trong doanh nghiệp 20 – 30% giá trị phần vốn góp của Nhà nước 22- 32% giá trị phần vốn góp của Nhà nước Đây chỉ là một cách để tính sao cho mức giá trị cổ phần ưu đãi được hợp lý và giúp cho doanh nghiệp dễ dàng giải quyết về cổ phần cho người lao động và đặc biệt là khuyến khích người lao động trong việc mua cổ phiếu của doanh nghiệp. Bởi vì mức giảm giá mua cổ phần và số cổ phần không nhiều lắm sẽ phù hợp với túi tiền của họ. Khi đó người lao động sẽ thấy rằng việc mua được cổ phần của doanh nghiệp là không mấy khó khăn và với lượng vốn của mỗi người tuy không nhiều lắm nhưng họ sẽ hăng say làm việc và hy vọng thu được khoản tiền lớn trong tương lai. Bên cạnh đó việc ưu đãi này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho những người lao động đã suy giảm sức lao động do bệnh nghề nghiệp, do quá trình lao động nhiều năm, những người có tay nghề yếu, nghề nghiệp không ổn định có nguy cơ phải thôi việc có được một số vốn (họ có thể bán cổ phần của mình cho người khác), để tìm nghề sinh sống cho phù hợp với năng lực của họ. Đây là điểm mấu chốt sẽ hấp dẫn người lao động ủng hộ chủ trương CPH của Tổng công ty Dệt May Việt Nam. Trên đây chỉ là một ý kiến nhằm thúc đẩy người lao động tích cực cùng doanh nghiệp thực hiện tốt công tác CPH. Theo như cách này cũng không tránh khỏi những nhược điểm do vậy Nhà nước nên kết hợp nhiều phương pháp khác nhau dựa trên cơ sở của từng doanh nghiệp để đưa ra mức ưu đãi hợp lý nhất. Ngoài ra cần xem xét lại quy định tiêu chuẩn đáng giá lao động nghèo tại doanh nghiệp. Theo quy định tại điều 3 mục A thông tư số 03/1999/TT-LĐTBXH ngày 9-1-1999 cho tất cả các địa phương là không hợp lý (lao động nghèo là lao động có thu nhập bình quân đầu người trong gia đình cao nhất là 300 nghìn đồng/tháng). Tổng công ty có 61 đơn vị thành viên đóng trên hầu hết các địa phương và thành phố, theo như quy định này thì người lao động làm việc tại doanh nghiệp thuộc thành phố hầu hết là không có lao động nghèo. Còn ở các địa phương khác giá cả sinh hoạt không đồng nhất, ở các doanh nghiệp trên các địa phương có mức sống thấp thì hầu hết là lao động nghèo. Do vậy quy định bán cổ phần ưu đãi của Nghị định 44/CP chỉ có ý nghĩa về mặt giấy tờ, không có tác dụng trên thực tế. Vậy đề nghị Bộ LĐTBXH nghiên cứu đưa ra tiêu chuẩn người nghèo ngay từ đầu năm và ở mỗi địa phương, mỗi khu vực. Chẳng hạn các doanh nghiệp đóng tại các thành phố, thì tiêu chí cho người lao động nghèo là lao động có thu nhập bình quân trong gia đình cao nhất là 400 ngàn đồng/tháng, đối với các doanh nghiệp đóng trên địa bàn của các tỉnh lẻ thì người lao đông nghèo là lao động có mức thu nhập bình quân đầu người trong gia đình nhỏ hơn 300 ngàn đồng/tháng. 4. Tiếp tục bổ sung và hoàn thiện các chính sách CPH Để khắc phục tình trạng chậm trễ trong việc triển khải CPH DNNN, ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành nghị định 44/1998/NĐ - CP về việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Đồng thời, các Bộ, ngành ở Trung ương như Bộ tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ lao động thương binh xã hội, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và ban đổi mới quản lý doanh nghiệp đã kịp thời ban hành các thông tư hướng dẫ cụ thể nội dung, quy định trong nghị định 44/ CP kể cả biểu mẫu, phương án mẫu, các bước tiến hành... Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho các ngành, địa phương và doanh nghiệp triển khai mạnh mẽ CPH, cần sớm ban hành một số quy chế sau: * Trước hết là điều kiện pháp lý cho tiến trình CPH: Đảng ta là Đảng cầm quyền, nhưng vai trò chức năng của Đảng và Chính phủ, của bí thư và chủ tịch là khác nhau. Vì vậy, về mặt pháp lý cũng phải có các văn bản của Đảng và Chính phủ. Bộ chính trị cần có một số nghị quyết riêng về vấn đề CPH ( hoặc là nghị quyết về đổi mới khu vực doanh nghiệp Nhà nước mà trong đó có một mục riêng về CPH DNNN). Bởi vì cho đến nay, do nhiều nguyên nhân, nhiều cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh, thành phố vẫn còn sợ CPH sẽ bị quy tội làm chệch hướng XHCN. Chính điều này đã làm cản trở quá trình CPH. Chính phủ cần nghiên cứu và đệ trình Quốc hội ban hành pháp lệnh về CPH DNNN. * Làm rõ hơn nữa chính sách cho doanh nghiệp CPH: Việc hoạt động có hiệu quả của các DNNN sau khi chuyển sang công ty cổ phần sẽ kích thích mạnh mẽ tiến trình CPH. Và như vậy cũng thực hiện được mục đích quan trọng cuối cùng là công ty không ngừng phát triển (điều mà cán bộ công nhân viên mong đợi sau khi CPH doanh nghiệp ). Theo như chính sách của Nhà nước là đối xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp, thời gian qua thực tế vẫn còn tồn tại sự tách biệt giữa doanh nghiệp Nhà nước và các loại hình doanh nghiệp khác trong đó có công ty cổ phần. DNNN được ưu đãi hơn cụ thể như sau: + Công ty cổ phần khó khăn trong việc tiếp cận với ngân hàng, được Nhà nước bảo lãnh vốn trong khi đó DNNN thường được ưu đãi hơn về nhiều mặt. Như quyền sử dụng đất, tài sản cố định, vay vốn tín dụng tại các ngân hàng mà không cần thế chấp với lãi suất thấp, được khoanh nợ, xoá nợ, được xét miễn giảm thuế dễ dàng, được cấp giấy phép xuất khẩu dễ dàng hơn, được tiếp cận độc quyền với các dự án của Chính phủ tài trợ bởi vốn ngân sách Nhà nước với mức lãi suất tài sản cố định thấp ( 0,8%/tháng so với 1,25%/tháng). Mặc dù trong nghị định 44/CP ngày 29 tháng 6 năm 1998 của Chính phủ đưa ra 6 ưu đãi đối với doanh nghiệp CPH, tuy nhiên các ưu đãi đó vẫn chưa thực sự xoá bỏ gianh giới bất bình đẳng giữa DNNN và công ty cổ phần. Chẳng hạn như ưu đãi được tiếp tục vay vốn tại Ngân hàng thương mại, công ty tài chính, các tổ chức tín dụng khác của Nhà nước theo cơ chế và lãi suất đã áp dụng đối với các DNNN nhưng lại chỉ những công ty cổ phần mà Nhà nước nắm giữ cổ phiếu chi phối, cổ phần đặc biệt được áp dụng tính kế thừa, còn các công ty cổ phần khác giới hạn trong 2 năm liên tiếp kể từ sau khi chính thức chuyển sang hoạt động theo luật công ty. Những DNNN thực hiện CPH vừa qua đều là những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, do đó khi chuyển sang công ty cổ phần họ đều có thề đứng vững và phát triển. Khi thực hiện chương trình CPH mở rộng có nhiều DNNN không có hoặc có rất ít lợi thế so với các doanh nghiệp nói trên thậm chí trong tình trạng nợ nần. Vậy làm sao họ có thể tự nguyện, tự giác chuyển sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần, và ngay cả khi Nhà nước chỉ định thực hiện thì liệu những doanh nghiệp đó có thực hiện thành công CPH hay không bởi vì có quá nhiều khó khăn. Ngay cả về hiệu quả sau khi CPH, vì ai sẽ mua cổ phiếu của các doanh nghiệp này để giúp cho doanh nghiệp thực hiện CPH. Như vậy để đẩy nhanh quá trình CPH DNNN, đặc biệt đối với doanh nghiệp không có nhiều lợi thế, trước hết Nhà nước phải hình thành một chính sách hỗ trợ trước, trong và sau khi CPH. Hỗ trợ này phải mang tính riêng biệt, có nghĩa là phải thực sự áp dụng riêng cho doanh nghiệp thực hiện CPH. Trước hết ta thấy rằng vốn là yếu tố sống còn đối với tất cả các doanh nghiệp để thực hiện hoạt động kinh doanh và mục đích của công ty cổ phần cũng là để huy động vốn nhưng phải làm gì khi doanh nghiệp chưa có cơ sở vững chắc cho việc bắt đầu một hình thức quản lý mới. Trong khi đó thực tế cho thấy một số DNNN dưới danh nghĩa là công ty cổ phần thì niềm tin của Ngân hàng đối với họ bị giảm sút đáng kể. Thậm chí có Ngân hàng từ chối cho các công ty cổ phần vay vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Mặc dù các công ty cổ phần có thế chấp cũng chỉ vay từ 60 - 70% giá trị thế chấp. Trong khi còn là DNNN họ có thể vay gấp 3 đến 4 lần giá trị thế chấp. Vậy nên chăng Nhà nước mở rộng chế độ ưu đãi vay vốn ngân hàng cho các doanh nghiệp này, trước hết là giúp họ vay vốn với mức thế chấp ít nhất là bằng với giá trị thế chấp, có thể giảm lãi suất tiền vay ngân sách xuống mức 8%/năm hay hỗ trợ các doanh nghiệp các khoản nợ lương, nợ bảo hiểm, mua lại những khoản nợ lớn mà doanh nghiệp không có khả năng trả được, cho vay vốn lao động để đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động bình thường, hay có thể hỗ trợ 30% giá trị trang thiết bị công nghệ mới trong trường hợp doanh nghiệp đang thực hiện đổi mới công nghệ. Theo nghị định 44/CP thì về thực chất doanh nghiệp chỉ được hưởng 2 ưu đãi: miễn lệ phí trước bạ và giảm thuế 50%. Còn lại các ưu đãi khác là đương nhiên, dù doanh nghiệp là DNNN hay doanh nghiệp CPH. Hơn nữa giảm thuế lợi tức 50% trong hai năm đầu (bất kể có lãi hay không) còn thấp hơn so với đầu tư nước ngoài và khuyến khích đầu tư trong nước. Vì vậy Nhà nước nên bổ sung những văn bản sửa đổi cho phép doanh nghiệp được hưởng ưu đãi về thuế cao hơn quy định của nghị định 44/CP (tức là giảm khoảng 60% thuế lợi tức cho doanh nghiệp CPH), thời hạn giảm thuế lợi tức có thể là lớn hơn 2 năm. Hay có thể cho doanh nghiệp miễn thuế lợi tức phải nộp nhỏ hơn năm trước khi chuyển sang công ty cổ phần và mức thuế thu nhập công ty chỉ nên ở mức 20 - 25% thay vì mức quy định như hiện nay (32%). Hơn nữa trong quá trình tiến hành CPH, các doanh nghiệp đều phải có chi phí phát sinh, chi phí này tính trên vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, nếu thiếu thì Nhà nước nên xem xét để tăng thêm, đặc biệt đối với doanh nghiệp có số vốn quá nhỏ để thực hiện CPH. Ngoài ra khi chuyển sang công ty cổ phần các DNNN nhất thiết phải đổi mới về công nghệ, kỹ thuật và phải đào tạo lại công nhân viên. Vậy Nhà nước nên có một chính sách nào đó để hỗ trợ tích cực cho phương án đào tạo lại cuả doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp có được một đội ngũ công nhân viên có tay nghề cao phù hợp với điều kiện kinh doanh mới. Tóm lại, việc đưa hoạt động của các DNNN vào nề nếp quản lý chặt chẽ không được còn được bao cấp, kích thích một bộ phận chuyển sang công ty cổ phần, chấp nhận CPH. Việc đối xử bình đẳng giữa DNNN và các công ty cổ phần cũng chính là Nhà nước đã tạo điều kiện cho các DNNN CPH hoạt động sau khi chuyển đổi hình thức. Tất cả những ưu đãi mà Nhà nước dành cho công ty cổ phần sẽ chỉ là trước mắt giúp cho DNNN có cơ sở khởi đầu cho hoạt động sản xuất kinh doanh mới và chỉ trong thời gian không lâu. Bởi vì bản thân doanh nghiệp sau khi CPH mà hoạt động có hiệu qủa, nâng cao năng lực cạnh tranh chắc chắn sẽ không phải dựa vào sự ưu đãi của Nhà nước. 5. Một số kiến nghị khác 5.1. Mở rộng việc bán cổ phiếu cho người nước ngoài Có thể nói việc bán cổ phần cho người nước ngoài đặt ra trong giai đoạn hiện nay (giai đoạn đẩy mạnh CPH) là hết sức cần thiết. Thực tế cho thấy những doanh nghiệp có bán cổ phần cho người nước ngoài tiến trình CPH sẽ dễn ra nhanh hơn. Bởi vì trước đây chúng ta chỉ CPH những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, chỉ với những nhà đầu tư trong nước cũng có thể mua được cổ phần nhưng với thời gian lâu, hiện nay chúng ta không hạn chế quy mô doanh nghiệp CPH, với những doanh nghiệp có quy mô lớn các nhà đầu tư trong nước không có đủ khả năng và cũng không chắc chắn mua hết cổ phần của công ty. Trong môi trường cạnh tranh như hiện nay, nước ta là một thành viên của ASEAN nếu chúng ta mở rộng đầu tư cho người nước ngoài thì đây là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp nước ta. Đặc biệt là các doanh nghiệp dệt may sẽ tạo được một thế đứng vững chắc trên thị trường nội địa, từ đó tăng uy tín chất lượng chiếm lĩnh thị trường quốc tế. Tuy nhiên trong quyết định 145/1999/QĐ-TTg ngày 28-6-1999 về quy chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài cho thấy: Nhà nước vẫn khống chế mức cổ phần (không vượt quá 30%) cho các nhà đầu tư nước ngoài khi mua cổ phần của các DNNN. Đứng trước tình hình như hiện nay Nhà nước tốt nhất là không nên khống chế tỷ lệ cổ phần cũng như ngành nghề kinh doanh mà nhà đầu tư nước ngoài tham gia mua cổ phần của các DNNN, miễn là đủ số lượng cổ đông theo như pháp luật quy định. 5.2. Từng bước xây dựng thị trường chứng khoán và sở giao dịch chứng khoán Thị trường chứng khoán là trung tâm phản ánh hoạt động của các công ty, là nơi cung ứng các nguồn vốn và phân phối các cơ hội đầu tư cho các công ty và công chúng. Trên thực tế, thị trường chứng khoán là điều kiện cho ra đời và hoạt động của các công ty cổ phần. Do đó để đẩy nhanh hơn nữa tiến trình CPH các DNNN, Nhà nước cần phải gấp rút tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán và các cơ sở giao dịch chứng khoán hoạt động tốt, tích cực chuẩn bị một số điều kiện như: Xây dựng bộ luật về thị trường chứng khoán, thị trường chứng khoán có tổ chức phải có luật để tác động, điều chỉnh và quản lý. Trong điều kiện nước ta hiện nay cần ban hành một nghị định của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Từ nghị định này cần ban hành các quy chế cần thiết như quy chế về phát hành và mua chứng khoán, quy chế về tổ chức hoạt động của sở giao dịch chứng khoán,... Xây dựng hệ thống kiểm toán độc lập và có những văn bản luật quy định vai trò, chức năng quyền hạn và trách nhiệm hoạt động của tổ chức này. Đẩy mạnh hoạt động bảo hiểm đến mọi đối tượng và thành lập các công ty bảo hiểm như là một tổ chức quan trọng sẽ tham gia vào hoạt động của thị trường chứng khoán. Ngoài ra Nhà nước cần tiến hành hạ lãi suất tiền gửi ngân hàng để người gửi có cơ hội đầu tư vào việc mua cổ phiếu của công ty cổ phần, thiết lập các công ty tư vấn cho các doanh nghiệp sau khi CPH. Các công ty tư vấn này trực thuộc ban đổi mới quản lý doanh nghiệp, có thể tư vấn miễn phí hoặc thu một mức phí ưu đãi, từ đó thúc đẩy mạnh mẽ cho quá trình CPH. Kết luận Trong bối cảnh của nền kinh tế nước ta và đặc biệt là thực trạng phát triển của DNNN hiện nay, vấn đề vốn và chủ sở hữu doanh nghiệp là vấn đề bức xúc cần được giải quyết. Cổ phần hoá một bộ phận DNNN là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm xác lập và đan xen quyền sở hữu của Nhà nước và người lao động trong doanh nghiệp và các tổ chức; các cá nhân ngoài doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thực hiện dân chủ hoá và xã hội hoá trong hoạt động kinh tế, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Đây là một nội dung quan trọng trong đường lối đổi mới mà việc thực hiện nó đã tạo nên khởi sắc cho đất nước ta trong thời gian qua. Cổ phần hoá sẽ là một đòn bẩy thúc đẩy quá trình phát triển của trị trường vốn, nhất là thị trường chứng khoán và sẽ là một khâu then chốt, mũi nhọn của công cuộc đổi mới trong những năm tới. Tuy nhiên song song với những thành tựu đạt được việc CPH các DNNN còn nảy sinh nhiều vướng mắc không tránh khỏi trong quá trình thực hiện. Vì vậy nhiệm vụ quan trọng của CPH là phải tìm ra được những nguyên nhân thành công hay thất bại trong quá trình CPH để từ đó rút ra được những kinh nghiệm cần thiết nhằm tiến tới xây dựng và hoàn thiện cơ chế thích hợp với đất nước. Cùng với mục đích đó đề tài này thực hiện một số nội dung cơ bản đó là: + Nêu khái quát về CPH DNNN, sự cần thiết của CPH. + Đưa ra thực trạng của quá trình CPH các DNNN tại Tổng công ty Dệt May Việt Nam. + Trên cơ sở đó, đưa ra những giải pháp kiến nghị nhằm thúc đẩy quá trình CPH DNNN nói chung cũng như đối với các DNNN thuộc Tổng công ty Dệt May Việt Nam. Do phạm vi nghiên cứu đề tài rộng, trình độ còn hạn chế và thời gian có hạn nên bài viết còn nhiều khuyết điểm, em rất mong thầy cô thông cảm và dóng góp ý kiến cho bài viết. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo T-S Nguyễn Ngọc Huyền. Đồng thời xin cảm ơn các cô, các chú trong Ban Kế hoạch - Thị trường Tổng công ty Dệt May Việt Nam trong việc cung cấp tài liệu và những kinh nghiệm thực tế giúp em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp. Hà Nội tháng 5 năm 2001 Sinh viên thực hiện Nguyễn Tiến Đức Tài liệu tham khảo Công ty cổ phần và chuyển DNNN thành công ty cổ phần – PTS Đoàn Văn Hạnh – Nhà xuất bản thống kê 1999. Cổ phần hoá DNNN- Cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn – PTS Nguyễn Ngọc Quang. Cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam – PGS PTS Hoàng Công Thi- PTS Phùng Thị Đoan – Viện khoa học tài chính 1992. Hỏi đáp về CPH DNNN ở Việt Nam- Nhà xuất bản Thống kê 1993. Tìm hiểu công ty cổ phần và cổ phần hoá một số DNNN – các tác giả Nhà xuất bản Thống kê. Cổ phần hoá DNNN- Hệ thống văn bản pháp quy- Nhà xuất bản Thống kê 1998. Luật Doanh nghiệp Nghị định 44/CP của Chính phủ ngày 29/6/1998 về việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Thông tư 104 của Bộ tài chính ra ngày 18/7/1998 hướng dẫn những vấn đề tài chính khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Tạp chí TCDN Tạp chí ngân hàng Tạp chí Tài chính Tạp chí Dệt may Báo Công nghiệp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24923.doc