Luận văn Một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc áp dụng thuế giá trị gia tăng đối với thành phần kinh tế cá thể tại Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội

Qua bài viết với đề tài nghiên cứu: “Một số biện pháp nhằm hoàn thiện việc áp dụng thuế GTGT đối với thành phần kinh tế cá thể tại Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng” đã cho phép nghiên cứu rất nhiều vấn đề, từ lý luận đến thực tiễn, liên quan đến thuế GTGT và thành phần kinh tế cá thể. Qua đây cho thấy, trong nền kinh tế thị trường khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đang phát triển mạnh mẽ và đa dạng cũng như sự đòi hỏi đáp ứng nhu cầu chỉ tiêu của NSNN ngày càng tăng, đã làm cho công tác quản lý thuế trở nên khó khăn, phức tạp hơn. Điều đó đòi hỏi các biện pháp quản lý thu thuế của cơ quan thuế cũng như của từng cán bộ thuế càng phải hoàn thiện hơn, nhằm đáp ứng những yêu cầu của các chính sách thuế mới đặt ra hiện nay. Đặc biệt là việc áp dụng 2 luật thuế mới là thuế GTGT và thuế TNDN. Thuế GTGT đã áp dụng ở Việt Nam được hơn 3 năm, trong điều kiện nước ta còn nhiều vấn đề chưa đáp ứng được các điều kiện áp dụng luật thuế tiên tiến này. Do đó, nó đòi hỏi cần phải tìm hiểu nghiên cứu kỹ từ bản chất, ưu, nhược điểm, điều kiện áp dụng, đến việc xem xét thực trạng áp dụng trong thực tiễn. Đặc biệt, là việc xem xét áp dụng đối với các hộ kinh doanh cá thể trong điều kiện hiện nay.

doc94 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1408 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc áp dụng thuế giá trị gia tăng đối với thành phần kinh tế cá thể tại Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Đặc biệt là khuyến khích xuất khẩu thông qua mức thuế suất 0% đối với các mặt hàng xuất khẩu và đánh thuế GTGT đối với các mặt hàng nhập khẩu ngay tại của khẩu, nhằm bảo hộ được các mặt hàng sản xuất trong nước hạn chế và kiểm soát được các mặt hàng nhập khẩu. Đồng thời thuế GTGT cũng làm tăng thêm tính trung lập của thuế trong quá trình thực hiện, nhưng vẫn đảm bảo việc phát triển sản xuất trong nước. - Đối với Việt Nam việc áp dụng thuế GTGT cần được từng bước phù hợp với việc hội nhập và phát triển nền kinh tế. Quá trình gia nhập các khối kinh tế với điều kiện nước ta phải cắt giảm thuế nhập khẩu, thực hiện các thuế suất ưu đãi khi tham gia các hiệp định thương mại đa phương, thì thuế GTGT đánh vào hàng nhập khẩu cùng với thuế xuất khẩu bảo hộ sản xuất trong nước, chúng ta phải từng bước tham gia vào việc cạnh tranh thuế giữa các nước trong khối trên. Cùng với một số loại sắc thuế khác, thuế GTGT phải đảm bảo được những ưu thế của Việt Nam trong cạnh tranh thuế quốc tế. * Định hướng về hoàn thiện thuế GTGT ở Việt Nam Để đạt được những mục tiêu đề ra nhằm hoàn thiện thuế GTGT ở Việt Nam. Trong thời gian tới cùng với định hướng phát triển kinh tế xã hội, định hướng thuế GTGT cũng đặt ra các vấn đề sau nhằm khắc phục những tồn tại và hướng tới hoàn thiện loại thuế tiên tiến nhất này. Trong phạm vi bài viết tôi cho rằng xu hướng của thuế GTGT trong thời gian tới là: - Về phương pháp tính thuế GTGT: Do phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT, xét trên một góc độ nào đó vẫn còn tình trạng thuế chồng thuế do căn cứ tính thuế là giá thanh toán, đồng thời theo phương pháp này lại có ba phương pháp tính nên gây khó khăn phức tạp cho công tác tính, thu nộp trên thuế. Mặt khác, chi phí cho phương pháp tính thuế này trên tổng số thu ngân sách là quá lớn. Vì vậy cho thấy những vấn đề cần giải quyết như: +Thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp chỉ được quy định tồn tại trong giai đoạn quá độ. Về cơ bản lâu dài chỉ áp dụng một phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ, vì đến nay phương pháp này được coi là ưu việt hơn, nó đáp ứng yêu cầu đơn giản dễ thực hiện và khắc phục được tình trạng không công bằng hiện nay, do tuỳ tiện áp dụng phương pháp tính thuế GTGT. + Trường hợp các cơ sở sản xuất, kinh doanh chưa đủ điều kiện để áp dụng tính thuế này nên điều chỉnh sang một luật thuế riêng - thuế doanh thu. Trong trường hợp này cần phân loại các đối tượng có quy mô nhỏ, thu nhập thấp ra khỏi diện chịu thuế GTGT. + Đẩy mạnh thực hiện chế độ kế toán đối với các hộ kinh doanh có quy mô lớn để chuyển những đối tượng này sang áp dụng thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. + Đối với đối tượng khác bắt buộc phải thực hiện chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ là căn cứ để tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. - Về đối tượng chịu thuế: Mở rộng các đối tượng chịu thuế GTGT, giảm bớt tối đa hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế áp dụng thuế GTGT đối với cả hàng hóa, dịch vụ chịu thuế TTĐB cho phù hợp với nguyên tắc chung của thuế GTGT. - Về thuế suất thuế GTGT: Qua kinh nhiệm của các nước khác đang áp dụng thuế GTGT với xu hướng giảm số lượng thuế suất, giảm sự phức tạp khi áp dụng thuế suất, chính sách thuế suất thuế GTGT ở nước ta nên giảm số lượng tối đa còn hai mức thuế suất. Điều chỉnh các mức thuế suất để bảo đảm nguồn thu cho NSNN trong khi thực hiện lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu khi Việt Nam tham gia AFTA với mức thuế suất dự kiến là: 0% áp dụng cho các mặt hàng xuất khẩu; 10% áp dụng cho tất cả các loại hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng trong nước. Nói chung mức thuế suất đặt ra phải đảm bảo ba yêu cầu đó là: đảm bảo nguồn thu; khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh tăng xuất khẩu nhằm cạnh tranh được trong vấn đề thuế quốc tế; đảm bảo công bằng quyền lợi và nghĩa vụ giữa các doanh nghiệp; ổn định thị trường trong nước không gây biến động lớn. - Về việc ưu đãi miễn giảm thuế: Tiến tới xóa bỏ miễn giảm thuế cho tất cả các đối tượng để đảm bảo tính công bằng và bình đẳng. - Cải cách hành chính thuế: + Hoàn thiện các văn bản pháp luật về thuế GTGT, đảm bảo mục tiêu đơn giản, công bằng và không làm thiệt hại ĐTNT. Các ĐTNT tự tính, tự khai nộp thuế tại kho bạc. Cơ quan thuế chỉ kiểm tra, giám sát việc chấp hành của ĐTNT. + Hoàn chỉnh chế độ xử phạt trong lĩnh vực thuế. + Cải cách hệ thống kế toán thuế GTGT cho đơn giản dễ hiểu, dễ thực hiện. + Nâng cao tính hiệu quả trong công tác quản lý sử dụng hóa đơn, chứng từ. Hiện nay cho phép các ĐTNT theo phương pháp khấu trừ sử dụng hóa đơn GTGT. Các hộ kinh doanh lớn tính thuế theo phương pháp trực tiếp sử dụng hóa đơn bán hàng trong thời gian tới nên chỉ sử dụng một loại hóa đơn. Đồng thời quy định và khuyến khích các doanh nghiệp tự in và phát hành hóa đơn. Hóa đơn do doanh nghiệp tự in phải đảm bảo nội dung theo quy định thống nhất của Bộ tài chính. - Đẩy nhanh nối mạng phần mềm quản lý thuế trong phạm vi toàn quốc nhằm quản lý chặt chẽ hơn việc phát hành và sử dụng hóa đơn, chứng từ của các ĐTNT. - Củng cố tổ chức bộ máy ngành thuế + Củng cố tổ chức bộ máy ngành thuế theo hướng thống nhất về mặt hành chính trong quản lý thu thuế. Bộ máy hành thu phải bao gồm cả hệ thống thuế nội địa và hệ thống thuế xuất nhập khẩu. + Hình thành chức năng quản lý, kiểm tra, thanh tra thuế một cách độc lập trong thực thi luật, pháp lệnh về thuế để hình thành các công ty, nhóm tư vấn dịch vụ tư vấn thuế và kê khai thuế. Đây là một dịch vụ cung cấp các thông tin, kiến thức, kinh nhiệm về sự hiểu biết về lĩnh vực thuế. - Đối với các hộ kinh doanh cá thể, xu hướng trong thời gian tới là nên thực hiện phương pháp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ đối với các hộ lớn, có đủ điều kiện để thực hiện. Một bộ phận hộ còn lại do không đủ điều kiện về sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ thì sẽ chuyển sang điều chỉnh theo một luật thuế khác - thuế doanh thu. Trên đây là toàn bộ mục tiêu, định hướng phát triển hoàn thiện thuế GTGT nói chung ở Việt Nam trong thời gian tới. Căn cứ vào các vấn đề này cần có các giải pháp hoàn thiện trong việc áp dụng thuế GTGT đối với thành phần kinh tế cá thể tại các Chi cục thuế nói chung và tại Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng nói riêng. III.- Một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc áp dụng thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể tại chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng Sự tồn tại và phát triển đa dạng của các thành phần kinh tế cũng như đòi hỏi đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngân sách nhà nước ngày càng tăng đã làm cho công tác quản lý thu thuế trở nên khó khăn, phức tạp hơn nhiều đòi hỏi các biện pháp quản lý thu thuế của cơ quan thuế cũng như từng cán bộ thuế ngày càng phải hoàn thiện hơn để nâng cao chất lượng công tác quản lý thuế, phát huy vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Xuất phát từ thực tiễn tồn tại công tác quản lý thu thuế GTGT trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng trong ba năm thực hiện áp dụng thuế GTGT, thực trạng thất thu thuế đối với các hộ cá thể và những nguyên nhân chủ yếu, trước nhiệm vụ Nhà nước giao cho toàn ngành thuế nói chung và Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng nói riêng, thì yêu cầu đặt ra đối với quản lý thu thuế nhất là đối với các hộ cá thể là làm sao thực hiện các nhiệm vụ thắng lợi năm 2002, phải khai thác được mọi nguồn thu, chống thất thu, động viên đầy đủ kịp thời cho NSNN đồng thời phát huy vai trò tích cực của các sắc thuế, đặc biệt là thuế GTGT trong nền kinh tế. Xuất phát từ mục đích đó qua việc nghiên cứu các vấn đề lý luận ở trên căn cứ phân tích đánh giá tình hình thu thuế GTGT đối với các hộ cá thể trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng trong thời gian qua. Với vấn đề lý luận là cơ sở khoa học để đề xuất một số ý kiến về phương hướng và biện pháp nhằm khắc phục các tình trạng còn tồn tại tại Chi cục: 1. Giải pháp trong việc quản lý đối tượng nộp thuế Quản lý ĐTNT là khâu quan trọng đầu tiên trong công tác quản lý thu thuế. Đây là một vấn đề phức tạp, gây nhiều khó khăn cho các cán bộ thu. Mặt khác, trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh hiện nay, trên địa bàn quận có trên 10000 hộ kinh doanh cá thể được quản lý theo phương pháp chuyên quản. Tuy nhiên, việc tổ chức rà soát, nắm đầy đủ các đối tượng có sản xuất, kinh doanh trên địa bàn đưa vào diện quản lý thu thuế thường xuyên còn kém. Qua kiểm tra thu thuế ghi nhận số hộ kinh doanh thuộc diện phải lập bộ quản lý, nhưng chưa được bộ quản lý thu chiếm trên 10% tổng số hộ đã được lập bộ. Việc bỏ sót hộ trong thời gian vừa qua chủ yếu do một số nguyên nhân như : - Theo cơ chế tài chính cũ, việc dự toán thu được xây dựng từ cấp các đội thuế đưa lên, cơ quan cấp trên giao kế hoạch dựa trên dự toán thu của cơ sở vì vậy thông thường cơ sở luôn lập dự toán nhỏ hơn nguồn thu. Do đó càng lập thì số liệu đưa lên càng giảm vì số hộ dự phòng ở cấp dưới nhiều. - Những hộ được giấu thường được ém trong các bộ phụ hoặc bộ không thường xuyên, hoặc có một số trường hợp cán bộ thuế lợi dụng thu thuế nhưng không xuất biên lai, chiếm dụng tiền thuế đến cuối năm mới xuất biên lai và lập giấy nộp tiền vào NSNN. - Một số hộ kinh doanh nhưng không kê khai, hoặc xin nghỉ kinh doanh nhưng vẫn tiếp tục kinh doanh. Đứng trước tình trạng chung ở trên, qua những ý kiến rút ra từ thực trạng quản lý đối tượng nộp thuế GTGT tại Chi cục. Để quản lý ĐTNT được chặt chẽ, chính xác trên một địa bàn có mật độ các hộ kinh doanh tương đối lớn như Quận Hai Bà Trưng cần đưa ra những biện pháp để khắc phục những khó khăn đó là: Một là: Cán bộ thuế phải luôn tăng cường tuyên truyền giải thích để cho ĐTNT hiểu được nghĩa vụ và trách nhiệm trong việc kê khai, đăng ký thuế UBNN quận, phường nên duy trì đội quản lý thị trường liên ngành bao gồm cơ quan thuế, tài chính, công an, viện kiểm sát hoạt động thường xuyên liên tục và có biện pháp xử lý nghiêm đối với những cá nhân cơ sở sản xuất, kinh doanh vi phạm những quy định về thủ tục kê khai và không có giấy phép đăng ký kinh doanh. Hai là: Để quản lý được ĐTNT đòi hỏi cán bộ thuế phải tích cực bám sát tiếp địa bàn để điều tra và lắm được tình hình các đối tượng sản xuất kinh doanh trên địa bàn thuộc phạm vi quản lý của mình như quản lý được thêm hộ kinh doanh vào sổ bộ nhằm phát hiện thêm nhiều hộ mới ra kinh doanh. Phối hợp các cơ quan điều tra thống kê, cơ quan cấp phát mã số, cơ quan cấp phát đăng ký kinh doanh để tạo điều kiện cho hộ kinh doanh thực hiện nghĩa vụ của mình. Đội thuế nên giao chỉ tiêu quản lý hộ kinh doanh cho từng cán bộ thuế theo ngành nghề kinh doanh và theo khu vực. Các hộ mới phát sinh mà cán bộ thuế quản lý khu vực đó không phát hiện báo cáo kịp thời với đội thuế và Chi cục để bổ sung vào bộ thuế hoặc là bỏ sót thì cán bộ thuế đó phải bị kiểm điểm, xử phạt, phê bình. Ngoài ra, các đội thuế còn phải phối hợp với các phường để kiểm tra hộ nghỉ và tìm ra những hộ nghỉ “giả”, có biện pháp cứng rắn đối với hộ cố tình vi phạm với các mức phạt khác nhau. Ba là: Quán triệt cho tất cả cán bộ thuế tính nghiêm trọng của việc cố ý bỏ sót hộ. Xử lý kỷ luật đối với các trường hợp giấu hộ, đồng thời từng bước đổi mới công tác giao kế hoạch thu hàng tháng, nhằm tránh tình trạng giấu bớt tiền thêm vào không có cơ sở chỉ nhằm đảm bảo số thu được giao mà không có tính khả thi. Bốn là: Duy trì nghiêm kỷ luật của công tác chấm bộ tại bộ phận kế toán thu, cuối kỳ chấm bộ phải báo cáo ngay số thuế tồn đọng của từng hộ và số biên lai thu nhưng không có tên trong bộ thuế để có kế hoạch kiểm tra xử lý kịp thời cũng như để bổ sung vào bộ những trường hợp chưa có tên trong bộ. Xử lý nghiêm các trường hợp chiếm dụng tiền thuế cũng như các hiện tượng thông đồng chuyển hộ sang thu phí như hiện nay. Ra quyết định miễn thuế cụ thể cho từng đối tượng thuộc diện được miễn thuế, để hạn chế bớt khả năng nhũng nhiễu trong công tác miễn thuế. Năm là: Mỗi cán bộ quản lý thu phải lập sổ theo dõi nộp thuế cho từng hộ trong đó có ghi số thuế thông báo hàng tháng và số đã nộp từng tháng kèm theo chứng từ gốc nộp thuế để rút ngắn thời gian kiểm tra địa bàn. Thường xuyên kiểm tra hoặc kiểm tra chéo giữa các đội thuế, xử lý về trách nhiệm đối với các cán bộ thuế bỏ sót hộ trong địa bàn quản lý. Để thực hiện tốt các biện pháp quản lý chúng ta có thể phân ra làm hai loại ĐTNT: * Đối với những hộ đã quản lý được: - Đối với những hộ kinh doanh đã ở trong diện quản lý tức là đã được theo dõi trên sổ bộ thì phải được sắp xếp theo mã số từng khu vực để tiện cho việc kiểm tra theo dõi. Khi xuất hiện những đơn xin nghỉ kinh doanh thì cán bộ thuế cùng cơ quan liên ngành vẫn phải thường xuyên theo dõi tình hình. - Đối với các hộ có đơn xin nghỉ kinh doanh chỉ được nghỉ khi có lý do chính đáng. Việc xét duyệt cho các hộ này được miễn thuế cần phải thực hiện đúng quy trình. Trước hết là có sự kiểm tra chặt chẽ đúng đắn của cán bộ thuế quản lý trên địa bàn, sau đó trình lên cán bộ duyệt và có quyết định đồng ý của lãnh đạo chi cục. Nếu những hộ nghỉ kinh doanh nhưng khi cán bộ kiểm tra phát hiện họ vẫn kinh doanh thì phải có biện pháp xử lý thích đáng như phạt hành chính hoặc đình chỉ kinh doanh. - Mỗi khi có những chính sách, quy định mới thì phải giải thích rõ cho các hộ kinh doanh, giúp họ hiểu được cặn kẽ từng chi tiết của quy định, chính sách, gây ra hiểu lầm dẫn đến chống đối. Từ đó giúp các hộ kinh doanh hiểu được nghĩa vụ của mình trước các chính sách mới, đưa họ đến với sự tự nguyện trước nghĩa vụ nộp thuế cho ngân sách Nhà nước. - Đối với các hộ kinh doanh không hiểu được quy định của các chính sách mới nên dẫn đến tình trạng chây lỳ, chống đối. Khi đó cần phối hợp với cấp có thẩm quyền để giải quyết kịp thời. - Cần phải có sự phối hợp có đồng bộ các biện pháp trên cùng với sự ủng hộ nhiệt tình của chính quyền địa phương, của các ngành có liên quan với tinh thần trách nhiệm của cán bộ thuế để đề ra một mức đóng góp hợp lý khiến người dân có thể chấp nhận được và đảm bảo nguồn thu cho NSNN. - Theo định hướng mới về thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể. Chi cục cũng nên phân định rõ các ĐTNT theo quy mô và mức độ hoạt động kinh doanh nhằm điều tiết chuyển đổi phương pháp áp dụng thuế một cách hợp lý, trong điều kiện có nhiều sửa đổi như hiện nay, tạo thuận tiện trong việc áp dụng thuế mới nếu có sự chuyển đổi. * Biện pháp quản lý đối với những hộ chưa quản lý được: Cơ quan thuế mà cụ thể là các cán bộ thuế phải tích cực bán sát địa bàn, phối hợp các cơ quan liên ngành để điều tra xác định rõ số hộ kinh doanh mà không có giấy phép kinh doanh (tức là chưa được quản lý trên sổ bộ) cụ thể: - Đối với những hộ buôn bán tại nhà, cửa hàng ăn uống giải khát có chỗ ngồi cố định nếu chưa tiến hành ĐKKD thì cán bộ thuế phải có trách nhiệm nhắc nhở, đôn đốc hộ này ĐKKD, tiến hành cấp ĐKKD, tính toán doanh thu và xác định số thuế phải nộp để quản lý trong sổ hộ. - Đối với những hộ kinh doanh ngoài vỉa hè, kinh doanh vãng lai không có chỗ ngồi cố định, thời gian kinh doanh không cụ thể thì biện pháp trước mắt để nắm được những hộ này là cần theo dõi thường xuyên hoặc có thể thu thuế định kỳ một tuần một lần hoặc một ngày để tránh làm mất nguồn thu từ thuế. Đối với những hộ cố tình chống đối hoặc núp bóng tập thể để kinh doanh trốn thuế thì ngoài những biện pháp xử lý hành chính thông dụng nếu vi phạm nhiều lần mặc dù đã được nhắc nhở thì có thể truy tố trước pháp luật. - Đối với các trường hợp các hộ quá khó quản lý do tính chất và đặc điểm của từng ngành kinh doanh thì có thể thu dưới dạng lệ phí. 2. Các giải pháp nhằm quản lý GTGT tính thuế Quản lý tốt GTGT tính thuế sẽ góp phần đảm bảo số thu sát với thực tế, vừa tăng thu cho NSNN, vừa đảm bảo công bằng giữa các hộ kinh doanh. Qua phân tích thực trạng công tác quản lý GTGT tính thuế ở chi cục thuế Hai Bà Trưng ta thấy việc quản lý GTGT tính thuế còn rất nhiều hạn chế. Như vậy, để có căn cứ tính thuế chính xác, đảm bảo kế hoạch được giao, thực hiện công bằng cho các hộ nộp thuế thì cần thiết phải áp dụng một số biện pháp sau đối với các hộ kinh doanh theo phương pháp khoán và hộ kinh doanh theo phương pháp kê khai. * Đối với các hộ kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khoán doanh thu Đối với những hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp này thì cơ quan thuế căn cứ vào tình hình kinh doanh của từng hộ để ấn định mức GTGT tính thuế. Thuế GTGT xác định bằng doanh thu ấn định nhân với tỷ lệ % thuế GTGT tình trên doanh thu. Như vậy, để đảm bảo số thu sát với thực tế, tăng thu cho NSNN và đảm bảo công bằng giữa các hộ kinh doanh theo phương pháp này thì theo tôi cần thiết phải áp dụng một số biện pháp sau: Một là: Cần nắm được diễn biến của thị trường, nắm được chỉ số giá cả và quy mô sản xuất kinh doanh của thị trường. Mặt khác, phải căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch của Cục thuế giao, việc điều chỉnh GTGT tính thuế phải tuân theo đúng quy trình để xác định doanh thu một cách chính xác và hợp lý. Hai là: Khi đã có số liệu dự kiến GTGT tính thuế của từng hộ, đội thuế phải báo cáo cho hội đồng tư vấn thuế của phường, sau đó niêm yết, công khai để hộ sản xuất kinh doanh và nhân dân tham gia góp ý. Tiếp thu những ý kiến đóng góp, đội thuế điều chỉnh cho phù hợp và gửi danh sách về Chi cục xét duyệt. Ba là: Thường xuyên tiến hành kiểm tra, điều chỉnh lại doanh thu tính thuế cho phù hợp đặc điệt đối với một số ngành nghề kinh doanh mang tính thời vụ. Bốn là: Việc áp dụng thu thuế theo phương pháp khoán doanh thu tính thuế GTGT chỉ là biện pháp trước mắt, trong giai đoạn đầu quá độ nhằm hoàn thiên thuế. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải nhanh chóng chuyển đổi từ phương pháp khoán sang phương pháp kê khai và thực hiện quản lý chặt chẽ hoá đơn, chứng từ. Có như vậy thì việc áp dụng luật thuế GTGT mới mang lại hiệu quả cao. Muốn vậy Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng trong thời gian tới phải làm một số công việc sau: - Tăng cường công tác tuyên truyền nội dung, tính ưu việt của thuế GTGT và chế độ quản lý sử dụng hóa đơn, chứng từ. Giúp các hộ kinh doanh hiểu được sự cần thiết phải mở sổ sách kế toán có như vậy thì các hộ kinh doanh mới có điều kiện tốt hơn trong việc giám sát công việc kinh doanh của mình. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho Chi cục khi triển khai luật thuế mới nếu có sự điều chỉnh. - Chi cục có kế hoạch vừa vận động, vừa bắt buộc các hộ kinh doanh có quy mô kinh doanh mà mức thuế môn bài từ bậc ba trở lên phải mở sổ sách kế toán. Vì trên thực tế theo phương pháp khoán có số thuế phải nộp thấp hơn theo phương pháp kê khai, mặt khác giữ sổ sách, hóa đơn, chứng từ có nhiều phức tạp nên nhiều hộ mặc dù đã có đủ điều kiện để mở sổ sách kế toán nhưng vẫn nộp theo phương pháp doanh thu. Kiên quyết thực hiện việc mở sổ sách kế toán, chỉ những hộ nhỏ, thực sự không làm sổ sách được mới chấp nhận thu thuế theo doanh thu khoán. - Tổ chức tập huấn cho những hộ sản xuất kinh doanh theo phương pháp khoán biết được cách mở sổ sách kế toán, biết cách ghi chép đầy đủ kịp thời, chính xác vào sổ kế toán. Hướng dẫn cách sử dụng bảo quản hóa đơn, chứng từ. Có như vậy đến khi chuyển sang áp dụng theo phương pháp kê khai mới khỏi bỡ gỡ, mới mẻ. * Đối với hộ kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp kê khai Việc quản lý GTGT tính thuế của các hộ kinh doanh áp dụng phương pháp kê khai là quản lý trên sổ sách kế toán, hóa đơn, chứng từ. Trong thực tế vấn đề sổ sách hóa đơn, chứng từ luôn là vấn đề bức xúc và khó giải quyết, khắc phục những tồn tại của thực hiện thuế GTGT nói chung và đặc biệt là thuế GTGT đối với phát triển kinh tế cá thể vấn đề càng khó khăn hơn. Do đó, để ngăn chặn việc thực hiện chế độ kế toán, sử dụng hóa đơn, chứng từ không đúng quy định của Bộ Tài chính thì Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng cần áp dụng những biện pháp sau: Thứ nhất: Kiểm tra các cơ sở dùng những loại hóa đơn nào, việc sử dụng hóa đơn bán hàng nếu như vi phạm như dùng hai quyền một lúc, nội dung ghi chép không rõ ràng, không đúng chỉ tiêu quy định trên hóa đơn thì phải lập biên bản xử lý ngay. Thứ hai: Đối với những hộ đăng ký thu thuế theo phương pháp kê khai mà không thực hiện nghiêm chế độ sổ sách kế toán, hóa đơn chứng từ quy định, làm mất hóa đơn “giả” thì Chi cục thuế nên phối hợp với các ngành chức năng (đội liên ngành) xử lý bằng cách không thừa nhận số liệu của hộ kinh doanh và ấn định mức thuế cao cùng với việc sử phạt hành chính. Đặc biệt là những hộ sản xuất kinh doanh mà sử dụng những hóa đơn không phải do Bộ Tài chính phát hành mà không đăng ký thì phải bị xử lý và coi như hành vi khai man, trốn lậu thuế. Thứ ba: Cán bộ thuế cần phải có sự kiểm tra khóa sổ kế toán, cuối tháng hoặc cuối quý của các hộ sản xuất, kinh doanh xem có chính xác, có khớp với số liệu trên những hóa đơn, chứng từ mua bán của tháng đó hay không, có như vậy thì việc quản lý GTGT tính thuế mới được chặt chẽ. Nhờ đó chống được tình trạng trốn lậu thuế, khai man đảm bảo nguồn thu cho NSNN. Thứ tư: Cán bộ thuế cần tăng cường kiểm tra việc kê khai GTGT tính thuế của từng tháng. Nếu phát hiện có sự chênh lệch giữa số liệu kê khai và số liệu quyết toán do nguyên nhân khách quan thì yêu cầu cơ quan kê khai bổ sung kịp thời. Đối với các trường hợp cố tình kê khai sai số chênh lệch lớn phải tiến hành tính số thuế phải nộp và phạt trốn lậu thuế theo quy định của pháp luật. 3. Giải pháp quản lý thu nộp tiền thuế Đây là khâu quan trọng nhất, là hiệu quả thể hiện kết quả các khâu trước đã được làm tốt chưa. Vấn đề chủ yếu ở khâu này là cần phải tìm ra phương hướng để đẩy nhanh việc nộp thuế của các hộ sản xuất, kinh doanh và hạn chế tối đa thuế nợ đọng, cũng như giải quyết các số thuế còn tồn đọng. Trong năm, các nhân viên trong toàn Chi cục đã tham mưu cố vấn cho ban chấp hành lãnh đạo Chi cục xây dựng các kế hoạch năm, quý, tháng giao cho đội thuế phường. Nhưng để kế hoạch thực sự mang tính chất thực tiễn là mục tiêu phấn đấu và thước đo đánh giá kết quả hoạt động của cơ sở, đòi hỏi Chi cục cần chú trọng xây dựng đội ngũ kế hoạch đủ về số lượng, am hiều các lĩnh vực, các diễn biến của thị trường. * Tăng cường việc giám sát, đôn đốc thường xuyên của cán bộ thuế nhằm thúc đẩy nhanh việc thu nộp tiền thuế. Qua ba năm thực hiện thuế GTGT, Chi cục thuế có tỷ lệ nợ đọng thuế tương đối thấp, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn có những yếu kém. Để khắc phục những tồn tại trong vấn đề này, Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng cần có những giải pháp sau: - Cán bộ thuế phải đôn đốc thu nộp thường xuyên theo đúng ngày, đúng số tiền, địa điểm ghi thông báo thuế, không để cho các hộ dây dưa tiền thuế, thu dứt điểm số thuế phải thu ngày tháng, Chi cục cần có sự phân công rõ ràng. Thường xuyên các cán bộ phụ trách phải chấm bộ để theo dõi kết quả thu nộp, nhằm phát hiện ra những hộ nợ đọng thuế và tìm ra nguyên nhân để có biện pháp xử lý thích hợp. - Đối với những hộ thu theo phương pháp kê khai, công tác quyết toán thuế phải được làm kịp thời theo định kỳ vào cuối tháng, cuối quý, cuối năm. - Cần áp dụng việc thu thuế qua Kho bạc đối với tất cả các hộ sản xuất, kinh doanh nhằm hạn chế việc tiêu cực từ cán bộ thuế. * Biện pháp xử lý những hộ cố tình vi phạm Trong trường hợp các hộ cố tình vi phạm về chế độ sổ sách kế toán, cố tình không chịu nộp thuế, cũng như không trả tiền thuế nợ, phải có biện pháp xử lý kịp thời như phạt hành chính, phạt tiền, tịch thu tài sản và cao hơn nữa là truy tố. - Đối với những hộ nợ đọng thuế phải làm đủ căn cứ để có cơ sở cho thanh tra của Chi cục hay đội liên ngành xử lý, chỉ làm thủ tục xoá bỏ hộ nợ đọng thuế khi hộ đó thực sự bỏ kinh doanh hay có lý do chính đáng khác. - Đối với cán bộ thuế: Những cán bộ thuế đã thu tiền thuế nhưng lại xâm phạm tiêu tiền thuế và chuyển sang khoản thuế nợ đọng, tiền thuế không nộp đúng thời gian quy định thì sẽ bị xử phạt nộp chậm theo quy định. Muốn phát hiện được tình trạng trên ban lãnh đạo Chi cục thuế cần phải cử đoàn thanh tra tổ chức kiểm tra toàn bộ biên lai nộp thuế của các hộ sản xuất, kinh doanh trên địa bàn, có thể đột xuất hoặc thường xuyên để so sánh với số thu của từng cán bộ thuế cố tình vi phạm. Thông báo cho các hộ khi nộp tiền thuế phải yêu cầu cán bộ nộp thuế đưa ngay biên lai nộp tiền thực. Bên cạnh đó Chi cục cũng cần phải khen thưởng kịp thời với những cán bộ có thành tích trong việc hoàn thành quản lý thu nộp tiền thuế. Nói chung, quy tắc thu nộp tiền thuế cần phải thực hiện theo đúng quy trình thu thuế đối với các hộ kinh doanh. Khuyến khích cán bộ nộp thuế tại Kho bạc sau đó báo về cho cơ quan thuế nhằm tránh tình trạng như hiện nay là các cán bộ thuế phải trực tiếp đi thu từng hộ gây tốn kém chi phí về người và của, dễ dẫn đến tiêu cực đối với các cán bộ thuế. 4. Biện pháp nhằm tăng cường việc quản lý sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ Trong thực tế khi áp dụng luật thuế này vấn đề sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ luôn là trở ngại lớn nhất. Đặc biệt đối với việc thực hiện quy trình quản lý thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh. Trong tình hình chung đó việc chấp hành chế độ kế toán hóa đơn, chứng từ của các hộ do Chi cục quản lý còn chưa tốt. Trên địa bàn Quận số hộ nộp thuế theo phương pháp khấu trừ còn chiếm tỷ lệ thấp, số hộ nộp thuế theo phương pháp có liên quan đến việc phải mở sổ sách kế toán hóa đơn, chứng từ chỉ chiếm khoảng 20%. Vì vậy, vấn đề đặt ra khi áp dụng thuế GTGT cho đến nay vẫn là các biện pháp nhằm củng cố đối với các hộ kinh doanh đã áp dụng chế độ kế toán, thống kê, đồng thời từng bước triển khai việc áp dụng chế độ kế toán, thống kê đối với các hộ cá thể kinh doanh đang nộp thuế theo phương pháp khoán, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, chống thất thu thuế GTGT có hiệu quả lớn. Thứ nhất là: Cần tuyên truyền, giải thích cho các hộ kinh doanh hiểu về tác dụng, vai trò của việc thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hóa đơn, chứng từ, sổ sách kế toán. Cần giải thích cho các hộ kinh doanh hiểu được việc sử dụng hóa đơn, chứng từ sẽ làm cho họ không bị thiệt thòi khi căn cứ tính thuế chính xác hơn, đồng thời được khấu trừ thuế đầu vào khi mua hàng. Qua đó, cũng thuận lợi cho việc kiểm tra thực hiện kế hoạch, chủ trương, hợp đồng sản xuất, kinh doanh, thu chi tài chính, kỷ luật thanh toán, kiểm tra sử dụng và bảo vệ tài sản, tiền vốn nhằm đảm bảo tính chủ động trong sản xuất kinh doanh và vật tư, tài chính của hộ kinh doanh. Thứ hai là: Phải đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc quản lý hàng hóa, công tác quản lý hóa đơn phải được thực hiện từ gốc. Trước hết, mỗi lần mua hóa đơn cơ sở phải xuất trình sổ theo dõi mua hóa đơn với cơ quan thuế. Khi nhận hóa đơn do cơ quan thuế giao cơ sở phải đếm từng quyển, từng tờ đối chiếu với sổ theo dõi, đồng thời cơ sơ kinh doanh phải viết đầy đủ về tên, địa chỉ, mã số ngành nghề vào tất cả các liên giao cho khách hàng trước khi sử dụng quyển hóa đơn đó, nhằm ngăn chặn tình trạng các cơ sở kinh doanh bán lại hoá đơn trắng cho người khác sử dụng. Cần quy định cán bộ trực tiếp quản lý cơ sở phải thường xuyên theo dõi kiểm tra, quản lý việc ghi chép trên hóa đơn trước khi mua hóa đơn mới. Đối với các hộ nghỉ kinh doanh lâu, cán bộ thuế cần lập biên bản tạm thu hồi các quyển chưa dùng tránh việc lợi dụng hoá đơn còn lại để xuất hàng chốn lậu thuế. Trường hợp bị mất hóa đơn hộ kinh doanh phải lập biên bản ghi rõ nguyên nhân, báo cáo với cơ quan có thẩm quyền để xử lý và thông báo rộng rãi để vô hiệu hoá việc sử dụng hóa đơn đã mất. Trong quá trình sử dụng hóa đơn, chứng từ cán bộ thuế thường xuyên theo dõi để phát hiện các trường hợp lô hàng không xuất hóa đơn, nội dung ghi chép không rõ ràng, không đúng quy định và xử lý theo chế độ. Thứ ba là: Tăng cường các biện pháp nhằm ngăn chặn việc trốn thuế qua sử dụng hóa đơn GTGT, Chi cục thuế cần làm những việc sau: - Khi kiểm tra thuế đầu vào, đầu ra (đối với các hộ nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ) cán bộ thuế phải đối chiếu kỹ lưỡng các hóa đơn GTGT do các hộ sản xuất, kinh doanh phát hành. Những hóa đơn có giá trị lớn phải đối chiếu với cơ quan thuế quản lý và người bán hàng để phát hiện những thủ đoạn gian dối. - Phối hợp chặt chẽ với công an kinh tế quận để phát hiện các trường hợp mua bán hóa đơn GTGT bất hợp pháp nhằm trốn thuế. - Xử lý nghiêm minh các đối tượng in, mua bán hóa đơn giả hoặc vi phạm những quy định sử dụng hóa đơn GTGT. Hiện nay, Bộ Tài chính có khuyến khích các doanh nghiệp tự in, phát hành hoá đơn nhưng thường chỉ thực hiện được ở các doanh nghiệp lớn. Vì vậy, đối với các hộ việc sử dụng hoá đơn in sẵn của Bộ Tài chính vẫn là phổ biến, do đó thông qua việc bán hoá đơn này cơ quan thuế sẽ có biện pháp quản lý thuận lợi hơn. Thứ tư là: Phải có chế độ khen thưởng và xử lý vi phạm trong việc sử dụng hóa đơn, chứng từ và việc quản lý chúng đối với các bộ thuế. 5. Biện pháp tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế Trong các năm qua, công tác thanh tra, kiểm tra tại Chi cục luôn đạt được những kết quả tốt trong việc kiểm tra doanh thu, thực hiện chế độ sổ sách kế toán, kiểm tra các hộ nghỉ kinh doanh. Đặc biệt đã rất tích cực trong công tác kiểm tra, quyết toán thuế tại các hộ kinh doanh. Tuy nhiên, bên cạnh đó công tác thanh tra, kiểm tra thuế tại Chi cục vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt trong việc kết hợp quy trình quản lý thu thuế đối với các hộ. Trong thực hiện quy trình, vai trò kiểm tra, giám sát lẫn nhau rất quan trọng nhưng bộ phận thanh tra, kiểm tra chỉ mới thực hiện những công việc đơn giản, chưa hỗ trợ được đội thuế theo dõi tình hình thu nộp của các hộ một cách sâu sát. Đặc biệt công tác kiểm tra nội bộ mới chỉ thực hiện theo cách chống đối. Vì vậy, đối với công tác thanh tra, kiểm tra cần có các biện pháp để tăng cường hiệu quả cho hoạt động này như: - Chức năng thanh tra, kiểm tra giữ một vai trò quan trọng, nhưng để đảm bảo cho cơ chế tự kê khai nộp thuế hoạt động hiệu quả, chức năng thanh tra cần được tăng cường. Mục tiêu của công tác thanh tra, kiểm tra là giảm xuống mức thấp nhất sự chênh lệch giữa số thuế đối tượng tự kê khai và số thuế phải nộp theo luật định. Do trên địa bàn có số lượng cơ sở kinh doanh lớn, việc kiểm tra các đối tượng trong năm là khó thực hiện, vì vậy phạm vi kiểm tra cần được phân loại theo từng loại căn cứ vào sổ bộ thuế môn bài để có thể kiểm tra cả về số lượng ĐTNT, mức doanh thu và kiểm tra tình hình nộp thuế. Từ đó, có kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện phù hợp với quy mô của ĐTNT. - Đối với công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ: Thường xuyên tăng cường kiểm tra chéo sổ sách, kiểm tra chéo địa bàn để nâng cao trách nhiệm và hạn chế bớt những tiêu cực của cán bộ thuế. - Đẩy mạnh tiến độ kiểm tra quyết toán thuế GTGT đối với các hộ. - Kết hợp kiểm tra thường xuyên và kiểm tra đột xuất, kết hợp với các ngành chức năng kiểm tra việc đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế. Để đạt được hiệu quả trong công tác trên thì các cán bộ thanh tra cần thường xuyên nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm và phẩm chất đạo đức của họ. 6. Biện pháp tăng cường việc tuyên truyền, giáo dục luật pháp về thuế Đến nay không còn là thời điểm truyền đạt chính sách, chế độ thuế chung chung mà cần sâu sát cơ sở, nắm bắt thắc mắc cụ thể và kịp thời giải đáp để mọi cơ sở kinh doanh và các tầng lớp dân cư thông suốt về thuế GTGT, tạo điều kiện giúp cho các hộ thuộc mọi quy mô kinh doanh nắm chắc những việc thật cụ thể mà họ phải làm từ quá trình kê khai, đăng ký mã số thuế đến tính thử, đến việc kê khai đăng ký mua hoá đơn, viết hoá đơn, lập sổ sách kế toán theo hệ thống tài khoản có liên quan đến thuế GTGT. Trong công tác tuyên truyền không chỉ là một chiều mà cần lắng nghe thắc mắc, tâm tư, nguyện vọng để giải đáp hoặc phản ánh lên cấp trên nghiên cứu sửa đổi bổ sung để chính sách ngày càng phù hợp, hoàn thiện. Cần quan tâm tới cả những hình thức xử lý vi phạm để phát huy tính giáo dục, răn đe, ngăn ngừa vi phạm về thủ tục khai báo, quản lý về sử dụng hoá đơn, kế toán, về trốn lậu thuế. Thành lập các điểm tư vấn pháp luật về thuế, kịp thời giúp đỡ các cơ sở kinh doanh nắm bắt và thực hiện đúng các luật thuế hiện hành. 7. Các biện pháp về tổ chức cán bộ Thường xuyên kiểm tra việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ thuế. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tổ chức cán bộ, đơn vị có hoàn thành được nhiệm vụ được giao hay không là phụ thuộc vào yếu tố con người. Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng đã chú trọng công tác đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho các cán bộ thuế. Việc bố chí sắp xếp công việc tương đối phù hợp với mỗi cán bộ. Song so với yêu cầu, nhiêm vụ đặt ra thì công tác tổ chức cán bộ của Chi cục vẫn còn có nhiều hạn chế cần khắc phục theo hướng: - Có kế hoạch thường xuyên cử cán bộ đi các lớp chuyên môn như đại học chuyên ngành về thuế, cử các cán bộ thuế đi dự các lớp tập huấn về nhiệm vụ do ngành thuế tổ chức. - Kiện toàn các tổ chức chuyên môn trên văn phòng đủ về số lượng, mạnh về chất lượng để đảm bảo được nhiệm vụ của mình. - Nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý thuế hiện nay, Chi cục phải thường xuyên quan tâm, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ về tin học để đưa nên mạng máy tính sử dụng vào quản lý thuế. * Tuyển dụng những cán bộ thuế có đủ năng lực về trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức. Điều kiện môi trường làm việc dễ làm thoái hoá, biến chất cán bộ thuế, trong điều kiện thay đổi cán bộ thuế không thực hiện được do số lượng cán bộ thuế còn ít, và việc thay đổi sẽ dẫn đến hiện tượng các cán bộ thuế chưa nắm được tình hình trên địa bàn mình quản lý đã phải chuyển đi nơi khác, do đó cần phải đẩy mạnh công tác thanh tra nội bộ làm trong sạch đội ngũ cán bộ thuế. Trong điều kiện hiện nay ở Chi cục phải quản lý một số lượng hộ kinh doanh quá lớn, trong khi số cán bộ thuế còn quá ít. Do đó Chi cục phải tổ chức tuyển dụng thêm các công nhân viên có trình độ chuên môn sâu, có tư cách đạo đức tốt. Hạn chế việc nhận những cán bộ quen biết mà trình độ kém hoặc không đúng chuyên môn. Có như vậy thì Chi cục thuế mới có đủ sức mạnh, khả năng, điều kiện để hoàn thành nhiệu vụ trong giai đoạn hiện nay. * Có sự phối hợp giữa cơ quan thuế với các cấp ngành khác. Chi cục thuế phải luôn tăng cường phối hợp với các ngành, các cấp có thẩm quyền trong việc quản lý thu thuế đặc biệt đối với các ngành nội chính như công an kinh tế, viện kiểm soát, quản lý thị trường trên địa bàn Quận để tạo điều kiện thuận lơi trong việc quản lý các ĐTNT, quản lý khâu thu nộp tiền thuế và xử lý những trường hợp vi phạm. IV- Một số kiến nghị nhằm thúc đẩy tiến trình hoàn thiện và tăng cường công tác quản lý thu thuế GTGT đối với các hô kinh doanh cá thể trên địa bàn Quận Hai bà trưng 1. Đối với Nhà nước. * Hoàn thiện luật thuế GTGT Thực tế cho thấy luật thuế GTGT về cơ bản đã khắc phục được những tồn tại của thuế doanh thu trước đây. Nhưng bên cạnh đó thuế GTGT áp dụng đối với thành phần kinh tế cá thể chưa thực sự phù hợp, không phản ánh đúng được bản chất của thuế GTGT do các yếu tố, điều kiện thực hiện thuế GTGT đối với thành phần kinh tế này chưa đầy đủ. Vì vậy đối với thành phần kinh tế này có thể thực hiện điều chỉnh chuyển đổitheo hướng sau:một bộ phận hộ đã thực hiện đủ các điều kiện về chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ thì chuyển sang tính và nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Một bộ phận còn lại do không thể thực hiện được các điều kiện của thuế GTGT thì nên chuyển sang điều chỉnh theo một luật thuế mới không phải là thuế GTGT, như luật thuế doanh thu. Có như vậy thì thuế GTGT mới thực sự phản ánh được bản chất của mình và Nhà nước mới quản lý được thuế đối với thành phần kinh tế cá thể này. Tuy nhiên, trong thời gian này, khi vẫn tiếp tục áp dụng thuế GTGT đối với thành phần này nên xem xét để giải quyết những vấn đề như: - Hoàn thiện phương pháp tính thuế GTGT, khắc phục tình trạng hai sân chơi, cho phép các đơn vị thực hiện theo phương pháp khấu trừ thuế đầu vào khi mua hàng hóa, dịch vụ của các đơn vị theo phương pháp gián tiếp, tạo sự bình đẳng trong cạnh tranh của các cơ sở kinh doanh trong mọi thành phần kinh tế, đặc biệt đối với thành phần kinh tế cá thể. Đối với các cơ sở kinh doanh chưa tính thuế theo phương pháp khấu trừ nhưng có lập hoá đơn, chứng từ thông thường theo quy định thì có thể bóc tách GTGT đầu ra từ doanh thu có thuế GTGT: (Doanh thu có thuế GTGT x Thuế suất)/ (1 + thuế suất ) và thuế GTGT đầu vào từ chi phí mua hàng từ bên ngoài có thuế GTGT= (Chi phí có thuế GTGT x Thuế suất)/ (1+ thuế suất ). - Đối với các hộ kinh doanh nhỏ cần quy định rõ tiêu thức phân loại trên cơ sở điều tra khảo sát để áp dụng mức thuế khoán sát với thực tế hoạt động kinh doanh. Mức thuế khoán phải được rà soát lại sau một thời gian nhất định. - Vấn đề áp dụng thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể có những quy định về việc quản lý ĐTNT trong đó quản lý các hộ kinh doanh còn rất nhiều vấn đề còn bàn cãi vì vậy đối với những hộ nghỉ kinh doanh này cần có những chính sách quy định cụ thể như: + Các cơ quan thuế không phải là cơ quan cho phép kinh doanh, do vậy không có thẩm quyền xét cho nghỉ kinh doanh vì vậy những hộ kinh doanh khi nghỉ chỉ báo cơ quan thuế, cho nên cơ quan thuế kiểm tra xác minh các hộ kinh doanh đó là rất khó. Vì vậy nên chăng việc xét nghỉ kinh doanh cần để cho cơ quan thuế, như vậy sẽ dễ theo dõi quản lý hơn. + Việc xét miễn, giảm cần quy định hợp lý hơn nên miễn giảm thuế cho từng ngày là hợp lý nhất, căn cứ vào số thuế trung bình phải nộp tính ra của mỗi ngày. + Cần có một quy trình kiểm tra thực địa các hộ nghỉ một cách khoa học, thường xuyên, đảm bảo không để hiện tượng báo nghỉ để xin miễn giảm thuế. - Do trong hoạt động sản xuất, kinh doanh không phải lúc nào họ cũng chỉ quan hệ với các doanh nghiệp có sử dụng hóa đơn GTGT để dược khấu trừ thuế đầu vào mà họ còn có quan hệ với các doanh nghiệp khác, có hàng hóa dịch vụ không sử dung hóa đơn GTGT. Vì vậy để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển và mang lại lợi nhuận cao thì Nhà nước cần phải mở rộng việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào của một số hàng hoá, dịch vụ có sử dụng hóa đơn thông thường hợp lệ. - Mở rộng ĐTNT theo phương pháp khấu trừ. Để tạo môi trường bình đẳng trong việc nộp thuế thì trong thời gian tới nhà nước cần mở rộng diện nộp thuế theo phương pháp khấu trừ bằng các quy đinh bắt buộc các hộ có quy mô vừa và lớn, phải nộp thuế theo phương pháp khấu trừ để đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. * Hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thực hiện luật thuế GTGT. Hệ thống luật thuế của chúng ta hiện nay không đồng bộ, đan xen nhiều bậc kể cả luật thuế cũ, mới, luật sửa dổi bổ sung. Vì thế cơ cấu tổ chức quản lý thu không kịp thay đổi so với sự thay đổi này, và trong một trình độ có hạn đã làm ảnh hưởng nhiều đến công tác thu thuế. Do đó đòi hỏi Nhà nước cần ban hành đồng bộ hệ thống luật thuế, khắc phục tình trạng chắp vá chồng chéo của các văn bản hướng dẫn, nên thiết kế và ban hành một luật thuế GTGT mới thay thế hoàn toàn luật thuế GTGT đã ban hành trước đây. * Hoàn thiện các luật thuế khác và các vấn đề có liên quan. - Cùng với việc sửa đổi phải bổ sung văn bản luật thuế GTGT, cần nhanh chóng ban hành luật kế toán- kiểm toán trong nền kinh tế, trang bị cho các cơ quan thuế những phương tiện hiện đại, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kiểm tra thu thuế. - Song song với những thay đổi trên cần có những quy định pháp lý nhằm hạn chế việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán, kết hợp với các cơ quan Kho bạc, Ngân hàng để cùng thực hiện việc nộp tiền thuế. 2. Đối với Tổng cục thuế và Cục thuế Hà Nội * Về việc sắp xếp, tổ chức lại ngành thuế: Nên có sự tổ chức sắp xếp các bộ phận quản lý thu thuế đối với thành phần kinh tế cá thể sao cho phù hợp, để nâng cao hiệu quả của công tác quản lý thuế. Đặc biệt nhằm làm giảm chi phí cho việc quản lý thu đối với bộ phận kinh tế này. * Hình thành và phát triển “nhóm tư vấn thuế” Hình thành nhóm tư vấn thuế là một nhu cầu cần thiết đối với các ĐTNT đặc biệt là đối với loại hình hộ kinh doanh. Nhiều nước trên thế giới coi dịch vụ tư vấn thuế là một nghề. Vì vậy, ở Việt Nam đã có một số công ty tài chính của nước ngoài có hoạt động tư vấn thuế. Do đó trong thời gian tới các cơ quan thuế nên thành lập các nhóm tư vấn thuế. Đây là một dịch vụ cung cấp các thông tin, kiến thức, kinh nghiệm và sự hiểu biết về lĩnh vực thuế. Nhóm tư vấn thuế nằm trong cơ cấu tổ chức ngành thuế. Bộ phận này có tính độc lập tương đối với bộ phận trực tiếp quản lý thuế. Đồng thời để khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ tư vấn này nên coi tư vấn thuế là một loại chi phí hợp lý để tính thu nhập chịu thuế. * Về cơ sở vật chất: - Cần tăng cường cơ sở vật chất cho các quận, huyện để phục vụ cho công tác quản lý và thuận lợi cho việc thu thuế tại các Chi cục như xây dựng và quy định các điiểm thu thuế trên địa bàn, trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại phục vụ cho việc tính và thu thuế. - Xây dựng phần mềm máy tính phục vụ riêng cho việc quản lý thuế nói chung và thuế GTGT nói riêng. Nối mạng cục bộ đối với ngành thuế để tạo điều kiện cho việc kiểm tra, kiểm soát thuế dễ dàng hơn, hiện đại hơn nhằm hoàn thiện việc thực hiện thuế GTGT một cách tiên tiến hơn. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các Chi cục trong việc áp dung các chương trình này bằng việc cấp kinh phí đào tạo, trang bị hệ thống máy vi tính và chương trình phần mềm phục vụ cho việc quản lý thuế tại các đơn vị này. - Tăng cường việc giáo dục, tuyên truyền các chính sách thuế và đặc biệt là thuế GTGT nhằm nâng cao ý thức pháp luật của người dân. 3. Đối với chính quyền và các cơ quan chức năng khác có liên quan * Tăng cường sự lãnh đạo của chính quyền các cấp và sự phân phối với các cơ quan chức năng. - Các cấp lãnh đạo, các cơ quan chức năng của các cấp, ngành đều phải coi thuế là một công tác trọng tâm thuộc trách nhiệm của mình. Từ đó tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo bằng các chương trình, đề án cụ thể, có biện pháp thiết thực, sâu sát. Để hỗ trợ cho công tác thuế, UBND, các cơ quan liên quan cần thực hiện tốt chính sách, chế độ quản lý kinh tế tài chính trên địa bàn quận. Bên cạnh đó chỉ đạo các cơ quan có liên quan trên địa bàn hỗ trợ cơ quan thuế thực hiện nhiệm vụ. - Các phòng kế hoạch, thống kê, lao động, vật giá cần phối hợp các cơ quan thuế để nắm chắc hơn hoạt động của các hộ kinh doanh, phối hợp với Viện kiểm sát, Công an, Tòa án xử lý vi phạm, kiên quyết đấu tranh chống trốn lậu thuế. Đặc biệt các ngành Tài chính, Ngân hàng, Kho bạc, Bưu điện cần phối hợp với cơ quan thuế để tạo điều kiện mở thêm các điểm thu thuế, hiện đại hoá các điểm thu thuế, hiện đại hoá các điểm thu đảm bảo thu nộp thuế nhanh gọn, kịp thời đầy đủ. Ngoài ra có thể theo dõi tình hình hoạt động kinh doanh, doanh thu phát sinh của các hộ kinh doanh thông qua việc mở tài khoản thanh toán qua ngân hàng của các hộ. * Các cơ quan chính quyền cần quan tâm hơn đến việc xây dựng cơ sở vật chất cần thiết phục vụ cho công tác thu thuế như: xây dựng cơ sở hạ tầng, trang bị các máy móc kỹ thuật hiện đại để việc quản lý thu thuế được tốt hơn. Kết luận Qua bài viết với đề tài nghiên cứu: “Một số biện pháp nhằm hoàn thiện việc áp dụng thuế GTGT đối với thành phần kinh tế cá thể tại Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng” đã cho phép nghiên cứu rất nhiều vấn đề, từ lý luận đến thực tiễn, liên quan đến thuế GTGT và thành phần kinh tế cá thể. Qua đây cho thấy, trong nền kinh tế thị trường khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đang phát triển mạnh mẽ và đa dạng cũng như sự đòi hỏi đáp ứng nhu cầu chỉ tiêu của NSNN ngày càng tăng, đã làm cho công tác quản lý thuế trở nên khó khăn, phức tạp hơn. Điều đó đòi hỏi các biện pháp quản lý thu thuế của cơ quan thuế cũng như của từng cán bộ thuế càng phải hoàn thiện hơn, nhằm đáp ứng những yêu cầu của các chính sách thuế mới đặt ra hiện nay. Đặc biệt là việc áp dụng 2 luật thuế mới là thuế GTGT và thuế TNDN. Thuế GTGT đã áp dụng ở Việt Nam được hơn 3 năm, trong điều kiện nước ta còn nhiều vấn đề chưa đáp ứng được các điều kiện áp dụng luật thuế tiên tiến này. Do đó, nó đòi hỏi cần phải tìm hiểu nghiên cứu kỹ từ bản chất, ưu, nhược điểm, điều kiện áp dụng, đến việc xem xét thực trạng áp dụng trong thực tiễn. Đặc biệt, là việc xem xét áp dụng đối với các hộ kinh doanh cá thể trong điều kiện hiện nay. Vì vậy, trong thời gian thực tập tại Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng, cùng với những kiến thức đã tiếp thu, tìm hiểu, nghiên cứu được tại trường, kết hợp với thực tiễn áp dụng đã cho tôi thấy thuế GTGT là một sắc thuế mới, hiện đại, có sự thay đổi khác biệt lớn đối với các sắc thuế trước đây. Mặc dù đã áp dụng được 3 năm, nhưng qua thực tế nói chung và tại Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng nói riêng cho thấy luật thuế này cũng không tránh khỏi những vướng mắc, hạn chế trong quá trình thực hiện. Do đó, bằng những kiến thức đã học và tìm hiểu trên thực tế, tôi mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài này nhằm tìm ra những nguyên nhân còn tồn tại và đề xuất một số giải pháp, tạo điều kiện cho việc áp dụng luật thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể khu vực kinh tế ngoài quốc doanh mang lại hiệu quả cao nhất, tăng thu cho NSNN, thúc đẩy kinh tế cá thể phát triển và thực hiện công bằng xã hội. Tôi hy vọng những đề xuất trên sớm được Chi cục xem xét, áp dụng nhằm đem lại hiệu quả tốt đối với công tác thu thuế GTGT tại Chi cục trong thời gian tới. Với trình độ còn hạn chế, kinh nghiệm thực tế chưa có nhiều, thời gian có hạn nên việc thực hiện đề tài khó tránh khỏi những hạn chế, sai sót. Tôi mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo, các cán bộ tại Chi cục thuế để đề tài được hoàn thiện và có tính khả thi hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn Thầy giáo - T.S Đàm Văn Huệ, các cán bộ tại Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng cùng toàn thể các thầy, cô giáo trong Khoa Ngân hàng - Tài chímh đã tận tình giúp đỡ tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2002 Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Loan Mục lục Lời nói đầu 1 chương I: Những vấn đề cơ bản về thuế giá trị gia tăng 4 I- Những vấn đề chung về thuế 4 1. Khái niệm và đặc điểm của thuế 4 2. Vai trò của thuế 6 3. Những yếu tố cơ bản của một sắc thuế 8 II- Thuế giá trị gia tăng 10 1. Quá trình ra đời và phát triển của thuế GTGT 10 1.1. Một số khái niệm chung về GTGT và thuế GTGT 10 1.2. Quá trình ra đời và phát triển của thuế GTGT 12 2. Đặc điểm chung của thuế GTGT và tác động của nó đến một số vấn đề kinh tế 12 3. Điều kiện áp dụng thuế GTGT 16 III- Thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể 18 1. Nội dung cơ bản của luật thuế GTGT hiện hành 18 1.1- Phạm vi áp dụng 19 1.2- Căn cứ tính thuế 19 1.3- Phương pháp tính thuế 21 1.4- Quy định về hoá đơn chứng từ 22 1.5- Miễn giảm thuế 23 1.6- Hoàn thuế GTGT 23 1.7- Đăng ký kê khai nộp thuế và quyết toán thuế 24 1.8- Xử lý vi phạm về thuế 25 2. Thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể 25 2.1. Sự tồn tại của thành phần kinh tế cá thể trong đIều kiện hiện nay ở Việt Nam 25 2.2. Sự cần thiết phải quản lý thuế GTGT đối với khu vực kinh tế cá thể 27 2.3. Thuế GTGT áp dụng đối với các hộ kinh doanh 28 Chương II: Thực trạng việc áp dụng thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể tại chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng 33 I- Khái quát vềthành phần kinh tế hộ cá thể và Chi cục thuế Quận Hai Bà Trưng 33 1. Khái quát về các hộ cá thể trên địa bàn quận HBT 33 2. Giới thiệu chung về chi cục thuế quận HBT 34 2.1- Quá trình ra đời và chức năng nhiệm vụ của chi cục thuế quận HBT 34 2.2- Bộ máy tổ chức quản lý thu thuế tại chi cục thuế HBT 35 2.3- Đội ngũ cán bộ quản lý 38 3. Tình hình công tác quản lý thu thuế trong những năm gần đây 38 3.1- Kết quả thu NSNN của chi cục thuế trong thời gian qua 38 3..2- Đánh giá kết quả thu NSNN và các mặt công tác khác tại Chi cục thuế quận HBT 39 II- Thực trạng việc áp dụng thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể trong vài năm qua tại chi cục thuế HBT 43 1. Quy trình quản lý thu thuế hộ cá thể kinh doanh CTN 43 1.1- Nội dung quy trình quản lý thu thuế 43 1.2- Thực trạng việc thực hiện quy trình tại chi cục 47 2. Kết quả về tình hình thu thuế GTGT dối với các hộ kinh doanh cá thể tại Chi cục thuế quận HBT 51 2.1- Tình hình quản lý ĐTNT (theo bộ thuế môn bàI) 52 2.2- Tình hình quản lý căn cứ tình thuế 54 2.3- Quản lý thu nộp tiền thuế 58 III- Đánh giá việc thực hiện thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể ở Chi cục thuế Quận HBT 60 1. Những mặt đã đạt được 60 2. Những khó khăn và tồn tại trong quá trình áp dụng 61 Chương III: Kinh nghiệm một số nước, giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện việc áp dụng thuế GTGT dối với các hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn quận HBT 64 I- Kinh nghiệm của một số nước về áp dụng thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể 64 II- Mục tiêu, định hướng hoàn thiện thuế GTGT ở Việt Nam và những định hướng đối với việc phát triển kinh tế cá thể trong việc áp dụng thuế GTGT 68 III- Một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc áp dụng thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể tại chi cục thuế quận HBT 72 1. Giải pháp trong việc quản lý đối tượng nộp thuế 72 2. Quản lý về GTGT tính thuế 76 3. Giải pháp quản lý thu nộp tiền thuế 78 4. Biện pháp nhằm tăng cường việc quản lý sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ 79 5. Biện pháp tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế 81 6. Biện pháp tăng cường việc tuyên truyền, giáo dục luật pháp về thuế 82 7. Các biện pháp về tổ chức cán bộ 82 IV. Một số kiến nghị nhằm thúc đẩy tiến trình hoàn thiện và tăng cường công tác quản lý thu thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn quận HBT 84 1. Đối với Nhà nước 84 2. Đối với Tổng cục thuế và Cục thuế Hà Nội 86 3. Đối với chính quyền và các cơ quan chức năng khác có liên quan 87 Kết luận 88 Danh mục tài liệu tham khảo Danh mục tài liệu tham khảo Bài giảng môn tài chính công của cô Nguyễn Thị Bất Bài giảng môn quản lý thuế của thầy Phan Hữu Nghị Giáo trình quản lý thuế Nhà nước của trường ĐHTC Giáo trình quản lý thuế của trường ĐHKTQD Chính sách thuế trong kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 xuất bản năm 1996 Thuế GTGT và mô hình áp dụng tại Việt Nam xuất bản năm 1997 Luật thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn thi hành xuất bản năm 2000 Thuế GTGT và mô hình áp dụng tại Việt Nam của Nhà Xuất Bản Tài Chính năm 1997 Báo cáo tổng kết cuối năm 1999, 2000, 2001 của Chi cục thuế Quận HBT Tạp chí phát triển kinh tế số 113/2000, 114/2000 11. Tạp chí tài chính số 7,8/2000; số 1,2,3/2001 12. Tạp chí kinh tế và phát triển số 42/2000, số 1, 2/2002 và một số tạp chí có liên quan như: Tạp chí thương mại, ngân hàng…

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33947.doc
Tài liệu liên quan