Trong xu thế phát triển của nền kinh tế, việc đổi mới, nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng trung dài hạn nói riêng là yêu cầu cấp bách không chỉ của NHCT Hai Bà Trưng mà cuả tất cả các NHTMVN hiện nay, nhằm hội nhập vào cái xu thế chung đó. Với tinh thần mong muốn đóng góp vốn kiến thức nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại NHCT Hai Bà Trưng, trong luận văn này em đã đề cập đến những nội dung chính sau:
*Đưa ra một quan điểm khác về chất lượng tín dụng ngân hàng, phân tích các chỉ tiêu đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung dài hạn để lấy đó làm tham chiếu phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng trung dài hạn tại NHCT Hai Bà Trưng.
*Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng trung dài hạn tại NHCT Hai Bà Trưng qua ba năm 98,99,2000. Thấy được những mặt tích cực cần tiếp tục phát huy đồng thời nhìn nhận một cách khách quan những điểm hạn chế và nguyên nhân của chúng để đưa ra giải pháp khắc phục.
*Nêu lên một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng trung dài hạn của NHCT Hai Bà Trưng trong thời gian tới.
Tuy nhiên đây cũng chỉ là những giải pháp sơ lược, mang tính lý thuyết và được đưa ra dưới góc độ nghiên cứu cá nhân. Mặt khác, do năng lực và hiểu biết còn hạn chế nên luận văn này không tránh khỏi những sai sót.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của thầy hướng dẫn và các cán bộ tín dụng phòng kinh doanh, Ngân hàng Công Thương Hai Bà Trưng.
84 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1221 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Công Thương Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng công tác thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu, điều tra; tạo sự chủ động cho ngân hàng trong việc tìm kiếm, nắm bắt và đáp ứng tốt nhu cầu của ngân hàng trong thời gian tới NHCT Hai Bà Trưng cần thực hiện các biện pháp sau:
Tiếp tục phát huy hiệu quả của phòng Thông tin-Điện toán hiện nay song cần có sự điều chỉnh về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu nhân sự.
Về chức năng, nhiệm vụ:bên cạnh những chức năng nhiệm vụ hiện có cần phải đảm đương thêm những chức năng nhiệm vụ sau:
- Xác định nhu cầu về thông tin cần thu thập.
- Tiến hành việc điều tra, thu thập, xử lý thông tin.
- Phân tích các thông tin đã qua xử lý để đưa ra những dự đoán, kết luận về nhu cầu khách hàng hiện tại và tiềm năng, về tình hình cạnh tranh giữa ngân hàng với các ngân hàng khác và giữa các ngân hàng với nhau, về khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường của NHCT Hai Bà Trưng. Đây là cơ sở để ngân hàng đưa ra những quyết định đúng đắn trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng.
- Lưu trữ thông tin
Để đảm bảo tính chính xác, khách quan, các thông tin phải được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, trên cơ sở đó tiến hành xử lý, đối chiếu để chọn ra những thông tin đáng tin cậy nhất. Đối với NHCT Hai Bà Trưng có thể tiến hành thu thập thông tin từ những nguồn sau:
Thông tin về khách hàng:
Các thông tin này có thể thu thập trực tiếp qua phỏng vấn,điều tra thực tế, những thông tin do khách hàng xin vay vốn cung cấp trong hồ sơ xin vay vốn; hoặc có thể gián tiếp thông qua ngân hàng bạn, các doanh nghiệp có quan hệ với khách hàng, các phương tiện thông tin đại chúng, cơ quan địa phương nơi quản lý khách hàng và đặc biệt là hai nguồn tin: trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của NHNN và trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro của NHCTVN
Thông tin về các đối thủ cạnh tranh của NHCT Hai Bà Trưng:
Quận Hai Bà Trưng tập trung khá nhiều ngân hàng nên tình hình cạnh tranh cũng khá gay gắt và ngày càng có xu hướng tăng lên. Trong bối cảnh đó, để đảm bảo tồn tại được thì không thể không biết gì về các đối thủ cạnh tranh. Thông tin về các đối tượng này có thể lấy từ NHNN, từ các tài liệu do chính ngan hàng đó phát hành nhằm mục đích tuyên truyền, quảng cáo, tù các phương tiện thông tin đại chúng, tù dư luận trong khách hàng của họ.
*Về nhân sự:
Từ trước đến nay do chức năng nhiệm vụ của phòng khá đơn giản nên cơ cấu nhân xự của phòng cũng không phức tạp. Hiện nay phòng có 13 nhân viên đều là những người hiểu biết thông thạo về máy tính nhưng những kiến thức về kinh tế nói chung và ngân hàng nói riêng hầu như không được đào tạo cơ bản. Chính vì vậy, để có thể thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ mới đòi hỏi cơ cấu nhân sự của phòng phải có sự thay đổi. Do khối lượng công việc tăng lên nên số lượng nhân sự cũng có thể phải tăng lên nếu như số nhân sự trước đay đã tận dụng hết công xuất. Số nhân viên tăng thêm này ngoài việc thông thạo máy tính còn phải là những người có kiến thức, am hiểu về kinh tế thị trường, về tài chính doanh nghiệp, về khoa học kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng, đồng thời phải có khả năng tổng hợp và phân tích số liệu tốt.
Với những điều chỉnh như vậy hoạt động của phòng Thông tin -Điện toán sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho NHCT Hai Bà Trưng trong việc nâng cao chất lượng kinh doanh nói chung và chất lượng tín dụng chung và dài hạn nói riêng. Thứ nhất, thông qua công tác thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu, điều tra sẽ giúp cho ngân hàng nắm bắt được chính xác nhu cầu của khách hàng hiện tại và tiềm năng, nắm bắt được mặt mạnh- yếu của đối thủ cạnh tranh cũng như của chính mình, dự đoán được xu hướng biến động của nến kinh tế. Trên cơ sở đó sẽ đưa ra những quyết định thích hợp nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu vay vốn của khách hàng. Thứ hai, những thông tin cung cấp bởi phòng Thông tin- Điện toán là những căn cứ bổ ích giúp cán bộ tín dụng đánh giá uy tín, năng lực của khách hàng một cách chính xác, tránh được nguy cơ rủi ro “ thông tin không cân xứng” dẫn đến sự “ lựa chọn đối nghịch”. Thứ ba, do công tác thu thập thông tin được tiến hành liên tục trước, trong và sau khi cho vay nên giúp cán bộ tín dụng luôn bám sát khách hàng vay vốn nhằm hạn chế những biểu hiện tiêu cực trong quá trình sử dụng vốn vay cũng như có biện pháp giúp đỡ khách hàng khi cần thiết, tạo lập và duy trì mối quan hệ tốt đẹp, lâu dài với khách hàng
b. Đa dạng hoá loại hình cho vay trung và dài hạn:
Một trong những nguyên nhân cản trở khả năng mở rộng tín dụng của NHCT Hai Bà Trưng dó là sự ngheò nàn về loại hình cho vay. Để khắc phục điều này, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, thực hiện mục tiêu mở rộng tín dụng trung dài hạn trong thời gian tới NHCT HBT cần phải đa dạng hoá loại hình cho vay của mình một cách thích hợp. Trong điều kiện hiện nay, ngoài hình thức cho vay theo dự án ngân hàng có thể xem xét cung cấp một số loại hình tín dụng trung dài hạn sau:
Cho vay hợp vốn:
Đây là hình thức cho vay khá phổ biến ở các nước phát triển. Nó được tiến hành trên cơ sở sự phối hợp của một nhómNHTM do một ngân hàng đứng ra làm đầu mối, cùng thực hiện cho vay đối với một khách hàng nhất định.
Việc sử dụng hình thức này sẽ đem lại cho NHCT HBT nhiều lợi thế: có thể cho vay những khách hàng vượt quá khả năng hay giới hạn tối đa của ngân hàng, phân tán rủi ro, tăng cường quan hệ hợp tác với các NHTM khác, mở rộng thị trường hoạt động. Đặc biệt khi thực hiện việc hợp vốn với ngân hàng lớn hay ngân hàng nước ngoài sẽ giúp cho ngân hàng có điều kiện học hỏi thêm kinh nghiệm quản lý, cách thức thẩm định dự án, quản lý tín dụng của họ đồng thời chuẩn bị cho việc khai thác nguồn vốn vay nợ nước ngoài như đã nói ở phần (3.2.1). Với tất cả những ưu điểm đó, lại được sự khuyến khích của NHNN, hơn nữa việc thực hiện hình thức này không phức tạp, hoàn toàn phù hợp với điều kiện thực tế của NHCT HBT hiẹn nay, vì vậy đay là một giải pháp rất hữu hiệu để mở rộng tín dụng trung dài hạn trước mắt cũng như lâu dài.
Nghiệp vụ thuê mua:
Đây là một hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn dựa trên một hợp đồng thuê mua theo đó người cho thuê chuyển giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người đi thuê sử dụng trong một thời gian nhất định, người đi thuê có trách nhiệm trả tiền thuê trong suốt thời gian thuê và hết hạn sẽ được chuyển quyền sở hữu, mua hoặc thuê tiếp tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên.
Đây là phương thức cấp tín dụng khá phổ biến trên thế giới và đến nay đã bắt đầu xâm nhập vào Việt Nam. Sử dụng phương thúc này có nhiều ưu điểm cho cả ngân hàng và khách hàng:
- Đáp ứng tốt nhu cầu của nhiều loại khách hàng bao gồm:
+ Các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn nhưng không đủ vốn tự có hay tài sản thế chấp theo yêu cầu. Khác với cho vay thông thường, trong nghiệp vụ thuê mua khách hàng không cần có tài sản thế chấp và nếu là khách hàng có uy tín thì ngân hàng có thể tài trợ 100% giá trị tài sản mà không cần doanh nghiệp phải ký quỹ.
+Các doanh nghiệp đủ điều kiện nhưng vẫn thích sử dụng phương thức thuê mua để dành vốn của mình cho một định hướng kinh doanh khác có lợi hơn hoặc để hưởng một khoản tiết kiệm nhờ thuế ( tiền thuê tài chính được khấu trừ vào chi phí trước khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp).
+ Các doanh nghiệp là chủ sở hữu đối với thiết bị đang sử dụng có thể bán thiết bị đó cho công ty thuê mua rồi mua lại( tái thêu mua).Trường hợp này thường xảy ra với những doanh nghiệp thiếu vốn lưu động để khai thác tài sản hiện có của mình hoặc cần vốn để đầu tư vào những dự án khác có lợi hơn. Cũng có thể do doanh nghiệp có những khoản nợ đến hạn mà chưa thanh toán được(điều chỉnh thời hạn vay vốn).
+ Các doanh nghiệp mới thành lập có mức độ rủi ro cao( các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, doanh nghiệp được xếp hạng tín dụng thấp) cũng có thể sử dụng phương thức này mặc dù khó có thể được các ngân hàng cho vay trung dài hạn theo phương thức thông thường.
-Tạo điều kiện cho các NHTM mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh.
-Thuê- mua là một phướng thức tài trợ ít rủi ro do các lý do sau:
+Ngân hàng( người cho thuê) vẫn là chủ sở hữu đối với tài sản trong suốt thời gian thuê do đó họ có quyền quản lý, kiểm soát tài sản theo thoả thuận trong hợp đồng thuê- mua.Trong trường hợp người đi thuê không thanh toán theo đúng hợp đồng thì ngân hàng có quyền thu hồi tài sản đồng thời buộc bên thuê bồi thường thiệt hại nếu có.
+Đối tượng thuê mua được thực hiện dưới dạng tài sản cụ thể gắn với mục đích kinh doanh của người ddi thuê, do đó bảo đảm người đi thuê sẽ sử dụng vốn đúng mục đích, tạo tiền đề để hoàn trả tiền vay theo đúng thời hạn.
+Thông thường giá mua lại tài sản thuê được xác định ngay từ khi ký kết hợp đồng. Điều này có tác dụng khuyến khích doanh nghiệp sử dụng và bảo quản tài sản tốt hơn.
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, hình thức này tỏ ra khá thích hợp với đặc điểm nền kinh tế: các doanh nghiệp ngoài QD mới được hình thành và phát triển chưa lâu nên chưa đủ cơ sở để ngân hàng đánh giá mức độ tín nhiệm, hơn nữa quy mô nguồn vốn tự có nhỏ nên không đủ điều kiện vay vốn TDNH. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước đã hoạt đọng lâu năm thì đại bộ phận trang thiết bị và công nghệ thuộc loại lạc hậu cần phải thay thế. Trong hoàn cảnh đó, việc áp dụng phương thức thuê- mua góp phần tích cực giúp đỡ các doanh nghiệp đổi mới trang thiết bị, tiếp thu công nghệ mới, mở rộng sản xuất, góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Theo quy chế hiện hành về tổ chức và hoạt động của Công ty Thuê - mua Tài chính tại Việt Nam( ban hàng kèm theo NĐ số 64/CP ngày 9/10/1995 của Chính phủ) thì hoạt động thuê- mua phải được thực hiện bởi các Công ty cho thuê tài chính được phép. Hiện nay ở Việt Nam chỉ có một số ít các công ty loại này và đều là các công ty con do các NHTM thành lập nên, trong đó có Công ty cho thuê tài chính của NHCT VN. Như vậy theo quy định này thì NHCT HBT không được phép trực tiếp thực hiện nghiệp vụ thuê - mua. Tuy nhiên, NHCT HBT vẫn có thể tham gia cung ứng loại hình tín dụng trung dài hạn này thông qua các hình thức thuê- mua hợp tác( Levereged lease).
Khi tham gia vào hình thức thuê - mua hợp tác, NHCT HBT có thể đóng vai trò người cho vay hoặc người góp vốn. Nếu là người cho vay thì cũng thực hiện giống như cho vay đối với doanh nghiệp, trong trường hợp này là Công ty cho thuê tài chính, tài sản cho thuê sẽ được dùng làm tài sản thế chấp. Còn nếu là người góp vốn thì ngân hàng và Công ty cho thuê tài chính ký kết hợp đồng góp vốn cùng thực hiện việc cho thuê đối với một hoặc nhiều khách hàng( tương tự như hình thức cho vay hợp vốn). Tiền thuê sẽ phân chia theo thoả thuận, nếu có rủi ro cùng chia sẻ. Có thể mô tả nghiệp vụ này như sau:
Hình1: Mô hình nghiệp vụ thuê mua hợp tác.
(2b)
(4b)
NHCT Hai Bà Trưng. Cty cho thuê TC.
(1c)
(2a) (1b) (1a) (2c) (4a)
(1d) Người cung cấp. Người đi thuê.
(3)
(1a). Người đi thuê và Công ty cho thuê tài chính ký hợp đồng.
(1b). Công ty cho thuê tài chính ký hợp đồng với nhà cung cấp để mua tài sản.
(1c). Công ty cho thuê tài chính ký hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng góp vốn với NHCT HBT.
(2a). Nhà cung cấp lập thủ tục chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho Công ty cho thuê tài chính.
(2b). Công ty cho thuê tài chính thanh toán tiền mua tài sản cho nhà cung cấp.
(2c). Công ty cho thuê tài chính lập thủ tục chuyển giao quyền sử dụng tài sản cho người đi thuê.
(3). Nhà cung cấp giao tài sản cho người đi thuê.
(4a). Người đi thuê thanh toán tiền theo định kỳ.
(4b). Công ty cho thuê tài chính trả nợ hoặc chia tiền thuê cho NHCT HBT.
Tham gia vào hình thức tín dụng này vừa giúp cho NHCT HBT mở rộng quy mô tín dụng vừa đảm bảo an toàn vốn do khoản vay được thế chấp bởi chính tài sản cho thuê, hơn nữa các Công ty cho thuê tài chính là công ty con của các NHTM lớn có uy tín nên mức độ bảo đảm càng cao hơn.
*Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng:
Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng là hình thức cho vay theo đó ngân hàng cho vay cam kết sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định để đầu tư cho dự án.
Khi áp dụng phương thức vay này, ngoài việc thực hiện các quy định như phương thúc cho vay theo dự án đầu tư, ngan hàng cho vay và khách hàng cần thoả thuận thêm một số nội dung sau:
Thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng.
Mức phí cho hạn mức tín dụng dự phòng( theo biểu phí do Tổng giám đốc NHCT quy định cho từng thời kỳ).
Hạn mức tín dụng, thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng được ghi trong hợp đồng tín dụng. Trong suốt thời hạn đó khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào cần, miễn là phải đảm bảo hạn mức tín dụng và phải lập giấy nợ kèm theo các chứng từ cần thiết gửi cho ngân hàng cho vay. Hình thức này có tác dụng bổ xung kịp thời vốn lưu động. Trong quá trình thực hiện dự án có thể có những chi phí phát sinh bất thường mà doanh nghiệp không lường trước được, nếu việc bổ xung vốn không kịp thời có thể ảnh hưởng đến tiến độ dự án. Nếu không có hạn mức tín dụng dự phòng doanh nghiệp có thể tìm kiếm các nguồn tài trợ khác hoặc có thể làm đơn xin vay thêm vốn ngân hàng, tuy nhiên công việc này đòi hỏi nhiều thời gian gây ra gián đoạn công trình, ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng. Ngoài ra trong quá trình thực hiện dự án nếu có những cơ họi kinh doanh tốt đẹp hơn thì doanh nghiệp có thể vay vốn theo hạn mức tín dụng dự phòng để thực hiện dự án, còn vốn tự có của mình đầu tư vào dự án mới.Về phía ngân hàng đây là một trong những biện pháp nhằm tăng quy mô cho vay trung và dài hạn. Tuy nhiên hình thức này có nhược điểm là hạn mức tín dụng thường không lớn và đòi hỏi ngân hàng phải quản lý chặt chẽ quá trình sử dụng vốn của doanh nghiệp nhằm tránh việc sử dụng vốn sai mục đích.
3.2.3.Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Qua nghiên cứu về hoạt đọng tín dụng trung dài hạn ở NHCT Hai Bà Trưng có thể thấy một đặc điểm nổi bật đó là có sự đối xử phân biệt giữa các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh. Có thể thấy điều này qua bảng số liệu sau:
Bảng 12: Số doanh nghiệp và dư nợ trung dài hạn phân theo TPKT.
Năm
Chỉ tiêu
1998
Sốlượng Tỷtrọng
(%)
1999
Sốlượng Tỷtrọng
(%)
2000
SốlượngTỷtrọng
(%)
1.Số DN có quan hệ TD
- Quốc doanh.
- Ngoài QD.
897 100
197 22
700 78
785 100
170 21,7
615 78,3
865 100
215 24,9
650 75,1
2.DN cho vay TDH(tỷ đ)
Quốc doanh.
Ngoài QD.
75 100
68 90,7
7 9,3
156 100
136 87,2
20 12,8
125 100
106 84,8
19 15,2
[11,2].
(Nguồn: Tổ Cân Đối- Tổng Hợp NHCT HBT )
Như vậy có thể thấy trong khi số khách hàng vay vốn là doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn chiếm trên 75% cơ cấu khách hàng thì ngược lại dư nợ cho vay trung dài hạn đối với khu vực này chỉ ở mức dưới 15%. Nguyên nhân của tình trạnh này thì có nhiều, song xét về phía NHCT Hai Bà Trưng có thể thấy một thực tế là ngân hàng không tha thiết lắm với việc mở rộng cho vay trung dài hạn đối với các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Đây thực sự là rào cản lớn trong việc mở rộng cho vay trung dài hạn của ngân hàng. Những vướng mắc về mặt nguyên tắc có thể giải quyết được nếu có được sự thiện chí, nỗ lực từ cả hai phía, nhưng nếu một khi ngân hàng đã không thực sự muốn cho vay thì có ngàn lẻ một lý do để từ chối.Trong thời gian qua do quá coi trọng mục tiêu an toàn vốn nên NHCT Hai Bà Trưng đã dành cho các DNNQD một sự đối xử không mấy thân thiện, mang đầy tính nguyên tắc. Kết quả là có không ít doanh nghiệp có tiềm năng nhưng do không thoả mãn một yêu cầu nào đó của ngân hàng nên đành lực bất tòng tâm. Vẫn biết rằng cho vay đối với DNNQD thời gian qua gặp nhiều rủi ro song không nên vì thế mà ngân hàng quay lưng với khu vực này.Tuy rằng khu vực này chứa nhiều rủi ro tiềm ẩn song nó lại cũng là một thị trường đầy tiềm năng cần đẩy mạnh khai thác. Để làm được điều này cần có sự nỗ lực từ nhiều phía, về phía NHCT Hai Bà Trưng có thể thấy hai vướng mắc lớn nhất mà các doanh nghiệp thường không vưọt qua được đó là không đủ vốn tự có tham gia dự án và không đủ TSTC theo quy định.
Nếu như yêu cầu về vốn tự có do NHNN đưa ra và NHCT HBT không thể tuân theo thì yêu cầu về tài sản thế chấp lại không cứng nhắc đến vậy, đặc biệt là sau khi chính phủ ban hành NĐ 178/CP(29/12/99) quy định về việc đảm bảo tiền vay của TCTD. Theo đó TCTD được phép cho vay đối với các đối tượng thuộc mọi thành phần kinh tế có bảo đảm hoặc không có baỏ đảm. Nghị định này đã tạo ra một hành lang pháp lý thoáng hơn nhằm tháo gỡ khó khăn trong quan hệ giữa các TCTD và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tuy nhiên mục tiêu đó đạt được đến mức nào là tuỳ thuộc vào nỗ lực của các NHTM. Rõ ràng vào thời điểm hiện nay rất ít ngân hàng dám cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay không cần TS thế chấp, ngân hàng CT HBT cũng vậy, để đảm bảo an toàn vốn trong điều kiện trình độ thẩm định dự án, thẩm định khách hàng, quản lý tín dụng chưa cao thì nếu làm như vâyh nguy cơ rủi ro là quá cao. Chính vì vậy, để giải quyết vấn đề này trong thời gian tới thiết nghĩ NHCT HBTnên chọn lọc những doanh nghiệp có đủ uy tín cũng như năng lực để tiến hành việc thí điểm phương thức cho vay có bảo đảm bằng chính tài sản hình thành từ vốn vay.Đây là một phương thức bảo đảm tiền vay phổ biến trên thế giới nhưng ở nước ta còn khá mới, tuy vậy phương thức này đã được quy định khá chi tiết trong NĐ178/CP và tỏ ra phù hợp với điều kiện ngân hàng công thương HBT cũng như nhiều chi nhánh khác ở Việt Nam.
Việc áp dụng phương thức này có lợi cho cả hai phía doanh nghiệp và ngân hàng. Về phía doanh nghiệp, nó cho phếp doanh nghiệp không có đủ TSTC nhưng có uy tín, có năng lực, có phương án kinh doanh hiệu quả có thể vay vốn mở rộng sản xuất, đổi mới trang thiết bị, công nghệ, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Đối với ngân hàng đây là phương thức cho vay khá an toàn do được đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Hơn nữa, cũng giống như phương thức thuê mua, doanh nghiệp sẽ khó có cơ hội sử dụng vốn sai mục đích, bởi lẽ ngân hàng chỉ cho vay khi chắc chắn doanh nghiệp sẽ sử dụng vốn vay để mua sắm tài sản mà hai bêb đã thoả thuận. Có thể mô tả nghiệp vị này như sau:
Hình 2: Quy trình thực hiện nghiệp vụ cho vay bảo đảm bằng chính tài sản hình thành từ vốn vay( chỉ xét từ khi ngân hàng đồng ý cho vay).
(5)
NHCT Hai BàTrưng. Nhà cung cấp.
(2)
(1) (4) (6)
(3)
DN vay vốn.
(1). Doanh nghiệp và ngân hàng ký kết hợp đồng cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
(2). Doanh nghiệp và nhà cung cấp ký hợp đồng mua bán tài sản.
(3). Nhà cung cấp lập thủ tục và chuyển giao quyền sở hữu và tài sản cho doanh nghiệp.
(4). Doanh nghiệp giao bản chính giấy chứng nhận sở hữu tài sản cho ngân hàng.
(5). Sau khi kiểm tra giấy tờ và tài sản, nếu thấy hợp lệ thì ngân hàng trả tiền cho nhà cung cấp.
(6). Doanh nghiệp trả nợ cho ngân hàng theo thoả thuận.
Trường hợp doanh nghiệp vay vốn để xây dựng cơ bản thì phải nộp bản chính giấy chứng nhận quyền sủ dụng khu đất nơi sẽ hình thành tài sản cho ngân hàng trước khi ký hợp đồng tín dụng. Ngân hàng sẽ tiến hành cấp tiền cho nhà thầu xây dựng đúng theo tiến độ thoả thuận để thực hiện dự án. Sau khi công trình hoàn thành, bàn giao và đi vào sử dụng thì doanh nghiệp phải nộp bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản cho ngân hàng. Đối với những tài sản thế chấp là phương tiện vận tải thì chủ phương tiện được dùng bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu có xác nhận của Công chứng Nhà nước và của ngân hàng cho vay để lưu hành phương tiện trong thời gian thế chấp.
Với phương thức cho vay này doanh nghiệp vay vốn không trực tiếp nhận tiền nên tránh được vấn đề sử dụng vốn sai mục đích. Tuy nhiên ngân hàng cũng có thể phát tiền trực tiếp cho doanh nghiệp vay vốn theo thoả thuận với điều kiện doanh nghiệp phải chứng minh được rằng tiền vay được sử dụng đúng theo hợp đồng. Đồng thời, trong quá trình sử dụng tài sản của doanh nghiệp ngân hàng tiếp tục thực hiện các biện pháp kiểm tra, giám sát giống như trường hợp cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp thông thường. Với cách làm như vậy, phương thức cho vay này tỏ ra khá an toàn và phù hợp với điều kiện hiện nay của NHCT Hai Bà Trưng.
3.2.4. Nâng cao hiệu quả công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng:
Các biện pháp bảo đảm( thế chấp, cầm cố) mà ngân hàng yêu cầu khách hàng thực hiện chỉ là nhằm đảm bảo khả năng thu hồi vốn trong trường hợp xấu nhất, ngân hàng không bao giờ muốn thu hồi vốn thông qua việc xử lý các tài sản đảm bảo. Một khoản tín dụng có chất lượng cao đòi hỏi phải được hoàn trả bằng thu nhập sinh ra từ việc sử dụng hiệu quả tài sản đó chứ không phải từ việc phát mại tài sản cầm cố, thế chấp. Muốn vậy phải có biện pháp nhằm chọn ra những khách hàng thực sự đáng tin cậy, những dự án khả thi và có hiệu quả. Điều đó đòi hỏi hiệu quả công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng phải được nâng cao hơn. Đối với NHCT Hai Bà Trưng trong điều kiện hiện nay để đáp ứng đòi hỏi này cần tiến hành một số biện pháp sau:
a. Tăng cường công tác thu thập và xử lý thông tin.
Thông tin là yếu tố không thể thiếu được cho việc thẩm định dự án, thẩm định khách hàng. Thông tin thu thập càng nhanh, đầy đủ, chính xác thì càng giúp cho việc thẩm định được thuận lợi hơn. Để đảm bảo tính chính xác, thiết thực của thông tin thì cần phải tiến hành thu thập từ nhiều nguồn, đồng thời phải tổ chức tốt việc xử lý thông tin nhằm chọn lọc những thông tin chính xác, thiết thực nhất. Công việc thu thạp và xử lý thông tin phải được tiến hành một cách chủ động và liên tục chứ không phải đợi khách hàng đến xin vay rồi mới tiến hành.
Đối với NHCT Hai Bà Trưng, như ở phần(3.2.2.1) đã nêu, công tác thu thập và xử lý thông tin nên dành cho phòng Thông tin- Điện toán. Khi có khách hàng đến vay vốn CBTD sẽ yêu cầu phòng cung cấp cho mình những thông tin càn thiết. Trên cơ sở so sánh, đối chiếu những thông tin do khách hàng cung cấp và những thông tin của phòng Thông tin -Điện toán bước đầu sẽ cho phép CBTD đánh giá mức độ trung thực của khách hàng vay vốn. Bên cạnh nđó những thông tin của phòng Thông tin- Điện toán cung cấp còn cho phép đánh giá đầy đủ hơn về khách hàng cũng như dự án vay vốn. Như vậy có thể thấy được việc tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của phòng Thông tin- Điện toán là một trong những ván đề ngân hàng cần xem xét trong thời gian càng sớm càng tốt vì đó là điều kiện để thực hiện nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng.
b.Thực hiện việc cho điểm tín dụng.
Hiện nay các CBTD ở NHCT Hai Bà Trưng đang thực hiện công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng dựa theo bản “Tóm tắt hướng dẫn thẩm định dự án trong nước và quốc tế” do NHCT Việt Nam phát hành. Cách làm này có hai điểm đáng lưu ý: Thứ nhất là bản hướng dẫn chỉ đưa ra những nguyên tắc chung nhất,những chỉ tiêu cơ bản nhất làm cơ sở tham khảo cho các chi nhánh NHCT chứ không phải là chuẩn mực cho mọi ngân hàng. Chính vì vậy việc áp dụng bản hướng dẫn này một cách máy móc không phải là một cách làm hay, cần phải có sự linh động sáng tạo để phù hợp với tình hình thực tiễn.Thứ hai, các chỉ tiêu thẩm định có tầm quan trọng khác nhau, có quan hệ tác động qua lại với nhau, song với cách làm hiện nay các chỉ tiêu này lại được xem xét một cách rời rạc, không đánh giá được tầm quan trọng của từng chỉ tiêu cũng như mối quan hệ giữa chúng. Rõ ràng là cách làm này không khoa học, cần phải có những cải tiến trong thời gian tới nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác thẩm định.
Một trong những phương pháp khá phổ biến thường được các ngân hàng sử dụng để đánh giá khách hàng là phương pháp cho điểm tín dụng. Theo phương phấp này doanh nghiệp vay vốn sẽ được đánh giá cho điểm trên các mặt như: khả năng tài chính; khả năng quản lý điều hành kinh doanh; hiệu quả sản xuất kinh doanh, mức dộ tín nhiệm thông qua việc tính toán các chỉ tiêu liên quan. Đồng thời mỗi mặt đó được gán cho một trọng số thể hiện mức độ quan trọng của nó đối với việc đánh giá khách hàng. Tổng điểm số của khách hàng sẽ là tổng điểm của mỗi mặt nhân với trọng số tương ứng. Trên cơ sở so sánh tổng điểm với những tiêu chuản cụ thể, doanh nghiệp sẽ được xếp loại theo mức A, B, C từ đó ngân hàng có cách đối xử phù hợp. Thiết nghĩ đây là một phương pháp ngân hàng có thể tham khảo và áp dụng để nâng cao hơn nữa hiệu quả thẩm định dự án, khách hàng của mình. Điểm mấu chốt của việc áp dụng phương pháp này là phải xây dựng được một hệ thống chỉ tiêu đánh giá doanh nghiệp trên các mặt một cách chính xác, đồng thời phải xác định được vai trò của mỗi mặt đó trong việc quyết định các mặt khác cũng như quyết định hiệu quả của doanh nghiệp. Theo văn bản hướng dẫn của NHCT VN và thực tế hiện nay cho thấy ngân hàng quá quan tâm đến chỉ tiêu thanh toán hiện hành và tài sản đảm bảo trong khi quên mất rằng nguồn trả nợ phải được lấy từ thu nhập do việc sử dụng khoản vay mang lại. Vì vậy theo ý kiến cá nhân em để đánh giá chính xác hơn nên thêm một số chỉ tiêu sau:
* Chỉ tiêu vòng quay tiền: DT tiêu thụ trong năm
TM và TS tương đươngtiền bình quân
Chỉ tiêu này cho biết khả năng quay vòng tiền của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cao cho thấy khả năng của doanh nghiệp trong việc tạo doanh thu từ một nguồn vốn nát định ban đầu là rất tốt, đó sẽ là nguồn doanh nghiệp trả nợ ngân hàng.
DT tiêu thụ trong năm
Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng TSCĐ:
Giátrị TSCĐ(GTCLtại thời điểm báo cáo)
Chỉ tiêu này cho biết một đồng giá trị TSCĐ của doanh nghiệp tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong một năm.
DT tiêu thụ trong năm.
*Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tổng TS
Tổng giá trị tài sản.
Chỉ tiêu này cho biết một đồng giá trị tài sản của doanh nghiệp mang lại bao nhiêu đồng doanh thu cho doanh nghiệp trong một năm.
Hai chỉ tiêu hiệu suất trên càng cao chứng tỏ khả năng quản lý và khai thác tài sản của doanh nghiệp càng tốt và ngân hàng có thể tin cậy được khi cho doanh nghiệp vay vốn mở rộng sản xuất kinh doanh.
LN trước thuế và lãi.
*Chỉ tiêu doanh lợi vốn:
Tổng giá trị tài sản.
Chỉ tiêu này cho biết cụ thể hơn về khả năng thanh toán lãi vay của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng lớn hơn so với lãi vay càng tốt.
c. Thành lập nhóm chuyên trách thẩm định dự án:
Nếu như việc thẩm định khách hàng không quá phức tạp, có thể được thực hiện trực tiếp bởi mỗi CBTD với sự trợ giúp của phòng Thông tin- Điện toán, thì ngược lại thẩm định dự án lại là một việc không đơn giản chút nào, nó đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có một vốn kiến thức rất tổng hợp về thị trường, về quản trị doanh nghiệp, về khoa học kỹ thuật, luật pháp, xã hội. Với những yêu cầu như vậy đòi hỏi phải có những cán bộ chuyên sâu chứ không nên để cán bộ tín dụng kiêm nhiệm như hiện nay. Bởi lẽ hầu hết các cán bộ tín dụng chỉ được đào tạo về nghiệp vụ ngân hàng chứ không chuyên sâu về thẩm định dự án. Vì vậy theo ý kiến cá nhân em, ngân hàng nên tách một phần quân số hiện nay của phòng kinh doanh để lập tổ thẩm định dự án của riêng mình. Để nâng cao hiệu quả của tổ thẩm định, các cán bộ TD được tách ra sẽ cho đi học những khoá chuyên về thẩm định dự án, đồng thời có thể thuê thêm một só chuyên gia trong một số lĩnh vực khác ngoài ngân hàng để tăng thêm khả năng đánh giá dự án một cách toàn diện. Việc chuyên môn hoá như vậy sẽ giúp cho công tác thẩm định được nhanh hơn, chính xác hơn, vừa rút ngắn thời gian chờ đợi cho khách vừa đảm bảo an toàn cho ngân hàng, hơn nữa còn hạn chế những tiêu cực phát sinh trong quá trình thẩm định.
3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các khoản vay; hợp tác chặt chẽ với khách hàng để giải quyết khoa học số nợ quá hạn.
Kiểm tra, giám sát việc sử dụng tiền vay là một việc làm cần thiết để phòng ngừa và ngăn chặn rủi ro tín dụng. Thực hiện thường xuyên sẽ giúp ngân hàng phát hiện kịp thời những sai phạm của doanh nghiệp đồng thời giúp ngân hàng luôn bám sát tình hình hoạt động thực tế của dự án, nắm bắt được những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện dự án để có biện pháp đối phó kịp thời. Hiện nay việc kiểm tra giám sát sau khi vay ở ngân hàng còn mang nặng tính hình thức, kiểm tra chủ yếu dựa trên những tài liệu do doanh nghiệp cung cấp và được tiến hành định kỳ mỗi quý một lần. Việc kiểm tra này không mang lại hiệu quả cao, bởi lẽ chẳng có gì đảm bảo rằng những tài liệu do doanh nghiệp cung cấp hoàn toàn đúng sự thật. Kiểm tra định kỳ và không thường xuyên như vậy thì nếu doanh nghiệp không có thiện chí họ sẽ có những thủ thuật để che mắt cán bộ kiểm tra. Để khắc phục điều này trong thời gian tới công tác kiểm tra, giám sát sau khi cho vay phải được tiến hành chặt chẽ hơn nữa, việc kiểm tra trực tiếp tại cơ sở không nên tiến hành định kỳ như hiện nay mà nên tiến hành ngẫu nhiên, không báo trước có vậy mới đảm bảo những gì mắt thấy tai nghe là trung thực.
Trong quá trình kiểm tra nếu phát hiện thấy doanh nghiệp gặp khó khăn không thể trả nợ theo đúng hợp đồng thì CBTD cũng không nên quá hốt hoảng tìm mọi cách thu nợ, mà nên báo cáo về ngân hàng để có biịen pháp xử lý kịp thời. Về phía ngân hàng nên xem xét thận trọng phối hợp với khách hàng giải quyết khoa học số nợ quá hạn. Có thể áp dụng hai biện pháp khai thác và thanh lý. áp dụng biện pháp khai thác nếu xét thấy những khó khăn là có thể vượt qua. Hình thức cụ thể là có thể kết hợp một hoặc nhiều biện pháp sau:
Ngân hàng tư vấn, hướng dẫn cho doanh nghiệp trên nhiều khía cạnh nhằm tác động đến khả năng tạo ra và thu được lợi nhuận.
Ngân hàng đề nghị doanh nghiệp quản lý chặt chẽ quỹ chi tiêu, tư vấn cho doanh nghiệp một số biện pháp tăng vốn bằng cách giải toả số hàng tồn kho, bán bớt một phần tài sản có giá trị và thanh lý những tài sản không sử dụng
Ngân hàng đề nghị doanh nghiệp tổ chức lại hệ thống sản xuất kinh doanh, thay đổi thiết bị máy móc, công nghệ.
Nếu do nguyên nhân khách quan bất khẩ kháng khiến doanh nghiệp không trả được nợ thì ngân hàng có thể xem xét gia hạn hoặc điều chỉnh hợp đồng cho vay tương ứng với kỳ hạn có thể thu hồi tiền của doanh nghiệp
Nếu cần ngân hàng có thể tham gia điều hành doanh nghiệp cho đến khi thu hồi được nợ.
Nếu xét thấy biện pháp khai thác là không thuận lợi và không có hy vọng thu hồi thì ngân hàng sẽ áp dụng biện pháp thanh lý để xử lý các khoản nợ khó đòi. Biện pháp thanh lý chỉ nên coi là giải pháp tình thế khi không còn cách lựa chọn nào khác. Nói chung khi đã áp dụng hình thức này thì khó tránh khỏi những tổn thất. Chính vì vậy, điều quan trọng là phải tránh những nguy cơ ngay từ những khâu trước đó.
3.2.5. Vấn đề nhân sự:
Yếu tố con người luôn là yếu tố quyết định trong mọi lĩnh vực hoạt động, đặc biệt với một lĩnh vực nhạy cảm và phức tạp như TDNH thì điều đó càng đúng hơn bao giờ hết. Tất cả những giải pháp đưa ra ở trên sẽ không thể phát huy được hiệu quả nếu không được thực hiện được nếu không được thực hiện bởi những con người cụ thể trong ngân hàng, trực tiếp là các CBTD. Để phát huy nhân tố con người thì trước tiên cần phải có những CBTD thực sự giỏi về chuyên môn, có tầm hiểu biết rộng, có đạo đức, tinh thần trách nhiệm cao sau đó là phải có những biện pháp thích hợp nhằm phát huy được năng lực của những cán bộ đó. Muốn vậy, với NHCT Hai Bà Trưng trong thời gian tới cần tiến hành những biện pháp đồng bộ sau:
a.Nâng cao trách nhiệm, thưởng phạt nghiêm minh đối với cán bộ tín dụng.
Cán bộ tín dụng là những người thực tế thẩm định và đề xuất cho vay khách hàng, là người chịu trách nhiệm chính đối với khoản tín dụng bị rủi ro. Do vậy phải nâng cao trách nhiệm của CBTD, có chế độ thưởng phạt nghiêm minh.
Ngoài ra, chi nhánh cần có chế độ khen thưởng xứng đáng với những cán bộ có thành tích xuất sắc trong hoạt động tín dụng. Đây là một việc làm quan trọng nhằm giải quyết tình trạng cán bộ tín dụng “ngại” cho vay. Do yếu tố tâm lý, CBTD cho rằng nếu cho vay thu nợ đầy đủ hàng trăm tỷ cũng không được khen thưởng, không được tăng lương, nhưng chỉ cần một khoản vay phát sinh quá hạn là bị coi là yếu kém, bị xử lý...Do vậy CBTD chỉ cần hoạt động cầm chừng.
b. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ:
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường đầy biến động, sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuậtngày nay đòi hỏi việc trang bị thêm những kiến thức mới, cập nhật thông tin phải được tiến hành hàng ngày, hàng giờ để theo kịp những thay đổi đó,đặc biệt với hoạt động ngân hàng là hoạt động có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội. Để đáp ứng yêu cầu đó, về phía NHCT Hai Bà Trưng nên thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn; các cơ chế thể lệ chính sách của ngành, liên ngành; chủ trương của Đảng, Nhà nước và địa phương. Trong quá trình bồi dưỡng, tập huấn phải gắn lý luận với thực tiễn để các CBTD có thể vận dụng kiến thức một cách linh hoạt, sáng tạo trong thực tế. Bêncạnh đó phải thường xuyên chấn chỉnh về đạo đức, tác phong nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm, kỷ luật lao động nhất là về văn minh thương mại trong giao tiếp với khách hàng. Tất cả những biện pháp đó đều nhằm một mục đích duy nhất là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực góp phần nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung dài hạn nói riêng của NHCT Hai Bà Trưng.
3.3. Một vài kiến nghị.
Như trong chương hai đã phân tích, trong số các nguyên nhân gây ra những mặt hạn chế trong hoạt động tín dụng trung dài hạn của NHCT Hai Bà Trưng có những nguyên nhân thuộc về phía các cơ quan quản lý vĩ mô mà trực tiếp là Nhà nước, NHNN, NHCT VN. Mặt khác, trong số những gái pháp đưa ra trên đây có những giáp pháp chỉ có thể thực hiện và phát huy được hiệu quả khi có sự giúp đỡ, hỗ trợ từ phía các cơ quan này. Những kiến nghị đưa ra sau đây đều nhằm giải quyết hai vấn đề đó.
3.3.1. Đối với nhà nước.
a.Tạo môi trường pháp lý đầy đủ hơn cho hoạt động TDNH.
Hệ thống pháp luật nước ta hiện nay chưa đồng bộ, tính ổn định chưa cao. Trong điều kiện nước ta đang chuyển sang cơ chế thi trường, nhiều vấn đề cơ bản của cơ chế thị trường chưa được nghiên cứu kỹ. Do những tác động cả chủ quan và khách quan mà hệ thống pháp luật nước ta chưa đồng bộ, chưa thực sự là cán cân công lý trong kinh doanh. Trong điều kiện đó,phương pháp tốt nhất để hoàn thiện pháp luật kinh tế là cần tiến hành hai công việc; vừa xây dựng các văn bản pháp quy về kinh tế, vừa nghiên cứu để ban hành bộ luật mới nhằm thống nhất các quy định pháp luật trong văn bản luật kinh tế.
Trong thời gian qua, Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản luật cần thiết để chỉnh các quan hệ như: Luật doanh nghiệp, Luật thuế, pháp lệnh chuyển giao công nghệ, hợp đồng kinh tế.
Trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với tổ chức kinh tế sự cảnh giác vẫn là một nhân tố quan trọng, đồng thời với việc phát triển hoạt động ngân hàng cũng phải có thêm các biện pháp mới để Luật ngân hàng hoàn thiện hơn. Do đó nhà nước nên sửa và bổ sung một số luật như: Luật đầu tư trong nước, Luật doanh nghiệp, Luật thế chấp phát mại tài sản... phục vụ cho hoạt động tín dụng ngân hàng cũng như thị trường vốn.Như vậy đứng trên giác độ ngân hàng các nhân tố trên sẽ làm giảm bớt rủi ro, nâng cao tính sẵn sàng đầu tư của ngân hàng. Những nhân tố đó giúp cho ngân hàng mạnh dạn mở rộng quan hệ tín dụng với mọi thành phần kinh tế.
b. Tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động và vay vốn ngân hàng.
Để khuyến khích các doanh nghiệp, các nhà đầu tư mạnh dạn bỏ vốn vào phát triển sản xuất trước tiên Nhà nước cần phải tạo lập được một hệ thống cơ sở pháp lý , cơ chế, chính sách ổn định và hợp lý. Mọi quyết định mà Chính phủ đưa ra đều phải cân nhắc kỹ càng, tránh tình trạng đưa ra một quyết định mới một cách vội vàng rồi lại điều chỉnh, sửa đổi như cơm bữa khiến cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư hoang mang không biết đường nào mà lần.
Chính phủ cần có thái độ rất khoát trong việc rà soát, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, chỉ giữ lại những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, những doanh nghiệp mà Nhà nước thực sự cần phải lắm giữ để đảm bảo vai trò định hướng kinh tế. Còn lại những doanh nghiệp khác có thể xử lý bằng cách giải thể, sáp nhập hoặc cổ phần hoá nhằm tăng vốn, tăng năng lực sản xuất kinh doanh. Với những doanh nghiệp giữ lại Nhà nước cần cung cấp đủ vốn theo điều lệ đã được duyệt nhằm tạo ddiều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động và vay vốn ngân hàng.
Kiểm soát nghiêm ngặt các luồng hàng từ bên ngoài đưa vào để ngăn chặn hàng nhập lậu. Đây là một trong những vấn đề nhức nhối nhất mà các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang phải đối mặt.
Có chính sách khuyết khích các doanh nghiệp có phương án đổi mới trang thiết bị, công nghệ hiện đại để nâng cao chất lượng sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu hoặc có thể xuất khẩu, thông qua nguồn cho vay ưu đãi, tạo thuận lợ về mặt thủ tục xuất nhập khẩu.
c.Nhà nước cần có sự theo dõi, chỉ đạo sát sao các cấp chính quyền trong việc bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt động của các NHTM.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh,có không ít các dự án vay vốn mặc dù NHCT Hai Bà Trưng thấy không đủ điều kiện cho vay nhưng dưới sức ép của chính quyền địa phương nên không thể từ chối. Rất nhiều dự án kiểu như vậy đã dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Để bảo đảm sự lành mạnh thực sự cho hoạt động của cá ngân hàng, trong thời gian tới Chính phủ cần lưu tâm hơn đến vấn đề này.
d. Thành lập cơ quan chuyên trách về xếp hạng tín nhiệm.
Cơ quan này sẽ có trách nhiệm thu thập, xử lý, phân tích thông tin về tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có dăng ký để tiến hành đánh giá, xếp hạng tín nhiệm đối với doanh nghiệp đó. Trên cơ sở bảng xếp hạng của tổ chức này, các NHTM sẽ thamkhảo để có được những đánh giá chính xác về doanh nghiệp vay vốn. Để đảm bảo hiệu quả hoạt động của tổ chức này, Chính phủ có thể bắt buộc chỉ những doanh nghiệp nào có đăng ký tại cơ quan xếp hạng tín nhiệm mới được ngân hàng xem xét cho vay vốn. Bằng cách làm này, các doanh nghiệp sẽ phải tự giác tham gia đăng ký xếp hạng để có được giấy chứng nhận nếu muốn vay vốn ngân hàng. Ngoài tác dụng giúp đỡ ngân hàng trong việc thẩm định khách hàng, hoạt động của tổ chức này còn tạo động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tự hoàn thiện, nâng cao năng lực tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh, uy tín của mình để có được vị trí xếp hạng cao. Đó cũng là một cách để tạo môi trường đầu tư thuận lợi thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài.
3.3.2. Đối với ngân hàng nhà nước.
Ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện các quy định, quy chế và môi trường pháp lý của hoạt động tín dụng cụ thể:
a.Sớm hoàn thiện đề án: thành lập công ty mua bán nợ, khai thác tài sản đảm bảo để giải quyết nợ tồn đọng của các ngân hàng trong tài sản đảm bảo vay vốn ngân hàng
b.Loại bỏ mức lãi xuất trần cho vay tín dụng
Thực hiện điều hành chính sách tiền tệ theo lãi suất cơ bản vì với áp lực hạ trần lãi xuất liên tục gây ra khó khăn lớn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Đầu năm 2000 mặc dù trong thị trường tiền tệ tín dụng vẫn đang có trần lãi xuất do NHNN quản lý, nhưng những lãi xuất thực trên thị trường đã cơ bản thoát ly lãi suất “trần” này theo hướng thấp hơn ở mức ngày càng báo động đối với hiệu quả tài chính của các NHTM. Các NHTM không thể hạ thấp lãi xuất đầu ra với tốc độ lớn hơn tốc đọ hạ lãi xuất tiền gửi đầu vào. Mặt khác do cạnh tranh tín dụng ở đàu ra nên buộc các ngân hàng phải giảm lãi xuất để tìm kiếm khách hàng vay và mặc nhiên các NHTM phải chạy đua giảm trần lãi suất từ trần lãi suất quản lý của nhà nước. Trên ý nghĩa đó trần lãi suất trở thành một hình ảnh mang tính lịch sử và danh nghĩa.
c. Bảo đảm thông tin chính xác, kịp thời, đầy đủ cho các NHTM.
Thông tin ở đây bao gồm hai loại: thứ nhất là thông tin về doanh nghiệp; thứ hai là những thông tin có tính chất định hướng cho hợt động của NHTM. Những thông tin về doanh nghiệp sẽ được thu thập và cung cấp qua trung tâm thông tin tín dụng của NHNN(CIC), bao gồm thông tin về khả năng tài chính, hiệu quả kinh doanh,hệ số an toàn vốn, quan hệ tín dụng của khách hàng với các NHTM, với các doanh nghiệp khác. Đây sẽ là căn cứ đáng tin cậy để các NHTM sử dụng trong quá trình thẩm định khách hàng.
Cùng với thông tin về doanh nghiệp, NHNN còn phải lắm vững để cung cấp cho các NHTM những thông tin về phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế của đất nước, của từng vùng, từng khu vực trong từng thời kỳ; tư vấn cho NHTM về những lĩnh vực, những ngành mũi nhọn cần tập trung đầu tư vốn tín dụng nhằm góp phần thực hiện những chủ trương, đường lối phát triển chung đòng thời phát huy hiệu quả đồng vốn, bảo đảm an toàn tín dụng cho NHTM.
d. NHNN cần tăng thêm quyền tự chủ cho các NHTM, chi nhánh NHTM.
Sự quản lý của NHNN chỉ nên dừng lại ở những vấn đề vĩ mô, những vấn đề chung nhất mang tính định hướng chứ không nên đưa ra những quy định quá cụ thể, chi tiết liên quan đến những vấn đề mang tính đặc thù riêng của mỗi ngân hàng, bởi lẽ điều kiện hoạt đọng của các NHTM không giống nhau, nếu đưa ra những quy định cụ thể áp dụng chung cho mọi ngân hàng thì sẽ gây khó khăn cho các ngân hàng trong việc thích ứng với môi trường kinh doanh cụ thể của mình. Đơn cử như quy định về vốn tự có tối thiểu của các doanh nghiệp tham gia vào dự án, trên thực tế có rất nhiều doanh nghiệp có phương án kinh doanh rất tốt, có đủ tài sản thế chấp nhưng không đủ vốn tự có tham gia dự án như yêu cầu nên không được vay vốn, rõ ràng trong trường hợp này ngân hàng đã mất đi một khách hàng đầy tiềm năng. Quy định về tỷ lệ vốn tối thiểu của doanh nghiệp tham gia dự án là nhằm ràng buộc, nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp đối với việc thực hiện dự án. Nhưng điều này thực sự có cần thiết hay không bởi lẽ khi doanh nghiệp đã sẵn sàng thế chấp toàn bộ tài sản của mình để vay vốn thì đương nhiên họ phải có trách nhiệm với khoản vay nếu như không muốn bị xiết nợ bằng tài sản thế chấp. Hay như quy định về một TSTC chỉ được thế chấp tại một ngân hàng cũng có chỗ không ổn. Nếu một doanh nghiệp có TSTC có giá trị lớn hơn nhiều lần khoản vốn vay nhưng do ngân hàng hiện đang nhận thế chấp không muốn cho doanh nghiệp vay nữa thì doanh nghiệp đó cũng đành chịu không thể vay vốn ở ngân hàng khác. Đưa một vài ví dụ như vậy là để muốn nói rằng vai trò quản lý vĩ mô của NHNN là cần thiết song ở một mức đọ nhất định cần đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh cho các NHTM để họ phát huy sự sáng tạo, linh hoạt nhằm thích ứng với môi trường kinh doanh.
3.3.3.Đối với ngân hàng công thương VN
a.Tăng cường công tác thông tin cho các chi nhánh trong hệ thống NHCT
Từ tháng 9/1997 NHCTVN đã triển khai áp dụng chương trình phần mềm “Thông tin phòng ngừa rủi ro”. Sau hai năm chương trình đã vạn hành tương đối tốt, nên chăng trong thời gian tới một mặt phát huy những mặt tích cực đạt được, mặt khác nên phát triển nghiệp vụ lên một bước cao hơn nữa. Bên cạnh những thông tin về doanh nghiệp, NHCTVN cần cung cấp thêm cho các chi nhánh về những thông tin hoạt động của nghành như: lợi nhuận bình quân, những tiến bộ khoa học công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng, chủ trương chính sách quảnlý vĩ mô của Nhà nước, các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội, tình hình hoạt đọng của các ngân hàng khác trong và ngoài hệ thống.
Hỗ trợ các chi nhánh trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại chỗ; mời các chuyên gia, những người có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vựcTDNH để tổ chức các buổi nói chuyện, trao đổi, học tập nhằm nâng cao hơn kiến thức chuyên môn cũng như kinh nghiệm cho các CBTD. NHCTVN cũng có thể hỗ trợ kinh phí, cử cán bộ đi học ở các trường đại học, các trung tâm nghiên cứu kinh tế, khoa học trong và ngoài nước. Cung cấp đầy đủ các tư liệu, văn bản quy phạm pháp luật, quy chế, hướng dẫn về nghiệp vụ chuyên môn và các quy định khác có liên quan của Chính phủ, NHNN, NHCT để CBTD tự tham khảo và nghiên cứu.
b.Có chính sách khuyến khích các chi nhánh NHCT mở rộng, đa dạng hoá hình thức cho vay trung dài hạn.
Trong thời gian qua hoạt động cho vay nói chung và cho vay trung dài hạn nói riêng của các chi nhánh được NHCTVN quản lý khá chặt chẽ. Các khoản cho vay của các chi nhánh đều phải thực hiện qua NHCTVN. Ngoài hình thức cho vay theo dự án đầu tư, các hình thức cho vay khác đều phải có sự xem xét chỉ đạo củaTổng giám đốc NHCTVN thì mới được thực hiện. Các chi nhánh cũng dược chỉ đạo không được cho vay với các DNNQD nếu không có tài sản thế chấp. Những quy định này là nhằm đảm bảo an toàn cho chi nhánh song chúng cũng phần nào hạn chế khả năng mở rộng cho vay của NHCT Hai Bà Trưng nói riêng và của các chi nhánh NHCT nói chung. Để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các chi nhánh NHCT trong việc mở rộng cho vay trung dài hạn, NHCTVN nên khuyến khích các chi nhánh thực hiện các hình thức cho vay mới như cho vay trả góp, cho vay hợp vốn, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng.
Kết luận.
Trong xu thế phát triển của nền kinh tế, việc đổi mới, nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng trung dài hạn nói riêng là yêu cầu cấp bách không chỉ của NHCT Hai Bà Trưng mà cuả tất cả các NHTMVN hiện nay, nhằm hội nhập vào cái xu thế chung đó. Với tinh thần mong muốn đóng góp vốn kiến thức nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại NHCT Hai Bà Trưng, trong luận văn này em đã đề cập đến những nội dung chính sau:
*Đưa ra một quan điểm khác về chất lượng tín dụng ngân hàng, phân tích các chỉ tiêu đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung dài hạn để lấy đó làm tham chiếu phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng trung dài hạn tại NHCT Hai Bà Trưng.
*Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng trung dài hạn tại NHCT Hai Bà Trưng qua ba năm 98,99,2000. Thấy được những mặt tích cực cần tiếp tục phát huy đồng thời nhìn nhận một cách khách quan những điểm hạn chế và nguyên nhân của chúng để đưa ra giải pháp khắc phục.
*Nêu lên một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng trung dài hạn của NHCT Hai Bà Trưng trong thời gian tới.
Tuy nhiên đây cũng chỉ là những giải pháp sơ lược, mang tính lý thuyết và được đưa ra dưới góc độ nghiên cứu cá nhân. Mặt khác, do năng lực và hiểu biết còn hạn chế nên luận văn này không tránh khỏi những sai sót.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của thầy hướng dẫn và các cán bộ tín dụng phòng kinh doanh, Ngân hàng Công Thương Hai Bà Trưng.
Danh mục tài liệu tham khảo.
*Nghiệp vụ ngân hàng thương mại- Lê Văn Tề ( NXB Thành phố Hồ Chí Minh).
*Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính-Frederic S. Minskin (NXB Khoa học và Kỹ thuật).
*Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại- David Cox (NXB Chính trị quốc gia).
*Giáo trình tài chính doanh nghiệp- ĐHKTQD (NXB Giáo dục).
*Tạp chí ngân hàng.
*Thời báo ngân hàng.
*Nghị định 178/CP ngày 29 tháng12 năm 1999 về việc đảm bảo tiền vay của tổ chức tín dụng.
*Quy chế cho vay do NHNN ban hành (Quyết định 324/1998).
*Luật NHNN,luật các TCTD.
*Phụ lục:
Bảng{1,2] – Trang 2 Báo cáo tổng kết hoạt động NHCT HBT các năm
98, 99, 2000.
Bảng{2,2}- Trang2 Báo cáo tổng kết hoạt động NHCT HBT các năm 98,99, 2000.
Bảng{3,2}- Trang2 Báo cáo tổng kết hoạt động NHCT HBT các năm 98, 99, 2000.
Bảng{4,2}- Trang 2 Báo cáo tổng kết hoạt động NHCT HBT các năm 98,99, 2000.
Bảng{5,2}- Trang 2 Báo cáo tổng kết hoạt động NHCT HBT các năm 98, 99, 2000.
Bảng {6,2}- Trang 2 Báo cáo tổng kết hoạt động NHCT HBT các năm 98,99,2000.
Bảng{7,2}- Trang2 Báo cáo tổng kết hoạt động NHCT HBT các năm 98,99,2000.
Bảng[8,2}- Trang 2 Báo cáo tổng kết hoạt động NHCT HBT các năm 98,99,2000.
Bảng{9,2}- Trang 2 Báo cáo tổng kết hoạt động NHCT HBT các năm 98,99,2000.
Bảng [10,2}- Trang 2 Báo cáo tổng kết hoạt động NHCT HBT các năm 98,99,2000.
Bảng ký hiệu viết tắt.
CNH,HĐH: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
NHTM: Ngân hàng thương mại.
NHCT: Ngân hàng công thương.
NHCT HBT: Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng.
NHCT VN: Ngân hàng công thương Việt Nam.
NHNN: Ngân hàng nhà nước.
TCTD: Tổ chức tín dụng.
TDH: Trung dài hạn.
TDNH: Tín dụng ngân hàng.
NHTƯ: Ngân hàng Trung Ương.
NHTMQD: Ngân hàng thương mại Quốc doanh.
CBTD: Cán bộ tín dụng.
DNNQD: Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh.
DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước.
TCKT: Tổ chức kinh tế.
TSCĐ: Tài sản cố định.
DN: Dư nợ.
LN: Lợi nhuận.
DNTDH Dư nợ trung dài hạn.
DS: Doanh số
QD: Quốc doanh.
NQH: Nợ quá hạn.
NQH TDH: Nợ quá hạn trung dài hạn.
XDCB: Xây dựng cơ bản.
TSTC: Tài sản tự có.
GTCL: Giá trị còn lại.
Mục lục.
Lời nói đầu.
Chương1. Một số vấn đề chung về hoạt động tín dụng của NHTM. 1
1.1.Ngân hàng thương mại và hoạt động của NHTM trong nền kinh tế thị trường. 1
1.1.1.Khái niệm và chức năng của NHTM. 1
1.1.2. Hoạt động chủ yếu của một NHTM. 2
1.2. Tín dụng trung dài hạn của NHTM. 4
1.2.1.Khái niệm và vai trò của TDNH trung và dài hạn. 4
1.2.2.Một số đặc trưng của TDNH trung và dài hạn. 5
1.2.3. Chất lượng TDNH trung và dài hạn- khái niệm và các chỉ tiêu đánh giá. 8
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn của NHTM. 9
Chương 2. Thực trạng chất lượng tín dụng trung dài hạn của NHCT Hai Bà Trưng. 24
2.1.Sơ lược về lịch sử hình thành, phát triển và hoạt động kinh doanh của NHCT Hai Bà Trưng. 24
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển. 24
2.1.2. Các hoạt động cơ bản của NHCT Hai Bà Trưng. 26
2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng trung dài hạn tại NHCT Hai Bà Trưng. 34
2.2.1. Nguồn vốn cho vay trung dài hạn của NHCT Hai Bà Trưng. 34
2.2.2. Tình hình cho vay và thu nợ. 36
2.2.3. Một số chỉ tiêu khác đánh giá chất lượng tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng 43
2.2.4. Đánh giá về chất lượng tín dụng trung dài hạn của NHCT Hai Bà Trưng. 46
Chương 3. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại NHCT Hai Bà Trưng. 54
3.1. Định hướng chủ yếu cho hoạt động tín dụng trung dài hạn của NHCT Hai Bà Trưng thời gian tới. 54
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại NHCT Hai Bà Trưng. 55
3.2.1. Giải pháp về nguồn vốn. 55
3.2.2. Đẩy mạnh hoạt động Marketing ngân hàng. 56
3.2.3. Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp NQD. 63
3.2.4. Nâng cao hiệu quả công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng. 67
3.2.5. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các khoản vay; hợp tác chặt chẽ với khách hàng để giải quyết khoa học số nợ quá hạn. 70
3.2.6. Vấn đề nhân sự. 71
3.3. Một số kiến nghị. 72
3.3.1. Những kiến nghị đối với nhà nước 72
3.3.2. Những kiến nghị đối với NHNN. 74
3.3.3. Những kiến nghị đối với NHCT VN. 76
Kết luận 78
Tài liệu tham khảo 79
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0017.doc