Trong tình hình hiện nay khi Nhà nước ta đang cố gắng sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng nhằm phát triển kinh tế- xã hội đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước thì vấn đề kiểm tra, kiểm soát trong vấn đề sử dụng NSNN là điều hết sức cần thiết và cấp bách nhằm ngăn chặn biểu hiện tiêu cực, tham ô, tham nhũng, lãng phí tiền của của Nhà nước, do đó phải kiểm soát từng khoản chi tiêu của đơn vị là rất cần thiết. KBNN phải nỗ lực hơn phát huy hết vai trò, vị trí, chức năng của mình mà Chính phủ, bộ tài chính đã tin tưởng giao phó.
Song do công tác kiểm soát chi NSNN qua KBNN không phải chỉ do ngành KBNN thực hiện mà còn liên quan đến nhiều Bộ, ngành, các cấp chính quyền và các đơn vị thụ hưởng NSNN cùng thực hiện. Vì vậy mỗi đơn vị sử dụng kinh phí NSNN phải có ý thức tự giác, năng động, sáng tạo, tìm mọi biện pháp để góp phần hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN, đảm bảo mọi khoản chi NSNN phải tiết kiệm, chi đúng mục đích, đạt hiệu quả cao.
Với luận văn “ Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát chi NSNN tại KBNN Hoàn Kiếm” Đây là một chuyên đề đã làm rõ hơn sự cần thiết của công tác kiểm soát chi NSNN qua KBNN, đánh giá một khách quan thực trạng kiểm soát chi NSNN qua KBNN Hoàn Kiếm và đưa ra một số giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua KBNN.
73 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1659 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát chi NSNN tại KBNN Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khoản chi này còn có nhiều điều kiện để các đơn vị thụ hưởng NSNN có thể lách luật; thủ tục hoàn thành đề nghị chi còn phức tạp nên các đơn vị hay có tình trạng đối phó để nhanh chóng được thanh toán; số tiền thanh toán cho các mục chi này thường lớn là mục tiêu cho các đơn vị chi sai mà nhiều khi KBNN không thể kiểm soát được hết.
Về hồ sơ chứng từ thanh toán:
Một số đơn vị không hoàn thành đủ số hồ sơ cần thiết, hoặc không kê khai đầy đủ để được thanh toán tại KBNN buộc KBNN phải hướng dẫn cụ thể về thủ tục mới tiến hành cấp phát được, điều này làm ảnh hưởng đến hoạt động của các đơn vị. Ví dụ như khoản mua sắm trong hợp đồng nếu không ghi rõ nguồn gốc xuất xứ của nguồn hàng thì cán bộ kiểm soát không thanh toán, vì theo qui định chỉ khi mua hàng hoá đã có sản xuất trong nước hoặc mua hàng xuất khẩu mà trong nước không sản xuất được hoặc được sự cho phép của cơ quan chủ quản thì mới được thanh toán, ngoài ra thì không thanh toán mua sắm nhập ngoại khác.
Đối với các tài sản giá trị từ 200 triệu đồng trở lên thì phải có chào hàng (đấu thầu), trong khi nhiều đơn vị lại không thực hiện đúng, muốn được thanh toán qua KBNN, đơn vị đã tách ra thành nhiều khoản chi nhằm lách qui định, tránh thủ tục đấu thầu tốn kém và mất nhiều thời gian.
Một số đơn vị làm đầy đủ thủ tục để được thanh toán các khoản chi mua sắm nào đó, trong khi đó tại đơn vị thì lại dùng vào mục đích khác. Hiện nay chưa có văn bản nào qui định trách nhiệm cho KBNN được quyền kiểm tra số thiết bị, máy móc mua về có xác thực theo hoá đơn đề nghị thanh toán hay không, do vậy, việc chi tiêu này có hiệu quả và đúng đắn hay không thì phụ thuộc khá nhiều vào sự tự giác và nghiêm chỉnh của cán bộ đơn vị mà đứng đầu là người chuẩn chi. Vấn đề này cần được xem xét trong quá trình thanh tra tài chính làm việc tại các đơn vị nhằm hỗ trợ thêm cho công tác kiểm soát chi tại KBNN.
Thời gian gần đây, các khoản chi được thực hiện ngày càng chặt chẽ hơn. Chính nhờ sự cố gắng phấn đấu thực hiện nghiêm chỉnh của KBNN Hoàn Kiếm cùng với sự phối hợp của cơ quan tài chính, cơ quan đơn vị có liên quan nên đã tạo ra kết quả như trên, đồng thời còn nâng cao ý thức chấp hành luật NSNN và tinh thần trách nhiệm của các đơn vị thụ hưởng NSNN.
2.2.2.3 Kiểm soát chi sửa chữa và xây dựng nhỏ.
ò Đối tượng kiểm soát bao gồm các khoản chi sửa chữa thường xuyên (mục 117) và các khoản chi sửa chữa lớn (mục 118) như sửa chữa tài sản cố định, cải tạo xây dựng nhỏ, chi mua trang thiết bị kỹ thuật chuyên dụng, máy vi tính, thiết bị phòng cháy, chữa cháy, công trình văn hoá, công viên, thể thao, các công trình cơ sở hạ tầng, giao thông, thuỷ lợi.
ò Bảng 7 : Tình hình kiểm soát chi sửa chữa và xây dựng nhỏ.
(2003, 2004, 2005)
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2004/2003
2005/2004
Tổng cộng
37.202
39.757
45.822
1.06
1.15
SC và XD thường xuyên
11.002
12.232
14.888
111.1%
121.7%
Tỷ trọng
29.5%
30.7%
32.5%
SC lớn TSCĐ
26.200
27.525
30.934
105.05%
112.38%
Tỷ trọng
70.5%
69.3%
67.5%
Nguồn : Báo cáo tình hình hoạt động của Kho bạc Hoàn Kiếm năm 2003,2004,2005
Việc kiểm soát chi sửa chữa và xây dựng đã được tiến hành như sau:
Đối với giai đoạn kiểm soát trước khi chi KBNN Hoàn Kiếm đã tiến hành kiểm soát dự toán năm, quý được duyệt, thiết kế dự toán được phê duyệt, các hồ sơ đấu thầu ( với công trình hạn mục từ 500 triệu đồng trở lên), các hợp đồng kinh tế giữa đơn vị sử dụng và đơn vị thi công làm căn cứ xác thực cho việc thực hiện thi công.
Riêng đối với các khoản sửa chữa xây dựng nhỏ này, KBNN Hoàn Kiếm đặc biệt quan tâm đến tiến độ công trình thi công của đơn vị để kiểm soát trong quá trình chi. Các đơn vị muốn được cấp tiếp tục thanh toán cho giai đoạn thi công sau thì phải cung cấp đầy đủ các giấy tờ, hồ sơ liên quan đến giai đoạn thi công trước, phải đảm bảo đơn vị đã chi đúng với chứng từ đề nghị thanh toán là cơ sở để KBNN tiếp tục cấp vốn cho đơn vị trong hạn mức đã duyệt. Đây là một mục chi thể hiện rõ nhất tính chất của việc kiểm soát trong khi chi NSNN tại KBNN Hoàn Kiếm.
ò Bảng 8 : Tình hình từ chối thanh toán chi sửa chữa, xây dựng nhỏ qua KBNN Hoàn Kiếm (2003, 2004, 2005)
Diễn giải
2003
2004
2005
Đơn vị sai qui định
9
9
7
Số món
8
7
5
Số tiền
201 triệu
150 triệu
93 triệu
Nguồn : Báo cáo tình hình hoạt động của Kho bạc Hoàn Kiếm năm 2003,2004,2005
Bảng trên cho thấy tuy số lượng các đơn vị còn làm sai qui định hoặc thiếu chính xác trong thủ tục thanh toán còn tương đối nhiều, số tiền không được thanh toán qua KBNN không phải là nhỏ nhưng con số này đang giảm dần theo hướng tích cực.
Năm 2004 giảm 25.37% (150 triệu so với 201 triệu, chiếm 74.63%), năm 2005 giảm 38% (từ 93 triệu so với 150 triệu, chiếm 62%). Đây là một dấu hiệu tốt, một phần đánh giá cao công tác kiểm soát chi chặt chẽ của cán bộ KBNN Hoàn Kiếm. Mặt khác cho thấy ý thức trách nhiệm của các đơn vị trong việc thất thoát vốn của NSNN,
Qua quá trình kiểm soát cho thấy một số mặt tồn tại sau:
Trong một số trường hợp vốn đến chậm nên các đơn vị tạm thời ứng nguồn khác để chi sửa chữa, nên gây ra hiện tượng quyết toán theo quý không khớp. Cũng chính vì hiện tượng cấp vốn chậm còn gây ra thực trạng các đơn vị tiến hành sửa chữa qua loa trong thời gian ngắn để có thể rút tiền cuối năm cho đơn vị, làm lãng khí nguồn vốn NSNN.
Về thủ tục chứng từ thanh toán.
Một số đơn vị chưa thực hiện việc đấu thầu theo đúng qui định của Chính phủ từ tháng 6/2000 đối với các khoản chi mua sắm thiết bị có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên, một thủ tục rất quan trọng khẳng định đơn vị đã chi đúng hồ sơ tránh trường hợp chi sai, chính điều này đã khiến cho việc thanh toán các khoản chi này qua KB bị chậm trễ. Tuy vậy, công tác kiểm soát các khoản chi sửa chữa và xây dựng nhỏ tại KBNN Hoàn Kiếm thời gian gần đây đã có những tác dụng đáng kể. Cùng phối hợp với các cấp, các ngành cơ quan tài chính, KBNN Hoàn Kiếm đã vừa cố gắng thực hiện, vừa hoàn thiện qui trình kiểm soát các khoản chi này, kết quả là giảm dần hiện tượng chạy vốn cuối năm. Do vậy công việc được đảm bảo thực hiện đúng tiến độ.
2.2.2.3 Kiểm soát chi các khoản thông tin, liên lạc, hội nghị, công tác phí, chi nghiệp vụ chuyên môn và chi khác.
ò Đối tượng kiểm soát bao gồm:
Mục 110: Vật tư, văn phòng.
Mục 111: Thông tin, tuyên truyền, liên lạc.
Mục 112: Hội nghị.
Mục 113: Công tác phí.
Mục 119: Chi phí nghiệp vụ chuyên môn của từng ngành.
Mục 128: Các khoản chi khác.
ò Bảng 9 : Tình hình kiểm soát các khoản chi thường xuyên.
( 2003, 2004, 2005)
Đơn vị: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2004/2003
2005/2004
T/t dịch vụ
8.052
8.596
8.691
106.7%
101.105%
T/t liên lạc
18.792
19.252
22.483
102.45%
116.78%
Hội nghị
13.984
14.821
15.082
105.98%
101.76%
Công tác phí
10.725
11.250
13.640
104.89%
121.2%
N/v c. môn
213.810
238.121
250.206
111.3%
105.07%
Chi TX khác
58.752
59.227
60.201
100.8%
101.6%
Tổng
324.115
351267
370303
108.37%
105.4%
Nguồn : Báo cáo tình hình hoạt động của Kho bạc Hoàn Kiếm năm 2003,2004,2005.
Nhìn vào bảng 9 ta thấy NSNN dành cho các khoản chi thường xuyên thường chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng chi NSNN. Do nhu cầu ngày càng tăng về thông tin liên lạc và điện nước, ngoài ra Hoàn Kiếm là một quận trung tâm của Thủ đô, là bộ mặt của cả đất nước nên nhu cầu về thông tin, liên lạc và hội nghị, công tác phí… luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng chi NSNN.
ò Tuy nhiên thông qua công tác kiểm soát các khoản chi thường xuyên này cho thấy:
- Phần lớn còn một số các đơn vị tồn tại tình trạng sử dụng lãng phí các khoản chi trên, hầu như không đúng định mức, tiêu chuẩn, sử dụng không đúng mục đích, công- tư lẫn lộn gây thất thoát và lãng phí NSNN. Khi đơn vị muốn được chi trả thì thường đối phó bằng nhiều phương pháp làm sai lệch thực tế khiến cho KBNN không thể kiểm soát được, gây khó khăn cho cả cơ quan tài chính và chính quyền địa phương trong việc nắm rõ tình hình chi tiêu thực tế tại các đơn vị.
Có một số đơn vị phản ánh một số định mức tiêu chuẩn không sát thực tế, khó áp dụng: ví dụ như hạn mức kinh phí của chi hội nghị thường rất thấp so với thực tế cần chi ( mức bình quân cho một đại biểu dự hội nghị cấp quận, huyện là 10.000 đồng, cấp thành phố là 20.000 đồng, cấp TW là 30.000 đồng) khiến cho đơn vị khó khăn trong công tác hoặc nếu để vẫn có thể chi hội nghị như thực tế thì đơn vị vẫn lập chứng từ như qui định nhưng tách hội nghị thành nhiều cuộc họp hoặc lấy mục chi này bù cho mục khác làm sai lệch thực tế. Việc này hình thành nên nề nếp chi tiêu lãng phí vốn NSNN, đôi khi còn có tình trạng lợi dụng hội nghị để rút ruột NSNN những cách chi tiêu này sẽ làm giảm ý nghĩa của mục lục NSNN, hiệu lực của chế độ định mức, kỷ cương tài chính của đất nước.
Về chi công tác phí: Đơn vị muốn được cấp tiền công tác phí thì cần phải có chứng nhận đi công tác trong khi ở đơn vị cán bộ khi đi công tác về mới có giấy, lại phải thường xuyên đi công tác dài ngày cần kinh phí lớn muốn được cấp tạm ứng thì lại khó khăn cho cán bộ thanh toán vì phải linh hoạt cấp tạm ứng cho các khoản chi này. Hiện nay cán bộ kiểm soát đang xin ý kiến của cấp trên để có thể giới hạn về số tiền có thể cấp tạm ứng khi không có giấy chứng nhận trên.
2.2.3.5 Kiểm soát thanh toán vốn đầu tư, xây dựng cơ bản.
ò Đối tượng kiểm soát tiểu nhóm 27 chi đầu tư xây dựng cơ bản gồm:
Mục 147: Chi xây lắp.
Mục 148: Chi thiết bị.
Mục 149: Chi phí khác.
Mục 150: Chi qui hoạch
ò Qui trình kiểm soát tại KBNN Hoàn Kiếm.
Giám đốc
KBNN
Chủ đầu tư
Đơn vị
thụ hưởng
Bộ phận kế toán
(2) (4)
Bộ phận TT VĐT
(3)
(1) (5)
Chủ đầu tư gửi hồ sơ đến bộ phận thanh toán.
Báo cáo giám đốc và trình ký duyệt hồ sơ thanh toán.
Chuyển chứng từ thanh toán sang bộ phận kế toán.
Kế toán trình ký chứng từ thanh toán.
Làm thủ tục thanh toán cho đơn vị thủ hưởng.
ò Những kết quả đạt được:
Thực hiện Nghị định số 145/1999/NĐ-CP của Chính phủ từ ngày01/01/2000 cơ quan KBNN được giao nhiệm vụ kiểm soát thanh toán, kế toán, quyết toán vốn đầu tư, vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn NSNN các cấp.
Sau 5 năm thực hiện KBNN Hoàn Kiếm với sự cố gắng của đội ngũ cán bộ kiểm soát, công tác kiểm tra thanh toán vốn đầu tư đã nhanh chóng vượt qua những khó khăn ban đầu từng bước ổn định và đạt được một số kết quả đáng khích lệ.
Do nhận thức được việc kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản là một nhiệm vụ rất quan trọng trong nhiệm vụ kiểm soát chi NSNN qua hệ thống KBNN, vì vậy từ khi nhận nhiệm vụ kiểm soát, quản lý đối với vốn đầu tư xây dựng cơ bản và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư xây dựng cơ bản, KBNN Hoàn Kiếm đã đặc biệt quan tâm tới việc thực hiện qui trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư để được thanh toán kịp thời, thuận tiện, chặt chẽ và đúng chế độ.
Hiện nay KBNN Hoàn Kiếm đang quản lý 2 loại hình thức thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản là:
Vốn đầu tư từ NSTW, NSTP được cấp trực tiếp từ Bộ Tài chính, Sở tài chính.
Nguồn vốn xây dựng cơ bản từ ngân sách Quận, ngân sách xã, phường hiện giao cho cơ quan tài chính quản lý, ban quản lý dự án thực hiện.
ò Bảng 10 : Tình hình thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản
( 2003, 2004, 2005)
Đơn vị: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2004/2003
2005/2004
Mục 147
9.365
10.005
11.042
1.068
1.10
Mục 148
10.003
10.985
12.462
1.09
1.13
Mục 149
13.030
15.950
17.687
1.22
1.108
Mục 150
579
612
717
1.056
1.17
Tổng
32977
37552
41908
1.13
1.11
Nguồn : Báo cáo tình hình hoạt động của Kho bạc Hoàn Kiếm năm 2003,2004,2005
Bảng 10 cho thấy nhu cầu chi cho đầu tư xây dựng cơ bản của quận Hoàn Kiếm tăng đều trong các năm cụ thể mục 147- Chi xây lắp năm 2004 tăng gấp 1,068 lần so với năm 2003 còn năm 2005 tăng gấp 1,1 lần so với năm 2005; mục 148- Chi thiết bị năm 2004 tăng gấp 1,09 lần so với năm 2003 còn năm 2005 tăng gấp 1,13 lần so với năm 2005; Mục 149- Chi phí khác năm 2004 tăng gấp 1,22 lần so với năm 2003 còn năm 2005 tăng gấp 1,108 lần so với năm 2005; Mục 150- Chi qui hoạch năm 2004 tăng gấp 1,056 lần so với năm 2003 còn năm 2005 tăng gấp 1,17 lần so với năm 2005; Việc giải ngân nhanh, thông thoáng là việc làm rất cần thiết song trong lĩnh vực quản lý xây dựng cơ bản có rất nhiều vấn đề phức tạp và dễ xảy ra tiêu cực nên phải có thời gian cần thiết để kiểm soát chặt chẽ,ngăn chặn lãng phí, thất thoát vốn.
Thực tế, sau khi thực hiện công tác kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản tại KBNN cho thấy còn số tồn tại một số vướng mắc sau đây:
Về thủ tục thanh toán: có quá nhiều giấy tờ nhiều cơ quan tham gia. Để có một hồ sơ hợp lệ, hợp pháp phải thực hiện nhiều yếu tố thường gây nên tình trạng chủ đầu tư hoàn thành thủ tục, hồ sơ chậm ảnh hưởng đến tiến độ chuyển vốn.
Kế hoạch nguồn vốn ghi cho các dự án thực hiện không đúng tiến độ, phân bổ vốn không đều, có những dự án thiếu vốn nhưng lại có những dự án không triển khai vẫn được ghi vào kế hoạch.
Một số đơn vị chưa chấp hành đúng qui định như chi vượt dự toán được duyệt, áp giá sai định mức, đơn giá ngoài dự toán được duyệt. Do KBNN chỉ thực hiện thanh toán khối lượng hoàn thành trong kế hoạch nên vấn đề trên đã được phát hiện thông qua công tác thẩm định dự án.
Trình độ của các cán bộ kiểm soát thanh toán vốn đầu tư còn hạn chế, đặc biệt là khâu thẩm định dự án do chưa được đào tạo một cách chính quy về nghiệp vụ này mà chỉ chủ yếu là nghiệp vụ thanh toán thông thường. Do đó ảnh hưởng đến thời gian thẩm định cũng như thiếu chính xác gây khó khăn cho chủ đầu tư, ảnh hưởng đến công tác kiểm soát chi.
2.3 Đánh giá về tình hình thực hiện kiểm soát chi NSNN tại KBNN Hoàn Kiếm.
2.3.1 Những thành tựu đạt được.
Đối với NSNN: Nhờ thực hiện nghiêm túc kiểm soát chi qua KBNN Hoàn Kiếm góp phần từng bước đưa việc chi tiêu NSNN vào nề nếp, đúng mục đích, đúng nội dung, đúng đối tượng, tiết kiệm và hiệu quả, vốn NSNN không bị lãng phí như trước, ít bị tồn đọng vốn NSNN trong các đơn vị, đảm bảo thêm nguồn vốn phục vụ những nhiệm vụ chi khác, giảm vay nợ của Nhà nước.
Đối với các đơn vị sử dụng kinh phí NSNN: Thực tế cho thấy, các khoản chi qua KBNN Hoàn Kiếm cực kỳ đa dạng và có khối lượng rất lớn. Tuy nhiên thông qua công tác kiểm soát chi, các đơn vị sử dụng NSNN đã dần dần hiểu rõ trách nhiệm của đơn vị trong việc thực hiện đúng thủ tục và trình tự cấp phát, thanh toán, đảm bảo cung cấp đầy đủ, chính xác hồ sơ, chứng từ chi tiêu, thực hiện kiểm soát chi tiêu trong đơn vị và tiết kiệm chi tiêu trong toàn bộ đơn vị. Từ đó bước đầu đã hướng các đơn vị đi vào nề nếp, tạo điều kiện thuận lợi và an tâm hơn cho KBNN Hoàn Kiếm trong việc kiểm soát chi đã có chuẩn chi của đơn vị sử dụng NSNN
Đối với KBNN Hoàn Kiếm: Cùng với sự biến đổi chung trong công tác chung trong công tác quản lý tài chính, ngành kho bạc nói chung và KBNN Hoàn Kiếm nói riêng đã thực hiện theo luật NSNN có những bước tiến đáng kể trong công tác quản lý thu, chi NSNN
Với doanh số hoạt động bình quân 10.000 tỷ đồng/năm quan hệ giao dịch với hơn 400 đơn vị và trên 700 tài khoản kế toán trong đó:
Các đơn vị dự toán thuộc NSTW 250 đv bằng 300 TK.
Các đơn vị dự toán thuộc NSTP 105 đv bằng 250 TK.
Các đơn vị dự toán thuộc quận, phường 85 đv bằng 120 TK.
Hàng ngày phải xử lý bình quân từ 2000 đến 3000 chứng từ, song cán bộ KBNN Hoàn Kiếm luôn xử lý và hạch toán kịp thời, chính xác, đầy đủ các chứng từ kế toán phát sinh trong ngày, tổng hợp các loại báo cáo thu chi ngân sách nhằm tạo điều kiện cho các cấp lãnh đạo của thành phố và KBNN TW điều hành ngân sách được kịp thời chính xác.
KBNN Hoàn Kiếm đã triển khai kịp thời và chính xác các chế độ tài chính, đảm bảo cập nhật về chế độ cho cán bộ công nhân viên cũng như các đơn vị giao dịch tại kho bạc, góp phần nhanh chóng đưa chính sách của Nhà nước vào phục vụ cho công tác điều hành NSNN trong thực tế.
2.3.2 Một số mặt còn hạn chế.
Bên cạnh những thành công đạt được trong quá trình hoạt động, KBNN Hoàn Kiếm còn gặp phải một số trở ngại nằm ngoài tầm ảnh hưởng của KBNN. Cụ thể là:
Đối với đơn vị sử dụng kinh phí NSNN.
Một số cá nhân, đơn vị không ý thức được vai trò của vấn đề kiểm soát chi NSNN qua KBNN hoặc do bản thân cá nhân, đơn vị đó có nhiều sai sót trong quá trình hoạt động nên có thái độ tránh né hoặc đối phó với việc kiểm soát chi của KBNN, gây khó khăn cho KBNN trong quá trình hoàn thành nhiệm vụ của mình. Thực tế có một số đơn vị sử dụng nguồn kinh phí khác để chi tiêu thường xuyên mà không chịu sự kiểm tra, kiểm soát của KBNN sau đó mới đến KBNN rút tiền mặt để bù đắp các khoản chi tiêu.
Hiện tượng chi sai chế độ, nguyên tắc định mức, tiêu chuẩn tại các đơn vị còn tương đối phổ biến, đặc biệt là các khoản chi như chi hội nghị, công tác phí, thể hiện qua việc đơn vị lập chứng từ gò ép theo qui định, làm sai lệch thực chi để được chuẩn chi. Điều này KBNN khó có thể kiểm soát được mà còn phụ thuộc rất lớn vào thái độ làm việc của đơn vị và sau đó là hệ thống các văn bản quy định của Bộ tài chính cần được sửa đổi cho phù hợp với thực tế. Nếu không mau chóng giải quyết vấn đề này thì tình trạng trên sẽ làm giảm ý nghĩa của các định mức, chế độ chi tiêu của Nhà nước, làm giảm tác dụng của kiểm soát chi NSNN qua KBNN.
Dự toán ban đầu của các đơn vị sử dụng NSNN lập không sát thực tế, chưa thực sự áp dụng các chế độ, tiêu chuẩn, định mức làm căn cứ tính toán, vì vậy dự toán được duyệt không đảm bảo làm căn cứ cấp phát, thanh toán
Các đơn vị sử dụng NSNN trong quá trình lập hệ thống chứng từ có liên quan đến những khoản chi chờ thanh toán thường xuyên không thực hiện đầy đủ, đúng qui định, cán bộ kiểm soát tại kho bạc phải thường xuyên hướng dẫn lại. Điều này làm chậm quá trình cấp phát, thanh toán tại kho bạc mà còn ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của đơn vị.
Đối với KBNN Hoàn Kiếm.
Trên lý thuyết KBNN có trách nhiệm thực hiện kiểm soát trước, trong và sau khi chi nhưng thực tế mới chỉ có việc kiểm soát trước và sau khi chi được thực hiện một cách nghiêm túc. Việc thực hiện kiểm soát chi đúng nội dung như khai báo với kho bạc trong quá trình chi tại đơn vị chưa được phối hợp chặt chẽ với cơ quan tài chính để tiến hành. Mặt khác, các quy định cũng như kinh phí và quỹ thời gian cho việc này chưa được đặt kế hoạch rõ ràng nên việc kiểm tra còn hạn chế, chưa thực sự phát huy tác dụng.
Đối với chế độ, chính sách trong điều hành NSNN của Nhà nước.
Hệ thống các văn bản quy định về chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu do Bộ tài chính và Nhà nước ban hành làm cơ sở để KBNN thực hiện kiểm soát chi còn nhiều bất cập, cần được sửa đổi vì thiếu thực tế, một số chế độ đã lạc hậu. Thực tế cho thấy hệ thống các định mức tiêu chuẩn chi trong khu vực hành chính sự nghiệp chưa được ban hành đầy đủ, thống nhất, đồng bộ, một số lĩnh vực hoạt động hành chính sự nghiệp còn chưa có tiêu chuẩn định mức vì vậy gây ra tình trạng đối phó của các đơn vị làm giảm hiệu quả của hệ thống định mức này.
Hiện nay còn tồn tại sự bất hợp lý trong qui trình kiểm soát chi. KBNN chỉ tiến hành kiểm soát chi khi thủ trưởng đơn vị đã chuẩn chi. Khi đó các thủ tục mua bán giữa đơn vị thụ hưởng và đơn vị cung cấp hàng hoá đã thoả thuận xong, tức là chỉ còn giai đoạn thanh toán, đơn vị thụ hưởng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm chi trả cho đơn vị cung cấp hàng hoá, dich vụ. Tuy vậy nếu tron quá trình kiểm soát kho bạc phát hiện thấy sự sai phạm trong chi tiêu so với qui định, định mức của đơn vị thụ hưởng thì không chấp nhận thanh toán. Hậu quả là phát sinh những thiệt hại do việc không thực hiện hợp đồng gây nên. Mặt khác do không thực hiện được hợp đồng nên nhiệm vụ chức năng cũng như hoạt động của đơn vị không được thông suốt. Mà theo quy định KBNN có quyền từ chối thanh toán khi không hội tụ đủ điều kiện chi nhưng chưa qui định về cách giải quyết hậu quả phát sinh sau khi quyết định từ chối đó. Vì vậy, cần có sự điều chỉnh trong quy trình kiểm soát, đảm bảo quyền lợi cho người trực tiếp được hưởng NSNN.
Luật NSNN đã được Nhà nước ban hành từ lâu và thường xuyên có sửa đổi bổ sung nhưng chưa ban hành chế tài đối với các trưòng hợp vi phạm luật NSNN. Ví dụ như các đơn vị lập dự toán chậm, ảnh hưởng đến quá trình duyệt dự toán của cơ quan tài chính và cơ quan cấp trên, ảnh hưởng đến quá trình cấp phát cũng như thanh toán, kiểm soát tại kho bạc nhưng chưa có qui định nào xử lý các trường hợp này. Do vậy trên thực tế nhiều đơn vị tuỳ tiện trong việc chi tiêu nhất là các khoản chi về hội nghị, tiếp khách mà cuối năm điều chỉnh dự toán nhưng vẫn được duyệt quyết toán. Điều này làm giảm hiệu quả kiểm soát chi qua KBNN.
Đối với cơ quan tài chính và các cấp có thẩm quyền.
Thiếu sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các cơ quan, đơn vị trong nhiệm vụ kiểm soát chi. Mặt khác còn tồn tại tình trạng chồng chéo về thẩm quyền xử lý của các ngành tài chính. Trong quá trình kiểm soát chi, những khoản chi không đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức bị KBNN từ chối nhưng nếu cơ quan tài chính chấp nhận thì vẫn được thanh toán. Ngược lại qua kiểm soát KBNN chấp nhận thanh toán chi NSNN mà cơ quan tài chính không thông qua thì đơn vị không được quyết toán. Điều này làm giảm vai trò của cơ quan, đơn vị.
2.3.3. Nguyên nhân.
Những hạn chế trên xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan sau đây
Thứ nhất: Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn hoàn thiện và phát triển vì vậy cơ chế quản lý cũng như chính sách chế độ đang trong quá trình sửa đổi cho phù hợp, tuy nhiên trong quá trình quá độ sẽ gặp phải những sai sót khi áp dụng trong thực tế do đó cần rút kinh nghiệm để tiếp tục sửa đổi bổ sung. Đặc biệt là các quy định về chuẩn mực, định mức về quy trình hoạt động kiểm soát chi, về phân công trách nhiệm trong kiểm soát chi NSNN qua KBNN.
Thứ hai: Nhận thức của cán bộ, nhân dân về luật NSNN còn ít, việc thực hiện luật NSNN của cơ quan, đơn vị chưa tự giác. Sự thiếu tự giác trong chấp hành luật NSNN là một vấn đề gây khó khăn cho việc quản lý chi NSNN. Các cơ quan tài chính bao gồm cả đơn vị thụ hưởng và cơ quan tài chính chưa ý thức về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của mình trong việc hoàn thành tốt nhiệm vụ phục vụ công tác quản lý NSNN cũng như vai trò quan trọng của kiểm soát chi NSNN đối với quá trình kiểm soát NSNN của Nhà nước.
Thứ ba: Mặc dù đã có nhiều văn bản quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan Nhà nước nhưng sự phối hợp của các cơ quan, đơn vị, các cấp, các ngành có liên quan trong công tác kiểm soát chi còn rất hạn chế. Tình trạng chồng chéo trong quản lý chi NSNN giữa cơ quan tài chính và KBNN cũng còn phổ biến.
Thứ tư: Công tác thanh tra của cơ quan tài chính chưa được thực hiện triệt để, thường xuyên, chủ yếu là kiểm tra theo vụ việc. Công tác kiểm toán Nhà nước chủ yếu dựa vào các văn bản quy định của Nhà nước nên nhiều khi thực hiện cứng nhắc, thiếu linh hoạt trong xử lý.
Xuất phát từ những nguyên nhân trên, sau đây là một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát chi NSNN nói chung và tại kho bạc Hoàn Kiếm nói riêng.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC KIỂM SOÁT CHI NSNN TẠI KBNN HOÀN KIẾM
3.1 Những quan điểm và phương hướng cơ bản tiếp tục hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua KBNN trên địa bàn quận Hoàn Kiếm.
Kiểm soát chặt chẽ các khoản chi tiêu NSNN là mối quan tâm lớn nhất của Đảng, Nhà nước và của mọi cấp, mọi ngành. Thực hiện tốt công tác kiểm soát chi NSNN có ý nghĩa rất quan trọng nó giúp việc thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí, tập trung mọi nguồn lực tài chính để phát triển kinh tế, ổn định đất nước, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để thực hiện và hoàn thiện được công tác này đòi hỏi ngành KBNN nói chung và KBNN Hoàn Kiếm nói riêng cần không ngừng hoàn thiện công tác quản lý chi NSNN, đồng thời Nhà nước cũng phải tạo ra hành lang pháp lý để KBNN có thể thực hiện công tác kiểm soát chi NSNN một cách thuận lợi, triệt để và thông thoáng. Kiểm soát chi NSNN là một công việc phức tạp, nó động chạm đến nhiều đơn vị, nhiều cấp, nhiều ngành, nên làm tốt hay không công tác này có ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý quỹ NSNN.
Do vậy, công tác kiểm soát chi NSNN phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Thứ nhất: Phải nhận thức được vai trò của KBNN trong công tác kiểm soát chi NSNN. Để xây dựng được nề nếp trong công tác quản lý và sử dụng NSNN, trước hết ngành KBNN phải có nhận thức đúng đắn về chức năng và nhiệm vụ của mình trong công tác kiểm soát chi NSNN, các bộ phận, cá nhân có liên quan đến công tác kiểm soát chi cần phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, tích cực học hỏi hơn nữa để có thể thực hiện tốt công việc của mình.
Thứ hai: Công tác kiểm soát chi NSNN phải được đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc quản lý NSNN nói chung và quản lý từng nội dung chi nói riêng, đồng thời không nên gây thủ tục phiền hà trong cấp phát thanh toán, chi trả đảm bảo yêu cầu đổi mới thủ tục hành chính trong hoạt động quản lý Nhà nước mà Chính phủ đã qui định.
Thứ ba: Công tác kiểm soát chi NSNN cần phải thực hiện đúng luật NSNN và các văn bản pháp quy có liên quan đến công tác kiểm soát chi, đồng thời cần phải chú ý phát hiện vấn đề còn tồn tại khi thực hiện luật NSNN để đề xuất lên cơ quan cấp trên nghiên cứu và sửa đổi cho phù hợp với thực tế. Thực hiện yêu cầu này nhằm đưa Luật NSNN đi vào cuộc sống, đảm bảo hiệu quả quản lý chi NSNN. Cùng với việc quán triệt các yêu cầu trên, trong thời gian trước mắt KBNN Hoàn Kiếm cần đổi mới công tác kiểm soát chi sao cho đạt được hiệu quả cao hơn trong công tác quản lý chi NSNN.
3.2 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả chi NSNN tại KBNN Hoàn Kiếm.
3.2.1 Kiểm soát chặt chẽ các điều kiện cấp phát, thanh toán.
Kiểm soát chi NSNN là một trong những nội dung chủ yếu của quá trình quản lý NSNN, quá trình này được thực hiện từ khi hình thành NSNN qua các khâu cho đến khi kết thúc để chuyển sang năm ngân sách mới. Vì vậy kiểm soát chi NSNN cũng phải được thực hiện ở tất cả các khâu lập, chấp hành và quyết toán NSNN. Việc kiểm soát là kiểm soát 4 điều kiện:
Đã có trong dự toán chi NSNN năm được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Đúng chế độ, tiêu chuẩn định mức chi tiêu NSNN do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền qui định.
Đã được cơ quan tài chính hoặc thủ trưởng đơn vị sử dụng kinh phí NSNN hoặc người được uỷ quyền chuẩn chi.
Có đầy đủ các chứng từ có liên quan.
ò Về điều kiện dự toán.
Việc kiểm tra, kiểm soát điều kiện cấp phát đối với từng khoản chi được thực hiện:
+ Đối với khoản chi cấp bằng lệnh chi tiền của cơ quan tài chính, cơ quan tài chính có trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát nội dung, tính chất của từng khoản chi đảm bảo các điều kiện cấp phát NSNN theo qui định, KBNN có trách nhiệm thanh toán chi trả cho đơn vị sử dụng kinh phí theo nội dung ghi trong lệnh chi tiền của cơ quan tài chính như vậy cơ quan tài chính có nhiệm vụ kiểm tra, điều tra điều kiện có trong dự toán được duyệt. Thực tế sử dụng hình thức cấp phát bằng lệnh chi tiền của cơ quan tài chính mới chỉ kiểm soát điều đó trong dự toán, chưa kiểm soát được thực tế đơn vị sử dụng kinh phí có đúng mục đích hay không. Do đó cần phải đổi mới điều kiện và phương thức cấp phát này bằng hình thức cấp phát thông báo hạn mức kinh phí thì công tác kiểm soát chi có hiệu quả hơn.
+ Đối với khoản chi trên cơ sở dụ toán ngân sách năm: cơ quan tài chính là người chịu trách nhiệm kiểm soát điều kiện có trong dự toán được duyệt tại đầu dự chi, thực hiện nhiệm vụ kiểm soát trước ( tiền kiểm) để xây dựng định mức dự toán, khống chế mức chi trên bình diện định lượng và định tính. KBNN là người chịu trách nhiệm kiểm soát điều kiện có trong dự toán được duyệt trong giai đoạn hậu kiểm (sau khi đơn vị đã chi tiêu) qua việc KBNN định vị đúng nội dung mục ngân sách của khoản chi đã được chủ ngân sách chuẩn chi khi thanh toán những khoản chi tiêu qua KBNN.
ò Về điều kiện chuẩn chi.
Kiểm soát điều kiện chuẩn chi là việc kiểm tra tư cách của người chuẩn chi, kiểm tra mẫu dấu, chữ ký của thủ trưởng đơn vị, quyết định chuẩn chi, kiểm tra nội dung chi và hồ sơ chứng từ xem có đúng qui định không. Hiện nay kiểm soát điều kiện chuẩn chi thực chất mới chỉ dừng lại ở việc kiểm tra mẫu dấu, chữ ký trên chứng từ là công việc tối thiểu mà bất cứ cơ quan đơn vị nào cũng tiến hành đối với công việc có liên quan đến giấy tờ nhằm đề phòng giả mạo lợi dụng để tham ô rút tiền NSNN. Về thực chất kiểm soát điều kiện chuẩn chi phải đạt được như phần kiểm soát chi đã nêu là phải có chế tài cụ thể đối với người chuẩn chi, từ đó nâng cao trình độ, trách nhiệm đối với người chuẩn chi.
3.2.2 Đổi mới thanh toán các khoản chi NSNN.
Việc đổi mới cơ chế quản lý NSNN nói chung và đổi mới cơ chế cấp phát, kiểm soát chi NSNN nói riêng cần phải tiếp tục và đạt được những mục tiêu sau đây:
Cơ chế cấp phát và thực hiện kiểm soát chi NSNN phải đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo an ninh quốc phòng. NSNN được xác định là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước trên địa bàn nằm trong dự toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền duyệt, và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ của địa phương. Trong đó cấp phát NSNN là một khâu quan trọng nhằm phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội, củng cố quốc phòng an ninh, đảm bảo hoạt động của bộ máy Nhà nước, nâng cao phúc lợi vật chất và văn hoá của nhân dân, với cơ chế cấp phát hiện hành đã dẫn đến tình trạng NSNN bị phân tán, chia nhỏ, hình thức cấp phát và qui trình cấp phát có những điểm chưa phù hợp, phương thức cấp phát NSNN còn mang tính xuất quĩ ngân sách dẫn đến tình trạng NSNN có lúc căng thẳng giả tạo, NSNN thì thiếu trong khi tiền NSNN nằm trong các đơn vị sử dụng NS lại tăng lên. Do đó mục tiêu của việc đổi mới cơ chế cấp phát NSNN là phải đảm bảo nhu cầu chi cho các mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của Quận đề ra trong từng giai đoạn thời kỳ theo mục tiêu mà Đảng bộ Quận đề ra.
- Đối với cấp phát vốn đầu tư phát triển cần phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đầu tư, cơ quan tài chính, KBNN trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế- xã hội. Kế hoạch phân bổ vốn đã được duyệt thì KBNN phải kiểm soát trực tiếp đến bên B, tăng cường vai trò của cơ quan tài chính trong việc tham gia xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển ở địa phương bằng nguồn vốn NSNN, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư tránh đầu tư dàn trải, phân tán, không có hiệu quả kinh tế.
KBNN cần đổi mới tổ chức bộ máy quản lý chi NSNN tăng cường cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao để tham gia vào bộ phận kiểm soát chi, khi đủ điều kiện tách bộ phận kiểm soát chi độc lập với các thanh toán viên có như vậy công tác kiểm soát chi mới đạt hiệu quả cao, mang tính khách quan.
Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của KBNN cấp trên, tranh thủ sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương đối với hoạt động của KBNN Hoàn Kiếm nhằm ngày càng hoàn thiện cơ chế cấp phát, thanh toán và kiểm soát chi NSNN qua KBNN.
- Việc đổi mới cơ chế cấp phát, kiểm soát chi NSNN đảm bảo sử dụng tiết kiệm có hiệu quả trong quá trình sử dụng và chi tiêu NSNN. Thành phố Hà Nội là một thành phố đang trên đà phát triển mạnh nên nhu cầu chi là rất lớn nhưng nguồn thu NSNN còn nhiều hạn chế do đó để tạo tiền đề cho sự phát triển cần thiết phải tạo ra một cơ sở hạ tầng vững chắc, cơ cấu phát triển kinh tế một cách hợp lý.
Tình trạng cấp phát chi NSNN hiện nay đã bộc lộ nhiều nhược điểm, như nơi cần đầu tư thì không được đầu tư thích đáng trong khi đó có nơi có đơn vị lại được cấp phát để tiêu sài lãng phí. Do đó phương thức cấp phát NSNN cần phải được tiếp tục đổi mới, phải đạt được mục tiêu cấp đúng, cấp đủ, kiểm soát chặt chẽ để góp phần loại bỏ tiêu cực, chống tham ô, tham nhũng, chống phiền hà và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Từ chỗ chi đúng, chi đủ, chi có hiệu quả tạo ra những tiền đề cho sự phát triển kinh tế, tăng tích luỹ trong nền kinh tế, tăng thu NSNN trên địa bàn Quận Hoàn Kiếm góp phần giảm bội chi NSNN, đảm bảo được tính thống nhất trong quản lý quỹ NSNN về chế độ, chính sách, phương thức quản lý, cấp phát.
Đổi mới công tác cấp phát thanh toán là tạo điều kiện cho công tác kiểm soát chi của KBNN đạt được hiệu quả cao. Do đó cần phải đổi mới cấp phát kinh phí cho ngân sách xã. Hiện nay hình thức cấp phát cho ngân sách xã bằng lệnh chi tiền mà đã cấp bằng lệnh chi tiền thì làm cho khối lượng công việc tăng lên, giấy tờ tăng lên quá phiền hà về thủ tục cho nên cấp phát kinh phí cho ngân sách xã nên sử dụng hình thức cấp phát bằng thông báo hạn mức, nó vừa tiết kiệm thời gian, tiết kiệm giấy tờ và đảm bảo kiểm soát chi ngân sách xã qua KBNN được phát huy và tính hiệu quả cao hơn.
3.2.3 Đổi mới công tác cán bộ- tiêu chuẩn hoá cán bộ.
Tuyển chọn và bố trí cán bộ là hai mặt của một quá trình thống nhất nhằm tìm kiếm, sử dụng và phát huy cao năng lực phẩm chất của mỗi con người trong tổ chức. Điều đó có quyết định đến kết quả việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngành kho bạc trên cơ sở tổ chức bộ máy đã được xây dựng. Vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là xây dựng đội ngũ cán bộ KBNN vững mạnh toàn diện, có khả năng thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao, nâng cao năng lực phẩm chất cho đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo KBNN là điều kiện cơ bản, là vấn đề có tính chất chiến lược nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trên lĩnh vực quản lý quỹ NSNN.
Không giống như những công chức chuyên môn nghiệp vụ đơn thuần, cán bộ lãnh đạo KBNN là những người được Nhà nước giao cho những trách nhiệm rất lớn lao trước toàn bộ công việc được phân công do tính đặc thù về nhiệm vụ có trách nhiệm rất cao trong việc quản lý và sử dụng hiệu quả tiền và tài sản của Nhà nước. Toàn bộ hoạt động chi tiêu của chính quyền, của các tổ chức chính trị- xã hội, các tổ chức hành chính sự nghiệp trên địa bàn Quận Hoàn Kiếm có thông suốt và hiệu quả hay không phụ thuộc vào việc KBNN hoàn thành nhiệm vụ như thế nào. Hoạt động của KBNN thông suốt, đảm bảo chất lượng và hiệu quả sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho toàn bộ bộ máy hoạt động tốt và ngược lại. Vị trí của cán bộ lãnh đạo có ảnh hưởng rộng nên phong cách, thái độ giao tiếp, năng lực trình độ của người lãnh đạo là cơ sở, điều kiện cho quá trình thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo và thực thi nhiệm vụ có hiệu quả.
Do vậy bố trí cán bộ lãnh đạo phải dựa trên những nguyên tắc, tiêu chuẩn cụ thể cả về phẩm chất, năng lực chuyên môn và tài năng. Tránh tình trạng bố trí cán bộ lãnh đạo theo kiểu “ Sống lâu lên lão làng” cảm tình cá nhân, cục bộ, dòng họ…
Cán bộ lãnh đạo KBNN đồng thời có những tiêu chuẩn riêng phù hợp với những tiêu chuẩn chung qui định:
ò Tiêu chuẩn về đạo đức: Đó chính là lòng trung thành về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, vì lợi ích của nhân dân. Cán bộ lãnh đạo KBNN cần phải tuân thủ các chính sách quy định của Bộ, ngành, bởi đó là chính sách chung đã được cụ thể hoá. Bản lĩnh chính trị của cán bộ lãnh đạo là tinh thần dám nghĩ dám làm và dám chịu trách nhiệm. Phải có tính năng động sáng tạo và phải nằm trong khuôn khổ của cơ chế pháp luật Nhà nước, đồng thời phải quan tâm đến việc giải quyết đúng đắn hài hoà lợi ích của tập thể và lợi ích của cán bộ công nhân viên. Đoàn kết tập hợp đồng nghiệp trong và ngoài phạm vi đơn vị mình không những chỉ bằng nguyên tắc mà cơ bản, bền vững hơn chính là bằng uy tín, đạo đức, vô tư, trong sạch, tính chân thật, dân chủ trong sinh hoạt và gần gũi quần chúng.
ò Tiêu chuẩn về năng lực: Là khả năng thực hiện trên thực tế các công việc được giao với hiệu quả của nó. Năng lực cán bộ được thể hiện về chuyên môn theo chức trách được giao, cách thức tiến hành có cơ sở khoa học để đạt được kết quả. Người cán bộ phải có trình độ cao về chuyên môn nghiệp vụ, phải có bằng đại học về chuyên ngành và phải tích cực tham gia học tập lý luận chính trị, phải thường xuyên tự bồi dưỡng, rèn luyện trong thực tế cả về chuyên môn lẫn nghiệp vụ.
Điểm khác biệt căn bản về tiêu chuẩn của người cán bộ lãnh đạo với cán bộ nghiệp vụ chính là năng lực tổ chức, quản lý công việc và quản lý con người, có tầm nhìn xa, biết phát huy sức mạnh tập thể và phải biết công việc cấp dưới đang làm, hướng dẫn cho họ đồng thời phải biết kiểm tra kết quả làm việc của họ. Tránh tình trạng chỉ biết ra mệnh lệnh mà không biết cách tổ chức thực hiện.
ò Tiêu chuẩn sức khoẻ: Do yêu cầu công việc người cán bộ lãnh đạo phải là người có đủ sức khoẻ để lãnh đạo đơn vị, quản lý đơn vị hoạt động với cường độ cao, có điều kiện đi quan sát thực tế quần chúng. Quan tâm đến độ tuổi, cơ cấu độ tuổi trong lãnh đạo cho phù hợp, có quy hoạch tuổi trẻ và biết chuyển giao thế hệ phù hợp. Nếu cán bộ lãnh đạo sức khoẻ bị hạn chế nên tham gia công tác chuyên môn, nghiệp vụ.
Trong quá trình điều hành đơn vị thực hiện nhiệm vụ, cán bộ lãnh đạo là những người có khả năng nhận thức được bản chất hoạt động của đơn vị để phân tích, rút ra bài học kinh nghiệm, đồng thời phải nhanh nhạy phát hiện ra những nhân tố mới trong hoạt động của đơn vị- dự báo được các xu thế tất yếu phát sinh, có hướng xử lý chúng ngay khi chưa thành hiện thực.
Bên cạnh những yêu cầu về cán bộ lãnh đạo thì cán bộ nghiệp vụ cũng có những yêu cầu và phẩm chất nhất định. Trước hết cán bộ nghiệp vụ phải đảm bảo về mặt số lượng vì mỗi mảng công tác của KBNN đồng thời có nhiều cán bộ thừa hành cùng tham gia giải quyết. Bố trí đủ số lượng cán bộ theo hướng chuyên sâu, phù hợp với năng lực trình độ của từng cán bộ để họ phát huy hết được tính hiệu quả của năng lực đó là yêu cầu tất yếu trong mỗi tổ chức. Ngoài những yêu cầu về năng lực và trình độ chuyên môn nhất định thì các cán bộ nghiệp vụ phải am hiểu Luật NSNN và các văn bản quy định về chế độ tài chính Nhà nước để đảm bảo các hoạt động được thực hiện đúng Luật, linh hoạt với điều kiện của địa phương. Với 52 cán bộ KBNN Hoàn Kiếm đã được bố trí phù hợp, cán bộ phát huy hết năng lực công tác của mình, có tinh thần trách nhiệm có trình độ chuyên môn đồng đều. 70% cán bộ có trình độ đại học còn lại là trung cấp được bố trí hợp lý phù hợp với năng lực chuyên môn. Để đáp ứng yêu cầu công tác quản lý quỹ NSNN trong thời kỳ mới và làm tốt công tác kiểm soát chi NSNN, KBNN tiếp tục phải nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ thông qua công tác đào tạo, đào tạo lại, đổi mới tư duy trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo. Phát huy tính chủ động hơn nữa và thường xuyên thực hiện tốt công tác kiểm tra để bố trí cán bộ cho phù hợp với năng lực thực tế.
3.2.4 Công tác hạch toán kế toán và báo cáo quyết toán NSNN.
Hạch toán kế toán là quá trình ghi chép phản ánh kịp thời đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trên cơ sở có đầy đủ các điều kiện, yếu tố quy định theo chế độ. Hạch toán chi NSNN theo từng niên độ, theo từng cấp NSNN và mục lục NSNN. Đối với các khoản cấp tạm ứng, KBNN chuyển từ cấp tạm ứng sang cấp thanh toán sau khi đã thực hiện công tác kiểm soát chi.
Công tác hạch toán kế toán ngày càng phát huy được vai trò phản ánh sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế và là công cụ để điều hành ngân sách, hướng tới cần phải thực hiện nghiêm chỉnh trong xây dựng kế hoạch ngân sách. Kế hoạch ngân sách phải xuất phát từ các đơn vị thụ hưởng NSNN, các đơn vị thụ hưởng NSNN không được phép điều chỉnh giữa các mục chi, nếu khoản chi của đơn vị đúng chế độ nhưng lại quá dự toán ở một mục chi nào đó thì được xem xét để cấp phát thêm hạn mức. Nếu đơn vị chi quá dự toán và khoản chi đó sai chế độ sẽ thu hồi giảm chi, đồng thời tuỳ mức độ vi phạm mà có biện pháp xử lý theo pháp luật.
Báo cáo chi ngân sách là thể hiện kết quả cấp phát sử dụng NSNN ở một thời điểm nhất định. Do vậy thống kê báo cáo là công việc không thể thiếu được, nó giúp công tác điều hành có hiệu quả hơn và chủ động cân đối thu- chi NSNN.
Hiện nay, hàng tháng, quý, năm các đơn vị thụ hưởng ngân sách phải lập báo cáo chi NSNN gửi cơ quan chủ quản và phải có sự xác nhận của KBNN nơi cấp phát thanh toán và cơ quan chủ quản tổng hợp lập báo cáo gửi cơ quan tài chính đồng cấp. Cơ quan KBNN hàng tháng, quý, năm cũng phải lập báo cáo chi NSNN gửi cơ quan tài chính đồng cấp và KBNN cấp trên. Như vậy ở đây đang có sự chồng chéo trong quá trình lập báo cáo gửi KBNN và cơ quan tài chính cho nên hướng tới nên tập trung ở một đơn vị là KBNN cả khâu cấp phát, thanh toán, báo cáo sẽ phản ánh đúng hơn.
Quyết toán ngân sách là việc không thể thiếu được nó phản ánh kết quả ở thời điểm một năm sử dụng vốn ngân sách. Qua công tác quyết toán còn kiểm tra được sự đúng đắn, tính hợp lệ, hợp pháp, tính mục đích trong quá trình sử dụng. Cũng thông qua công tác quyết toán chi NSNN để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, kết quả đầu tư là cơ sở cho dự toán chi ngân sách năm sau. Hiện nay có hai cơ quan đang đồng hành quyết toán NSNN là cơ quan tài chính và KBNN. Để thực hiện đúng chức năng của kho bạc là kế toán ngân sách quốc gia về tổng quyết toán NSNN nên giao cho cho KBNN thực hiện công tác quyết toán ngân sách vì từ khâu thanh toán, chi trả đến khâu kết thúc quá trình sử dụng KBNN đều thực hiện ghi chép, phản ánh đến từng lần chi trả thì chắc chắn kho bạc biết rõ hơn ai hết đối với quá trình cấp phát, thanh toán và sử dụng của từng đơn vị thụ hưởng NSNN. Do đó Bộ tài chính, KBNN TW nên nghiên cứu và giao cho KBNN đảm nhận tổng quyết toán NSNN là hợp lý.
3.2.5 Hiện đại hoá công nghệ thông tin trong quản lý NSNN đặc biệt tin học hoá công tác kế toán NSNN.
Hiện nay, công tác kế toán tại KBNN Hoàn Kiếm đã được thực hiện trên máy vi tính và được nối mạng với KBNN cấp trên (KBNN Hà Nội). Các chương trình kế toán ứng dụng gồm: Kế toán ngân sách (KTW), trái phiếu (TPW), kho quỹ (KTQ), kế toán nội bộ (KNB). Đặc biệt chương trình ứng dụng KTW đã thực sự trưởng thành công cụ quản lý và điều hành NSNN một cách hữu hiệu, làm tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn, rút ngắn thời gian thanh toán với khách hàng. Mặt khác, để phù hợp với việc quản lý NSNN theo luật NSNN, khi đơn vị dự toán xã trở thành một cấp ngân sách chương trình KTW giúp cho việc theo dõi, quản lý chặt chẽ tồn quỹ NS xã, nhằm cung cấp số liệu, báo cáo nhanh, chính xác cho các cấp, nghành chức năng trong quản lý và điều hành ngân sách. Ngoài ra công tác quản lý kế toán tiền mặt, dự đoán, hạn mức kinh phí của từng đơn vị cũng được đưa vào chương trình KTW, nhằm góp phần tăng cường công tác kiểm soát chi NSNN.
Tuy nhiên, do hệ thống KBNN vẫn đang trong quá trình hoàn thiện bổ sung các chức năng nhiệm vụ do Chính phủ giao, nên các chương trình ứng dụng tin học được thiết kế mở để có thể tiếp nhận, thực hiện các nhiệm vụ mới. Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển của tin học thì việc không ngừng nâng cấp hiện đại hoá hệ thống máy tính đã cũ, lạc hậu cũng như chương trình ứng dụng cần đổi mới gọn nhẹ, khoa học, hiện đại đáp ứng đầy đủ, nhanh chính xác phục vụ cho công tác quản lý và điều hành KBNN phải hết sức quan tâm để có đầu tư thoả đáng, có như vậy hệ thống KBNN mới đủ tầm là công cụ quản lý tài chính hữu hiệu cho nền tài chính quốc gia.
3.2.6 Đổi mới và giải quyết tốt mối quan hệ giữa KBNN với các đơn vị trong ngành tài chính và các đơn vị có liên quan.
Nhiệm vụ quản lý thu, chi quỹ NSNN là trách nhiệm của các cấp, các nghành, các đơn vị trong nghành tài chính, các đơn vị sử dụng NSNN. Do đó muốn thực hiện được cần phải có sự phối kết hợp đôn đốc quản lý thu, giám sát chặt chẽ các khoản chi KBNN với cá đơn vị trong ngành tài chính và các đơn vị có liên quan.
Trong mối quan hệ giữa KBNN với các cơ quan Tài chính, cục đầu tư phát triển, cục quản lý vốn- tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp là quan hệ phối hợp công tác trong việc tập trung nguồn thu (bao gồm cả huy động vốn) và thực hiện chi NSNN trên địa bàn đó là KBNN phối hợp tham gia với cơ quan tài chính trong việc lập dự toán và quản lý thu, chi NSNN trên địa bàn; Tập trung đầy đủ, kịp thời các khoản thu vào NSNN tổ chức kiểm tra, kiểm soát thanh toán chi trả các khoản chi NSNN cho các đối tượng; tổ chức thực hiện các chương trình huy động vốn trên địa bàn.
Cơ quan tài chính có trách nhiệm cung cấp kế hoạch thu, chi cấp phát vốn NSNN trên địa bàn (theo tháng, quý, năm) cho KBNN; KBNN thực hiện chế độ thông tin báo cáo theo quy định cho cơ quan tài chính.
Đối với cơ quan thu và KBNN có trách nhiệm phối hợp quản lý tập trung nguồn thu NSNN thường xuyên kiểm tra, đối chiếu đảm bảo cho mọi nguồn thu NSNN phải được tập trung đầy đủ kịp thời vào quỹ NSNN, thực hiện báo cáo số liệu thu NSNN theo quy định. Hiện nay các nguồn thu đối với các hộ kinh doanh cố định hàng tháng đều phải trực tiếp nộp vào KBNN (trên 10 tỷ đồng), những trường hợp hộ nhỏ thu bằng biên lai, cán bộ thuế trực tiếp thu nhưng phải nộp ngay những khoản thu đó vào KBNN. Làm như vậy đã hạn chế được sự ăn chặn tiền thuế đối với các cán bộ thu, giữ được cán bộ, tránh tiêu cực, tập trung nhanh được nguồn thu đó là ưu điểm của công tác đối với thu NSNN qua KBNN, còn KBNN có trách nhiệm nhiệm vụ kịp thời chính xác các khoản thu NSNN, hạch toán đúng theo mục lục ngân sách (MLNS), thực hiện thoái thu NSNN theo quyết định của cơ quan tài chính, trích tiền gửi của các cơ quan để nộp NSNN theo yêu cầu của cơ quan thu trong điều kiện cho phép, đúng chế độ.
Đối với các đơn vị NSNN là quan hệ cấp phát thanh toán do đó, các cơ quan sử dụng NSNN có nhiệm vụ cung cấp đầy đủ, kịp thời hồ sơ chứng từ có liên quan theo quy định về cấp phát thanh toán NSNN.
Cơ quan sử dụng NSNN phải có trách nhiệm cung cấp đầy đủ kịp thời hồ sơ chứng từ có liên quan theo quy định về cấp phát thanh toán, xác nhận số thực chi NSNN qua KBNN, KBNN có quyền từ chối các khoản chi không đủ điều kiện theo qui định nhưng phải thông báo kịp thời cho đơn vị biết và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Đơn vị từ chối không nhất trí với quyết định của KBNN có quyền khiếu nại với cơ quan tài chính và KBNN cấp trên nhằm đảm bảo quyền lợi trách nhiệm của đơn vị NSNN với đơn vị quản lý cấp phát NSNN.
Đối với Ngân hàng thương mại quốc doanh là mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể. KBNN mở tài khoản tiền gửi tại NH Đầu tư và phát triển thành phố Hà Nội để tập trung các khoản thu (các doanh nghiệp mở tài khoản ngân hàng) cấp phát, thanh toán các khoản thu chi NSNN thông qua hệ thống ngân hàng đối với các đơn vị cung ứng dịch vụ hàng hoá mở tài khoản tại ngân hàng và KBNN phải trả phí thanh toán cho ngân hàng đối với các khoản thanh toán của KBNN.
An toàn tiền và tài sản của Nhà nước, khách hàng, tài sản của KBNN thì phải có sự phối kết hợp với các cơ quan công an để tổ chức lực lượng bảo vệ chặt chẽ, nghiêm ngặt tại KBNN Hoàn Kiếm khi cần thiết, và huấn luyện bảo vệ chuyên trách của KBNN nắm vững thao tác nhiệm vụ trong công tác bảo vệ và phối hợp chặt chẽ khi có tình huống xấu xảy ra. Xây dựng phương án tác chiến, tổ chức lực lượng tuần tra canh gác hỗ trợ cho bảo vệ chuyên trách của KBNN.
Điều hành và quản lý thu chi quỹ NSNN trên địa bàn quận Hoàn Kiếm là do chính quyền Quận là chủ thể quản lý KBNN. KBNN có trách nhiệm là tham mưu giúp UBND Quận thực hiện tổ chức, quản lý, điều hành NSNN trên địa bàn, đảm bảo thực hiện chế độ quản lý tài chính, NSNN quản lý tài sản đúng luật định. Đồng thời KBNN chịu sự kiểm tra, giám sát của UBND về việc chấp hành luật pháp và quản lý hành chính Nhà nước trên địa bàn, có trách nhiệm thực hiện chế độ thông tin số liệu thu, chi NSNN và các hoạt động của KBNN có liên quan để đề xuất ý kiến với UBND Quận biện pháp nhằm tăng cường công tác quản lý tài chính, NSNN và các hình thức khác, biện pháp huy động vốn cho đầu tư phát triển trên địa bàn. UBND thì tạo điều kiện để thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Nhà nước và Bộ tài chính.
Trên đây là mối quan hệ giữa KBNN và các cấp chính quyền các đơn vị trong ngành và các đơn vị có liên quan nhằm thực hiện tốt hơn công tác quản lý tài chính địa bàn ngày càng tốt hơn.
KẾT LUẬN
Trong tình hình hiện nay khi Nhà nước ta đang cố gắng sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng nhằm phát triển kinh tế- xã hội đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước thì vấn đề kiểm tra, kiểm soát trong vấn đề sử dụng NSNN là điều hết sức cần thiết và cấp bách nhằm ngăn chặn biểu hiện tiêu cực, tham ô, tham nhũng, lãng phí tiền của của Nhà nước, do đó phải kiểm soát từng khoản chi tiêu của đơn vị là rất cần thiết. KBNN phải nỗ lực hơn phát huy hết vai trò, vị trí, chức năng của mình mà Chính phủ, bộ tài chính đã tin tưởng giao phó.
Song do công tác kiểm soát chi NSNN qua KBNN không phải chỉ do ngành KBNN thực hiện mà còn liên quan đến nhiều Bộ, ngành, các cấp chính quyền và các đơn vị thụ hưởng NSNN cùng thực hiện. Vì vậy mỗi đơn vị sử dụng kinh phí NSNN phải có ý thức tự giác, năng động, sáng tạo, tìm mọi biện pháp để góp phần hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN, đảm bảo mọi khoản chi NSNN phải tiết kiệm, chi đúng mục đích, đạt hiệu quả cao.
Với luận văn “ Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát chi NSNN tại KBNN Hoàn Kiếm” Đây là một chuyên đề đã làm rõ hơn sự cần thiết của công tác kiểm soát chi NSNN qua KBNN, đánh giá một khách quan thực trạng kiểm soát chi NSNN qua KBNN Hoàn Kiếm và đưa ra một số giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua KBNN.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách, giáo trình.
1. Kho bạc Nhà nước Việt Nam- quá trình hình thành và phát triển- NXB Tài chính 2000.
2. Nghiệp vụ quản lý KBNN- NXB Tài chính 5/1997.
3. Kế toán KBNN- NXB Tài chính 1998.
4. Cẩm nang kiểm soát chi ngân sách qua KBNN- NXB Tài chính, Hà Nội 7/2000.
Các văn bản của Chính phủ, Bộ tài chính.
1. Hệ thống mục lục NSNN- NXB Tài chính 8/2000.
2. Luật NSNN- NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội-2003.
3. Nghị định 25/CP, ngày 5/4/1995 của Chính phủ về nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy KBNN trực thuộc Bộ tài chính.
4. Nghị định 87/CP ngày 19/12/1996 của Chính phủ hướng dẫn thi hành phân cấp quản lý, lập, chấp hành va quyết toán NSNN.
5. Quyết định 145/1999/QĐ-BTC ngày 26/11/1999 về nhiệm vụ và tổ chức bộ máy thanh toán vốn đầu tư thuộc hệ thống KBNN.
6. Thông tư số 40/1998/TT/BTC ngày 31/03/1998 của Bộ tài chính hướng dẫn chế độ quản lý, cấp phát, thanh toán các khoản chi NSNNN qua KBNN.
7. Thông tư số 41/1998/TT/BTC ngày 31/03/1998 của Bộ tài chính hướng dẫn chế độ tập trung quản lý các khoản thu NSNNN qua hệ thống KBNN.
8. Báo cáo chi NSNN năm 2003, 2004, 2005.
Báo và tạp chí.
Tạp chí Tài chính các năm 2003, 2004, 2005.
Tạp chí kinh tế dự báo 2005,2006.
Tạp chí Thị trường tài chính 2005, 2006.
Tạp chí KBNN.
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36279.doc