Như vậy chất lượng tín dụng ngân hàng là một khái niệm rộng, xét trên một góc độ ngân hàng, khách hàng và xã hội thì có mỗi khái niệm khác nhau. Hơn nữa còn là một khái niệm mang tính định lượng và định tính. Định lượng là những chỉ tiêu ta có thể tính toán so sánh như đối với ngân hàng chủ yếu là chỉ tiêu dư nọ và nợ quá hạn, còn định tính như khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế . và tất nhiên chất lượng của khoản tín dụng trung dài hạn cũng không nằm ngoài khái niệm chung đó.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - một Ngân hàng giữ vị thế chủ đạo trong lĩnh vực đầu tư và phát triển, có thế mạnh và kinh nghiệm với 42 năm hoạt động trong trong lĩnhvực tín dụng đầu tư phát triển. Hoạt động tín dụng trung dài hạn của ngân hàng trong những năm qua luôn tăng trưởng, dư nợ tín dụng trung dài hạn luôn chiếm 50-60% tổng dư nợ. Ngân hàng thực sự là địa chỉ tin cậy đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Mặc dù tỉ lệ nợ quá hạn của ngân hàng trong những năm qua là hơn 2%. Thấp hơn so với các ngân hàng thương mại khác trong nước. Nhưng đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam tỉ lệ này còn cao, với phương hướng giảm tỉ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ xuống dưới 2% đòi hỏi, toàn bộ hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cần thực hiện tốt những giải pháp để đạt được kết quả như mục tiêu đề ra.
Thành quả đạt được của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng trung dài hạn nói riêng trong những năm qua đã đóng góp thiết thực cho sự phát triển kinh tế của đất nước, đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu: dân giàu, xã hội công bằng văn minh. Đồng thời khẳng định vai trò, vị trí của Ngân hàng trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, thời kì CNH,HĐH.
Vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn đòi hỏi phải đề cập một cách sâu sắc, đầy đủ mang tính thực tế cao. Nhưng do thời gian thực tập ngắn, kinh nghiệm thực tế của bản thân chưa có nên chuyên đề còn nhiều thiếu sót về mặt thực tiễn cũng như lý luận. Rất mong sự góp ý, chỉ bảo của thầy, cô và các bạn để chuyên đề được hoàn chỉnh và thực tế hơn.
Em xin chân thành cảm ơn các anh, chị và lãnh đạo tại phòng tín dụng II, Ngân hàng Đầu tư và Phát triểnViệt Nam và đặc biệt là cảm ơn thầy giáo hướng dẫn PTS. Lê Đức Lữ đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
72 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1234 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đồng năm 2001. trong đó tín dụng trung dài hạn chiếm đa phần và liên tục tăng qua các năm từ 6216 tỷ đồng năm 1999 lên 7.909 tỷ đồng năm 2000 tăng 127,2%, và đến năm 2001 đạt 11.072 tỷ đồng tăng 139,9%. Đồng thời cho vay uỷ thác tài trợ phát triển tăng từ 2.258 tỷ đồng năm 1999, 2.581 năm 2000 tăng 114,3% và năm 2001 là 3097 tỷ đồng, tăng 119,9%, điều này càng chứng tỏ thế mạnh của NHĐT và phát triển Việt Nam trong lĩnh vực cho vay trung dài hạn phục vụ cho đầu tư phát triển theo kế hoạch của nhà nước góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
Để thấy rõ hơn điều này, trong giai đoạn từ 1990- 2001, tổng số vốn cho vay đầu tư phát triển theo cơ chế ưu đãi của Nhà nước là 28593 tỷ đồng, trong đó chủ yếu tập trung ở NHĐT và PT, chiếm tới 75% tức là 21579 tỷ đồng, ngoài ra còn có Tổng cục đầu tư và phát triển với số vốn 5.325 tỷ đồng, chiếm 18,6%, và các ngân hàng thương mại quốc doanh khác rất nhỏ, NHCT 876 tỷ đồng, chiếm 3,06%; NHNN và PTNT 822 tỷ đồng, chiếm 2,8%. Lãi suất cho vay của loại hình tín dụng ưu đãi này rất thấp, giao động từ 0,7%/tháng đến 1,1%/tháng qua từng thời kỳ, hiện nay là 0,81%/tháng. Đối tượng cho vay chủ yếu tập trung vào các ngành như: Điện, cơ khí, sản xuất hàng xuất khẩu, đánh bắt cá xa bờ , công nghệ chế biến, cây công nghiệp, cơ sở hạ tầng giao thông, khu công nghiệp, khu đô thị mới...
Xét về tỉ lệ % tín dụng trung dài hạn trên tổng dư nợ ta có kết quả sau:
Bảng 4: Dư nợ tín dụng trung dài hạn trên tổng dư nợ
(Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
1999
Tỉ lệ %
2000
Tỉ lệ %
2001
Tỉ lệ %
Tổng dư nợ
12573
15939
21.364
Dư nợ tín dụng trung dài hạn
6.216
49,4
7.909
49,6
11.072
51,82
Dư nợ tín dụng ngắn hạn
4.099
32,6
5.447
34,1
7.195
33,6
(Nguồn: Báo cáo thường niên giai đoạn 1999-2001 của NHĐT và PTVN)
Ta thấy qua các năm , dư nợ tín dụng trung dài hạn luôn chiếm một tỉ lệ lớn trong tổng dư nợ, năm 1999 là 49%, năm 2000 là 49,6%, năm 2001 có tăng lên một phần nhỏ; chiếm 51,8% tổng dư nợ. Trung bình chiếm 50% tổng dư nợ, trong khi đó đối với tín dụng ngắn hạn thì tỉ lệ này trung bình hàng năm là: 33%. Điều đó càng cho thấy NHĐT và PTVN có truyền thống trong cho vay trung dài hạn, mức độ phát triển nghiệp vụ nâng cao, mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng là tốt, có uy tín.
Xét về cơ cấu cho vay phân theo thành phần kinh tế, kết quả cụ thể qua các năm như sau:
Bảng 5: Cơ cấu cho vay phân theo thành phần kinh tế
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Chỉ tiêu
1999
2000
Tăng trưởng 00/99
2001
Tăng trưởng 01/00
số tiền
%
số tiền
%
số tiền
%
Dư nợ cho vay
10.315
100
13.357
100
129,5
18.267
100
136,7
1.Ngắn hạn
4.099
5.447
132,8
7.195
132,09
KTQD
2848
27,6
3.434
25,7
120,5
4.565
24,9
132,9
K T NQD
1.251
12,12
2.013
15
160,9
2.630
14,39
130,6
2.Trung dài hạn
6.216
7.909
127,2
11072
139,9
KTQD
4.632
44,9
6.108
45,7
131,8
8851
48,45
144,9
KT NQD
1.581
15,32
1801
13,48
113,9
2.221
12,15
123,3
(Nguồn: Báo cáo tín dụng của NHĐT&PTVN các năm 1999-2001)
Qua bảng trên cho ta thấy dư nợ cho vay đối với thành phần kinh tế quốc doanh luôn chiếm tỉ lệ cao trong dư nợ cho vay các loại, kể cả tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung dài hạn, và tăng trưởng qua các năm.
Đối với tín dụng ngắn hạn thì tỉ lệ % trên dự nợ cho vay của tín dụng kinh tế quốc doanh có giảm đôi chút, khoảng 1% năm 1999 là 27,6% năm 2000 là 25,7% và năm 2001 giảm xuống 24,9% nhưng vẫn tăng trưởng qua các năm, năm 2000 tăng 20% so với năm 1999, năm 2001 tăng 32,9% so với năm 2000, kinh tế ngoài quốc doanh thì chiếm tỉ lệ nhỏ, trung bình hàng năm chiếm khoảng 13% trên dư nợ cho vay.
Nhưng đối với tín dụng trung dài hạn thì loại tín dụng thành phần kinh tế quốc doanh chiếm một tỉ lệ cao trong dư nợ cho vay các loại và tăng lên nhiều qua các năm năm 1999 loại tín dụng này chiếm 44,9% dư nợ cho vay trong năm, năm 2000 chiếm 45,7% dư nợ cho vay tăng 31,8% so với năm 1999, và năm 2001 chiếm tới 48,45% dư nợ cho vay và tăng 44,9% so với năm 2000 trong khi đó loại tín dụng thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tỉ lệ khoảng 13% trong dư nợ cho vay.
Như vậy vốn cho vay chủ yếu tập trung vào thành phần kinh tế quốc doanh ở cả hai loại hình tín dụng ngắn hạn và trung dài hạn. Đặc biệt trong tín dụng trung dài hạn, vốn cho vay chủ yếu tập trung vào thành phần kinh tế quốc doanh, chiếm tỉ lệ cao trong dư nợ cho vay qua các năm, trung bình khoảng 46,3%/năm. Điều này càng khẳng định thêm thế mạnh của NHĐT &PT Việt nam là cho vay trung dài hạn phục vụ đầu tư phát triển trong hoạt động tín dụng của ngân hàng, tức là ngân hàng đã thực hiện tốt chính sách tín dụng, chính sách khách hàng, ngân hàng chủ động tìm kiếm khách hàng , dự án và thẩm đinh, phân tích cho vay.
Xét đến tỉ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ, đây là chỉ tiêu chủ yếu để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng, kết quả qua các năm như sau:
Bảng 6: Nợ quá hạn trong giai đoạn 1999 - 2001
(Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
Dư nợ
nợ quá hạn
tỉ lệ %
dư nợ
nợ quá hạn
tỉ lệ %
dư nợ
nợ quá hạn
tỉ lệ %
Tổng số Trong đó:
10.315
265,1
2,57
13.357
336,75
2,52
18.267
399,1
2,18
Ngắn hạn
4099
122,15
2,98
5.447
159,5
2,93
7.195
179,8
2,5
Trung và dài hạn
6.216
142,9
2,3
7.909
177,16
2,24
11.072
219,2
1,98
(Nguồn: trích báo cáo tín dụng của NHĐT&PT VN các năm 1999 - 2001)
Nhìn vào bảng tỉ lệ nợ quá hạn ta thấy, rủi ro của ngân hàng qua các năm có giảm đi rõ rệt, tỉ lệ nợ quá hạn năm 1999 là 2,57%, năm 2000 là 2,52%, và năm 2001 là 2,18%, xét về tỉ lệ thì giảm nhưng về số nợ quá hạn thì lại tăng lên qua từng năm tỷ lệ thuận với dư nợ tăng lên. Trong đó tỉ lệ nợ quá hạn của tín dụng trung dài hạn có thấp hơn so với tín dụng ngắn hạn, hàng năm tỉ lệ quá hạn tín dụng trung dài hạn có giảm một phần nhỏ, năm 1999 là 2,3%, năm 2000 là 2,24% và đến năm 2001 có giảm xuống dưới 2% là 1,98%, nhưng số lượng nợ quá hạn vẫn tăng lên cùng với sự tăng dư nợ tín dụng trung dài hạn. Vậy là chất lượng tín dụng nói chung, tín dụng trung dài hạn nói riêng, mặc dù đã được ngân hàng cải thiện, nâng cao qua các năm, nhưng mức độ giảm tỉ lệ nợ qúa hạn vẫn còn nhỏ, nợ quá hạn chiếm 2,18% dư nợ cho vay và nợ quá hạn tín dụng trung dài hạn chiếm 1,98 dư nợ cho vay trung dài hạn. Để chất lượng tín dụng của ngân hàng thực sự được nâng cao hơn nữa thì tỉ lệ nợ quá hạn phải dưới 2% và tỉ lệ nợ qúa hạn trung dài hạn còn phải thấp nhiều hơn nữa , ở mức khoảng 1,5%.
Tức là trong công tác cho vay trung dài hạn vẫn còn những tồn tại khó khăn riêng đòi hỏi cần khắc phục và có những biện pháp để giảm tỉ lệ nợ quá hạn xuống, nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Còn đối với nợ khó đòi, chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong dư nợ cho vay. Tình hình nợ khó đòi tại NHĐT và PTVN như sau:
Bảng 7: Nợ khó đòi của ngân hàng trong giai đoạn 1999 - 2001
(Đơn vị: triệu đồng)
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
Nợ khó đòi
tỉ lệ %/ dư nợ
Nợ khó đòi
tỉ lệ%/dư nợ
Nợ khó đòi
tỉ lệ %/dư nợ
Tổng số
8768
0,085
11638
0,087
15.709
0,086
1. Ngắn hạn
3.502
0,0854
5.194
0,095
6.619
0,092
2.Trung dài hạn
5.366
0,0863
6.444
0,081
9.089
0,082
(Nguồn : trích báo cáo tín dụng của NHĐT&PT VN các năm 1999 - 2001)
Tỉ lệ nợ khó đòi trên dư nợ cho vay nhỏ, khoảng 0,086% mỗi năm. Trong đó ngắn hạn cao hơn trung dài hạn. Năm 2001 tỉ lệ nợ khó đòi là 0,086%, ngắn hạn là 0,092%, trung dài hạnlà 0,082%. Mặc dù tỉ lệ này nhỏ, nhưng nếu giảm đi được nữa thì vẫn tốt hơn đối với ngân hàng, vì những khoản nợ khó đòi này rủi ro tín dụng cao, chất lượng kém, việc đòi nợ đối với những khoản vay này rất khó khăn và tổn thất có thể xảy ra. Bởi vậy cần có những biện pháp để giảm bớt nợ khó đòi và nâng cao chất lượng tín dụng.
Tóm lại, hoạt động của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam đã đạt được kết quả đáng khích lệ qua từng năm, tổng tài sản tăng trưởng qua các năm, hoạt động tín dụng đảm bảo an toàn, chất lượng và hiệu quả, trong đó hoạt động tín dụng trong dài hạn luôn chiếm tỉ lệ cao trong tổng dư nợ, chất lượng tín dụng đã được nâng cao dần, khẳng định vị thể của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Đồng thời cũng cần thấy hết những khó khăn, thách thức của ngân hàng để chủ động vượt qua, tạo sự phát triển trong những năm tới.
2.3. Đánh giá chất lượng tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
2.3.1. Những kết quả đạt được
Thực hiện chủ chương lớn của chính phủ là mọi dự án, mọi công trình đầu tư cho sản xuất kinh doanh đều thực hiện theo cơ chế "vay trả", xóa hình thức đầu tư bao cấp dưới dạng cấp phát cho các công trình sản xuất kinh doanh trước đây. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam đã phát huy nỗ lực chủ quan, vượt qua những khó khăn thử thách của giai đoạn chuyển đổi cơ chế, nhanh chóng hoà nhập vào thị trường để tồn tại, đứng vững và ngày càng tăng trưởng, phục vụ có hiệu quả cho đầu tư phát triển, tăng trưởng kinh tế của đất nước. Đặc biệt năm 1997, Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam được thực hiện kinh doanh đa năng tập hợp như một ngân hàng thương mại, sau mấy năm hoạt động đổi mới ngân hàng đã đạt được kết quả nổi bật trong hoạt động kinh doanh nói chung và trong hoạt động tín dụng trung dài hạn nói riêng.
Trước tình hình kinh tế -xã hội của đất nước tăng trưởng và phát triển qua các năm, những đổi mới trong cơ chế quản lý, điều hành của đất nước. Ngân hàng đầu tư và phát triển đã có định hướng chiến lược kinh doanh đúng đắn phù hợp với chính sách tiền tệ cuả Đảng và nhà nước, về mọi mặt kinh doanh ngân hàng nói chung, công tác tín dụng trung dài hạn nói riêng đáp ứng yêu cầu bức thiết của nền kinh tế và bản thân Ngân hàng.
Từ những định hướng đó, Ngân hàng không ngừng đổi mới mô hình tổ chức pháp lý, quy chế nghiệp vụ tương đối kịp thời và đầy đủ, tạo lập được hành lang pháp lý để điều hành chỉ đạo thực hiện công tác tín dụng có chất lượng hiệu quả.
Trong những năm qua tín dụng trung dài hạn đã thực hiện phương châm đổi mới cơ chế, lĩnh vực đầu tư kinh tế theo chiều sâu. Tín dụng trung dài hạn nhằm cung ứng vốn cho các doanh nghiệp có tiềm năng mở rộng phát triển sản xuất mà thiếu vốn cần vay vốn để đầu tư mở rộng sản xuất trong thời gian ngắn mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất là trong giai đoạn hiện nay các doanh nghiệp đang cần đổi mới thiết bị công nghệ, thì hình thức tín dụng trung dài hạn là một giải pháp đúng đắn để chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế quốc doanh từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế hạch toán kinh doanh, góp phần tháo gỡ khó khăn, thực sự trao quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh cho các đơn vị kinh tế.
Ngân hàng ĐT&PT Việt nam đã thực sự trở thành bạn hàng của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, với chính sách khách hàng: ngân hàng xác định mọi hoạt động của ngân hàng khởi đầu từ khách hàng, lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm mục tiêu hoạt động của mình. Ngân hàng thực hiện tiếp cận doanh nghiệp, hướng dẫn doanh nghiệp lập hồ sơ tín dụng theo đúng quy định, nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoàn thành sớm các thủ tục xin vay được nhanh chóng, thuận lợi. Thực hiện phương thức giao dịch một cửa, tránh gây phiền hà cho doanh nghiệp trong liên hệ vay vốn, xây dựng uy tín ngân hàng, tiếp tục phát huy vị thế chủ đạo trong lĩnh vực đầu tư và phát triển. Ngân hàng đã nỗ lực vượt bậc phục vụ đầu tư phát triển, thực hiện CNH, HĐH, hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch tín dụng đầu tư phát triển do nhà nước giao, tập trung vốn cho các công trình, dự án trọng điểm của nhà nước. Đồng thời nâng cao vai trò chủ quản của ngân hàng đối với những khoản vay nằm trong kế hoạch Nhà nước.
Đối với mọi dự án đầu tư, ngân hàng đều thực hiện nghiêm túc việc lập hồ sơ xét duyệt cho vay theo quy định được ban hành của các cấp có thẩm quyền. Nâng cao hiệu quả công tác thẩm định dự án, phân tích tín dụng, để tìm ra những rủi ro tiềm ẩn, loại trừ những dự án kém hiệu quả, nâng cao chất lượng tín dụng, bảo đảm an toàn vốn cho ngân hàng. Bên cạnh đó trong quá trình cho vay, ngân hàng tiến hành thực hiện kiểm tra, gồm cả kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, mỗi khoản vay đều có người chịu trách nhiệm từ cơ sở đến TW tuỳ từng mức độ khác nhau.
Ngân hàng đã lựa chọn được những cán bộ đủ đức, đủ tài, nhiệt tình công tác vào những công trình trọng điểm, những khó khăn, tạo điều kiện giúp khách hàng, tư vấn cho doanh nghiệp trong thời gian ngắn nhất để đưa các công trình vào sản xuất kinh doanh có hiệu quả mang lại lợi ích cho cả hai bên, ngân hàng và khách hàng. Để tạo nguồn vốn cho tín dụng trung dài hạn ngân hàng đã khai thác triệt để nguồn vốn huy động. Ngân hàng coi chính sách nguồn vốn là một trong các chính sách quan trọng quyết định sự thành công của ngân hàng, tạo vốn là khâu mở đường cho mọi hoạt động kinh doanh nên đã nỗ lực tạo một mặt bằng vốn vững chắc, ngày càng tăng trưởng kể cả VNĐ và ngoại tệ. Ngân hàng thực hiện đa dạng hoá nguồn vốn bằng việc đa dạng hoá các hình thức, biện pháp và các kênh huy động vốn trong và ngoài nước, chú trọng tăng tỷ trọng vốn trung dài hạn thông qua việc phát hành kỳ phiếu , trái phiếu, tăng tiền gửi và tiền tiết kiệm dài hạn trong dân cư, khai thác nhiều nguồn tài trợ trung dài hạn của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế phục vụ cho đầu tư phát triển.
Ngân hàng tích cực thay đổi cơ cấu cho vay trung dài hạn các ngành kinh tế, chủ yếu hướng vào các ngành công nghệ cao, các ngành mũi nhọn, các ngành chế biến nông sản làm hàng xuất khẩu, phục vụ phát triển kinh tế.
Trong năm 2001 vừa qua, Ngân hàng giữ vững và phát huy tốt vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển, chủ động khai thác vốn, tập trung vốn đầu tư cho các dự án trọng điểm của nhà nước, lựa chọn các dự án khả thi hiệu quả để đầu tư, đối với những dự án đầu ư mà đang gặp khó khăn, Ngân hàng đã có những biện pháp tháo gỡ xử lý cụ thể, đồng thời có đề xuất với chủ dự án, cơ quan chủ quản các cấp để giải quyết.
Hoạt động kinh doanh tiếp tục giữ vững tốc độ tăng trưởng, thực hiện chính sách huy động vốn tích cực, tăng đáng kể tỷ trọng huy động tiền gửi trong tổng tài sản nợ, hoạt động tín dụng, trong đó tín dụng trung dài hạn được củng cố chấn chỉnh, đảm bảo an toàn hơn, giảm đi phần nào tỉ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi. Các hoạt động kinh doanh khác tiếp tục được củng cố mở rộng và mức sinh lời từ các hoạt động này được tăng lên. Từng bước tạo lập nền tảng trên tất cả các lĩnh vực (nguồn vốn tín dụng, dịch vụ và công nghệ, quản trị điều hành) tạo thế và lực mới để NHĐT&PT tới xu thế quốc tế và hội nhập, theo yêu cầu và tiêu chuẩn của một ngân hàng hiện đại, góp phần phát triển kinh tế đất nước.
Bên cạnh những kết quả đạt được như trên, trong hoạt động của ngân hàng vẫn còn nhiều khó khăn , tồn tại nhiều vấn đề cần khắc phục trong đó hoạt động tín dụng trung dài hạn còn tồn tại những vấn đề liên quan đến chất lượng tín dụng cần phải giải quyết.
2.3.2. Những vấn đề còn tồn tại
- Cơ cấu vốn chưa hợp lý, chưa phù hợp với tính chất sử dụng về thời gian của đồng tiền. Hiện nay nguồn vốn để ngân hàng cho các doanh nghiệp vay vốn trung dài hạn chủ yếu lấy từ nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế, dân cư và các nguồn tài trợ uỷ thác của nước ngoài. Tỷ trọng vốn trung dài hạn còn thấp, vốn ngoại tệ vẫn chỉ có đồng USD, cơ cấu vốn chưa hợp lý, chưa phù hợp với tính chất sử dụng về thời gian của đồng tiền. Tăng trưởng nguồn vốn nhất là vốn trung dài hạn trong dân cư và huy động từ nguồn tiền gửi của khách hàng vẫn là nhiệm vụ chiến lược lâu dài, là khâu mở đường cho hoạt động kinh doanh của NHĐT và Phát triển Việt nam. Để huy động được vốn thì phải đảm bảo lợi ích của người gửi tiền, lãi suất huy động cao nhưng cho vay đầu tư cùng với lãi suất cao thì doanh nghiệp không chấp nhận được. Đây là khó khăn thử thách đối với NHĐT và phát triển Việt Nam trong khi phải giữ vững và phát huy vai trò ngân hàng chủ đạo trong phục vụ đầu tư phát triển.
Hơn nữa do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam á, việc thực hiện chính sách tiền tệ là thử thách lớn cho hoạt động của ngành ngân hàng , đặc biệt với NHĐT&PT VN, phục vụ chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư phát triển trong điều kiện vốn ..., vốn dài hạn còn ít, dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn. Tuy đã được Chính phủ và NHNN cho phép nhưng điều này cũng ít nhiều đều có ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng. Mặt khác việc vay vốn bằng ngoại tệ cho vay đầu tư trong nước nhằm thay thế hàng nhập khẩu nên ảnh hưởng của tỉ giá làm giảm sút hiệu quả trả nợ của các doanh nghiệp.
- Việc thực hiện chính sách tín dụng chỉ là bước đầu,chưa đa dạng hoá hình thức tín dụng ở mọi lĩnh vực, rủi ro tín dụng còn lớn, chất lượng công tác phân tích thẩm định dự án còn thấp so với yêu cầu. Trong tình hình hiện nay hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp còn khó khăn, tính khả thi của các dự án thấp, cơ chế xét duyệt dự án của các ngành và địa phương, của ngân hàng chưa chặt chẽ, khâu thẩm định vẫn chưa sát với thực tế doanh nghiệp. Dẫn đến sau khi vay vốn, đến thời gian trả nợ ngân hàng, doanh nghiệp không có khả năng trả nợ, buộc ngân hàng phải dùng những biện pháp giãn nợ, gia hạn nợ mà cuối cùng là có xu hướng phát mại tài sản thế chấp. Những hiện tượng này làm giảm chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Kết quả thực thi chính sách tín dụng, chính sách khách hàng mới chỉ là bước đầu. Công tác tiếp thị tìm kiếm khách hàng tốt, tìm kiếm dự án hiệu quả, khai thác thị trường ở trong nước còn nhiều khó khăn, nhất là đòi hỏi của hoạt động ngân hàng trong cơ chế thị trường. Những định hướng chính sách đề ra chưa triển khai được còn nhiều bất cập, các hình thức tín dụng còn nghèo nàn, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh một số chi nhánh còn bỏ ngỏ, chưa được ngân hàng khai thác đầu tư, chưa kết hợp chặt chẽ giữa tín dụng với các dịch vụ ngân hàng.
Trong điều kiện tiềm ẩn rủi ro tín dụng vẫn còn lớn, đặc biệt trong tín dụng đầu tư phát triển, chất lượng công tác thẩm định dự án, phân tích tài chính doanh nghiệp còn hạn chế so với yêu so với yêu cầu nhằm khi cho vay giảm được rủi ro ở mức thấp nhất đảm bảo an toàn tín dụng.
Ngân hàng cho vay theo kế hoạch Nhà nước hàng năm theo chỉ định của Chính phủ, nên tính chủ động của Ngân hàng trong việc quyết định cho vay còn phị thuộc, nhiều khoản vay có hiệu quả kinh tế chưa cao, doanh nghiệp sản suất kinh doanh còn thua lỗ, Ngân hàng không thu được nợ làm tăng nợ quá hạn đối với Ngân hàng. Gần đây Chính phủ mới cho phép những trường hợp như vậy NH được báo cáo lên CP để xử lí riêng.
- Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ còn cao so với phương hướng đề ra. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam thực sự chuyển hướng và hoạt động kinh doanh có hiệu quả, vững chắc, tăng trưởng không ngừng. Tỷ lệ nợ quá hạn có giảm qua các năm, nhưng mức giảm còn nhỏ vì những tồn tại trước đây đang chờ chính phủ xét cho xử lí khoanh, giãn nợ và số nợ quá hạn tăng lên cùng với dư nợ qua các năm. Bởi vậy giảm tỉ lệ nợ quá hạn xuống nữa đang là mối quan tâm lớn đối với Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam vì đầu tư sao có hiệu quả, thu hồi được vốn nhanh, đúng thời hạn và quay vòng vốn là điều mong muốn của các nhà làm ngân hàng.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ quá hạn như hiện nay, có nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Nguyên nhân khách quan do môi trường kinh doanh chưa lành mạnh, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn còn thấp, môi trường pháp lý chưa đồng bộ, chặt chẽ.
Nguyên nhân chủ quan là ngân hàng khi xét duyệt cho vay còn thiếu sâu sát thực tiễn về mặt đặc điểm kinh tế kĩ thuật của từng ngành cũng như từng dự án riêng biệt. Khi phân tích kiểm tra tình hình tài chính của đơn vị vay vốn còn gặp nhiều khó khăn, nên dẫn đến có dự án khó thu hồi được nợ đúng hạn.
- Công nghệ ngân hàng còn hạn chế về kĩ thuật so với một số ngân hàng đứng đầu trong nước. Bắt đầu từ việc chưa chuẩn hoá được hoạt động nghiệp vụ năng lực cán bộ và năng lực tài chính thiếu hệ thống thông tin quản lý có hiệu lực, việc áp dụng công nghệ tin học chưa đồng đều tập trung chủ yếu ở các chi nhánh thành phố lớn. Ngân hàng cần hiện đại hoá hệ thống thông tin quản lý điều hành, thanh toán nối mạng toàn quốc, đảm bảo thông tin kịp thời chính xác tăng hiệu quả kinh doanh và giảm bớt rủi ro.
Qua phần trên ta đã thấy được những kết quả đạt được và những khó khăn còn tồn tại trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam trong vài năm gần đây. Những khó khăn thử thách đó đối với toàn bộ hoạt động kinh doanh nói chung, và với hoạt động tín dụng trung dài hạn nói riêng, đòi hỏi ngân hàng phải có những biện pháp khắc phục nâng cao chất lượng tín dụng để Ngân hàng đâù tư và phát triển giữ vững được vai trò chủ đạo của mình trong đầu tư phát triển, thực hiện CNH, HĐH đất nước.
chương III
Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
1 - Phương hướng hoạt động kinh doanh của NHĐT và PTVN trong thời gian tới.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng, Chính phủ và Thống đốc NHNN, khai thác và phát huy những thuận lợi cơ bản, nhận thức rõ những thử thách với truyền thống đoàn kết sáng tạo, tự tin và tinh thần không chùn bước trước mọi khó khăn, NHĐT và PTVN quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ năm 1999 với phương châm là: tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động theo luật ngân hàng nhà nước và luật các tổ chức tín dụng, từng bước phát triển bên vững, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ và hiệu quả hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN để phát huy vai trò của một ngân hàng quốc doanh, giữ vai trò chủ lực trong đầu tư và phát triển góp phần thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ, phục vụ cho tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát theo đường lối CNH, HĐH đất nước tăng thêm thế và lực để bước vào thế kỷ 21, từng bước hội nhập với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới.
Mục tiêu cụ thể đến cuối năm 1999 toàn hệ thống phải đạt được mức tăng tài sản nợ (có ) là 15% so với năm 2001. Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn, huy động vốn tăng trên 25%, trong đó vốn trong nước là chính chiếm 70-75%, riêng tiền gửi khách hàng chiếm 35% tổng nguồn vốn, tỷ trọng tiền gửi trung dài hạn trên tổng vốn huy động đạt 17%. Dư nợ tín dụng tăng trên 23%, trong đó tín dụng trung dài hạn chiếm 55 - 60% tổng dư nợ.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển theo kế hoạch nhà nước giao là 2.800 tỷ đồng.
Mở rộng nâng cao chất lượng dịch vụ và kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng.
Tổng phương tiện thanh toán tăng 16-17%
Tăng thu nhập từ dịch vụ và kinh doanh tiền tệ đạt mức 30% trong tổng lợi nhuận ròng.
Lợi nhuận của ngân hàng tăng 16%
Phấn đấu giảm tỉ lệ nợ quá hạn xuống dưới hoặc bằng 2%.
Công nghệ đạt mức các ngân hàng trong nước đã đạt được. Để thực hiện những mục tiêu này, toàn hệ thống NHĐT và PTVN cần thực hiện tốt những giải pháp trong hoạt động kinh doanh nói chung, nâng cao chất lượng tín dụng nói riêng và trong xây dựng phát triển nguồn nhân lực và công nghệ.
2 - Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng ĐT&PT Việt nam
Trong những năm qua NHĐT và PTVN đã đạt được những thành tựu nhất định về hoạt động kinh doanh, luôn giữ vai trò chủđạo trong lĩnh vực đầu tư và phát triển, được nhà nước xếp hạng doanh nghiệp đặc biệt. Ngân hàng lấy hiệu quả an toàn trong tất cả mọi hoạt động của mình làm tiêu chuẩn hàng đầu, đa phương hoá khách hàng thuộc các thành phần kinh tế, trong đó lấy phát triển kinh tế quốc doanh là chủ đạo.
Tuy nhiên trong hoạt động tín dụng đã gặp nhiều khó khăn cần giải quyết, là những thách thức đối với hoạt động của NHĐT và PTVN hiện nay. Trong bối cảnh chung đó, chất lượng tín dụng nói chung, tín dụng trung dài hạn nói riêng đang trở thành vấn đề quan tâm và giải quyết.
Với việc xây dựng các mục tiêu trên, Ngân hàng phải có những giải pháp phù hợp để làm phương tiện thực hiện được các mục tiêu đó. Có những giải pháp sau nhằm nâng cao chất lượng tín dụng nói chung, tín dụng trung dài hạn nói riêng tại NHĐT và PTVN.
2.1. Các giải pháp của Ngân hàng ĐT& PT Việt Nam
2.1.1/ Các giải pháp huy động vốn
NHĐT và PTVN phục vụ chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng cơ bản, phục vụ quá trình CNH, HĐH đất nước nên luôn coi tạo vốn là khâu mở đầu, tạo một mặt bằng vốn vững chắc ngày càng tăng trưởng, đa dạng hoá các hình thức, các biện pháp, các kênh huy động vốn từ trong và ngoài nước. Trong đó ngân hàng coi nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng trên cơ sở đầu ra có hiệu quả an toàn.
Để tăng cường nguồn vốn trong nước, Ngân hàng phải thực hiện hoàn thiện thị trường tiền tệ ngắn hạn tạo đà đẩy nhanh quá trình phát triển thị trường vốn dài hạn. Thị trường tiền tệ ngắn hạn có tác dụng gián tiếp hỗ trợ việc triển khai chiến lược vốn và ổn định được nhu cầu vốn ngắn hạn sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy quá trình tích luỹ, tích tụ và tập trung vốn tự nhiên. Nhờ đó ngân hàng cũng sẽ có thêm nhiều cơ hội đầu tư vốn trung, dài hạn. Muốn vậy ngân hàng cần giải quyết những vấn đề sau:
- Tiến hành một chương trình thu hút vốn trong các tầng lớp dân cư và các doanh nghiệp bằng cách mở nhiều loại tài khoản ree, tài khoản tiền gửi hưu trí, bảo hiểm, tiền gửi các tổ chức xã hội và thực hiện thanh toán qua ngân hàng.
- Từng chi nhánh cần có mục tiêu biện pháp tăng thị phần huy động vón của chi nhánh trên địa bàn. Tăng cường huy động tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn ở các doanh nghiệp khách hàng truyền thống, áp dụng nhiều hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm kỳ phiếu trái phiếu mở thêm khách hàng mới.
- Thực hiện chính sách khuyến khích khách hàng trong huy động vốn có chính sách thoả đáng với khách hàng truyền thống.
- Mỗi chi nhánh nên chủ động quyết định áp dụng hình thức huy động vốn cho phù hợp, mức lãi suất linh hoạt theo từng loại huy động và kỳ hạn căn cứ diễn biến lãi suất trên từng địa bàn và so với các NH khác trên địa bàn.
- Tăng cường tìm kiếm các nguồn tài trợ uỷ thác của các Chính Phủ, tổ chức kinh tế, tổ chức phi chính phủ đối với các dự án phát triển kinh tế, văn hoá xã hội trong nước.
2.1.2/ Các giải pháp lãi suất
- áp dụng cơ chế lãi suất cho vay linh hoạt:
Thay đổi cơ chế lãi suất cho vay trung dài hạn phù hợp với quy luật cung cầu của thị trường vốn, tính toán hiệu quả kinh doanh không chỉ trước mắt mà cần kết hợp cả hướng lâu dài cho khách hàng và ngân hàng. Chiến lược cạnh tranh và kinh doanh đòi hỏi phải có chính sách cho vay trung dài hạn mềm dẻo, không nhất thiết lúc nào cũng phải cao hơn lãi suất cho vay vốn lưu động mà có thể tích được lãi suất bình quân của vốn dài hạn và ngắn hạn. Cần có chính sách lãi suất khác nhau đối với khách hàng, bạn hàng được đầu tư cho những dự án khác nhau.
- Hạ lãi suất ngoại tệ, không cao hơn các ngân hàng bạn. áp dụng lãi suất phân biệt, lãi suất cho vay dài hạn nhỏ hơn lãi suất cho vay theo món.
2.1.3/ Đa dạng hoá các hình thức cho vay và đầu tư vốn trung dài hạn.
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chủ yếu cho vay theo kế hoạch nhà nước với mức lãi suất ưu đãi nên cần phải đẩy mạnh cho vay theo cơ chế tín dụng thương mại để đầu tư cho các dự án xây dựng mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục, đổi mới kỹ thuật của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện được kế hoạch kinh doanh của mình.
- Cần kết hợp các loại tín dụng, các loại dịch vụ, các loại hình thức phục vụ toàn diện. Từng chi nhánh nên chủ động tìm kiếm dự án, không chờ thông báo kế hoạch.
- Mở rộng tăng cường cho vay trung dài hạn đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, vì hiện nay khu vực này vẫn chưa được ngân hàng khai thác, tỷ trọng cho vay còn thấp. Nhưng trong giai đoạn hiện nay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh còn nhiều tiêu cực như kinh doanh thua lỗ, phá sản...nên khi mở rộng cho vay đối với thành phần này phải gắn liền với việc thẩm định tình hình tài chính của công ty, xem xét tình hình kinh doanh, kiểm tra kỹ càng trước, trong và sau khi cho vay kiểm tra về tài sản thế chấp, xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh của dự án để cho vay.
- Đầu tư vốn bằng cách liên doanh, hùn vốn cùng các doanh nghiệp. Điều này có thể tạo ra sự gắn bó chặt chẽ giữa ngân hàng và khách hàng bằng việc nắm giữ cổ phần trong công ty mà ngân hàng cho vay tiền và có những thành viên trong ban giám đốc quản lý công ty này sẽ giúp cho ngân hàng hạn chế được rủi ro vì luôn giám sát được tình hình hoạt động của công ty, đưa ra những giải pháp thích hợp cho từng thời kỳ kinh doanh.
- Từng chi nhánh nên chủ động thẩm định, lựa chọn dự án để đầu tư. Tăng thị phần tín dụng đầu tư phát triển, trong đó tập trung vào các dự án lớn. Mở rộng các dự án vừa và nhỏ, tham gia chương trình phát triển nông thôn, chủ động đề xuất NHĐTPT cấp TW hỗ trợ.
Tích cực tìm kiếm khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế đáp ứng cao nhất nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh có hiệu qủa của khách hàng. áp dụng đa dạng, linh hoạt các hình thức phục vụ.
Đảm bảo cơ cấu hợp lý giữa ngắn hạn, trung dài hạn để đảm bảo thực hiện được nhiệm vụ đầu tư phát triển hàng năm và nhu cầu sản xuất kinh doanh của khách hàng truyền thống mở được khách hàng mới.
- áp dụng các loại cho vay, thu thập thông tin nhiều chiều để cho vay ra với mức rủi ro ít nhất, có doanh lợi, đảm bảo được yêu cầu:
+ Lấy hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng làm mục tiêu.
+ Đảm bảo được cơ cấu tín dụng của Ngân hàng nói chung và từng chi nhánh nói riêng.
+ Khuyến khích khách hàng
2.1.4/ Nâng cao chất lượng đích thực của công tác thẩm định dự án, phân tích tín dụng:
Như trong phần I đã nêu ra một trong những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng cũng như hiêụ quả công việc cho vay trung dài hạn là giai đoạn phân tích thẩm định dự án. Qua công tác thẩm định có thể kiểm tra, khẳng định lại luận chứng kinh tế kỹ thật trong dự án đầu tư về hợp đồng kinh tế, quy mô mua sắm thiết bị, số lượng chất lượng xây lắp, công suất máy móc, giá cả mua sắm... Đây là những vấn đề cụ thể, có thể tiến hành thẩm định được còn đến việc phân tích khía cạnh vô hình như uy tín năng lực của khách hàng để đánh giá khả năng trả nợ thì không đơn giản chút nào, nhất là đối với khách hàng mới của ngân hàng. Do vậy sau khi phân tích trên giấy tờ, cán bộ tín dụng phải đi nghiên cứu khảo sát cơ sở của khách hàng. Từ đó có thể đưa ra những nhận định về cơ sở, bộ máy lãnh đạo, cán bộ chủ chốt điều hành sản suất kinh doanh, tinh thần làm việc, năng suất, trình độ của cán bộ, nhân viên quản lý... đánh giá được những điểm thích hợp nên xem có cho vay hay không. Công việc này thực sự chưa có trong cuốn sách nào cả, mà chủ yếu phụ thuộc vào kinh nghiệm của cán bộ tín dụng, vừa không gây khó dễ cho khách hàng , vừa đủ khả năng xác định chất lượng thực sự của khách hàng.
Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án, phân tích tín dụng, ngân hàng cần thường xuyên mở những lớp đào tạo ngắn hạn, dài hạn cho cán bộ thẩm định, tín dụng, hoặc cử cán bộ đi học, tham gia những khoá đào tạo trong nước và nước ngoài về thẩm định, phân tích tín dụng.
Đồng thời từng cán bộ thẩm định, cán bộ tín dụng cũng tự nghiên cứu tham khảo tài liệu, tự trau dồi kiến thức chuyên môn cho mình, cả về lý thuyết cũng như kinh nghiệm thực tiễn.
Trong phân tích thẩm định dự án, cán bộ nên thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau từ vĩ mô đến vi mô.
+ Phân tích một cách tổng thể toàn diện từ chủ trương đến quyết định đầu tư, tổng nguồn vốn đầu tư, kế hoạch bố trí vốn theo tiến độ xây dựng hàng năm, khả năng vay trả của dự án....
+ Kiểm tra tính toán thực hiện hiệu quả kinh tế của dự án, khoản vay, khoản bảo lãnh trên cơ sở nắm chắc những thông tin có căn cứ xác đáng về tình hình sản xuất kinh doanh hiện taị của doanh nghiệp, nhu cầu thị trường về sản phẩm dự kiến được đầu tư, nguồn vốn để trả nợ, lịch trả nợ, chỉ ra những tiềm ẩn rủi ro để phòng ngừa.
2.1.5/ Nâng cao chất lượng thông tin phòng ngừa rủi ro, HĐH công nghệ Ngân hàng
Việc thu thập các nguồn thông tin chính xác có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong quyết định cho vay và đầu tư cuả ngân hàng. Một trong những nguyên nhân gây nên rủi ro trong công tác tín dụng là sự thiếu thông tin chính xác từ người vay, từ thị trường và thiếu tính khả thi của dự án vay. Do đó để nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn cần nâng cao chất lượng thông tin.
+ Ngân hàng cần thực hiện triệt để việc khai thác thông tin từ nhiều nguồn kết hợp, từ doanh nghiệp, từ cơ quan chủ quản doanh nghiệp, từ bạn hàng của doanh nghiệp, từ trung tâm phòng ngừa rủi ro ngân hàng nhà nươc, từ cơ quan pháp luật, từ các ngân hàng bạn, tránh tình trạng thông tin nhận được từ một phía sai lệch.
+ Ngân hàng phải cử những cán bộ có năng lực chuyên môn nghề nghiệp phụ trách theo dõi kiểm tra từng khách hàng, từng khoản vay. Thường xuyên nắm bắt được các thông tin về mọi mặt của doanh nghiệp, từ tổ chức cán bộ, quản lý điều hành, đến tình hình tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh... để có biện pháp xử lý kịp thời với các rủi ro có thể xảy ra từ phía doanh nghiệp.
+ Ngân hàng cần hiện đại hoá công nghệ để nâng cao hiệu quả hoạt động của phòng thông tin phòng ngừa rủi ro. Trang bị thêm nhiều máy móc thông tin, hệ thống vi tính nối mạng trong toàn ngành và nối mạng với các ngân hàng bạn để có thể trung cập một cách nhanh nhất. Thường xuyên nghiên cứu áp dụng các phần mềm mới, phù hợp với hoạt động ngân hàng, cải tạo nâng cấp hệ thống máy tính.
2.1.6/ Ngân hàng cần đẩy mạnh công tác thu nợ và lãi từ các khoản vay trung dài hạn
Thu nợ là một khâu quan trọng trong quy trình cho vay, công tác này cần phải làm liên tục, cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi hợp đồng tín dụng của các doanh nghiệp, nắm vững số thu nợ lãi theo cam kết. Ngân hàng quyết định thời hạn trả nợ, mức trả nợ từng kỳ hạn cho đơn vị, phải tính toán sao cho thiết thực, phù hợp với năng lực sản xuất kinh doanh của đơn vị.
Trong thời hạn đầu khi đến hạn trả nợ, không nên thúc ép doanh nghiệp trả nợ vượt quá khả năng của đơn vị. Xác định thời hạn trả nợ và mức trả nợ phù hợp với thu nhập của doanh nghiệp trong thời hạn đó, tránh gây căng thẳng về vốn cho doanh nghiệp. Ngân hàng cần có những quy định cụ thể, chặt chẽ về việc yêu cầu đơn vị mở tài khoản tiền gửi về khấu hao cơ bản vào ngân hàng nhằm tạo điều kiện chủ động thu hồi vốn đã cho.
2.1.7/ Ngân hàng cần tăng cường công tác tư vấn cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, tăng khả năng thu hồi nợ cho ngân hàng
Ngân hàng cần giải quyết thủ tục nhanh chóng, cho vay đầy đủ kịp thời đối với các dự án có hiệu qủa kinh tế. Công trình sau khi đã được duyệt cho vay, ngân hàng phát tiền vay theo đúng kế hoạch, tiến độ thi công đã đề ra trong quá trình cho vay. Việc đầu tư một cách đầy đủ kịp thời sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đưa dự án của doanh nghiệp vào thực thi đúng tiến độ kế hoạch, đưa dự án vào sử dụng phát huy hiệu quả, bảo đảm trả đủ nợ và lãi vay cho ngân hàng.
Ngân hàng cần phát triển các trung tâm dịch vụ tư vấn và đầu tư. Các trung tâm này hoạt động nhằm đánh giá, phân tích, dự báo các thông tin về tình hình kinh tế xã hội, luật pháp, thị trường, giá cả... . liên quan đến vấn đề đầu tư. Cung cấp những thông tin đó cho doanh nghiệp, tư vấn cho doanh nghiệp đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn sáng suốt. Hiện nay các doanh nghiệp nước ta còn chưa có nhận thức cao về lĩnh vực đầu tư, nên rủi ro trong đầu tư còn nhiều. Việc phát triển các trung tâm tư vấn dịch vụ đầu tư là rất cần thiết.
2.1.8/ Các giải pháp xử lý các khoản nợ quá hạn
Hoạt động tín dụng là một nhiệm vụ hàng đầu có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng. Một ngân hàng hoạt động có hiệu quả và sinh lời thì hoạt động tín dụng phải có chất lượng và hiệu quả, trong đó nợ quá hạn là một vấn đề tạo nên chất lượng tín dụng. Nợ quá hạn luôn là vấn đề nhức nhối trong hoạt động của các ngân hàng thương mại hiện nay, đưa các ngân hàng vào tình trạng mất an toàn trong hoạt động và nguycơ của khủng hoảng tài chính - tiền tệ. Bởi lẽ một trong những nguyên nhân khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á vừa qua cũng là do nợ quá hạn lớn, các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ không trả được nợ vay, ngân hàng cho vay không thu hồi được nợ, khi đánh giá tài sản thế chấp ở thời điểm giá cao và khi phát mại, giá ở thời điểm thấp, ngân hàng bị mất khả năng chi trả. Nên điều quan trọng cấp bách cần phải có một giải pháp cho vấn đề này.
Và đối với NHĐT và PT, nợ quá hạn hiện nay vẫn đang là một vấn đề cần giải quyết nợ quá hạn trong năm 2001 vẫn cao hơn 2%, mà nợ quá hạn là chỉ tiêu chủ yếu để đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng, để nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng với tỉ lệ nợ quá hạn dưới 2%, Ngân hàng cần thực hiện một số giải pháp ngăn ngừa, xử lý các khoản nợ quá hạn.
* Ngân hàng cần phát hiện sớm những dấu hiệu của khoản cho vay có thể dẫn đến nợ quá hạn.
Trên góc độ nhà ngân hàng, hầu hết họ mong muốn các khoản cho vay sẽ được hoàn trả như đã thoả thuận chứ không phải là các khoản tài sản thế chấp được phát mại để trả nợ hay được các công ty bảo hiểm, người bảo lãnh thanh toán hộ. Do vậy để lường được các rủi ro này bằng cách nắm được các dấu hiệu chỉ ra sự khó khăn về mặt taì chính của khách hàng, những dấu hiệu này là cơ sở để ngân hàng tìm biện pháp điều chỉnh và ngăn ngừa kịp thời, tránh dẫn đến các khoản nợ quá hạn có thể gây rủi ro cho ngân hàng.
Các dấu hiệu này như:
+ Doanh nghiệp chậm chễ trong việc nộp các báo cáo tài chính báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Có biểu hiện trốn tránh các cuộc kiểm tra cơ sở sản xuất của ngân hàng, hoặc có sự suy giảm bầu không khí tin cậy và hợp tác.
+ Số dư tiền ký thác giảm sút, xuất hiện séc rút quá số dư hoặc sẽ thanh toán bị trả lại.
+ Gia tăng bất thường số hàng tồn kho và sự gia tăng các khoản nợ thương mại.
+ Trở thành chủ nợ của nhiều món nợ điều này có thể nói lên việc giảm sút về chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp, một sự thay đổi thời hạn bán hàng hoặc bán cho các doanh nghiệp yếu kém về tài chính nhằm mục đích gia tăng doanh số bán và lợi tức.
+ Hoàn trả nợ vay ngân hàng chậm hoặc quá thời hạn.
+ Sự thay đổi nhân sự, từ chức của cán bộ quản lý...
+ Các yếu tố bất khả kháng như hoả hoạn, bão lụt...
* Khi đã phát hiên ra NH cần thực hiện biện pháp ngăn ngừa các khoản cho vay dẫn tời nợ quá hạn.
Khi các dấu hiệu phản ánh một khoản vay có thể có vấn đề được nhân ra, biện pháp đầu tiên mà cán bộ tín dụng phải thực hiện là xác định tính nghiêm trọng của vấn đề bằng các quá trình thích hợp có thêm sự cộng tác của khách hàng. Ngân hàng rất quan tâm đến các biện pháp ngăn ngừa và các biện pháp đề phòng để giảm bớt thiệt hại. Nếu người vay gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh, khó khăn về tài chính dẫn đến mất vốn tín dụng, để bảo vệ lợi ích của Ngân hàng và cứu lấy người vay và khôi phục sức mạnh tài chính của họ. Các biện pháp đó có thể là:
+ Giúp đỡ thu hồi các khoản nợ của khách hàng, biện pháp này ít được áp dụng. Tuy nhiên khi cơ sở sản xuất có nhiều khoản nợ chậm trả khiến họ phải gánh chia nợ quá hạn tại ngân hàng thì có thể giúp đỡ, thúc đẩy một sự gia tăng trong chương trình thu ngân của khách vay.
+ Tăng thêm vốn cho khách hàng: đối với những khoản nợ khó đòi xét thấy khách hàng còn có khả năng duy trì để phát triển sản xuất kinh doanh và thái độ trách nhiệm về trả nợ của khách hàng tốt thì ngân hàng có thể linh hoạt xem xét, nếu xét thấy khách hàng còn có thể đứng dậy được thì tiếp tục cho vay. Chính biện pháp này là hay nhất, không đẩy khách hàng đến chỗ phá sản, mà còn tạo khả năng thu hồi triệt để những khoản nợ khó đòi cho ngân hàng và vô hình chung đã vực dậy một doanh nghiệp trong nền kinh tế.
+ Tư vấn cho khách hàng: ngân hàng có thể cho lời khuyên hoặc cố vấn cho doanh nghiệp trong việc tìm ra chiến lược kinh doanh mới. Việc làm này không chỉ giúp cho doanh nghiệp có thể thoát khỏi cuộc khủng hoảng mà còn tăng thêm sự thân thiết trong quan hệ ngân hàng - khách hàng.
+ Ngân hàng cũng có thể nhận thêm sự bảo lãnh của một người khác có tài sản đối với doanh nghiệp đang mắc nợ. Việc bảo lãnh phải thực hiện đúng thủ tục bảo lãnh bằng tài sản.
Thực tế trong thời gian qua, những biện pháp này đã và đang được ngân hàng áp dụng một cách có hiệu quả.
* Đối với các khoản vay mà sau khi đã phát hiện và thực hiện biện pháp ngăn ngừa nhưng không có tác dụng vẫn dẫn đến nợ quá hạn, nợ khó đòi, khi đó ngân hàng cần thực hiện các biện phát như: Phương pháp khai thác, phương pháp thanh lý tài sản thế chấp.
Việc áp dụng phương pháp nào là phụ thuộc vào các yếu tố như: khả năng chi trả của khách hàng, thái độ của khách hàng với các khoản đi vay, thái độ của các chủ nợ, các chi phí cho việc thu hồi nợ,.
- Biện pháp khai thác:
+ Ngân hàng hướng dẫn người vay trên nhiều khía cạnh nhằm tác động đến khả năng tạo ra và thu được lợi nhuận. Ngân hàng có thể điều chỉnh hợp đồng tín dụng, giảm quy mô hoàn trả trước mắt, hoặc cho vay tiếp vốn để tăng sức mạnh về tài chính của khách hàng, khôi phục sản xuất kinh doanh.
+ Ngân hàng có thể dãn nợ cho doanh nghiệp, tức là kéo dài thời hạn trả nợ (tối đa không quá 12 tháng), nếu không thể gia hạn được thì chưa chuyển sang nợ quá hạn hoặc từng mục đích sử dụng vốn có thể là trung hạn, thì chuyển sang cho vay trung hạn, hoặc khách hàng bổ sung thêm tài sản thế chấp, cầm cố thì bổ sung thời hạn cho vay. Trường hợp này chỉ áp dụng cho những khách hàng:
++ Đang còn hoạt động sản xuất kinh doanh, có nguồn thu nhập có khả năng trả nợ.
++ Có thiện trí trả nợ, trong quá trình sử dụng vốn đã trả được một phần nợ gốc, trả lãi hàng tháng đều đặn.
++Tài sản thế chấp, cầm cố thuộc sở hữu hợp pháp của khách hàng, dễ phát mại.
+ Ngân hàng đề nghị người vay quản lý chặt chẽ ngân quỹ khuyên bán bớt tài sản có giá trị giảm lượng hàng tồn kho, thanh lý bớt tài sản không sử dụng.
+ Ngân hàng kết hợp vơí chính quyền địa phương thúc ép nợ.
Biện pháp này chỉ áp dụng đối với những khách hàng có số tiền vay nhỏ hoặc dư nợ tại thời điểm chuyển sang nợ quá hạn nhỏ, tài sản thế chấp cầm cố hợp pháp, dễ phát mại có nguồn thu nhập khác, có khả năng trả nợ ngân hang.
- Biện pháp xử lý tài sản thế chấp.
Biện pháp thanh lý tài sản thế chấp cầm cố hoặc bảo lãnh thường chỉ áp dụng sau khi đã thực hiện vài hình thức khai thác, giúp đỡ doanh nghiệp nhưng không thành công. Sự thanh lý được nhanh chóng thực hiện trong những trường hợp tư tưởng không sẵn lòng chi trả đã có hành động lừa đảo hay không thật thà đã bộc lộ, tình trạng vỡ nợ hiện ra tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng là vô vọng. Lúc đó biện pháp thanh lý là tốt nhất, có các biện pháp thực hiện:
+ Gán nợ: sử dụng trong các trường hợp: khách hàng không có khả năng trả nợ, không còn nguồn thu nhập nào khác; có uỷ quyền cho ngân hàng toàn quyền định đoạt trong việc bán tài sản thế chấp để thu hồi nợ, ngân hàng có thể sử dụng tài sản thế chấp làm trụ sở hoặc bán trả góp cho cán bộ nhân viên hoặc các đối tượng.
+ Khởi kiện: biện pháp này áp dụng đối với những khách hàng: có hành vi lừa đảo, bị bắt do vi phạm pháp luật trong vụ án khác, bỏ chốn, lẩn tránh, sử dụng vốn sai mục đích gây thất thoát vốn; không còn sản xuất kinh doanh, không còn khả năng trả nợ.
+ Đối với những tài sản thế chấp có đủ hồ sơ hợp pháp, sau khi có quyết định của toà án các cấp hoặc nhân gán nợ thì chuyển sang trung tâm bán đấu giá tài sản (thuộc sở tư pháp) để xử lý bán, hoặc xiết nợ đưa vào sử dụng, khai thác liên doanh...
Còn đối với những tài sản có đủ hồ sơ pháp lý nhưng lại có sự thế chấp ở Ngân hàng khác thì vẫn tiến hành xử lý phát mại nhưng việc phân chia tiền trả nợ phải chờ quyết định của toà án.
+ Nếu là các khoản vay không có thế chấp, bảo đảm thì ngân hàng phải chờ sự phán quyết của toà án kinh tế mới có biện pháp thu hồi vốn như bán tài sản của người vay. Nếu người vay không có tài sản thì kết quả đòi nợ vô hiệu hoá và người vay phải thụ án dân sự.
2.2/ Những giải pháp đối với Nhà nước
Nhà nước cần hoàn thiện chính sách cơ chế vĩ mô và luật pháp tạo môi trường pháp lý đầy đủ và đồng bộ cho mọi hoạt động kinh tế nói chung, kinh doanh ngân hàng nói riêng. Cần có những luật và các văn bản dưới luật về sở hữu tài sản, về chức năng nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc cấp chứng từ sở hữu tài sản, quản lý quá trình mua bán, chuyển nhượng, và việc xử lý phát mại tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, xử lý công nợ của doanh nghiệp thua lỗ, phá sản, giải thể... hướng giải quyết có thể như:
+ Chính phủ cần sớm thành lập một công ty (DNNN) kinh doanh mua bán nợ, tài sản thế chấp theo cơ chế cung cầu của thị trường. Công ty được cấp vốn từ ngân sách nhà nước, khai thác trong dân và vay của nước ngoài, đủ năng lực tài chính cho chương trình xử lý nợ tín dụng.
+ Ngân hàng Nhà nước cần có kế hoạch phối hợp với toà án nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ công an, Viện kiểm soát, Tổng cục địa chính để nghiên cứu soạn thảo, ban hành văn bản liên tịch nhằm hướng dẫn xử lý các khó khăn, ách tắc trong vấn đề tài sản thế chấp. Trong trường hợp một tài sản thế chấp ở nhiều ngân hàng khác nhau ( thế chấp trùng) mà có tranh chấp giữa các ngân hàng thì phải đề nghị toà án giải quyết sớm nếu như các bên không thoả thuận được.
+ NHNN nên cho phép NHTM được sử dụng quỹ dự trữ đặc biệt hay quỹ dự phòng rủi ro giảm giá tài sản để bù đắp phần chênh lệch thiếu giữa giá trị tài sản thế chấp, cầm cố bán được so với dư nợ ngân hàng của các khoản vay bị đóng băng do nguyên nhân khách quan (giá tài sản bị giảm, hoặc tài sản không bán được do nguyên nhân khách quan..)
+ Ngân hàng nhà nước cần chấn chỉnh sửa đổi quy chế bảo lãnh, hạn chế việc mở L/C mới đối với những hàng hoá không thiết yếu. Rà soát các khoản bảo lãnh, đặc biệt các loại L/C chậm trả để nắm chắc thời gian các L/C đến hạn trả, cử cán bộ giám sát, theo dõi chặt chẽ tiền bán hàng của các khách hàng mở L/C đảm bảo thanh toán kịp thời các L/C đến hạn.
+ Nhà nước cần có các chính sách kinh tế ổn định tránh gây ra những đột biến trong nền kinh tế gây ra rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp và của ngân hàng.
+ Nhà nước cần tăng cường các biện pháp quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Quy định rõ một cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập , giấy phép đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp và chịu trách nhiệm về tư cách pháp nhân, vốn tự có thực tế, năng lực trình độ của doanh nghiệp đó.
Thu hồi có thời hạn giấy phép thành lập, giấy phép đăng ký kinh doanh đối với các trường hợp vi phạm: buôn lậu, làm hàng giả, lừa đảo....cần buộc các doanh nghiệp phải chấp hành đúng pháp lệnh kế toán, có chế độ kiểm toán hàng năm đối với các doanh nghiệp. Chính sửa ban hành một số cơ chế tín dụng, bổ sung các điều kiện, nguyên tắc cho vay phù hợp với thực tế hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường .
+ Nhà nước cần quy định rõ địa bàn được công chứng theo hộ khẩu trên lãnh thổ để ngăn chặn và phát hiện những khách hàng lừa đảo, một tài sản dùng thế chấp ở nhiều nơi.
+ Và cuối cùng Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cũng cần có một chương trình dài hạn và trước mắt để quy hoạch, cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng, đặc biệt là loại yếu kém để xây dựng trong tương lai gần có một hệ thống ngân hàng Việt Nam hoạt động lành mạnh, hiệu quả, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước, khu vực và quốc tế.
Kết luận
Như vậy chất lượng tín dụng ngân hàng là một khái niệm rộng, xét trên một góc độ ngân hàng, khách hàng và xã hội thì có mỗi khái niệm khác nhau. Hơn nữa còn là một khái niệm mang tính định lượng và định tính. Định lượng là những chỉ tiêu ta có thể tính toán so sánh như đối với ngân hàng chủ yếu là chỉ tiêu dư nọ và nợ quá hạn, còn định tính như khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế ... và tất nhiên chất lượng của khoản tín dụng trung dài hạn cũng không nằm ngoài khái niệm chung đó.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - một Ngân hàng giữ vị thế chủ đạo trong lĩnh vực đầu tư và phát triển, có thế mạnh và kinh nghiệm với 42 năm hoạt động trong trong lĩnhvực tín dụng đầu tư phát triển. Hoạt động tín dụng trung dài hạn của ngân hàng trong những năm qua luôn tăng trưởng, dư nợ tín dụng trung dài hạn luôn chiếm 50-60% tổng dư nợ. Ngân hàng thực sự là địa chỉ tin cậy đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Mặc dù tỉ lệ nợ quá hạn của ngân hàng trong những năm qua là hơn 2%. Thấp hơn so với các ngân hàng thương mại khác trong nước. Nhưng đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam tỉ lệ này còn cao, với phương hướng giảm tỉ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ xuống dưới 2% đòi hỏi, toàn bộ hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cần thực hiện tốt những giải pháp để đạt được kết quả như mục tiêu đề ra.
Thành quả đạt được của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng trung dài hạn nói riêng trong những năm qua đã đóng góp thiết thực cho sự phát triển kinh tế của đất nước, đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu: dân giàu, xã hội công bằng văn minh. Đồng thời khẳng định vai trò, vị trí của Ngân hàng trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, thời kì CNH,HĐH.
Vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn đòi hỏi phải đề cập một cách sâu sắc, đầy đủ mang tính thực tế cao. Nhưng do thời gian thực tập ngắn, kinh nghiệm thực tế của bản thân chưa có nên chuyên đề còn nhiều thiếu sót về mặt thực tiễn cũng như lý luận. Rất mong sự góp ý, chỉ bảo của thầy, cô và các bạn để chuyên đề được hoàn chỉnh và thực tế hơn.
Em xin chân thành cảm ơn các anh, chị và lãnh đạo tại phòng tín dụng II, Ngân hàng Đầu tư và Phát triểnViệt Nam và đặc biệt là cảm ơn thầy giáo hướng dẫn PTS. Lê Đức Lữ đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
tài liệu tham khảo
1./ Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính. FS.Minshkin- NXB khoa học kĩ thuật.
2./ Ngân hàng thương mại -Nhà xuất bản thống kê.
3./ Tiền tệ, tín dụng, ngân hàng - Nhà xuất bản thống kê.
4./ Quy trình tín dung vủa Ngân hàng ĐT&PT VN.
5./ Báo cáo thường niên của Ngân hàng ĐT&PT VN năm 1999,2000,2001.
6./ Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh cuả Ngân hàng ĐT&PT VN.
7./ Phương hướng kinh doanh của NHĐT&PT VN năm 1999.
8./ Một số văm bản của Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ và của NHĐT&PT VN liên quan đến cơ chế hoạt động tín dụng.
9./ Tạp chí ngân hàng số 10,18, 23,24/2001; tháng 5,9,12/2001; tháng 2/1999; số chuyên đề tháng 12/2001
10./ Tạp chí đầu tư phát triển, số 31,33/2000; 35/2001.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0104.doc