Những năm qua, trước yêu cầu đổi mới nền kinh tế theo hướng mở cửa và đặc biệt là nhu cầu vốn ngày càng tăng của các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã có những bước đi tích cực trong việc mở rộng hoạt động kinh doanh sang lĩnh vực ngân hàng quốc tế nhằm đáp ứng tốt nhất những yêu cầu đó.
Cùng với các ngân hàng trong toàn ngành, Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa (ICBV) với vai trò Ngân hàng chủ đạo trong lĩnh vực công thương nghiệp đã tiến hành đổi mới hoạt động theo hướng kinh doanh đa năng, tổng hợp sang hoạt động ngân hàng quốc tế. Tín dụng xuất nhập khẩu, một sản phẩm mới của Ngân hàng trong hơn mười năn qua đã thu được những thành công ban đầu và góp phần đáng kể vào sự phát triển hoạt động ngân hàng quốc tế của ICBV cũng như sự phát triển hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Có được thành công này một phần quan trọng là do ICBV đã thực hiện tốt phương châm “an toàn, hiệu quả, lợ nhuận hợp lý”. Ngân hàng đã coi việc nâng cao chất lượng tín dụng là biện pháp tối ưu để tăng trưởng tín dụng và thúc đẩy sự phát triển của Ngân hàng.
Tuy nhiên, do phải hoạt động trong môi trường mà các điều kiện về tiền tệ chưa ổn định, sự cạnh tranh gay gắt và do những nguyên nhân nội tại như về con người, về điều kiện phương tiện phục vụ hoạt động. mà việc nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu nói riêng còn có những hạn chế nhất định.
Trong thời gian tới, với xu hướng phát triển của nền kinh tế, khả năng mở rộng hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng là rất lớn. Vì vậy, trên cơ sở tìm ra những thuận lợi, khó khăn cũng như những thành tựu và hạn chế trong vấn đề chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu ta có thể tin tưởng rằng ICBV sẽ luôn đi đúng với phương châm của mình, khắc phục được những khó khăn và ngày càng đóng góp nhiều hơn cho hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng và sự phát triển kinh tế của Việt Nam nói chung.
79 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1178 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa càng tăng trưởng và khả năng đáp ứng vốn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ngày càng cao.
Tỷ trọng dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu trong tổng dư nợ tuy chưa cao , tuy nhiên tỷ lệ này được tăng dần qua các năm : 10.54% năm 1999 ; 23.6 % năm 2000 và năm 2001 là 30.2% chứng tỏ vai trò của tín dụng xuất nhập khẩu trong hoạt đôngj tín dụng của Ngân hàng Công thương Đống Đa ngày càng quan trọng .
Mặt khác , như ta đã biết giai đoạn từ năm 1999 đến nay là giai đoạn rất khó khăn đối với hoạt động kinh tế đối ngoại bởi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong hku vực và sự chững lại của một số nền kinh tế các nước có quan hệ bạn hàng với Việt Nam đã làm cho thị trường xuất nhập khẩu của nước ta bị thu hẹp , các doanh nghiệp xuất nhập khẩu gặp nhiều khó khăn về tiêu thụ hàng hoá . Trong điều kiện đó mức tăng trưởng tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa vẫn dược duy trì ở mức cao và ổn định chứng tỏ khả năng và nỗ lực rất lớn của Chi nhánh trong lĩnh vực này.
- Về cơ cấu tín dụng theo thời hạn : Năm 1999 tín dụng xuất nhập khẩu ngắn hạn là 37.728 triệu đồng chiếm 40% tổng dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu , Năm 2000 dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu ngắn hạn là 85906.6 triệu đồng chiếm 52% tổng dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu , Năm 2001 tỷ trọng này là 59% điều này thể hiện Ngân hàng Công thương Đống Đa có thể mở rộng và đáp ứng các khoản tín dụng cho những món vay có thời hạn ngắn cũng như dài hạn cho xuất nhập khẩu . Đồng thời ta thấy các khoản tín dụng xuất nhập khẩu ngắn hạn có xu hướng tăng lên so với tín dụng xuất nhập khẩu trung và dài hạn , cũng có nghĩa là nhu cầu về tín dụng ngắn hạn của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu là rất lớn . Đây là lợi thế mà chi nhánh cần quan tâm khai thác .
Cơ cấu tín dụng theo đối tượng khách hàng: Trong cơ cấu tín dụng xuất nhập khẩu theo đối tượng khách hàng thì tín dụng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mặc dù chưa nhiều nhưng đã được nâng nên qua các năm. Năm 1999, tín dụng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 9%, đến năm 2000 tỷ lệ này đã tăng nên 15% và năm 2001 là 23%. Về số tuyệt đối doanh số cho vay đối với thành phần này tăng với tốc độ khá nhanh.Năm 2001, tăng gấp 2,5 lần so với năm 2000 và gấp 8 lần năm 1999. Điều này cho thấy rõ xu hướng đa dạng hoá khánh hàng đã được chú trọng và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang được chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa quan tâm hỗ trợ.
Điều này được thể hiện ở biểu 3
Biểu 3 : Dư nợ tín dụng xuất nhập khẩu giai đoạn 1999 – 2001
Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001
Các doanh nghiệp Nhà nước vẫn luôn là đối tượng khách hàng lớn của Ngân hàng Công thương Đống Đa trong tất cả các lĩmh vực mà đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Mặc dù tỷ trọng tín dụng cho các Doanh nghiệp nhà nướctuy có giảm song vẫn tăng cao về số tuyệt đối, điều này phản ánh thực tế khách hàng chủ yếu của Ngân hàng Công thương Đống Đa.
* Tín dụng xuất khẩu:
Những năm trước đây do đối tượng khách hàng chủ yếu của Ngân hàng Công thương Đống Đa là các doanh nghiệp hoạt động trong nước là chính nên các nhu cầu về tín dụng xuất khẩu rất thấp và chi nhánh hầu như không quan tâm theo dõi riêng mà tín dụng xuất khẩu được lồng ghép vào cho vay tín dụng chung. Khi nền kinh tế các nước khu vực ngày càng phát triển mạnh mẽ đòi hỏi nền kinh tế Việt Nam phải có những bước đột phá mới để hoà nhập vào vơí nền kinh tế khu vực và sự phát triển chung của nền kinh tế quốc tế, nhu cầu xuất hàng hoá, các thiết bị của Việt Nam là rất cấp bách và Ngân hàng Công thương Đống Đa đã quan tâm đến tín dụng xuất khẩu thể hiện ở việc ngân hàng cho vay đối với các doanh nghiệp xuáat khẩu một số mặt hàng chủ yếu theo chương trình của chính phủ như: gạo, cà phê, cao su… .Tuy nhiên, hoạt động tín dụng xuất mới chỉ nặng về chính sách mà không mang tính chất thương mại nên cũng chưa được quan tâm đúng mức.
Từ năm 1999 đến nay do nhu cầu về vốn cho hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp tăng lên và do chính sách đa dạng hoá trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, Ngân hàng Công thương Đống Đa mới thực sự coi hoạt động tín dụng xuất khẩu là một nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng.
Mặc dù mới đi vào hoạt động, tín dụng xuất khẩu của ngân hàng bước đã đạt được một số kết quả khả quan. Đáp ứng một phần nhu cầu vốn không nhỏ cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Cụ thể là:
Về quan hệ khách hàng: hiện nay ICBV đã là nhà tài trợ của rất nhiều các tổng công ty có thế mạnh về xuất trên địa bàn, ngoài ra ngân hàng cũng quan tâm đến việc tài trợ cho các công ty liên doanh với nước ngoài.
Về hoạt động nghiệp vụ: hoạt động nghiệp vụ xuất khẩu đã được triển khai trên địa bàn thuộc ngân hàng, và tại một số doanh nghiệp có tiềm năng xuất khẩu mạnh đã triển khai tốt hoạt động này và đây là hạt nhân tốt để thúc đẩy việc thực hiện tốt trong hệ thống ngân hàng.
Kết quả hoạt động: dự nợ tín dụng mặc dù chiếm tỷ trọng chưa cao so với dự nợ tín dụng, nhưng đạt tốc độ tăng trưởng qua các năm: năm 1999 dư nợ tín dụng xuất khẩu đạt 26409,6 triệu đồng chiếm 28% trong tổng dư nợ xuất nhập khẩu, năm 2000 đạt 53262,1 triệu đồng chiếm 32,24% tổng dư nợ xuất nhập khẩu, năm 2001 98229,23 triệu đồng chiếm 34,22% tổng dư nợ xuất nhập khẩu.
Tín dụng xuất khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa hiện nay 100% là cho vay ngắn hạn đáp ứng vốn lưu động tạm thời của các doanh nghiệp xuất khẩu. Tỷ trọng cho vay xuất khẩu đạt trung bình 63,3%, trong đó năm cao nhất là năm 1999 chiếm 70%. Hai năm trở lại đây tỷ trọng này có giảm song không lớn (62% năm 2000 và 58% năm 2001) và dư nợ tuyệt đối vẫn tăng trong điều kiện hoạt động xuất khẩu gặp nhiều khó khăn.
Tín dụng nhập khẩu:
Hoạt động tín dụng nhập khẩu của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa được thực hiện sớm hơn tín dụng xuất khẩu do từ lâu chi nhánh đã là bạn hàng của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công thương nghiệp có nhu cầu lớn về nhập khẩu móc thiết bị sản xuất kinh doanh cũng như bởi nhiều năm trước đây nhu cầu nhập khẩu cuả nước ta về hàng hoá lớn hơn nhiếu so với hiện nay vì các lí do: hoặc hàng của ta không sản xuất được hoặc sản xuất ra nhưng không xuất khẩu được do chất lượng kém, giá thành cao... Những năm gần đây hoạt động tín dụng nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa luôn đạt được những thành công mặc dù đấy không phải lĩnh vực chủ lực của Ngân hàng Công thương Đống Đa, cụ thể:
- Về quan hệ bạn hàng và mạng lưới hoạt động: hiện nay quan hệ trong hoạt động tín dụng cho nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa có thể coi là khá rộng. Ngân hàng đã thiết lập mối liên hệ tài trợ của rất nhiều dự án nhập khẩu với nhiều ngân hàng trong và ngoài nước. Mạng lưới trong nước cũng không ngừng được mở rộng. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với sự mở rộng và tăng cường khả năng cạnh tranh của Ngân hàng Công thương Đống Đa đối các ngân hàng khác.
- Về kết quả hoạt động nghiệp vụ: dự nợ tín dụng nhập khẩu tăng mạnh trong điều kiện bất lợi về tỷ giá và đóng góp một vai trò lớn trong việc hiện đại hoá máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, hàng hoá của các doanh nghiêp. Năm 1999 dư nợ tín dụng nhập khẩu đạt 78662,88 triệu đồng, năm 2000 đạt 125555.8 triệu đồng, năm 2001 là 224647 triệu đồng.
Tỷ trọng dư nợ tín dụng nhập khẩu đạt trung bình trên 79% trong tổng dư nợ xuất khẩu. Trong đó cho vay nhập khẩu chủ yếu là cho vay trung và dài hạn. Tỷ trọng tín dụng nhập khẩu ngắn hạn nhỏ so với tổng dư nợ nhập khẩu cho thấy hiện nay các dự án nhập khẩu mà Ngân hàng Công thương Đống Đa đang đáp ứng vẫn là những dự án nhập khẩu lớn, việc vay trả diễn ra trong nhiều năm.
Tình hình nợ quá hạn xuất nhập khẩu (XNK) của ICBV.
Chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng được phản ánh khá rõ ở tình hình nợ quá hạn. Do vậy, sẽ là thiếu sót khi ta xem xét chất lượng của các khoản tín dụng xuất nhập khẩu của ICBV mà không chú ý đến nợ quá hạn của ngân hàng.
So với các ngân hàng khác thì tỷ lệ nợ quá hạn xuất nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa là thấp hơn khá nhiều. Chẳng hạn như ở chi nhánh ngân hàng EximBank Hà Nội một chi nhánh ngân hàng chủ lực trong kinh doanh đối ngoại thì tỷ lệ nợ quá hạn tín dụng xuất nhập khẩu năm 1998 là 9,9% năm 1999 có hạ cũng chỉ ở mức 6,6%. Trong khi đó tỷ lệ này của Ngân hàng Công thương Đống Đa giao động ở con số 3%. Đây có thể xem là một thành tựu của ngân hàng hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa đã được hạ thấp các năm từ 1999-2001. Năm 1999 tỷ lệ nợ quá hạn tín dụng xuất nhập khẩu là 3,15%, năm 2000 giảm xuống còn 3% và đến năm 2001 là 2,89%. Những con số này phản ánh nỗ lực rất lớn của Ngân hàng Công thương Đống Đa trong việc nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu. Tỷ lệ nợ quá hạn xuất nhập khẩu được duy trì tương đối ổn định và ở mức có thể chấp nhận được.
Tỷ lệ nợ quá hạn thấp chủ yếu là do nợ quá hạn trung và dài hạn thấp. Năm cao nhất tỷ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn mới chỉ là 2,6%.
Nợ quá hạn trung và dài hạn thấp là do các nguyên nhân sau:
+ Thứ nhất: cho vay trung và dài hạn tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa thường có thời hạn cho vay dài, thời kỳ trả nợi ổn định và các doanh nghiệp có thể đề điều chỉnh kỳ trả nợ. Mặt khác, lãi suất của hình thức này thường thấp hơn các nguồn khác và người vay được lựa chọn lãi suất để hạn chế rủi ro do đó nó tạo cho các doanh nghiệp có thời gian khai thác vốn và thu được lợi nhuận để trả nợ.
+ Thứ hai: là nỗ lực của cán bộ tín dụng trong việc việc xử lý và thu hồi nợ, một số khoản vay cần được điều chỉnh mức thu nợ hàng năm đã được xử lý kịp thời. Tỷ lệ nợ quá hạn tín dụng xuất nhập khẩu ngắn hạn cao hơn nhiều so với tín dụng trung và dài hạn với các lí do:
Cho vay ngắn hạn tập trung vào cho vay xuất khẩu mà các mặt hàng xuất khẩu như: nông, lâm, thuỷ hải sản thường mang tính mùa vụ cao do đó thời điểm hoàn trả thường sai lệch so sới thời điểm các doanh nghiệp xuất khẩu thu được tiền hàng.
Cho vay ngắn hạn tín dụng xuất nhập khẩu thường gặp những khó khăn do sự biến động giá cả tỷ giá hơn so với cho vay trung dài hạn.
Do có tâm lí là những khoản vay ngắn hạn thường nhỏ và phân tán ở nhiều khách hàng khác nhau nên việc thẩm định đối với các khoản tín dụng này còn lỏng lẻo, sự quản lí, đôn đốc thu hồi nợ thực hiện chưa được tốt.
Năm 1999 là năm tỷ lệ nợ quá hạn tín dụng trung ngắn hạn XNK cao nhất 3,8% đây là thời kì thị trường thế giới có những biến động lớn làm ảnh hưởng lớn đến giá cả hàng hoá XNK. Sự mất giá của một số đồng tiền trong khu vực làm khả năng cạnh hàng hoá XNK của họ tăng lên, các doanh nghiệp XNK của ta gặp nhiều khó khăn hơn nữa đối với các doanh nghiệp nhập khẩu, sự biến động tỷ giá làm cho khả năng trả nợ của họ không được đảm bảo.
Qua những số liệu và việc phân tích ở trên ta có thể thấy được Ngân hàng Công thương Đống Đa đã đạt những kết kết quả khá tốt về mặt chất lượng tín dụng cho XNK. Điều đó được phản ánh thông qua sự trợ vốn kịp thời và có hiệu quả cho nhiều ngành, nhiều dự án XNK quan trọng của các doanh nghiệp cũng như của đất nước, sự tin tưởng của khách hàng cũng như sự gia tăng về các mối quan hệ của Ngân hàng Công thương Đống Đa với các bạn hàng trong nước và quốc tế. Ngoài ra, với những chỉ tiêu cụ thể về tổng dư nợ tăng, nợ quá hạn giảm đã cho thấy tín dụng XNK của Ngân hàng Công thương Đống Đa đang dần được nâng cao. Tuy vậy bên cạnh những kết quả đã đạt được, đối với vấn đề chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa còn có nhiều hạn chế cần quan tâm.
2.3.2. Hạn chế
Thứ nhất, nguồn vốn cho xuất nhập khẩu chưa đáp ứng yêu cầu:
Hiện nay nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng cao trong khi ngân hàng chưa có một nguồn vốn lớn, ổn định để đáp ứng nhu cầu này ngân hàng thường phải sử dụng các nguồn vốn vay thương mại trên thị trường với lãi cao và thời hạn ngắn. Ngoài ra với nguồn vốn huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế thì nguồn vốn trung dài hạn còn thấp, số tiền gửi thanh toán chưa cao gây khó khăn trong việc triển khai các dự án tài trợ trung dài hạn có giá trị lớn.
Nguyên nhân của hạn chế này là do nhiều phía : đối với người gửi tiền họ còn thiếu tin tưởng vào sự ổn định tiền tệ, sự bùng nổ của lạm phát trong những năm trước đây đã tác động đến tâm lý của khách hàng khi đem tiền vào gửi tại ngân hàng. Bởi vậy, họ thường chỉ gửi tiền tại ngân hàng trong thời gian ngắn. Đối với Ngân hàng do mới đi vào hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu nên chưa tạo được các mối quan hệ lâu dài và ổn định với bạn hàng. Mặt khác, với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu nông lâm thuỷ hải sản thường mang tính thời vụ và phụ thuộc khá nhiều vào tự nhiên do đó nhu cầu vốn thường không ổn định gây khó khăn cho việc chuẩn bị vốn của Ngân hàng.
Thứ hai là cơ cấu tín dụng xuất nhập khẩu chưa hợp lí, hình thức còn đơn điệu:
Hiện nay tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa chủ yếu là phục vụ nhập khẩu, tín dụng xuất khẩu chiếm tỉ trọng nhỏ mới chỉ tập trung cho vay ngắn hạn. Bên cạnh, cơ cấu tín dụng chưa hợp lí thì về hình thức tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa còn đơn điệu các hình thức hiện nay Ngân hàng đang áp dụng mới chỉ là các hình thức cổ điển, nhiều hình thức tín dụng xuất nhập khẩu mới và có khả năng thích ứng còn chưa được áp dụng dẫn đến các sản phẩm cung cấp không đa dạng và hạn chế khả năng được lựa chọn của khách hàng cũng như phân tán rủi ro cho Ngân hàng .
Thứ ba là tín dụng xuất khẩu còn mang nặng tính tự phát, chưa được triển khai đồng bộ trong toàn hệ thống dẫn đến chất lượng hoạt động nhiều khi còn thấp.
Hoạt động tín dụng xuất khẩu chưa được các định rõ nét các biện pháp hỗ trợ riêng còn đan xen với các hoạt động khác.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do:
Về nhận thức cho vay xuất khẩu chưa trải đều và sâu rộng, mang nặng quan niệm Ngân hàng là cho vay Đầu tư xây dựng cơ bản nên nhiều chi nhánh vẫn cho rằng khách hàng kinh doanh xuất khẩu không phải là đối tượng khách hàng của Ngân hàng Công thương Đống Đa.
Về con người : Xuất phát từ nhận thức chưa đầy đủ trong việc phát triển hoạt động xuất khẩu hơn thế đây là hình thức nghiệp vụ còn nhiều mới mẻ do vậy lực lượng cán bộ tín dụng để triển khai vừa thiếu, vừa yếu về kinh nghiệm, nghiệp vụ và ngoại ngữ so với yêu cầu
Về công cụ thực thi: Mạng lưới thanh toán quốc tế chưa đủ lớn và phù hợp.
Ngoài ra, còn một số nguyên nhân khác như sự không định rõ chức năng quản lí giữa các phòng ban, qui chế cho vay xuất khẩu ...
Thứ tư, nợ ngắn hạn quá hạn còn cao.
Những năm qua mặc dù tỉ lệ nợ quá hạn đã giảm đi và ở mức thấp tuy nhiên tỉ lệ nợ ngắn hạn quá hạn còn cao so với mục tiêu dưới 2% của Ngân hàng. Hơn thế mặc dù tỉ lệ nợ quá hạn giảm nhưng về số tuyệt đối vẫn tăng như vậy cũng là không tốt. Ngoài ra, nợ khó đòi vẫn xảy ra tuy với tỉ lệ rất nhỏ nhưng nếu xét về giá trị tuyệt đối thì không nhỏ như vậy giá trị tổn thất của ngân hàng nếu xảy ra cũng không nhỏ.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn, khó đòi của ngân hàng trong đó có một số nguyên nhân chính là: Môi trường pháp lí, kinh doanh trong nước chưa đồng bộ chặt chẽ, thị trường quốc tế thời gian qua có nhiều biến động dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp thấp.
Về phía ngân hàng là khi xét duyệt cho vay còn thiếu sâu sát, chưa nghiên cứu kĩ đặc điểm từng ngành, thiếu thông tin trong lĩnh vực xuất nhập khẩu (thông tin thị trường, giá cả, đối thủ cạnh tranh...), thiếu thông tin về công nghệ, tổ chức tiếp thị trong giao dịch các nghiệp vụ hỗ trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu còn chưa đầy đủ.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa
3.1. Phương hướng hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa.
3.1.1. Mục tiêu.
- Từng bước đẩy mạnh hoạt động cho vay xuất khẩu, coi đây là hoạt động mũi nhọn trong năm 2002 và những năm tiếp theo, với nguyên tắc hoạt động phải mang tính khoa học, thận trọng, bài bản và có hiệu quả. Lựa chọn điểm đột phá là ngành hàng, gắn ngành hàng với các Tổng công ty có tiềm năng xuất khẩu.
- Tích cực tìm hiểu (gắn xuất khẩu với nhập khẩu) có chọn lọc kỹ lưỡng các dự án đầu tư có hiệu quả của các doanh nghiệp làm ăn có uy tín để cho vay bằng nguồn vốn trong nước để tiếp tục hạn chế nợ quá hạn, đưa nợ quá hạn xuống dưới 2% tránh tình trạng không thu hồi được nợ theo kế hoạch.
- Đẩy mạnh các hoạt động tín dụng khác phục vụ cho việc tài trợ xuất khẩu trực tiếp như hàng xuất khẩu để trả nợ của Chính phủ, hàng đổi hàng, nghiệp vụ mua bán nợ.
- Duy trì phát triển tốt mối quan hệ hợp tác với các Ngân hàng nước ngoài để thu xếp nguồn vốn tài trợ, sử dụng các dịch vụ Ngân hàng và học hỏi kinh nghiệm về các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế.
Đảm bảo đủ nội lực để tạo đà cho bước nhảy vọt của hoạt động tín dụng xuất khẩu bên cạnh việc duy trì và phát triển hoạt động tài trợ nhập khẩu và các dịch vụ ngân hàng quốc tế.
3.1.2. Các mặt hoạt động cụ thể
Đối với hoạt động tín dụng xuất khẩu
- Rà soát lại các Bộ, Tổng công ty đã và chưa có quan hệ tín dụng với Chi nhánh xem xét mức độ quan hệ tín dụng của từng Tổng công ty hiện nay (với Chi nhánh và các NHTM khác) để phát triển và thiết lập quan hệ tín dụng, dịch vụ ngân hàng. Đặc biệt chú trọng các Tổng công ty có tiềm năng về xuất khẩu.
- Mở rộng tiếp thị, làm việc trực tiếp với các Tổng công ty có tiềm năng về xuất khẩu như TCT than, TCT chè, TCT cà phê, TCT lương thực, TCT dệt may, TCT da giầy, TCT cao su, TCT thuỷ tinh gốm sứ, TCT rau quả, TCT lâm nghiệp, TCT chăn nuôi, TCT xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm chế biến, TCT máy và phụ tùng, TCT thiết bị ytế, TCT dược, các TCT của Bộ thuỷ sản). Cố gắng tối đa để phục vụ nhu cầu vay vốn và các dịch vụ ngân hàng của các Tổng công ty này.
Trên cơ sở ban hành Quy chế tạm thời về cho vay tài trợ hàng xuất, trước mắt tập trung triển khai tại một số chi nhánh, địa bàn trọng điểm kết hợp với Tổng công ty có tiềm năng xuất khẩu, trên nguyên tắc thận trọng, đảm bảo an toàn về vốn, mua lại được ngoại tệ, tăng số lượng giao dịch xuất khẩu qua Ngân hàng Công thương Đống Đa, nhằm nâng cao uy tín Ngân hàng Công thương Đống Đa trên thị trường quốc tế. Phấn đấu năm 2002 Tổng doanh số cho vay xuất khẩu của toàn hệ thống tập trung vào 8 nhóm mặt hàng chính là cà phê, gạo, hạt có dầu, hải sản, may mặc, giầy dép, chè, cao su….
Đối với hoạt động tín dụng nhập khẩu:
- Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động này bằng việc tích cực tìm kiếm, lựa chọn khách hàng, dự án đầu tư có hiệu quả thông qua các kênh thông tin như các ngân hàng nước ngoài có quan hệ, các chi nhánh, các Bộ, các Tổng công ty; gắn tín dụng nhập khẩu với tín dụng xuất khẩu.
- Nghiên cứu để triển khai thí điểm việc cho vay bằng đồng EURO đối với một vài dự án.
- Đối với số dư nợ năm 2001, với phương châm tích cực phối hợp với các chi nhánh để đảm bảo thu nợ đầy đủ, đúng hạn, giải quyết kịp thời các phát sinh, cố gắng hạn chế tối đa nợ quá hạn. Đồng thời thực hiện rút vốn theo đúng tiến độ của dự án và trả nợ đối với các ngân hàng nước ngòi theo đúng các hợp đồng đã kí.
- Nghiên cứu nhu cầu thực tế của các doanh nghiệp để có cơ sở làm việc với các ngân hàng nước ngoài, chủ động tìm kiếm khách hàng trong nước có hoạt động sản xuất kinh doanh với nước ngoài để giới thiệu và hợp tác với Ngân hàng liên doanh nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa.
3.2. Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa
Để tiếp tục phát triển một cách vững chắc và ngày càng đóng góp nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển đất nước, Ngân hàng Công thương Đống Đa còn rất nhiều việc cần phải làm. Và một mục tiêu quan trọng mà Ngân hàng Công thương Đống Đa cần phải đạt được là nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu nói riêng của toàn hệ thống. Qua thời gian thực tập và nghiên cứu về hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Công thương Đống Đa với những hiểu biết về thực trạng và nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động này như phân tích ở trên, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng trong những năm tới. Các giải pháp đó bao gồm:
3.2.1. Đẩy mạnh đa dạng hoá nguồn vốn cho xuất nhập khẩu
Trong những năm qua mặc dù Ngân hàng Công thương Đống Đa đã thực hiện huy động vốn bằng nhiều hình thức khác nhau tuy nhiên, đối với hoạt động xuất nhập khẩu còn có một số hình thức huy động mà Ngân hàng chưa thực sự quan tâm khai thác như:
- Tham gia đồng tài trợ cho các dự án xuất nhập khẩu với các ngân hàng nước ngoài để khai thác những nguồn vốn với chi phí thấp.
- Sử dụng hình thức tái tài trợ bằng đồng EURO của các nước theo cơ chế Ngân hàng Công thương Đống Đa vay ngắn hạn 3 tháng hoặc 6 tháng dưới hình thức quay vòng của các Ngân hàng nước ngoài với lãi suất ngắn hạn sau đó cho vay lại các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước với lãi suất chênh lệch.
- Sử dụng nguồn vốn ODA tạm thời nhàn rỗi để cho vay ngắn hạn xuất nhập khẩu.
Đây là những nguồn vốn nước ngoài rất có ý nghhĩa đối với hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu bởi nó gắn với hoạt động ngân hàng quốc tế và quan hệ chặt chẽ với hoạt động tài trợ cho xuất nhập khẩu của Ngân hàng. Để khai thác được các nguồn vốn này thì Ngân hàng cần phải:
+ Không ngừng nâng cao uy tín trong quan hệ vay trả với nước ngoài, trả lãi và gốc đúng hạn.
+ Tiếp tục mở rộng quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế trên cơ sở phát triển các mối quan hệ cũ và xúc tiến những mối quan hệ mới.
Bên cạnh khai thác các nguồn mới nói trên ngân hàng cũng cần tiếp tục đẩy mạnh các hình thức huy động truyền thống trong và ngoài nước như : nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm, phát hành kì phiếu và trái phiếu,...
Ngân hàng cần bố trí một lượng vốn phù hợp cho hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu.
3.2.2.Tăng cường công tác tổ chức, đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ ngân hàng.
Hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu gắn thuộc nghiệp vụ Ngân hàng quốc tế nên khá phức tạp và đòi hỏi về trình độ cán bộ tín dụng cao hơn. Thực tế ở Ngân hàng Công thương Đống Đa cho thấy thường thì một cán bộ phải mất tối thiểu hơn một năm mới có khả năng nắm và triển khai công việc của hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu. Để các cán bộ có thể vừa nghiên cứu vừa triển khai công việc thì ngoài sự hiểu biết về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và các kiến thức kinh tế liên quan họ còn phải thông thạo ngoại ngữ, vi tính. Để nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu, việc tăng cường đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ tín dụng xuất nhập khẩu là đòi hỏi cấp thiết. Cụ thể là Ngân hàng Công thương Đống Đa cần tạo điều kiện cho cán bộ tham gia các chương trình đào tạo về những mặt sau:
- Ngoại ngữ ngoại thương, các chương trình sử dụng vi tính liên quan đến công việc.
- Các khoá học về qui chế, yêu cầu và hướng dẫn thực hiện hoạt động tín dụng quốc tế.
- Các khoá học về thẩm định dự án, phân tích tín dụng, ứng dụng Marketing vào hoạt động Ngân hàng.
- Các khoá học về qui chế tổ chức và các vấn đề liên quan đến hoạt động thương mại, kinh tế quốc tế.
- Các vấn đề có liên quan đến đồng tài trợ, tài trợ cho dự án bằng đồng EURO...
- Tham gia trao đổi hoạt động nghiệp vụ xuất nhập khẩu với các chuyên gia trong lĩnh vực này của các Ngân hàng trong nước và quốc tế có quan hệ với Ngân hàng Công thương Đống Đa. Nếu có điều kiện thì nên cử một số cán bộ sang đào tạo ở nước ngoài.
3.2.3. Thực hiện đa dạng hoá khách hàng và các hình thức tín dụng xuất nhập khẩu
Trong cơ cấu tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Đống Đa,
cho vay đối với các Doanh nghiệp Nhà nước vẫn chiếm tỉ trọng cao. Để nâng cao được chất lượng thì Ngân hàng cần thiết phải đa dạng hoá khách hàng bởi vì đây là việc làm có liên quan chặt chẽ đến khả năng phòng chống rủi ro tín dụng . Hơn thế, đa dạng hoá khách hàng sẽ đem lại cho Ngân hàng Công thương Đống Đa một thị trường rộng hơn trong hoạt động tín dụng và qua đó tăng trưởng được tín dụng, nâng cao được lợi nhuận cho ngân hàng đồng thời đáp ứng tốt hơn nhu cầu thiếu vốn của các thành phần kinh tế khác đặc biệt là các cơ sở thu mua xuất khẩu nhỏ.
Đối với Ngân hàng Công thương Đống Đa việc đa dạng hoá khách hàng theo thành phần kinh tế phải gắn liền với đa dạng khách hàng theo ngành hàng. Chẳng hạn với các ngành hàng như điện tử, xe máy, ôtô... Đây là những ngành hàng có nhiều triển vọng mà chi nhánh còn bỏ ngỏ. Trong thời gian tới chi nhánh nên tiến hành tham gia vào các ngành hàng này.
Cùng với việc đa dạng hoá khách hàng chi nhánh cũng cần phải tiến hành mở rộng các hình thức tín dụng xuất nhập khẩu.
Những năm qua hoạt động tín dụng nhập khẩu của ngân hàng đã phát triển khá mạnh. Tuy nhiên, về hình thức còn đơn điệu, làm hạn chế khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh đó hoạt động tài trợ xuất khẩu lại chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến doanh số thấp, hình thức cổ điển. Vì vậy với phương hướng lấy tín dụng xuất khẩu làm trọng tâm và kết hợp giữa tín dụng xuất khẩu và nhập khẩu, nhằm nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu thì trong giai đoạn tới việc xem xét mở rộng các hình thức tín dụng cho xuất khẩu cũng như nhập khẩu là đòi hỏi cấp thiết đối với Ngân hàng Công thương Đống Đa .
3.2.4. Thực hiện nghiêm các biện pháp phòng ngừa rủi ro, hạn chế nợ quá hạn.
Công việc đầu tiên để thực hiện ngăn ngừa rủi ro là Ngân hàng phải củng cố mạng lưới thu thập và xử lí thông tin khách hàng để nâng cao được chất lượng của công tác thẩm định dự án. Ngân hàng cần liên hệ thường xuyên với khách cũng như các cơ quan quản lí khách hàng (các Bộ, các Tổng công ty..) để có được những thông tin chính xác về thực trạng kinh doanh hiện tại của khách hàng, khả năng phát triển trong tương lai của họ lấy đó là một cơ sở quan trọng nhất để ra quyết định cấp tín dụng.
Trong thẩm định dự án phải chú trọng đến năng lực pháp lí của người vay và đặc biệt là kế hoạch về khả năng sinh lời của dự án, kế hoạch trả nợ trên cơ sở gắn những yếu tố về chi phí thu nhập của dự án với các yếu tố tương đương trên thị trường và xu hướng biến động của chúng trong tương lai. Ngoài ra, với những khách hàng mới cũng cần có sự đảm bảo của cơ quan chủ quản( Tổng công ty, Bộ...) hay sử dụng tài sản cầm cố. Tuy nhiên, không quá coi trọng vào tài sản thế chấp.
Tiếp đến Ngân hàng phải tiến hành phân định cán bộ tín dụng theo dõi tình hình sử dụng vốn trong suốt dự án chứ không chỉ chú trọng ở riêng giai đoạn đầu như hiện nay.
Về quản lí thu nợ và xử lí nợ quá hạn: Ngân hàng và khách hàng phải xác định lịch trả nợ phù hợp với lịch thu được lợi nhuận từ hoạt động của khách, tránh gây căng thẳng về vốn cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó cần qui định chặt chẽ về việc yêu cầu doanh nghiệp mở tài khoản tại Ngân hàng để thuận lợi thu nợ.
Ngân hàng cần phát hiện sớm các khoản cho vay có dấu hiệu bị đe doạ thông qua các dấu hiệu như: Doanh nghiệp chậm chễ trong việc nộp báo cáo tài chính, báo các kết quả hoạt động kinh doanh; có dấu hiệu trốn tránh sự kiểm tra của Ngân hàng ; số dư tiền mặt giảm; gia tăng bất thường về hàng tồn kho hoặc các khoản nợ thương mại, hoàn trả nợ và lãi chậm... để chủ động tìm biện pháp xử lí chứ không nên trông chờ vào doanh nghiệp. Cụ thể :
- Cán bộ Ngân hàng có thể cho lời khuyên hoặc cố vấn cho khách hàng trong tiêu thụ sản phẩm, thu nợ khách hàng của doanh nghiệp.
- Tăng thêm vốn cho doanh nghiệp thông qua các hình thức như: mở rộng cho vay tín chấp. Hay là, Ngân hàng có thể cho vay thêm hợp đồng tín dụng với khác trên cơ sở có người đứng ra bảo lãnh.
- Đề nghị doanh nghiệp huy động vốn từ bên ngoài thông qua các hình thức như cổ phiếu, trái phiếu.
- Đối với các khoản cho vay mà sau khi phát hiện và thực hiện các biện pháp hỗ trợ vẫn không có tác dụng dẫn đến nợ quá hạn, nợ khó đòi khi đó Ngân hàng cần phải thực hiện các biện pháp về khai thác và thanh lí.
+ Biện pháp khai thác: Ngân hàng có thể gia hạn hợp đồng tín dụng, giảm qui mô hoàn trả trước mắt hoặc có thể dãn nợ cho các doanh nghiệp. Các hình thức này chỉ nên áp dụng với các doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh, có thu nhập có khả năng trả nợ; có ý thức trả nợ, trong quá trình vay đã trả được một phần nợ gốc và lãi; doanh nghiệp phải có tài sản cầm cố thế chấp dễ phát mại.
+ Biện pháp thanh lí tài sản thế chấp: Khi mà mọi sự cứu vãn tình thế trở nên không còn hiệu quả thì Ngân hàng cần phải sử dụng biện pháp thanh lí nợ. Ngân hàng có thể áp dụng hình thức gán nợ hay khởi kiện tuỳ theo quan hệ với khách, ý thức mong muốn trả nợ và nguyên nhân không trả được nợ của khách.
- Gán nợ: Ngân hàng sẽ áp dụng hình thức gán nợ với các khách hnàg không có khả năng trả nợ và họ uỷ quyền cho Ngân hàng toàn quyền quyết định đối với tài sản thế chấp. Ngân hàng có thể sử dụng tài sản để cho thuê, làm trụ sở hay bán lại cho người khác.
- Khởi kiện: Với những khách hàng có hành vi trốn tránh, lừa đảo thì Ngân hàng sẽ tiến hành khởi kiện ra pháp luật.
Nếu các tài sản thế chấp có đủ hồ sơ hợp pháp, sau khi có quyết định của toà án thì Ngân hàng nên chuyển qua trung tâm đấu giá hoặc thu hồi sử dụng như với hình thức gán nợ. Còn nếu các tài sản có đủ hồ sơ pháp lí nhưng lại có thế chấp ở Ngân hàng khác thì tiến hành phát mại và phân chia theo quyết định của toà án.
Đối với những khoản vay không có thế chấp, bảo đảm thì khả năng gánh chịu rủi ro của Ngân hàng là khó tránh khỏi.
3.2.5- Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng
Hiện nay công nghệ ngân hàng tại Ngân hàng Công thương Đống Đa đã được nâng cao nhưng chưa toàn diện, chưa đồng bộ trong toàn hệ thống. Do vậy, chi nhánh cũng cần phải tiếp tục đầu tư hơn nữa để nâng cao công nghệ ngân hàng nhằm đáp ứng cho việc áp dụng các hình thức tín dụng mới và hỗ trợ cho việc thanh toán diễn ra nhanh chính xác từ đó giảm được chi phí, nâng cao khả năng phòng chống rủi ro và chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng.
3.2.6. Đẩy mạnh các nghiệp vụ dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu như: kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế có liên quan trực tiếp đến hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu.
Mua bán ngoại tệ sẽ tác động đến trạng thái ngoại tệ của Ngân hàng do vậy tác động đến nguồn vốn ngoại tệ cho xuất nhập khẩu đặc biệt là nhập khẩu. Ngoài ra, nó còn có tác động đến sự ổn định tỉ giá ngoại tệ, làm ảnh hưởng rất lớn đối với khả năng vay, trả nợ của khách từ đó ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng.
Thanh toán quốc tế tác động đến chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu thông qua việc đáp ứng kịp thời về chi trả của khách, nó là một phần của nghiệp vụ tín dụng xuất nhập khẩu ở khâu thanh toán. Thực hiện việc thanh toán nhanh chóng kịp thời không chỉ nâng cao uy tín cho Ngân hàng mà còn hạn chế được tổn thất do yếu tố chủ quan và nhờ đó nâng cao chất lượng tín dụng cho Ngân hàng.
Để đẩy mạnh được các dịch vụ kinh doanh ngoại tệ cũng như thanh toán quốc tế Ngân hàng cần phải:
- Tìm kiếm các đối tác kinh doanh ngoại tệ, mở rộng quan hệ thanh toán. Chẳng hạn như với thị trường Mỹ, quan hệ xuất nhập khẩu giữa Việt nam và Mỹ có rất nhiều triển vọng đặc biệt khi mà Hiệp định thương mại Việt- Mỹ được kí kết. ICBV nên sớm tìm kiếm đối tác ở thị trường này.
- Sử dụng các công cụ thanh toán hiện đại qua mạng internet
- Xác định hạn mức kinh doanh ngoại tệ.
- Theo dõi tình hình thu chi ngoại tệ của các doanh nghiệp xuất khẩu có cam kết bán lại ngoại tệ cho Ngân hàng khi có doanh thu xuất khẩu.
- Chủ động nắm bắt kịp thời sự biến động tỉ giá trên thị trường để có xác định các tỉ giá giao dịch thuận lợi cho cả khách hàng và Ngân hàng.
- Thường xuyên theo dõi cân đối dự trữ ngoại tệ trong từng giai đoạn, thời kì.
3.2.7. Ban hành qui định cụ thể cho hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu
Để chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu ngày được nâng cao, ngoài sự quan tâm phát triển mạng lưới mở rộng thị trường và các biện pháp khác thì Ngân hàng Công thương Đống Đa cũng cần phải sớm hoàn thành việc ban hành cơ chế hướng dẫn hoạt động và vai trò cụ thể trong việc điều tiết hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu ở TW. Cụ thể:
+ Hoàn thiện cơ chế:
- Ngân hàng phải sớm hoàn thiện qui chế cho vay tài trợ xuất khẩu và tài trợ nhập khẩu để ban hành chính thức, thực hiện thống nhất trong toàn hệ thống. Trong đó chú trọng đến quản lí sau khi vay và các hình thức bảo đảm nợ vay.
- Xây dựng cơ chế có liên quan về quản lí, mua bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế trên cơ sở quy định của Ngân hàng Nhà nước và vận dụng linh hoạt vào điều kiện Ngân hàng.
Xây dựng chiến lược phát triển cụ thể cho nghiệp vụ tín dụng xuất nhập khẩu những năm tiếp theo trong toàn hệ thống.
Ngân hàng công thương Việt Nam nên hình thành phòng chuyên trách nghiệp vụ tài trợ xuất nhập khẩu.
-Quản lí theo dõi và hỗ trợ hoạt động của toàn hệ thống theo ngành hàng, khách hàng. Định hướng khách hàng, ngành hàng trọng tâm.
- Xây dựng hệ thống mẫu biểu báo cáo cho vay xuất nhập khẩu toàn hệ thống.
- Phối hợp với các phòng thanh toán quốc tế, phòng kinh doanh ngoại tệ và phòng tín dụng 4 theo quyền hạn được phân cấp.
Lên kế hoạch về hạn mức tín dụng cho xuất nhập khẩu hàng năm đối với toàn hệ thống và cho từng chi nhánh.
3.2.8. Triển khai Marketing ngân hàng trong hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu
Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, một trong những bí quyết thành công của các ngân hàng là không ngừng thu hút khách hàng và mở rộng thị trường. Để làm được điều đó Ngân hàng không thể không thực hiện áp dụng Marketing, cho dù theo hình thức này hay hình thức khác. Đối với Ngân hàng Công thương Đống Đa
hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu mới đi vào hoạt động điều này càng đòi hỏi phải chú trọng đến Marketing nhiều hơn.
Hơn hai năm qua trong hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu chi nhánh đã bước đầu chú ý đến công tác tiếp thị tìm hiểu thị trường, tìm hiểu nhu cầu khách hàng. Song để tiến tới những thành công lớn hơn chi nhánh cần phải xây dựng cho mình một chiến lược Marketing hỗn hợp gồm 4 chính sách lớn:
- Chính sách thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu, điều tra: Thực hiện chính sách này ngân hàng phải nắm bắt được nhu cầu về sản phẩm trên thị trường, xem khách hàng hiện tại, khách hàng tương lai là ai, họ mong muốn điều gì ở các sản phẩm của chi nhánh. Qua đó tiến hành phân loại khách hàng theo các mục tiêu cần nghiên cứu và có biện pháp để lôi kéo khách hàng của các Ngân hàng đối thủ và xây dựng được mạng lưới khách hàng ổn định.
- Chính sách sản phẩm giá cả: chi nhánh cần phải tạo ra sự khác biệt về sản phẩm so với các ngân hàng khác thông qua chính sách lãi suất và các dịch vụ hỗ trợ kèm theo như: tư vấn cho khách hàng về thị trường sản phẩm cung cấp các thông tin về khách hàng cho các doanh nghiệp...
- Chính sách phân phối: Đây là chính sách nền tảng cho mối quan hệ giữa khách hàng và Ngân hàng. Thực hiện chính sách này Ngân hàng phải xây dựng được mạng lưới phân phối phù hợp trên cơ sở quan tâm xem xét đến các yếu tố về địa điểm mở quầy giao dịch, trang bị cơ sở vật chất, bố trí đội ngũ cán bộ...
- Chính sách giao tiếp khuyếch trương: Để thực hiện tốt chính sách này Ngân hàng ngoài quảng cáo còn cần phải tiến hành mở rộng các hình thức tín dụng, dịch vụ về xuất nhập khẩu. Công việc này cần phải được thực hiện bởi tất cả các phòng ban, mọi cán bộ nhân viên trong toàn ngân hàng chứ không nên chỉ giới hạn ở bất cứ phòng ban nào.
Để làm tốt công tác trên chi nhánh cần sớm hoàn thành việc xây dựng trang chuyên đề về tài trợ xuất nhập khẩu trên mạng nội bộ, nhằm giới thiệu các văn bản pháp lí về hoạt động xuất nhập khẩu của chi nhánh và các Bộ, ngành có liên quan để tạo ra một diễn đàn , chuyên đề về xuất nhập khẩu toàn hệ thống Ngân hàng Công thương.
3.3- Một vài kiến nghị với Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước
3.3.1- Đối với Nhà nước
Hoạt động xuất nhập khẩu nắm giữ một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Vì vậy để thúc đẩy hoạt động này một cách có hiệu quả nhất đồng thời nâng cao được chất lượng tín dụng cho xuất nhập khẩu không chỉ là mối quan tâm của các Ngân hàng mà còn là mối quan tâm của Nhà nước. Để đạt được mục tiêu nói trên theo tôi trong giai đoạn trước mắt Nhà nước cần phải :
1. Bổ sung, hoàn thiện các văn bản, cơ chế chính sách quản lí Nhà nước đối với hoạt động kinh tế đối ngoại theo hướng tinh giản chính xác và thuận lợi nhằm tạo hành lang pháp lí an toàn cho các doanh nghiệp và Ngân hàng trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
Thời gian qua chính sách và cơ chế quản lí Nhà nước về kinh tế, tuy đã có nhiều sửa đổi nhưng vẫn bộc lộ những yếu kém. Minh chứng cho điều này là hàng loạt các vụ án kinh tế lớn có liên quan đến các Doanh nghiệp và Ngân hàng . Sự lừa đảo chiếm đoạt vốn của Ngân hàng, của Nhà nước của các cá nhân, các doanh nghiệp đã thể hiện lỏng lẻo trong quản lí Nhà nước. Việc ban hành các chính sách, chế độ còn nhiều khe hở khiến cho bọn lừa đảo có thể lợi dụng. Tác hại của những vụ việc đó không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động tín dụng của các Ngân hàng mà cả với nền kinh tế.
Để khắc phục những hạn chế đó, Nhà nước cần :
Tiến hành nghiên cứu sửa đổi các chính sách cũ, ban hành các chính sách mới chặt chẽ hơn nhưng lại phải thuận lợi cho các doanh nghiệp và Ngân hàng làm ăn đích thực hơn.
Tự do hoá về kinh doanh và từng bước xoá bỏ các hạn chế về hàng rào thuế quan theo cam kết quốc tế.
Thành lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu và quỹ hỗ trợ xuất khẩu:
Về quỹ bảo hiểm xuất khẩu: xuất phát về tính rủi ro cao về giá cả thị trường quốc tế. Để các nhà xuất khẩu yên tâm ổn định sản xuất và một phần giúp đỡ họ khi gặp rủi ro bất lợi, Nhà nước nên sớm thành lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu. Quỹ này có thể vận động theo nguyên tắc: Bộ thương mại và các cơ quan quản lí có liên quan sẽ tiến hành khảo sát thị trường để định ra một mức giá trị bảo hiểm nhất định sao cho người sản xuất có thể thu hồi vốn đầu tư, trang trải các chi phí và có được một phần lợi nhuận hợp lí.
Khi giá thị trường thế giới thuận lợi, giá xuất khẩu cao hơn giá bảo hiểm. Nhà nước sẽ thu phần chênh lệch bổ sung vào quỹ. Ngược lại khi giá thị trường thế giới thay đổi, giá xuất khẩu thấp hơn giá bảo hiểm, Quỹ sẽ trích tiền hỗ trợ cho nhà xuất khẩu để họ có sản phẩm tại mức giá bảo hiểm.
Như vậy, quỹ hỗ trợ xuất khẩu, Nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp ổn định thu nhập, từ đó gián tiếp tác động đến khả năng hoàn trả vốn vay ngân hàng của doanh nghiệp. Đối với Ngân hàng thì điều này là hết sức có ý nghĩa trong việc nâng cao chất lượng của các khoản tín dụng.
Về quỹ tín dụng xuất khẩu: Với mục đích hỗ trợ vốn cho xuất khẩu, bảo hiểm tín dụng cho các NHTM tham gia tài trợ xuất khẩu, hầu hết các nước trên thế giới đều có cơ quan tài trợ và bảo hiểm tín dụng xuất nhập khẩu như: JBIC, EXIM bank Hàn quốc, EXIM bank Thái Lan, EXIM bank Mỹ... Vì vậy, Chính phủ cần nhanh chóng cho ra đời Quỹ tín dụng xuất khẩu để cấp tín dụng xuất khẩu ưu đãi, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu, mở rộng thị trường xuất khẩu và hạn chế rủi ro cho các NHTM.
Về nguyên tắc hoạt động : Quỹ sẽ do Ngân hàng Nhà nước quản lí. Đối với từng dự án cụ thể, Quỹ sẽ tài trợ một phần hay toàn bộ. Để tăng hiệu quả Quỹ nên hỗ trợ một phần với lãi suất ưu đãi, phần còn lại các Doanh nghiệp tự đi vay của Ngân hàng . Như vậy, vừa đảm bảo hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp và Ngân hàng , vừa đạt mục tiêu xuất khẩu.
3. Tăng cường vai trò điều tiết giá xuất nhập khẩu hợp lí thông qua Quỹ bình ổn giá
Hoạt động của Quỹ bình ổn giá thời gian qua đã phát huy được vai trò nhất định trong việc điều tiết thị trường hàng hoá ( cả xuất khẩu và nhập khẩu ). Song do tiềm lực tài chính và phương thức sử dụng còn hạn chế đã làm cho vai trò của Quỹ đem lúc còn bị động và chưa kịp thời. Trong thời gian tới, Nhà nước cần hỗ trợ thêm về mặt tài chính cho Quỹ ngoài phần phụ thu như hiện nay. Mặt khác Quỹ nên tập trung vào những Doanh nghiệp lớn mà sự tham gia hoặc rút lui của các Doanh nghiệp này thực sự có ảnh hưởng đến cung cầu, giá cả trên thị trường.
Các phương thức điều tiết cũng nên đa dạng hơn gồm:
- Hỗ trợ lãi suất cho Doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng, hỗ trợ một phần không hoàn lại số lỗ phát sinh trong trường hợp doanh nghiệp phải thực hiện giá mua cao hơn giá bán.
- Hỗ trợ một phần lỗ phát sinh do các doanh nghiệp có nộp phụ thu nay gặp phải đột biến giá cả thị trường trong và ngoài nước cho các doanh nghiệp trực tiếp vay vốn ưu đãi, hỗ trợ chi thay cho NSNN theo lệnh của Chính phủ.
4. Ban hành qui định về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà đất
Hiện nay về việc đảm bảo tiền vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thường là bất động sản nhưng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà chưa nhiều dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp không đủ điều kiện thế chấp do vậy cho vay đối với loại hình này gặp nhiều khó khăn. Hơn thế, nhiều khi doanh nghiệp không trả được nợ ngân hàng đem tài sản thế chấp ra phát mại lại rơi vào trường hợp khách hàng chưa có quyền sử dụng, sở hữu nhà đất hợp pháp. Do vậy để thuận lợi cho các doanh nghiệp ngoài vay vốn hoạt động và cũng là để tránh rủi ro cho các Ngân hàng Nhà nước nên sớm ban hành qui định cụ thể về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng, sở hữu nhà đất cho các doanh nghiệp.
5. Hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường trong và ngoài nước
Để giúp các doanh nghiệp nắm bắt được thông tin kịp thời chính xác phục vụ cho việc ra các quyết định về sản xuất, đầu tư, đồng thời để định hướng thị trường cho các doanh nghiệp và ngân hàng. Nhà nước cần xây dựng một hệ thống thông tin thị trường trong và ngoài nước một cách chính xác và đầy đủ. Chẳng hạn có thể lập một trương trình truyền hình riêng về thông tin thị trường cập nhật.
6. Quản lí nghiêm việc thực hiện báo cáo tài chính công khai và kiểm toán thường xuyên đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
Đây là việc làm hết sức quan trọng không chỉ đối với các doanh nghiệp và ngân hàng mà còn cả với các cơ quan quản lí của Chính phủ.
Việc thực hiện báo cáo tài chính công khai và kiểm toán thường xuyên sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng : các Ngân hàng sẽ giảm bớt được gánh nặng trong việc phân tích tài chính doanh nghiệp. Đồng thời có những thông tin chính xác về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Qua đó hạn chế được rủi ro và nâng cao được chất lượng tín dụng của mình.
Đối với các cơ quan quản lí của Nhà nước việc làm này sẽ giúp cho họ có thể phát hiện ra được những yếu kém trong hoạt động của các doanh nghiệp và có biện pháp khắc phục.
7. Chính phủ cần tiếp tục thực hiện chương trình thanh toán nợ nước ngoài
Những năm qua Chính phủ đã rất nỗ lực để đàm phán và thanh toán nợ với nước ngoài. Tuy nhiên, để mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, nâng cao được uy tín cho các doanh nghiệp và ngân hàng trên trường quốc tế Chính phủ cần tiếp tục cố gắng hơn nữa trong việc thanh toán nợ với nước ngoài. Do điều kiện của Việt nam còn nhiều khó khăn Chính phủ có thể đàm phán để được giãn nợ, trả dần và đặc biệt là đàm phán để được thanh toán nợ bằng hàng hoá.
3.3.2. Đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam (NHCTVN)
1. Xây dựng các văn bản pháp lí về tín dụng xuất nhập khẩu
Hiện nay các văn bản pháp lí về tín dụng xuất nhập khẩu còn sơ sài. Các Ngân hàng chỉ được hướng dẫn theo định hướng chung mà chưa có hệ thống văn bản qui định và hướng dẫn cụ thể. Do vậy Ngân hàng Công thương Việt Nam cần sớm ban hành các văn bản pháp lí và hướng dẫn thực hiện về hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu để các ngân hàng có cơ sở hoạt động, tránh được sự vi phạm pháp luật đồng thời hạn chế được rủi ro và nâng cao được chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của mình.
2. Ngân hàng Công thương Việt Nam cần xem xét đề ra một cơ chế điều hành lãi suất và tỉ giá một cách thông thoáng hơn.
Về lãi suất: Hiện nay Ngân hàng Công thương Việt Nam đang vận dụng lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước để điều chỉnh lãi suất cho vay của các chi nhánh. Điều này đã đem lại cơ hội giảm chi phí vay vốn một cách bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Tuy vậy, thời gian qua lãi suất liên tục 5 lần bị điều chỉnh xuống để kích cầu dẫn đến hiện tượng lãi suất không vận động theo cung cầu tiền tệ.
Với các Ngân hàng lãi suất đầu ra giảm trong khi lãi suất đầu vào vẫn tăng (do biến động khủng hoảng kinh tế khu vực và thế giới các nước hạn chế đầu tư ra nước ngoài và do các Ngân hàng vẫn phải cạnh tranh lãi suất để huy động vốn) vì vậy lợi nhuận không cao.
Với các chủ đầu tư khi lãi suất thấp họ sẽ đầu tư tràn lan mà không cần xem xét đến hiệu quả sử dụng vốn dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp trong khi đó các Ngân hàng lại muốn cho vay nhiều để tăng lợi nhuận nên khả năng nợ quá hạn tăng là khó tránh khỏi.
Để vừa khuyến khích các nhà xuất nhập khẩu tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh NHCTVN cần phải xem xét điều tiết lãi suất trên cơ sở bám sát thị trường sao cho đảm bảo cân đối giữa lãi suất đầu ra và đầu vào của các Ngân hàng đồng thời buộc các doanh nghiệp quan tâm đến hiệu quả hoạt động của mình.
Về tỉ giá hối đoái: Do ảnh hưởng của nền kinh tế trong những tháng qua, do qui chế cho vay bằng ngoại tệ và một phần tâm lí của khách hàng sợ biến động tỉ giá nên việc cho vay ngoại tệ đạt mức thấp.
Việc tỉ giá giữa đồng nội tệ VND với USD tăng làm cho việc xuất khẩu có chiều hướng thuận lợi hơn nhưng bên cạnh đó các nhà nhập khẩu lại gặp khó khăn trong việc mua bán hàng hoá từ nước ngoài về và thanh toán số nợ ngoại tệ trước đây cho ngân hàng điều này có thể dẫn đến nguy cơ nợ quá hạn đối với các ngân hàng. Vì vậy NHCTVN cần phải có sự điều chỉnh tỉ giá sao cho cân đối được lợi ích của các bên xuất khẩu và nhập khẩu và của cả các chi nhánh ngân hàng.
3. NHCTVN cần đẩy mạnh việc nghiên cứu sử dụng đồng EURO trong giao dịch thanh toán quốc tế đồng thời nghiên cứu sử dụng đồng nội tệ của các nước trong khu vực thay cho việc sử dụng USD để hạn chế ảnh hưởng biến động của USD và nâng cao vai trò thanh toán của VND.
Quan hệ thương mại quốc tế giữa Việt nam và các nước thuộc nhóm sử dụng đồng EURO là khá chặt chẽ. Bởi từ lâu các nước này đã là những nước nhập khẩu lớn các sản phẩm xuất khẩu của ta về các mặt hàng như nông, lâm, thuỷ sản... Ngoài ra đây còn là những nước cung cấp các mặt hàng nhập khẩu quan trọng cho Việt nam đó là các dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị... Và đặc biệt là nguồn vốn đầu tư trực tiếp và các khoản viên trợ nước ngoài. Bởi vậy, để cho sự hợp tác này diễn ra được thuận lợi hơn nữa, NHCTVN cần sớm triển khai việc nghiên cứu và sử dụng đồng EURO trong giao dịch thanh toán quốc tế của Việt nam với các nước. Đồng thời để hạn chế sự lệ thuộc vào đồng USD, và nâng cao vị trí của đồng VND trên trường quốc tế chúng ta cũng cần phải xem xét sử dụng các đồng tiền khác của các nước trong khu vực vào việc thanh toán trực tiếp với Việt nam.
4. Mở các lớp đào tạo nghiệp vụ, các diễn đàn trao đổi giữa các ngân hàng Việt nam và với các Ngân hàng quốc tế
Với vai trò là Hội sở chính của hệ thống, NHCTVN nên tổ chức các lớp đào tạo nghiệp vụ và tổ chức các diễn đàn trao đổi giữa các ngân hàng Việt nam với các ngân hàng quốc tế để tạo điều kiện cho các chi nhánh Việt nam có điều kiện nâng cao trình độ nhận thức và học hỏi kinh nghiệm hoạt động của các Ngân hàng bạn. Qua đó nâng cao được chất lượng trong hoạt động của mình. Ngoài ra, đây cũng là cơ để thúc đẩy sự hợp tác quốc tế cho ngành ngân hàng Việt Nam.
kết luận
Những năm qua, trước yêu cầu đổi mới nền kinh tế theo hướng mở cửa và đặc biệt là nhu cầu vốn ngày càng tăng của các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã có những bước đi tích cực trong việc mở rộng hoạt động kinh doanh sang lĩnh vực ngân hàng quốc tế nhằm đáp ứng tốt nhất những yêu cầu đó.
Cùng với các ngân hàng trong toàn ngành, Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa (ICBV) với vai trò Ngân hàng chủ đạo trong lĩnh vực công thương nghiệp đã tiến hành đổi mới hoạt động theo hướng kinh doanh đa năng, tổng hợp sang hoạt động ngân hàng quốc tế. Tín dụng xuất nhập khẩu, một sản phẩm mới của Ngân hàng trong hơn mười năn qua đã thu được những thành công ban đầu và góp phần đáng kể vào sự phát triển hoạt động ngân hàng quốc tế của ICBV cũng như sự phát triển hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Có được thành công này một phần quan trọng là do ICBV đã thực hiện tốt phương châm “an toàn, hiệu quả, lợ nhuận hợp lý”. Ngân hàng đã coi việc nâng cao chất lượng tín dụng là biện pháp tối ưu để tăng trưởng tín dụng và thúc đẩy sự phát triển của Ngân hàng.
Tuy nhiên, do phải hoạt động trong môi trường mà các điều kiện về tiền tệ chưa ổn định, sự cạnh tranh gay gắt và do những nguyên nhân nội tại như về con người, về điều kiện phương tiện phục vụ hoạt động... mà việc nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu nói riêng còn có những hạn chế nhất định.
Trong thời gian tới, với xu hướng phát triển của nền kinh tế, khả năng mở rộng hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng là rất lớn. Vì vậy, trên cơ sở tìm ra những thuận lợi, khó khăn cũng như những thành tựu và hạn chế trong vấn đề chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu ta có thể tin tưởng rằng ICBV sẽ luôn đi đúng với phương châm của mình, khắc phục được những khó khăn và ngày càng đóng góp nhiều hơn cho hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng và sự phát triển kinh tế của Việt Nam nói chung.
Tài liệu tham khảo
Báo cáo tổng kết tình hình hoạt động cho vay xuất nhập khẩu tại chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa (ICBV)
Các tài liệu nghiệp vụ khác của ICBV
Giáo trình tài chính doanh nghiệp_Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà nội
Giáo trình Kinh tế quốc tế_Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà nội
6. Kinh tế Việt nam và thế giới năm 1999-2000_Thời báo kinh tế Việt Nam
7. Lý thuyết tài chính- tiền tệ_ Nguyễn Ngọc Hùng, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Thống kê
8. Ngân hàng thương mại_Edward Weed, Ph.D và Edward K. Gill, Ph.D, NXB Thành phố Hồ Chí Minh
9. Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại _ David Cox, NXB Chính trị quốc gia
10. Tài chính ngoại thương_Herbert-Jkessler, NXB Khoa học kỹ thuật
11. Tạp chí ngân hàng số 13/T7, số 15, 16/T10 năm 2000
12. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ số 8/T4 năm 2001
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0497.doc