Ngân hàng, với tư cách là một nhà tài trợ vốn cho nền kinh tế, muốn hoạt động kinh doanh của ngân hàng luôn an toàn và hiệu quả, Ngân hàng phải luôn coi trọng khâu thẩm định dự án đầu tư, đặc biệt là thẩm định về mặt tài chính bởi nó liên quan trực tiếp tới hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng. Chất lượng thẩm định dự án đầu tư luôn là yếu tố trọng tâm quyết định chất lượng tín dụng cũng như hiệu quả kinh doanh của một Ngân hàng, khi mà hoạt động cho vay hiện nay vẫn chiếm tới hơn 80% hoạt động kinh doanh tiền tệ. Bởi lẽ những sơ suất trong công tác thẩm định có thể dẫn đến những sai lầm lớn trong các quyết định cho vay cuối cùng.
Nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư là một nhân tố quan trọng trong việc thực hiện mở rộng tín dụng trung và dài hạn một cách an toàn và hiệu quả. Song việc nghiên cứu những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư là một vấn đề có phạm vi rộng lớn, phức tạp, liên quan đến nhiều đối tượng, đồng thời là việc đòi hỏi phải có thời gian dài. Do vậy trong khuôn khổ bài viết của mình, em chỉ xin đưa ra những vấn đề chung nhất và một vài ý kiến nhỏ với hy vọng sẽ có thể đóng góp phần nào vào công cuộc đổi mới hoạt động của ACB Hà Nội.
Với kiến thức còn hạn chế, các diễn đạt còn nhiều khiếm khuyết nên bài viết của em không tránh khỏi nhiều sai sót. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo của các thầy cô, bạn bè và các anh chị phòng tín dụng để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các anh chị trong phòng Tín dụng Ngân hàng Á Châu Hà Nội đã giúp em hoàn thành bài viết này.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn!
99 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1346 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o có thể đưa ra được một hệ thống các tiêu chuẩn cho phép đối với từng ngành nghề, làm cơ sở cho việc tham chiếu, so sánh các chỉ tiêu hiệu quả an toàn tài chính của dự án.
Hai là, môi trường kinh tế vĩ mô chưa lành mạnh, còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, 85% doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghệ lạc hậu, thị trường nhỏ hẹp, vốn tự có ít, chủ yếu dựa trên vốn vay ngân hàng, trình độ quản lý kém, chất lượng sản phẩm thấp, khó cạnh tranh với hàng ngoại nhập. Các doanh nghiệp Nhà nước ngoài một số ít đơn vị làm ăn có hiệu quả, đứng vững trên thị trường thì phần lớn làm ăn thua lỗ, cầm chừng, khiến Nhà nước phải giãn nợ, xoá nợ hàng chục tỷ đồng. Đó là còn chưa kể tới một bộ phận chủ doanh nghiệp có tư cách đạo đức kém, không ít khách hàng vay vốn Ngân hàng để đầu tư vào những phi vụ làm ăn bất chính, lừa đảo, chiếm dụng vốn của ngân hàng.
Ba là, công tác quản lý Nhà nước về pháp lệnh kế toán, thống kê đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa được quan tâm đúng mức. Các chuẩn mực kế toán chưa được tuân thủ, thêm vào đó chế độ kiểm toán nội bộ chỉ mang tính hình thức, trong khi kiểm toán độc lập thì chi phí cao. Đây chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến các báo cáo tài chính của doanh nghiệp khi trình lên Ngân hàng không đáng tin cậy, khiến việc đánh giá một cách chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp là hết sức khó khăn.
Bốn là, hệ thống Ngân hàng -Tài chính:
Trung tâm thông tin tín dụng và vụ tín dụng Ngân hàng Nhà nước đã đi vào hoạt động vài năm qua song chưa phát triển rộng rãi để bao quát mọi thông tin tín dụng của ngân hàng, do đó những nguồn thông tin đáng tin cậy về khách hàng cũng như thông tin vĩ mô còn hạn chế, việc trao đổi thông tin giữa các Ngân hàng chưa hiệu quả.
Năm là, về phía các doanh nghiệp:
Theo quyết định số 324/1998/QĐ NHNN1 ngày 30/9/1998: Một trong những điều kiện để khách hàng được vay vốn là khách hàng phải có khả năng tài chính đảm bảo khả năng trả nợ trong thời gian cam kết. Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng phải gửi cho tổ chức tín dụng các tài liệu cần thiết chứng minh đầy đủ điều kiện vay vốn như quy định. Khách hàng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác và hợp pháp của các tài liệu gửi cho tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng có quyền yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, khả năng tài chính của khách hàng... Song thực tế khi tiến hành thẩm định khách hàng xin vay, Ngân hàng thường được cung cấp các Báo cáo tài chính tại thời điểm cách xa so với thời điểm cho vay. Mặc dù khi ký kết hợp đồng tín dụng, Ngân hàng và doanh nghiệp đã thoả thuận doanh nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng trong việc thực hiện nghĩa vụ theo dõi, nắm bắt tình hình sử dụng vốn tại doanh nghiệp nhưng ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện thoả thuận này. Ngân hàng nếu muốn xin kết quả kiểm toán Nhà nước tiến hành nhưng hiếm khi được đáp ứng.
Các Báo cáo tài chính của doanh nghiệp là một trong những căn cứ quan trọng để Ngân hàng thiết lập và đảm bảo chất lượng quan hệ tín dụng với doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, kịp thời các số liệu này thì quan hệ tín dụng sẽ thiếu đi sự tin tưởng, gắn kết lẫn nhau và kết quả là gây ra thiệt hại cho cả doanh nghiệp lẫn Ngân hàng.
Nguyên nhân chủ quan:
Một là, tuy đã có nhiều cố gắng trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, song chất lượng đội ngũ cán bộ thẩm định của Ngân hàng vẫn còn nhiều điểm chưa đáp ứng được với yêu cầu của công việc. Thẩm định về thị trường và kỹ thuật vẫn đang là vấn đề khó đối với cán bộ thẩm định, cán bộ thẩm định thường khó đánh giá hoặc đánh giá không chính xác mức độ tiên tiến của máy móc thiết bị với công suất của nhà máy, không dự báo trước được những xu hướng biến đổi của thị trường. Đây là nguyên nhân dẫn đến kết quả một số dự án được duyệt trong khi không đủ điều kiện về kỹ thuật và không đáp ứng được nhu cầu thị trường gây ảnh hưởng xấu cho dự án khi đi vào hoạt động.
Ngoài ra, cán bộ thẩm định còn hạn chế ở khâu xử lý thông tin tín dụng, chưa quen với việc kiểm tra, phát hiện hành vi lừa đảo của khách hàng cũng như những biểu hiện thiếu trung thực của họ bằng các phương pháp khoa học tâm lý như: trắc nghiệm, thăm dò, gợi ý...
Hai là, hệ thống kiểm soát nội bộ chưa thực sự phát huy vai trò kiểm tra, giám sát đối với hoạt động tín dụng. Việc quan tâm tới mở rộng tín dụng không là chưa đủ mà phải quan tâm tới vai trò của công tác kiểm tra, kiểm soát không được nâng lên ở mức tương xứng.
Tóm lại, bên cạnh những kết quả đáng khích lệ, công tác thẩm định dự án của ACB vẫn còn nhiều bất cập đáng quan tâm giải quyết với những nguyên nhân bức xúc. Cùng với mục tiêu mở rộng tín dụng, ACB cần tiếp tục hoàn thiện công tác thẩm định hơn nữa, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.
Chương 3
giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại ngân hàng á Châu Hà Nội.
3.1.Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư
Có thể nói lĩnh vực tiền tệ tín dụng Ngân hàng là một trong những lĩnh vực nhạy cảm nhất của nền kinh tế do hoạt động kinh doanh tiền tệ là loại hình hoạt động và rủi ro cao, giữ vai trò tiên phong trong việc định hướng cho các hoạt động của các doanh nghiệp.
Với chức năng chính là huy động vốn để tài trợ cho nền kinh tế, Ngân hàng thu hút mọi nguồn vốn lẻ tẻ để đáp ứng nhu cầu vốn lớn cho việc mở rộng, phát triển kinh tế, đồng thời mang lại nguồn thu nhập cho chính bản thân Ngân hàng. Song nền kinh tế nước ta trong thời gian qua còn rất nhiều khó khăn, đặc biệt là năm 1998, 1999, hàng loạt các vụ đổ vỡ tín dụng xảy ra giữa các Ngân hàng thương mại và các tổ chức kinh tế (vụ EPCO Minh Phụng, vụ Temexco... ) đã làm ảnh hưởng không ít đến nền kinh tế nói chung và bước phát triển của từng doanh nghiệp, từng ngân hàng nói riêng. Một trong những nguyên nhân dẫn tới những tổn thất tín dụng đó chính là những thiếu sót yếu kém, chủ quan trong công tác thẩm định.
Đứng trước thực tế đó, đòi hỏi toàn hệ thống và chi nhánh Ngân hàng á Châu phải không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng mà trọng tâm là nâng cao chất lượng thẩm định dự án. Bởi việc nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư không chỉ có ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng mà còn góp phần tiết kiệm vốn cho toàn xã hội, thúc đẩy mở rộng, phát triển an toàn, hiệu quả cho nền kinh tế đất nước và định hướng đầu tư đúng đắn cho các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, hoạt động thẩm định và chất lượng thẩm định là một vấn đề không đơn giản chỉ giới hạn trong phạm vi một Ngân hàng mà nó gắn liền với nhiều nhân tố khác như các vấn đề pháp lý, môi trường hoạt động của ngành, môi trường vĩ mô của nền kinh tế. Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định, không chỉ đòi hỏi có sự nỗ lực, cố gắng của bản thân ngân hàng mà còn có sự hỗ trợ của các cơ quan hữu quan. Do vậy các giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư không chỉ là những giải pháp đối với Ngân hàng mà còn là các giải pháp đối với các bộ, ngành có liên quan đến công tác thẩm định nói chung.
3.2. Định hướng phát triển của Ngân hàng á Châu Hà Nội trong thời gian tới
ACB trong thời gian tới phải đồng thời đáp ứng nhiều yêu cầu: vừa phải vuợt qua những thử thách nội tại, vừa phải đủ sức tồn tại trong cạnh tranh, vừa phải nâng cao trình độ hoạt động để chuẩn bị cho môi trường hoạt động khắc nghiệt của những năm sắp tới bởi quá trình mở cửa và hội nhập đang đến rất gần sẽ đào thải những ngân hàng không có khả năng tự vệ.
Mục tiêu chủ đạo trong những năm tới của ngân hàng á Châu đó là "hướng tới khách hàng". Hoạt động ngân hàng thời gian tới không chỉ là giới thiệu để khách hàng lựa chọn những sản phẩm sẵn có mà còn là việc tạo ra những sản phẩm mới bằng cách kết hợp nhiều sản phẩm riêng lẻ lại với nhau để thoả mãn nhu cầu khác nhau của khách hàng, đó là hoạt động cung ứng dịch vụ cho khách hàng. Xuất phát điểm của hoạt động ngân hàng không còn là "sản phẩm "mà là "khách hàng ", tạo cho ngân hàng sự uyển chuyển và linh hoạt để sẵn sàng thoả mãn những nhu cầu khác biệt nhau của từng khách hàng thay vì để cho khách hàng tự thích nghi nhu cầu riêng của mình với những sản phẩm ngân hàng sẵn có mang tính cứng nhắc do tính chất đồng loạt của nó ngân hàng cũng phấn đấu để trở thành ngân hàng hàng đầu trong hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay tiêu dùng. Phương châm chỉ đạo của ngân hàng trong những năm tới là 'Đa dạng hoá các nguồn thu nhập' và 'Phân tán rủi ro'.
Các mục tiêu sẽ được cụ thể hóa như sau:
+ Hoạt động dịch vụ: phát hành phổ biến thẻ tín dụng nội địa song song với thẻ tín dụng quốc tế, tiếp tục phát triển hệ thống đại lý và các điểm chi trả, thanh toán trong cả nước để thanh toán thẻ tín dụng và chuyển tiền nhanh trong cả nước.
+ Hoạt động tín dụng: mở rộng cho vay các doanh nghiệp nước ngoài,cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay tiêu dùng cho vay đồng tài trợ, đầu tư cho vay các công trình xây dựng trọng điểm của nhà nước.
Để hoàn thành những mục tiêu đã đề ra, Ngân hàng phải đổi mới công nghệ ngân hàng, tăng cường được năng suất lao động để rút ngắn thời gian thực hiện các quy trình nghiệp vụ, hoàn thành khối lượng công việc ngày càng tăng nhanh chóng; đồng thời ứng dụng công nghệ mới đẻ hình thành và phát triển thêm nhiều sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng; trình độ quản lý sử dụng vốn phải được nâng lên phù hợp với việc hoàn thiện hệ thống thông tin; nghiên cứu sử dụng những công cụ mới để khai thông đầu ra phi tín dụng.
Cũng trên nền tảng công nghệ mới, tái cấu trúc bộ máy điều hành và tác nghiệp của ngân hàng theo hướng tập trung, thống nhất để phát huy sức mạnh của toàn hệ thống; mặt khác tăng cường hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ và bộ máy quản lý rủi ro để đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, cần dành một phần vốn thích đáng để đầu tư trên thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ, tăng cường hoạt động đầu tư trực tiếp, hùn vốn liên doanh với các dự án tốt hay các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả.
Đổi mới công nghệ ngân hàng đòi hỏi phải đào tạo lại nhân viên để có khả năng làm chủ công nghệ, mặt khác yêu cầu nâng cao trình độ hoạt động ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế cũng đòi hỏi một đội ngũ nhân viên có năng lực ở tầm cao hơn. Do đó, công tác phát triển nguồn nhân lực vẫn là công tác trọng tâm của ngân hàng trong những năm sắp tới. Mạnh dạn sử dụng các chuyên gia giàu kinh nghiệm nước ngoài đào tạo và tư vấn cho công tác này. Đổi mới hệ thống trả lương để khuyến khích và kích thích nhân viên nâng cao chất lượng công tác, tiền lương phải gắn liền với kết quả làm việc của từng nhân viên, được đánh giá đúng mức bởi một hệ thống ghi nhân khoa học.
Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Chi nhánh ngân hàng á Châu Hà Nội
Nâng cao năng lực thẩm định dự án đầu tư là một yêu cầu luôn được đặt ra trong công tác thẩm định của ngân hàng để các ngân hàng có thể ngăn chặn những dự án tồi và tài trợ cho những dự án tốt một cách có hiệu quả. Nâng cao năng lực thẩm định dự án đầu tư có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh nước ta đang đẩy nhanh đầu tư nhằm đạt được mục tiêu duy trì nhịp độ tăng trưởng bền vững.
Theo kinh nghiệm của Ngân hàng Thế giới (World Bank) về những thành công lớn của các dự án mà họ đã đầu tư liên doanh hoặc tài trợ phần lớn do kết quả của bước thẩm định có chất lượng cao. Đồng thời họ cũng chỉ ra rằng việc thảm định sẽ không có hiệu quả nếu dự án chỉ được xem xét đánh giắ một cách phiến diện, dàn trải. Ngân hàng Thế giới đã xây dựng cho mình một đội ngũ chuyên gia phản biện cho từng lĩnh vực, từng ngành nghề chuyên sâu đảm bảo cho công việc thẩm định được chặt chẽ và toàn diện, hơn nữa còn hỗ trợ tư vấn cho khách hàng trong các lĩnh vực khách hàng đầu tư. Với những lĩnh vực mà đội ngũ nhân viên Ngân hàng không đảm trách được hoặc không chuyên sâu, Ngân hàng có thể thuê thêm các chuyên gia tư vấn để đánh giá đầy đủ bốn khía cạnh của dự án: Kinh tế; Tài chính; Kỹ thuật và Thể chế.
Trong quá trình thẩm định cần đặc biệt chú ý đến thời điểm chi vốn và khả năng sinh lợi của dự án đồng thời báo các xu thế cố thể xảy ra trong tương lai ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của dự án để từ đó đưa ra các biện pháp phòng ngừa rủi ro. Một dự án được lựa chọn khi nó đảm bảo được yêu cầu lợi ích của những bên tham gia đầu tư và lợi ích chung với xã hội, ở mỗi chu kỳ của dự án cần phải có sự phối hợp kiểm tra đánh giá, xếp loại dự án, nhằm đảm bảo dự án được thực hiện theo đúng các bản thiết kế và các bản thoả thuận. Các dự án sau được xây dựng và thẩm định dựa trên kinh nghệm của các dự án trước trong cùng một thời gian. Cứ như vây, các bài học kinh nghiệm được đưa vào việc thiết kế và chuẩn bị cho dự án tương lai.
Đối chiếu với tình hình nước ta hiện nay, để công tác thẩm định dự án của các ngân hàng đáp ứng yêu cầu tài trợ một cách có hiệu quả cho những dự án khả thi là một công việc không phải dễ, bởi lẽ thiếu thông tin về thị trường, những dự báo về mức cầu, định hướng phát triển của các ngành nghề trong tương lai cũng là một trở ngại lớn cho ngân hàng.
Xuất phát từ vai trò hết sức quan trọng của công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư của Ngân hàng trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng; chất lượng của công tác này ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng tỷ trọng tín dụng trung dài hạn, tăng khả năng cạnh tranh của Ngân hàng; và trên cơ sở tìm hiểu, nghiên cứu những tồn tại, nguyên nhân em xin được phép đưa ra một số ý kiến mang tính chất giải pháp để góp phần hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại ngân hàng á Châu Hà Nội. Các ý kiến đưa ra chỉ tập trung chủ yếu trên các vấn đề sau:
+ Quy trình thẩm định.
+ Con người.
+ Tổ chức khai thác và cung cấp thông tin có hiệu quả.
+ Tiến hành kiểm tra, kiểm soat nội bộ đối với hoạt động thẩm định.
Giải pháp về quy trình thẩm định
Quy trình thẩm định dự án đầu tư tại ACB nhìn chung tương đối hợp lý và đầy đủ các khâu, các bước cần thiết của một quy trình chuẩn. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng và ngay cả bản thân quy trình vẫn còn một số điểm hạn chế. Để nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư và độ an toàn của các món vay, em xin được đưa ra một số ý kiến sau:
Trong nội dung thẩm định khách hàng vay vốn:
Ngân hàng căn cứ vào Báo cáo tài chính mà doanh nghiệp gửi cho Ngân hàng để thẩm định năng lực tài chính, khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Để công tác thẩm định khách hàng có ý nghĩ, trước hết các thông tin mà khách hàng cung cấp phải chính xác. Vì vậy, trước khi tiến hành thẩm định, cán bộ thẩm định nên cần xác minh tính đúng đắn, trung thực của các số liệu, yêu cầu khách hàng nộp đủ Báo cáo tài chính trong ít nhất là 3 năm liền để cán bộ thẩm định có thể đánh giá được xu hướng hoạt động của doanh nghiệp. Việc lập và tính toán các chỉ tiêu kinh tế tài chính phải phục vụ cho việc phân tích. Chẳng hạn, trong các khoản phải thu thì bao nhiêu phần trăm là khó đòi; trong hàng tồn kho có bao nhiêu phần trăm hàng kém phẩm chất, bị ứ đọng; vốn cố định biểu hiện dưới dạng máy móc, nhà xưởng, thiết bị lạc hậu hay hiện đại; trong công nợ có bao nhiêu phần trăm nợ quá hạn, nợ khó đòi...
Khi tính toán các chỉ tiêu tài chính, cán bộ thẩm định nên đánh giá, kết hợp với đặc thù sản xuất kinh doanh của lĩnh vực ngành liên quan. Bên cạnh đó, ngân hàng cần khẩn trương đưa vào phân tích, đánh giá báo cáo lưu chuyển tiền tệ để đánh giá chính xác năng lực quản lý ngân quỹ cũng như khả năng thanh toán hiện thời và trong tương lai của khách hàng.
Trong quy trình thẩm định, ngân hàng nên dựa trên quy mô vốn vay và tổng số vốn đăng ký của đơn vị mà phân thành các quy mô doanh nghiệp khác nhau. Với những doanh nghiệp có vốn lớn, Ngân hàng nên đi sâu vào phân tích các chỉ tiêu về khả năng sinh lợi, khả năng thanh toán, trình độ quản lý của doanh nghiệp, do việc quản lý các doanh nghiệp có quy mô lớn thường khó khăn hơn và vốn vay thường lớn hơn. Ngược lại đối với các doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp tư nhân hay hộ gia đình, ngân hàng nên chú trọng hơn tới uy tín, năng lực kinh doanh, khả năng thanh toán và các điều kiện đảm bảo tiền vay.
Bên cạnh những biện pháp định lượng được coi như “kỹ thuật thẩm định”, cán bộ tín dụng cũng nên áp dụng các phương pháp định tính, hay “ nghệ thuật” thẩm định. Đây là một biện pháp hữu hiệu giúp ngân hàng có thể nhận xét một cách khách quan nhất về khách hàng. Để thực hiện phương pháp này, bước đầu tiên là quan sát. Có nghĩa là, chỉ cần qua tiếp xúc, phỏng vấn hoặc đến trực tiếp doanh nghiệp, cán bộ tín dụng có thể thu thập được nhiều thông tin về doanh nghiệp hơn so với những gì thể hiện trên giấy tờ.
Tuy nhiên, “nghệ thuật” thẩm định chưa được đề cập đến trong bất cứ một môn học nào, mà chủ yếu dựa trên kinh nghiệm và tài quan sát của cán bộ thẩm định. Làm thế nào để không gây khó dễ cho khách hàng mà cán bộ tín dụng vẫn có đủ thông tin để đánh giá khách hàng. Sau đây là một số yếu tố có thể giúp cho cán bộ tín dụng có thể đánh giá định tính về khách hàng:
Khả năng lãnh đạo quản lý doanh nghiệp là yếu tố năng động nhất. Nếu khả năng quản lý tốt có thể biến đổi một doanh nghiệp yếu kém thành một doanh nghiệp khá và ngược lại. Thông thường nói đến khả năng quản lý là nói đến các chính sách và bộ máy quản lý mà được quy tụ lại ở năng lực quản lý của ban giám đốc điều hành và biểu hiện ở chất lượng quản lý, hiệu quả kinh doanh. Đánh giá vấn đề này, thể hiện qua các nội dung sau:
+ Năng lực đề ra sách lược kinh doanh có sức cạnh tranh và đứng vững trên thị trương.
+ Đưa ra kế hoạch triển khai các công việc một cách hợp lý, có hiệu quả, đảm bảo tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật và Bộ tài chính.
+ Tạo nên một cơ cấu tổ chức hiệu quả, phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn giữa nhân viên và người điều hành. Sử dụng đúng người, đúng việc, có chính sách khuyến khích khen thưởng và tuyển mộ hợp lý.
+ Có tinh thần dám nghĩ, dám làm và chịu trách nhiệm trước những quyết định của mình.
Hình ảnh, vị trí uy tín của doanh nghiệp trên thương trường được khẳng định qua dư luận xã hội trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong quan hệ với khách hàng, với nhà cung cấp.
Trong phương án, dự án vay vốn:
Ngân hàng cần thẩm định đầy đủ các nội dung cần thiết để đảm bảo đánh giá, nhìn nhận dự án một cách toàn diện, giúp cho việc ra quyết định đầu tư một cách chính xác. Cần nhận thức rằng mọi nội dung của dự án đều có mối quan hệ mật thiết với nhau. Kết quả thẩm định phương tiện thị trường là cơ sở để đánh giá việc lựa chọn kỹ thuật, quy mô, công suất của dự án. Kết quả thẩm định phương diện kỹ thuật lại là cơ sở để tính toán các dòng thu nhập, chi phí, xác định nên hiệu quả tài chính của dự án. Trong khi hiệu quả tài chính dự án lại là cơ sở để thẩm định lợi ích kinh tế, xã hội và quyết định phương án cho vay, thu nợ của Ngân hàng.
Khi thẩm định phương diện thị trường, cán bộ thẩm định cần thu thập các thông tin về: Số lượng doanh nghiệp sản xuất cùng loại sản phẩm trong cùng một khu vực thị trường (kể cả doanh nghiệp sắp thành lập); mức cầu sản phẩm cùng loại trong năm qua (ít nhất là 5 năm) để thấy được tốc độ tăng trưởng trong thời gian tới; mức cung thực tế của các doanh nghiệp trên thị trường; Thông tin giá cả, dự báo thị trường trong nước và quốc tế. Ngoài ra, cán bộ thẩm định còn phải nắm được quy hoạch, kế hoạch đầu tư, định hướng phát triển do Bộ, ngành xây dựng công bố để đảm bảo dự án là các công trình được tiến hành theo đúng kiến trúc quy hoạch của Nhà nước.
Khi tiến hành thẩm định phương diện kỹ thuật, với những dự án phức tạp, vượt ra ngoài khả năng của cán bộ thẩm định, Ngân hàng nên thuê chuyên gia, tránh tình trạng chấp nhận ngay những kết quả kỹ thuật doanh nghiệp đưa đến. Đồng thời bản thân cán bộ tín dụng cũng phải nghiên cứu, tìm hiều về những ngành nghề, sản phẩm của dự án do mình phụ trách.
Thẩm định phương diện tài chính dự án. Đây là khâu quan trọng nhất quyết định tính khả thi của dự án.
Khi lập dự toán và nguồn vốn đầu tư, Ngân hàng cần chú trọng kiểm tra tính hợp lý về chi phí đầu tư dựa trên cơ sở tham khảo những dự án tương tự điển hình (không chỉ những dự án do ACB thẩm định mà cả những Ngân hàng khác đã từng thẩm định). Ngân hàng không nên chỉ dựa vào kế hoạch dự trù chi phí do chủ đầu tư đưa ra như hiện nay, tránh tình trạng tính thừa hay tính thiếu.
Về phương pháp thẩm định:
Ngân hàng cần tham khảo và áp dụng những phương pháp thẩm định hiện đại đang được áp dụng trên thế giới song phù hợp với khả năng và điều kiện của Ngân hàng cũng như điều kiện Việt Nam, đó là tiến hành thẩm định dự án đầu tư trong trạng thái động có nghĩa là có tính đến giá trị thơì gian của dòng tiền, những rủi ro thị trường đầu ra và đầu vào, lạm phát, tỷ giá... để đánh giá độ bền của dự án.
Khi tiến hành thẩm định phương diện tài chính, Ngân hàng cần xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu tài chính. Việc vận dụng tính các chỉ tiêu này cần đúng và đủ song quan trọng hơn là cán bộ thẩm định phải đưa ra được những đánh giá, kết luận từ các chỉ tiêu đó và lựa chọn tiêu chuẩn chấp nhận dự án một cách chính xác, phù hợp với từng loại ngành nghề, đôi khi có sự ưu tiên về một khía cạnh nào đó của dự án.
Khi tính toán chi phí sản xuất cho dự án, cán bộ thẩm định nên lập bảng tính lãi vay dựa trên dư nợ còn lại, việc tính lãi vay như vậy sẽ mang tính thực tế hơn. Việc tính khấu hao tài sản cố định cần thực hiện theo đúng quy định của Bộ tài chính. Dự trù thu nhập - chi phí phải được lập theo từng năm, tránh tình trạng san đều như nhau qua các năm. Trong quá trình lập dự trù thu nhập, chi phí, cán bộ thẩm định thường lấy theo giá trị trung bình của các biến số với độ chính xác không cao. Vì vậy, để tránh việc chấp nhận những dự án quá lạc quan, người ta thường sử dụng những ước tính với xu hướng giảm bớt doanh thu và tăng chi phí.
Dựa trên cơ sở lý luận đã trình bày ở trên, cùng với tình hình thực tế và khả năng ứng dụng, Ngân hàng nên áp dụng hệ chỉ tiêu đánh giá bao gồm: Giá trị hiện tại ròng (NPV), tỷ suất nội hoàn (IRR), chỉ số doanh lợi (PI), thời gian hoàn vốn có chiết khấu, điểm hoà vốn qua các năm, phân tích rủi ro... bằng các ứng dụng chương trình phần mềm máy tính.
Giải pháp về con người
Nâng cao trình độ của cán bộ thẩm định tín dụng và thường xuyên cập nhật những quy định của Nhà nước là những quy định có tính nghiêm ngặt và chặt chẽ để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của chủ đầu tư và của cả cộng đồng. Tuân thủ các pháp lệnh của Nhà nước còn giúp Ngân hàng có thể bảo vệ lợi ích của mình trong một số lĩnh vực mà ngân hàng không đủ khả năng chuyên môn để thẩm định.
Con người là yếu tố trung tâm, cội nguồn của mọi vấn đề. Chất lượng thẩm định dự án phụ thuộc phần lớn vào yếu tố này. Bởi chiến lược con người là chiến lược lâu dài nên Ngân hàng cần có sự đầu tư quan tâm thường xuyên đến đội ngũ cán bộ điều hành hoặc trực tiếp tham gia thẩm định. Để xây dựng một đội ngũ cán bộ thẩm định vững mạnh, ACB cần chú ý:
Đứng trên góc độ ngân hàng, cán bộ thẩm định cần phải nắm chắc các quy định do Nhà nuớc ban hành, cụ thể như:
+ Quy định về dự toán vốn đầu tư.
+ Quy định về đấu thầu.
+ Quy định về bảo vệ môi trường.
+ Quy định về kế hoạch, kiến trúc và xây dựng.
+ Quy định về các chế độ tài chính đối với tùng loại hình doanh nghiệp để đảm bảo các khoản mục chi phí của doanh nghiệp khi đi vào vận hành sản xuất kinh doanh là hợp lệ và được các cơ quan tài chính chấp nhận.
+ Quy định về khấu hao tài sản cố định, chế độ tiền lương tiền thưởng.
+ Quy định về tiền thuê đất, sử dụng đất, tiền thuê bao.
+ Những quy định về miễn giảm ưu đãi, hỗ trợ và khuyến khích đầu tư.
Cần tiêu chuẩn hoá đội ngũ thẩm định một cách cụ thể để có chính sách tuyển chọn, đào tạo sắp xếp cán bộ một cách hợp lý. Đổi mới cán bộ theo hướng chuyên môn hoá. Công tác chuyên môn hoá phải căn cứ vào năng lực, sở trường của cán bộ để phân công công việc, không nên phân theo số khách hàng hay theo địa bàn kinh tế. Yêu cầu này xuất phát từ kinh nghiệm và những hiểu biết về lĩnh vực chuyên môn liên quan đến ngành nghề mà cán bộ thẩm định đang phụ trách.
Cần có chế độ kiểm tra, hàng năm tổ chức các cuộc thi nghiệp vụ để lựa chọn ra những cán bộ giỏi về chuyên môn, có đạo đức nghề nghiệp làm nòng cốt cho việc thẩm định những dự án quan trọng cũng như tìm ra những thiếu sót, hạn chế để có biện pháp đào tạo bổ sung.
Đẩy mạnh công tác giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo bằng việc tổ chức đào tạo một cách có hệ thống cho các cán bộ thẩm định về chuyên môn cũng như các lĩnh vực khác: ngoại ngữ, vi tính, quản lý, kiến thức vĩ mô về thị trường, pháp luật, công nghệ thông tin... Ngân hàng có thể đề nghị sự giúp đỡ, phối hợp của các trường đại học, các chuyên gia giàu kinh nghiệm cùng soạn thảo một chương trình đào tạo chặt chẽ, có hiệu quả. Ngoài ra, ngân hàng cũng nên tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích cán bộ tự đào tạo nâng cao trình độ bằng sự hỗ trợ về vật chất như hỗ trợ học phí), về thời gian cũng như đưa ra các cơ hội nâng lương, thăng tiến.
Ngoài việc đào tạo về nghiệp vụ cho các cán bộ tín dụng, Ngân hàng cần tạo điều kiện cho cán bộ thẩm định nâng cao trình độ và sâu sát thực tế, Ngân hàng còn cần khuyến khích cán bộ học thêm về các lĩnh vực khoa học kỹ thuật... nhằm thẩm định các dự án được sâu sắc và chính xác. Có thể mời các chuyên gia thuộc các lĩnh vực có liên quan về nói chuyện trao đổi, tổ chức kiểm tra trình độ, đào tạo cán bộ, tổ chức các buổi trao đổi kinh nghiệm trong ngân hàng và các ngân hàng bạn, cung cấp các tài liệu tham khảo của các tác giả trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, việc mời một số chuyên gia chuyên sâu về các lĩnh vực kỹ thuật khác làm cộng tác viên để tham gia thẩm định dự án mang tính kỹ thuật cao cũng là một giải pháp hay và thiết thực.
Có chính sách thưởng phạt công bằng, nghiêm minh. Đối với những dự án được thẩm định kỹ, đem lại hiệu quả cho cả Ngân hàng, sau khi thu hồi đầy đủ các khoản nợ gốc và lãi, nên chăng Ngân hàng trích ra một số phần trăm lợi nhuận từ dự án để thưởng cho cán bộ thẩm định hoặc tổ thẩm định đó. Ngược lại, với những dự án thua lỗ, không trả được nợ thì tuỳ theo mức độ và nguyên nhân mà Ngân hàng có các hình phạt thích ứng, như buộc cán bộ thẩm định hoặc tổ thẩm định tiến hành đòi nợ. Làm như vậy mới ràng buộc trách nhiệm của cán bộ tín dụng và người xét duyệt đối với chất lượng thẩm định dự án.
Hàng năm, Ngân hàng nên tổ chức hội nghị báo cáo tổng kết tình hình, đánh giá, rút kinh nghiệm về công tác thẩm định, bình chọn ra các cán bộ thẩm định suất xắc để đề nghị trung ương khen thưởng.
Tổ chức khai thác và cung cấp thông tin có hiệu quả
Trong môi trường kinh tế đầy biến động như hiện nay, thông tin là một công cụ vô cùng quan trọng, thậm chí là một vũ khí cạnh tranh lợi hại trong hoạt động kinh doanh. Kinh doanh tiền tệ là một lĩnh vực chứa nhiều rủi ro, do đó vấn đề thông tin được đặt ra như là một trong những yếu tố hàng đầu cần quan tâm. Một trong những nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn làm giảm chất lượng tín dụng là thiếu thông tin về khách hàng trong quá trình thẩm định và xét duyệt cho vay, quá trình phân tích và xử lý thông tin về khách hàng vay vốn, làm cơ sở cho việc quyết định cho vay hay không. Đặc biệt trong hoàn cảnh hiện nay, khi nhu cầu mở rộng và tăng trưởng tín dụng ngày càng cao, quyết định sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng thương mại thì nhu cầu thông tin tín dụng ngày càng lớn hơn cả về số lượng và chất lượng thông tin. Những thông tin phục vụ cho công tác thẩm định là những thông tin về mức cung, cầu thực tế của dự án, thông tin về giá cả thị trường dự báo thị trường trong nước và quốc tế, kim ngạch xuất khẩu, quy hoạch và kế hoạch đầu tư...
Để có được thông tin có chất lượng cao, cán bộ thẩm định cần thu thập và chọn lọc từ nhiều nguồn song cần chú ý tới các nguồn chính như:
+Thông tin thu thập được từ doanh nghiệp vay vốn: Để vay được vốn, các doanh nghiệp phải cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết cho ngân hàng: tư cách pháp nhân, tình hình tài chính, kế hoạch sản xuất... Đối với các báo cáo tài chính thì thông thường cán bộ tín dụng chỉ căn cứ vào các báo cáo tài chính của doanh nghiệp để đánh giá năng lực tài chính của khách hàng nhưng rất khó xác định độ tin cậy của các báo cáo tài chính đó vì quy chế kiểm toán nội bộ của Bộ tài chính đối với các doanh nghiệp chưa mang tính bắt buộc, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì công tác kế toán chưa được thực hiện một cách nghiêm túcm chủ yếu được thực hiện dưới hình thức ghi sổ. Công tác thẩm định đòi hỏi các cán bộ thẩm định phải quan tâm đến việc kiểm tra các báo cáo tài chính doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, để nâng cao tính chính xác của thông tin trong công tác thẩm định, cán bộ tín dụng phải tiến hành điều tra tại cơ sở sản xuất kinh doanh của khách hàng, nắm được tình hình thực tế và kiểm tra độ chuẩn xác của thông tin. Cán bộ tín dụng cũng có thể thu thập thông tin qua phỏng vấn khách hàng. Muốn đạt được kết quả cao thì trước khi phỏng vấn cần xác định rõ: mục đích và cách thức phỏng vấn.
Về mục đích phỏng vấn: ngoài việc nhằm kiểm tra tính trung thực của khách hàng, phỏng vấn đôi khi còn là cuộc trao đổi mà qua đó ngân hàng có thể giúp cho doanh nghiệp tháo gỡ các khó khăn về thủ tục vay vốn, điều kiện vay vốn hoặc làm sáng tỏ những điểm còn chưa rõ hoặc mâu thuẫn trong hồ sơ vay vốn.
Về nội dung phỏng vấn: mỗi khách hàng xin vay có một đặc điểm riêng do đó nội dung phỏng vấn không nên áp đặt theo một khuôn mẫu nhất định. Trong khi điều tra doanh nghiệp, bên cạnh việc thu thập thông tin về: lịch sử hình thành, tình hình thu chi, chiến lược kinh doanh, kinh nghiệm quản lý... ngân hàng còn cần phải tìm hiểu về bản chất loại hình doanh nghiệp đang hoạt động, sản phẩm mà doanh nghiệp cung ứng. Khi đã xác định được mục đích của cuộc phỏng vấn, cần đề ra nội dung các câu hỏi mà hồ sơ vay vốn khách hàng trình bày chưa đầy đủ.
Về cách thức phỏng vấn: phải tạo không khí thoải mái cởi mở trong khi tiến hành phỏng vấn, tránh tình trạng một người hỏi người kia trả lời dễ gây cảm giác là đang bị dò xét. Câu hỏi đặt ra cần linh hoạt và nên đặt câu hỏi mở để khuyến khích khách hàng nói chuyện, qua đó khai thác được nhiều thông tin hữu ích cho quá trình thẩm định.
Nhìn chung, mục đích của cuộc phỏng vẫn là thu thập được nhiều thông tin trong khoảng thời gian ngắn nhất, tránh gây phiền hà cho khách hàng. Để làm được điều đó, trước khi phỏng vấn, cán bộ thẩm định nên lập sẵn một danh sách các câu hỏi, nội dung cần thiết cho việc thẩm định dự án.
+ Ngoài các thông tin thu thập được từ chính các doanh nghiệp vay vốn, ngân hàng có thể khai thác thông tin từ các nguồn khác như Thông tin từ phòng Quản lý rủi ro cung cấp, thông tin từ các đơn vị có tham gia quan hệ với doanh nghiệp, thông tin lấy từ trung tâm tín dụng. Đối với những dự án quan trọng, ngân hàng cần thiết phải thuê các cơ quan kiểm toán tiến hành phân tích thông tin hoặc yêu cầu doanh nghiệp phải có xác nhận của kiểm toán báo cáo trình ngân hàng.
Trước mắt, nên thành lập bộ phận tổng hợp, lưu trữ thông tin một cách hệ thống theo yêu cầu của công tác quản lý tại Ngân hàng. Thông tin cần được lưu trữ dưới dạng các Ngân hàng dữ liệu bằng máy tính và được nối mạng cục bộ (mạng LAN ), mạng này được nối với kênh thu thập thông tin từ mạng Internet để trực tiếp khai thác một cách nhanh chóng, thuận tiện, đa dạng hoá các loại thông tin.
Để khai thác và xử lý thông tin một cách hiệu quả thì trước hết cán bộ thẩm định phải có trình độ, sử dụng thành thạo máy vi tính và thông thạo ít nhất là một ngoại ngữ, phải được tập huấn để sử dụng thành thạo chương trình phần mềm như Excel, Asset, Foxpro... Đồng thời Ngân hàng cũng nên bổ sung đào tạo hay tuyền mộ những chuyên gia máy tính giỏi chịu trách nhiệm về thông tin phòng ngừa rủi ro.
Bên cạnh những thông tin thu thập từ các nguồn, cán bộ thẩm định cũng cần tìm hiểu, tiếp cận trực tiếp với địa bàn để xác minh tính đúng đắn của mục đích sử dụng tiền vay cũng như đưa ra những đánh giá xác thực trên phương diện thị trường.
Đối với các thông tin về khách hàng, hiện nay Ngân hàng chủ yếu dựa trên các Báo cáo tài chính mà khách hàng cung cấp. Trong những trường hợp nghi vấn, Ngân hàng có thể yêu cầu các Báo cáo tài chính này phải được kiểm toán cũng như yêu cầu khách hàng phải giải trình và chịu trách nhiệm về tính trung thực của các số liệu ghi trên báo cáo.
Sau mỗi dự án, Ngân hàng cần tổng kết, đánh giá lại chất lượng thẩm định, tiến hành lưu trữ thông tin một cách có hệ thống để tạo nguồn cho việc phân tích, đối chiếu cũng như rút kinh nghiệm cho những dự án sau này.
Lập quỹ hỗ trợ cho thẩm định
Hiện nay chưa có ngân hàng nào (kể cả ngân hàng thương mại quốc doanh) lập quỹ hỗ trợ cho quá trình thẩm định bởi vì nguồn thông tin là sẵn có. Tuy nhiên, các cán bộ thẩm định luôn phải có những cuộc gặp gỡ tiếp xúc trực tiếp cần chi phí. Đồng thời các cán bộ thẩm định cũng phải thường xuyên xuống cơ sở kiểm tra, giai đoạn này phải diễn ra liên tục và gắn liền với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Vì lẽ đó, Ngân hàng nên xem xét lập ra một quỹ riêng để chi phí cho hoạt động thẩm định dự án đầu tư. Nó sẽ góp phần giảm bớt khó khăn cho cán bộ tín dụng khi tiến hành thẩm định, tạo điều kiện cho quá trình thẩm định thuận lợi hơn. Mặt khác, quỹ thẩm định dự án cũng có trách nhiệm trong việc khuyến khích vật chất đối với cán bộ tín dụng.
Tiến hành kiểm tra, kiểm soát nội bộ đối với công tác thẩm định
Để đảm bảo các quy trình, quy chế thẩm định được tuân thủ đúng đắn, đầy đủ, Ngân hàng cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ đối với nghiệp vụ này. Công tác này phải được tiến hành cùng với các bước kiểm tra tương ứng với các giai đoạn phát sinh cho đến lúc kết thúc quá trình thẩm định, bao gồm 3 giai đoạn:
Kiểm soát trước: Giai đoạn này dựa vào sự thành thạo về quy chế và kinh nghiệm mà tiến hành kiểm tra, mục đích là phát hiện ra những điểm bất hợp lý của nghiệp vụ thẩm định trước khi thực hiện, cụ thể:
+ Cán bộ thẩm định đã hướng dẫn khách hàng cụ thể và đầu đủ các điều kiện vay vốn ngân hàng theo chơ chế tín dụng hiện hành hay chưa?
+ Hồ sơ vay vốn có chắc chắn do khách hàng tự lập hay không? Cán bộ thẩm định chỉ giải thích hay hướng dẫn, không được làm thay.
+ Bộ hồ sơ khách hàng đã đầy đủ và hợp lệ chưa?
+ Cán bộ thẩm định đã tiến hành điều tra, thu thập đủ thông tin cần thiết chưa?
Kiểm soát trong khi cho vay: có tác dụng giám sát quá trình thực hiện, hạn chế những thiếu sót, thực hiện không đúng trình tự nghiệp vụ, sai sót về thủ tục... nhằm ngăn chặn kịp thời những thiệt hại sau này, việc kiểm tra nên tập trung vào:
+ Cán bộ thẩm định đã thẩm định khách hàng cẩn thận chưa?
+ Phương án hoặc dự án vay vốn có được đánh giá kỹ lưỡng không?
+ Trong quá trình thẩm định, cán bộ tín dụng có những khó khăn nào cần sự phối hợp nghiệp vụ, đã có hướng giải quyết khó khăn chưa?
+ Cán bộ thẩm định có kết hợp thẩm định trên giấy tờ với kiểm tra thực tế không?
+ Thẩm định tài sản cầm cố, thế chấp có gì sơ hở, thiếu cảnh giác không?
+ ...
Kiểm soát sau: được thực hiện khi nghiệp vụ thẩm định về cơ bản đã được hoàn thành, kiểm tra hồ sơ, chứng từ, rà soát lại tính hợp pháp, hợp lệ của nghiệp vụ ở giai đoạn trước. Mục đích là phát hiện ra những hiện tượng bất thường trong nghiệp vụ đã hoàn thành, đảm bảo tính đúng đắn trước khi ra quyết định cho vay.
Yêu cầu đối với người làm công tác kiểm tra, kiểm soát phải là người có kinh nghiệm, nắm rõ tường tận quy chế, quy trình thẩm định, có óc quan sát tinh tế, là người thận trọng và khéo léo bởi kiểm tra, kiểm soát nhưng phải tránh được sự phiền hà. Công tác kiểm tra, kiểm soát phải có ý nghĩa dự phòng nhiều hơn là xử phạt.
Tóm lại để nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư nói chung và khía cạnh tài chính của dự án nói riêng, Ngân hàng cần tiến hành đồng thời các giải pháp nêu trên. Tuy nhiên, để đạt được điều đó còn phải có sự đóng góp của các nhân tố khác không thuộc phạm vi kiểm soát của Ngân hàng, đó là sự quan tâm, phối hợp của các cấp, các ngành có liên quan trong việc ban hành các chính sách cũng như những quy chế cho toàn ngành.
Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại ACB Hà Nội
Chúng ta biết rằng hệ thống chính sách Nhà nước ảnh hưởng và chi phối tất cả các lĩnh vực xã hội như kinh tế, chính trị, văn hoá, tôn giáo, môi trường... Một sự thay đổi dù lớn hay nhỏ trong chính sách của Nhà nước ngay lập tức tác động đến toàn xã hội. Công tác thẩm định dự án đầu tư cũng không phải là ngoại lệ, nó luôn bị chi phối bởi các chính sách vĩ mô ở các mức độ khác nhau. Do vậy, để nâng cao công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư không chỉ phụ thuộc riêng và nỗ lực của ngân hàng mà còn phải có sự giúp đỡ cũng như phối hợp của các cơ quan hữu quan.
Kiến nghị đối với Chính phủ và các Bộ, ngành có liên quan.
Hoàn thiện công tác kiểm toán - kế toán, thống kê:
Chính phủ nên có biện pháp kinh tế, hành chính buộc các doanh nghiệp phải chấp hành đúng pháp lệnh kế toán, thống kê. Thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc hàng năm đối với tất cả các doanh nghiệp để đảm bảo tính trung thực, chính xác của các con số trên Báo cáo tài chính.
Hiện nay, chúng ta chưa có một cơ quan thống kê nào đứng ra tập hợp các số liệu nhằm đưa ra các tỷ lệ trung bình ngành cho các doanh nghiệp và ngân hàng khai thác, sử dụng. Do vậy, Nhà nước cần lập ra một cơ quan chuyên trách nghiên cứu và ban hành hệ thống các chỉ tiêu tài chính làm cơ sở so sánh cho các doanh nghiệp và Ngân hàng.
Chính phủ nên nhanh chóng hoàn thiện môi trường pháp lý, đảm bảo tính đầy đủ, thống nhất cũng như nâng cao hiệu lực trong việc điều chỉnh pháp luật đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh. Kịp thời ban hành và thực thi các văn bản thông tư cụ thể hoá các nghị định, nghị quyết trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, Ngân hàng.
Hoạt động của các ngân hàng và các doanh nghiệp chịu sự điều chỉnh của các hệ thống văn bản pháp luật và các quy định khác. Vì vậy, một môi trường pháp lý thuận lợi sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của ngân hàng cũng như các doanh nghiệp được ổn định và ít rủi ro. Hiện nay, nhà nước đã ban hành một số văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế: Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật ngân hàng, luật công ty... song còn cần nghiên cứu và hoàn thiện hơn.
Cần sớm ban hành luật sở hữu và các văn bản dưới luật hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan quản lý Nhà nước về cấp chứng từ sở hữu tài sản.
Cần nâng cao tính thống nhất giữa các văn bản về hoạt động tín dụng của ngân hàng đồng thời phải tăng cường trách nhiệm của các cán bộ ngành có liên quan khi cùng ngân hàng giải quyết những vướng mắc trong các khoản tín dụng đối với doanh nghiệp.
Đề nghị các bộ chủ quản như: Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục đầu tư, Thống kê... hệ thống hoá các thông tin liên quan đến các lĩnh vực mà ngành mình phụ trách. Hàng năm thông tin được công bố một cách công khai, chính xác ở trung tâm thông tin của ngành để giúp cho ngân hàng, chủ đầu tư thuận lợi trong việc thu thập thông tin.
Bộ Kế hoạch và đầu tư cần có các văn bản hướng dẫn cụ thể hơn về quy hoạch, kế hoạch đầu tư, định hướng xây dựng và phát triển để hướng dẫn các doanh nghiệp, Ngân hàng tập trung vào tài trợ cho các dự án, các chương trình ưu tiên của Chính phủ.
Chính phủ cần xây dựng hệ thống tiêu chuẩn trung bình ngành cho các chỉ tiêu đánh giá năng lực tài chính doanh nghiệp.
Từ trước đến nay, việc phân tích các chỉ tiêu tài chính trong khâu phân tích tài chính doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở việc so sánh biến động qua các thời kỳ tức là so sánh kết quả hoạt động của các thời kỳ trước đó của doanh nghiệp. Việc đánh giá như vậy là chưa hoàn thiện bởi vì chưa so sánh được mặt bằng chung toàn ngành, cán bộ thẩm định sau khi tính toán các chỉ tiêu tài chưa có cơ sở hoặc tiêu chuẩn chung để đánh giá.
Để góp phần hoàn thiện hơn phần phân tích tài chính doanh nghiệp vay vốn, cần có một hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành làm tiêu thức đánh giá, so sánh. Có thể tham khảo cách tính toán các chủ tiêu này ở các nước phát triển để vận dụng linh hoạt vào việc xây dựng các hệ thống chỉ tiêu chuẩn của nước ta sao cho phù hợp với thực tế phát triển kinh doanh cũng như môi trường trong nước.
- Hàng năm, Chính phủ đều có định hướng phát triển cho từng ngành, từng vùng, nhưng các dự án vẫn được các ngành thực hiện không đồng nhất, có dự án của ngành thì thừa, của vùng thì thiếu. Điều này làm cho công tác thẩm định gặp phải khó khăn vì khi thẩm định thị trường thì nhu cầu những sản phẩm hàng hoá của dự án tại vùng thì thiếu, nhưng xét trên toàn ngành thì tổng sản lượng lại thừa. Những khó khăn này Ngân hàng khó có thể lường trước được công tác thẩm định. Vì vậy, Chính phủ cần quan tâm hơn đến vấn đề này.
Đề nghị các bộ ngành cần phối hợp chặt chẽ trong việc thẩm định và phê duyệt dự án. Chính phủ cần có văn bản cụ thể quy định rõ trách nhiệm giữa các bên đối với kết quả thẩm định trong nội dung các dự án đầu tư.
Kiến nghị đối với NHNN và các NHTM
Củng cố hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro CIC của NHNN:
Để hỗ trợ cho công tác thẩm định dự án của các NHTM, NHNN cần mở rộng phạm vi cung cấp thông tin tín dụng mà cả những thông tin kinh tế phục vụ cho công tác thẩm định dự án đầu tư của ngành và bất kỳ tổ chức, cá nhân nào có nhu cầu. NHNN cũng quy định tất cả các TCTD hoạt động tại Việt Nam đều phải tham gia vào CIC, coi đây là một yếu tố trách nhiệm bắt buộc.
Các trung tâm CIC cần có kế hoạch nâng cao chất lượng cán bộ thẩm định, cần bố trí đào tạo cán bộ về các chuyên đề: nghiệp vụ kế toán và phân tích tài chính doanh nghiệp: phân tích tín dụng và rủi ro tín dụng; các nguyên tắc đánh giá và xếp loại doanh nghiệp; tin học cơ bản và nâng cao; kỹ thuật tra cứu, điều tra thông tin và lập các báo cáo thông tin; hướng dẫn sử dụng phần mềm CIC; tiếng Anh chuyên ngành...
Về vấn đề thu thập thông tin, nên mở rộng nguồn thu thập thông tin tới các cơ quan có thể khai thác được thông tin trên cơ sở quan hệ 2 chiều, chú trọng các nguồn thông tin đại chúng. Trung tâm CIC nên có các văn bản thoả để thu thập tin tức từ các Bộ, ngành như: trung tâm thông tin của Tổng cục thống kê, Tổng cục thuế, Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ thương mại, Bộ khoa học - công nghệ và môi trường... Đồng thời mở rộng nguồn thu thập thông tin nước ngoài, cần tiếp cận và tham gia thành viên trao đổi với một số cơ quan thông tin tín dụng lớn như Hiệp hội thông tin tín dụng Châu á, diễn đàn thông tin tín dụng ASEAN, các cơ quan xếp hạng tín dụng trong khu vực.
Chương trình phần mềm cho CIC cần phải xây dựng dưới hạng mở, có thể điều chỉnh hoặc mở rộng chỉ tiêu thu thập thông tin khi cần thiết và phải đảm bảo một số yêu cầu: công nghệ mới, tiên tiến, thuận tiện với việc tuyên truyền tin và phù hợp với các thiết bị truyền tin hiện có tại Việt Nam, dễ sử dụng, bảo trì và có khả năng bảo mật cao.
Trong môi trường cạnh tranh thiếu lành mạnh như hiện nay, khi nhiều ngân hàng không chịu cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ thông tin về doanh nghiệp có quan hệ với mình cho ngân hàng khác, chỉ khi doanh nghiệp đứng trên bờ phá sản Ngân hàng cho vay mới biết chính xác doanh nghiệp đang nợ các ngân hàng khác là bao nhiêu. Vì vậy, các TCTD cần có sự hợp tác với nhau trong hoạt động tín dụng, không vì lợi ích cục bộ mà bỏ qua các điều kiện, thủ tục cần thiết khi tiến hành thẩm định. Với những TCTD vi phạm cần có biện pháp xử lý hành chính nghiêm minh trong toàn ngành.
Thống nhất các văn bản hướng dẫn, quy chế tín dụng:
Thời gian qua, NHNN đã ban hành nhiều văn bản, quy chế quan trọng, tạo ra một hành lang quy chế tài chính - ngân hàng rõ ràng đầy đủ. Song giữa Nghị định chính phủ với các thông tư hướng dẫn của NHNN và với Bộ luật dân sự còn chưa thống nhất.
Ví dụ, trong phạm vi bảo đảm tiền vay của tài sản, Điều 11 nghị định 178/1999/NĐ-CP quy định: “Trong mọi trường hợp, một tài sản chỉ được dùng để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ tại một tổ chức tín dụng. Nếu tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì có thể được dùng để đảm bảo cho nhiều nghĩa vụ trả nợ, nhưng cũng chỉ tại một TCTD”. Trong khi, Điều 22 (d) mục 3 của Thông tư 06/2000/TT-NHNN1 hướng dẫn “không được dùng tài sản thế chấp để đảm bảo cho nghĩa vụ khác trừ trường hợp tài sản có đăng ký quyền sở hữu”, có nghĩa là, nếu tài sản có đăng ký quyền sở hữu thì có thể thế chấp nhiều nghĩa vụ khác không giới hạn số lượng đối tượng được đảm bảo. Trong trường hợp cho vay hợp vốn thì tài sản thế chấp không chỉ đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ tại một hoặc hai hoặc ba TCTD, như vậy có phải mâu thuẫn với NĐ 178 hay không? Còn bộ luật Dân sự ở điều 329 và 346 có quy định: “Một tài sản có đăng ký quyền sở hữu theo quy định của pháp luật có thể được cầm cố để đảm bảo thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự, nếu giá trị lớn hơn tổng giá trị của các nghĩa vụ được đảm bảo”
Để đảm bảo tính thống nhất, đầy trong luật định, đề nghị NHNN sửa đổi, bổ sung, sớm ban hành các thông tư hướng dẫn, tạo cơ sở vững chắc cho việc thi hành và áp dụng trong các hoạt động thẩm định cũng như tín dụng.
Xác đinh hướng dẫn đầu tư cho các NHTM:
NHNN cần căn cứ vào quy hoạch, định hướng phát triển kinh tế đất nước trong từng thời kỳ để định hướng hoạt động đầu tư của các NHTM như cần tập trung vào thành phần kinh tế nào, ngành nào, khu vực nào là trọng điểm... để từ đó giúp cho các NHTM định hướng đầu tư cho các chi nhánh của mình.
Với khó khăn hiện nay là chưa có một cơ quan nào đứng ra nghiên cứu và ban hành hệ thống các tiêu chuẩn cho phép làm căn cứ so sánh, nên chăng các NHTM cần tự nghiên cứu và ban hành hệ thống các tiêu chuẩn áp dụng cho các chi nhánh trong toàn hệ thống. Sau đây là một số tiêu chuẩn chung:
+ Thời gian hoàn vốn (PP) cần căn cứ theo từng ngành nghề mà có quy định cụ thể. Với các dự án thương mại, dịch vụ, đầu tư chiều sâu, tiểu thủ công nghiệp PP Ê 5 năm; dự án công nghiệp nhẹ: PP ³ 7 năm; Dự án công nghiệp nặng: PP Ê 10 năm; Công trình hạ tầng: PP Ê 15 năm.
+ Sản lượng hoà vốn đạt 50% - 60% công suất dự án là tốt.
+ Điểm hoà vốn trả nợ: 30% - 40% là được. Nếu lớn hơn hoặc bằng 80% thì đầu tư không an toàn.
NHNN nói chung và bản thân các NHTM nói riêng nên thường xuyên tổ chức các hội thi cán bộ tín dụng giỏi trong toàn ngành nghề để qua đó vừa khuyến khích cán bộ nâng cao trình độ của mình, vừa là cơ hội để kiểm tra kiến thức và tìm ra những cán bộ giỏi, có kinh nghiệm. Hàng năm, tổ chức tập huấn để cung cấp thông tin, kiến thức cần thiết cho các cán bộ thẩm định ở các chi nhánh, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát công tác thẩm định tại các chi nhánh của mình.
3.4.3. Kiến nghị đối với Ngân hàng á Châu Hà Nội
Thực tế cho thấy rằng, trong số các rủi ro tín dụng của các NHTM, phần lớn là do nguyên nhân chủ quan gây ra. Tổng kết như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, cho dù có kiến nghị rất nhiều đối với các cơ quan các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương nhằm tạo một môi trường kinh tế pháp lý ổn định, đầy đủ, và đồng bộ cho hoạt động kinh doanh tiền tệ, hoạt động thẩm định đạt hiệu quả cao, song hơn ai hết, nhân tố quyết định chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư phải chính do Ngân hàng á Châu.
Kiến nghị đối với Ngân hàng đã được nêu trong phần giải pháp nhưng ở đây em muốn nhấn mạnh tới yếu tố con người là nhân quan trọng nhất, là cội nguồn của mọi vấn đề từ việc xây dựng ra những quy trình, quy định cho đến việc áp dụng, thực hiện các quy trình, quy định đó. Chính con người vận hành các trang thiết bị để khai thác, sử dụng mọi nguồn thông tin và tìm ra giải pháp để khắc phục và hạn chế rủi ro. Tóm lại, con người là nhân tố quyết định đối với chất lượng của công tác thẩm định, nói rộng hơn là quyết định tới sự thành bại của một ngân hàng. Bởi vậy, Ngân hàng á Châu không ngừng chú trọng, quan tâm đến nhân tố này.
3.4.4. Đối với chủ đầu tư
Vai trò của các chủ đầu tư trong việc nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư là rất quan trọng, nên tự bản thân các chủ dự án phải nâng cao trình độ của mình, và đặc biệt phải tôn trọng và làm theo các chính sách pháp luật và các chế độ quản lý tài chính kinh tế của Nhà nước về chế độ hạch toán, kế toán, đầu tư, thuế...
Tóm lại, nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư không chỉ có ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng mà còn góp phần tiết kiệm vốn cho toàn xã hội, thúc đẩy mở rộng, phát triển an toàn, hiệu quả cho nền kinh tế đất nước và định hướng đầu tư đúng đắn cho các doanh nghiệp. Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án, không chỉ đỏi hỏi có sự nỗ lực, cố gắng của bản thân các cán bộ của Ngân hàng mà còn có sự hỗ trợ của các cơ quan hữu quan.
Kết luận
Ngân hàng, với tư cách là một nhà tài trợ vốn cho nền kinh tế, muốn hoạt động kinh doanh của ngân hàng luôn an toàn và hiệu quả, Ngân hàng phải luôn coi trọng khâu thẩm định dự án đầu tư, đặc biệt là thẩm định về mặt tài chính bởi nó liên quan trực tiếp tới hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng. Chất lượng thẩm định dự án đầu tư luôn là yếu tố trọng tâm quyết định chất lượng tín dụng cũng như hiệu quả kinh doanh của một Ngân hàng, khi mà hoạt động cho vay hiện nay vẫn chiếm tới hơn 80% hoạt động kinh doanh tiền tệ. Bởi lẽ những sơ suất trong công tác thẩm định có thể dẫn đến những sai lầm lớn trong các quyết định cho vay cuối cùng.
Nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư là một nhân tố quan trọng trong việc thực hiện mở rộng tín dụng trung và dài hạn một cách an toàn và hiệu quả. Song việc nghiên cứu những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư là một vấn đề có phạm vi rộng lớn, phức tạp, liên quan đến nhiều đối tượng, đồng thời là việc đòi hỏi phải có thời gian dài. Do vậy trong khuôn khổ bài viết của mình, em chỉ xin đưa ra những vấn đề chung nhất và một vài ý kiến nhỏ với hy vọng sẽ có thể đóng góp phần nào vào công cuộc đổi mới hoạt động của ACB Hà Nội.
Với kiến thức còn hạn chế, các diễn đạt còn nhiều khiếm khuyết nên bài viết của em không tránh khỏi nhiều sai sót. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo của các thầy cô, bạn bè và các anh chị phòng tín dụng để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các anh chị trong phòng Tín dụng Ngân hàng á Châu Hà Nội đã giúp em hoàn thành bài viết này.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0032.doc