Luận văn Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây

Chính sách đối ngoại của nhà nước ta là thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ đối ngoại với tình thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới. (trích văn kiện Đại hội Đảng VIII) đang ngày càng có hiệu quả. Chúng ta đã đạt được những bước tiến lớn trong quan hệ đối ngoại, tham gia vào khối ASEAN, khu vực mậu dịch tự do Châu Á (AFTA) là thành viên của APEC và tiến tới tham gia vào WTO. Chính những điều đó đã đưa hoạt động ngoại thương của nước ta phát triển lên một tầm cao mới. Song trong thời gian tới các lỗ lực ngoại giao cần phải tăng cường hơn nữa để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam xâm nhập vào thị trường lớn như Liên minh Châu âu (EU) thị trường Nhật Bản, khu vực châu Phi và Mỹ la tinh. Đây là những thị trường rộng lớn đầy tiềm năng. Bên cạnh việc tăng cường các quan hệ đối ngoại Nhà nước cần có các biện pháp khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển hơn nữa bằng việc đề ra những luật khuyến khích các doanh nghiệp tự do tìm đối tác xuất khẩu. Hiện nay nhà nước ta đang thực hiện chiến lược hướng tới xuất khẩu đồng thời từng bước thay thế hàng nhập khẩu. Chúng ta dã và đang xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế hướng tới xuất khẩu, hoàn thiện công tác quản lý nhà nước cải cách chính sách thuế.Vì thế công tác xuất nhập khẩu của nước ta đạt được những bước khả quan (xuất khẩu tăng 23% so với năm 1999). Mặc dù vậy nhìn nhận một cách nghiêm túc thì các chính sách và các biện pháp thúc đẩy hoạt động ngoại thương vẫn còn tồn tại một số những hạn chế nhất định như:

doc103 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1443 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản thu dịch vụ và thuế VAT. Nhận điện chấp nhận thanh toán: . Khi nhận được điện chấp nhận thanh toán MT 799/999 từ ngày phát hành ngân hàng xác nhận (đối với bộ chứng từ L/C trả chậm) thông qua hội sở chính, thanh toán viên nhập nội dung chính của điện chấp nhận thanh toán bằng chương trình máy tính. . Khi đến hạn thanh toán các chi nhánh nhận được báo có từ hội sở chính, trình tự xử lý nghiệp vụ tuơng tự như phần thanh toán ở trên. e/ Đóng hồ sơ bộ chứng từ L/C xuất khẩu: Để đóng hồ sơ theo dõi bộ chứng từ L/C hàng xuất khẩu, thanh toán viên phải sử dụng chương trình máy tính, ghi rõ một trong các lý do để đóng hồ sơ như sau: - Bộ chứng từ đã được thanh toán. - Bộ chứng từ bị từ chối thanh toán. - Chuyển sang hình thức thanh toán khác hoặc - Trả lại bộ chứng từ. f/ Lưu trữ chứng từ L/C hàng xuất khẩu: - Bản gốc của L/C và các bản gốc sửa đổi L/C đã được xác thực. - Bản gốc thông báo L/C và thông báo sửa đổi L/C có liên quan của ngân hàng thông báo. - Các bức điện giao dịch có liên quan đến L/C. - Bảng kê giao nộp chứng từ của khách hàng. - Bảng photo của toàn bộ các chứng từ xuất trình theo L/C. - Hoá đơn gửi chứng từ do bưu điện cấp. - Điện chấp nhận, điện thanh toán của ngân hàng nước ngoài. - Phiếu chuyển khoản. - Hoá đơn thu phí dịch vụ và thuế VAT. 2.3.3/ Thực trạng Thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dựng chứng từ tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây: 2.3.3.1/ Tình hình thực hiện L/C nhập khẩu: Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây là chi nhánh của ngân hàng Công thương Việt Nam, được tổng giám đốc cho phép hoạt động Thanh toán quốc tế từ năm 1990 và là ngân hàng thương mại đầu tiên trên địa bàn tỉnh Hà Tây thực hiện nghiệp vụ này. Những năm đầu mới hoạt động chỉ đơn thuần là các nghiệp vụ chi trả kiều hối, kinh doanh mua bán ngoại tệ. Đến năm 1993 chi nhánh ngân hàng Công thương Hà Tây bắt đầu thực hiện thanh toán hàng nhập khẩu bằng hình thức chuyển tiền, L/C. Tuy nhiên doanh số hoạt động lúc đó còn nhỏ do mới hoạt động nên khách hàng đang hoạt động tại ngân hàng ngoại thương chưa tin tưởng. Mặt khác, thực lực về ngoại tệ của chi nhánh chưa nhiều và phong phú. Đến những năm gần đây, về quy mô đã tăng thêm các nghiệp vụ như thanh toán hàng xuất bằng L/C, nhờ thu hối phiếu trơn, nhờ thu kèm chứng từ. Với sự quan tâm cố gắng của tập thể phòng kinh doanh đối ngoại cùng các phòng ban liên quan nên hoạt động Thanh toán quốc tế đã tăng lên cả về chất lượng và số lượng nghiệp vụ Thanh toán quốc tế ngày càng được nâng cao. Đặc biệt vì uy tín của ngân hàng Công thương Việt Nam nên chi nhánh luôn chủ động chuẩn bị sẵn sàng các nguồn ngoại tệ để thanh toán cho nước ngoài theo đúng như cam kết trong L/C. Do vậy trong những năm gần đây hoạt động thanh toán hàng nhập khẩu theo phương thức tín dựng chứng từ tại chi nhánh ngân hàng Công thương Hà Tây cũng tăng lên cả về số lượng và trị giá, được thể hiện ở bảng sau: Đơn vị tính: 1000USD Năm Số món L/C được mở Trị giá Tỷ lệ tăng (giảm) về trị giá 2000 97 10 330 - 2001 119 19 850 92,16% 2002 194 19 914 0,31% Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh đối ngoại - Phòng kinh doanh đối ngoại - chi nhánh ngân hàng Công thương Hà Tây. Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy số lượng L/C được mở tăng lên qua các năm. Cụ thể là năm 2000 số lượng L/C được mở là 97 với tổng trị giá là 10 330 000 USD, sang năm 2001 là 119 L/C trị giá 19 850 000 USD, về số món so với năm 2000 tăng lên 22 món, trị giá so với năm 2000 tăng lên 9 520 000 USD, tỷ lệ tăng là 92,16%, năm 2002 chi nhánh mở 194 món L/C trị giá 19 914 000 USD, tăng 75 món so với năm 2001, nhưng trị giá chỉ tăng được 64 000 USD tỷ lệ tăng là 0,31%. Nguyên nhân là do năm 2002 lượng hàng hoá nhập khẩu tại địa bàn Hà Tây chủ yếu là thiết bị máy móc, nguyên liệu, thuốc hoá chất, điện lạnh với số lượng nhỏ lẻ chỉ đủ phục vụ cho nhu cầu tại địa bàn cho nên giá trị không lớn so với năm 2001. 2.3.3.2/ Tình hình thực hiện L/C xuất khẩu: Hoạt động thanh toán hàng hoá xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ tại chi nhánh ngân hàng Công thương Hà Tây là nguồn thu ngoại tệ quan trọng của chi nhánh, nhưng hoạt động này chỉ dừng ở mức độ còn hạn chế so với hoạt động thanh toán hàng nhập khẩu, điều đó được thể hiện qua bảng sau: Đơn vị tính: USD Năm Số lượng L/C thông báo Trị giá Tỷ lệ tăng (giảm) về trị giá 2000 6 75 700 - 2001 4 24 000 - 68,3% 2002 10 147 505 514,6% Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh đối ngoại - phòng kinh doanh đối ngoại - chi nhánh ngân hàng Công thương Hà Tây. Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy được là về số lượng và trị giá đối với các món L/C thông báo còn ở mức rất nhỏ nhưng nhìn chung qua các năm số lượng L/C được thông báo cũng đã tăng lên rõ rệt đặc biệt là năm 2002 số lượng L/C được thông báo là 10 món tăng 6 món so với năm 2001, trị giá cũng tăng 123 505 USD, tỷ lệ tăng là 514,6%. Điều đó cho thấy số lượng hàng hoá xuất khẩu tại địa bàn Hà Tây đã tăng lên và uy tín của ngân hàng Công thương Hà Tây cũng được tăng lên. Nguyên nhân chính về việc thực hiện thông báo L/C ở chi nhánh ngân hàng Công thương Hà Tây còn nhỏ bé cũng là do hệ thống ngân hàng Công thương Việt Nam mới chỉ tham gia vào kinh doanh ngoại tệ năm 1992, chưa được các bạn bè thế giới tín nhiệm như đối với ngân hàng ngoại thương. Hầu hết các khách hàng còn là những đơn vị sản xuất hàng hoá xuất khẩu truyền thống đều tập trung chủ yếu giao dịch tại ngân hàng ngoại thương. Vì vậy, đây là khó khăn rất lớn đối với các chi nhánh ngân hàng Công thương Việt Nam khi thâm nhập vào lĩnh vực này. Khách hàng chủ yếu chủ yếu chỉ nằm trên địa bàn Hà Tây, vì vậy việc lôi kéo khách hàng vốn là khách hàng truyền thống của ngân hàng ngoại thương về giao dịch tại chi nhánh là rất quan trọng. Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là phải làm thế nào để thúc đẩy nhanh hoạt động thanh toán hàng xuất khẩu theo phương thức tín dựng chứng từ tại chi nhánh ngân hàng Công thương Hà Tây? Đi tìm giải đáp cho vấn đề này tất cả cùng quan tâm đều đưa ra ý kiến chung là nâng cao uy tín của ngân hàng Công thương Việt Nam trên thị trường quốc tế, quả thực đây là bài toán khó đặt ra với chi nhánh ngân hàng Công thương Hà Tây, mặc dù vậy trong tương lai bài toán này sẽ được giải đáp với sự cố gắng nỗ lực của toàn bộ cán bộ công nhân viên chi nhánh ngân hàng Công thương Hà Tây. 2.4/ Đánh giá về hoạt động Thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây: 2.4.1/ Những thành tựu đạt được: + Yếu tố về quy chế, quy trình: Trong những năm gần đây, NHCTVN luôn luôn nghiên cứu đổi mới, nâng cao quyền và trách nhiệm cho các chi nhánh như là nâng mức uỷ quyền duyệt mở L/C, quy định tỷ lệ ký quỹ với nhiều mức khác nhau phù hợp với từng loại khách hàng (như đã nêu ở phần đầu). Về kỹ thuật nghiệp vụ ngày càng được cải tiến... NHCTVN đã liên tục nghiên cứu và khai thác những mẫu điện SWIFT vào chương trình thanh toán quốc tế từ đó giảm bớt được thời gian luân chuyển điện của chi nhánh. Các năm 1995, 1996, 1997, NHCTVN sử dụng mạng thanh toán TTQT giữa các chi nhánh và hội sở chính lúc đó chỉ có các mẫu điện: MT100, MT99, MT700/701, MT707. Từ năm 1998 đến nay, sử dụng mạng thanh toán IBS giữa chi nhánh và hội sở chính với các mẫu điện: MT100, MT202, MT199, MT499, MT700/701, MT707, MT799. Việc cải tiến này giảm bớt được thời gian của quy trình thanh toán L/C, đảm bảo an toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động tại chi nhánh. Tạo điều kiện cạnh tranh cho khách hàng, tăng cường khả năng cạnh tranh với các NHTM trên địa bàn. Bên cạnh đó yếu tố không kém phần quan trọng góp phần vào tăng trưởng thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ là yếu tố con người. Nếu không có những cán bộ giỏi nghiệp vụ, giỏi ngoại ngữ và thông tỏ thông lệ quốc tế thì không có được kết quả đáng khích lệ ở trên. Hiểu rõ được vai trò quan trọng của yếu tố này, NHCT Hà tây đã thi tuyển cán bộ có trình độ được đào tạo tại các trường Ngoại thương, Ngân hàng. Ngoài ra chi nhánh thường xuyên cử cán bộ đi học các lớp ngắn ngày do NHCTVN cũng như các trường đại học tổ chức. Từ chỗ năm 1998, Phòng kinh doanh đối ngoại NHCT Hà Tây có 6 người, 100% đại học Ngân hàng, ngoại ngữ tiếng Anh trình độ C: 2 người, trình độ B: 2 người, trình độ A: 2 người. Nay phòng có 7 người: Đại học Ngoại thương: 2 người, Đại học Ngân hàng: 4 người, Đại học kinh tế quốc dân: 1 người. Trình độ ngoại ngữ Đại học ngoại ngữ: 3 người, trình độ tiếng Anh C: 2 người, trình độ tiếng Anh B: 2 người. +Tín dụng cho vay nhập khẩu: NHCTVN ủy quyền cho các chi nhánh được phép ưu đãi lãi suất trong khung của Tổng Giám đốc đối với khách hàng chiến lược, khách hàng có uy tín để thu hút khách hàng. Bố trí những cán bộ tín dụng có trình độ ngoại ngữ, am hiểu kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương theo dõi các khách hàng có liên quan đến xuất nhập khẩu. + Hoạt động mua bán: Trong những năm gần đây tình hình khan hiếm ngoại tệ trên cả nước kéo dài. Đặc biệt ở NHCT Hà Tây qua số liệu ở trên cho thấy hoạt động xuất khẩu có thu ngoại tệ hầu như không đáng kể so với nhu cầu nhập khẩu, làm cho cầu về ngoại tệ luôn là áp lực lớn đối với NHCT Hà Tây. Tuy nhiên, NHCTVN đã có những biện pháp hỗ trợ kịp thời một phần ngoại tệ, mặt khác, NHCT Hà Tây chủ động mở rộng quan hệ với các NHTM khác, đã áp dụng các hình thức mua bán giao ngay, kỳ hạn nên đã đáp ứng kịp thời tương đối đầy đủ cho các nhu cầu của khách hàng. + Phí dịch vụ: Từ năm 1998 đến nay, NHCTVN đã 2 lần thay đổi biểu phí dịch vụ cho phù hợp với các NHTM khác. Đặc biệt đã trao quyền cho các chi nhánh được phép quy định mức phí phù hợp với các NHTM trên địa bàn, có ưu đãi đối với các khách hàng chiến lược. Từ đó tăng khả năng cạnh tranh, nhưng vẫn đảm bảo được nguồn thu cho chi nhánh. Với những đổi mới trong các nghiệp vụ nói trên đã tạo cho hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây ngày càng phát triển đa dạng phong phú, nâng cao uy tín trong và ngoài nước. 2.4.2/ Những tồn tại và nguyên nhân: +Nguyên nhân khách quan: Với đặc điểm của thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ là được sử dụng để thực hiện thanh toán giữa người mua và người bán thuộc các nước khác nhau, hoạt động thanh toán quốc tế luôn là một hoạt động chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro. Được đánh giá là phương thức tương đối an toàn, dung hoà được quyền lợi giữa các bên và được sử dụng nhiều nhất nhưng phương thức thanh toán L/C vẫn mang lại những rủi ro bất khả kháng cho các bên liên quan, đặc biệt là phía người nhập khẩu và ngân hàng phát hành L/C. Những rủi ro mà khách hàng phải gánh chịu cũng sẽ dẫn đến rủi ro của ngân hàng vì ngân hàng thường là người tài trợ cho hoạt động của họ. Rủi ro trong thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ thường bao gồm: - Sự không đồng nhất về hàng hoá giữa quy định trên chứng từ và thực tế. - Theo quy định của UCP 500 việc thanh toán L/C chỉ căn cứ trên chứng từ mà không căn cứ vào thực trạng hàng hoá, tách biệt giữa hàng hoá và chứng từ, tạo khe hở cho một số tổ chức, cá nhân tiến hành lừa đảo. Một doanh nghiệp nhập khẩu có thể nhận được hàng hoá không đảm bảo quy cách, phẩm chất nhưng do chứng từ xuất trình phù hợp nên ngân hàng phát hành vẫn có nghĩa vụ phải thanh toán. Trường hợp này người mua chỉ có thể kiện người bán không thực hiện đúng hợp đồng. Vì người mua và người bán ở hai nước khác nhau nên việc kiện tụng rất khó khăn và tốn kém. Nhiều doanh nghiệp nhập khẩu đành chịu thiệt hại vì không đủ khả năng hoặc không muốn xảy ra kiện cáo. Điển hình là trường hợp nhập thiết bị trả chậm của công ty đá ốp lát tỉnh Hà tây trị giá 639.000 USD. Bộ chứng từ mà người bán xuất trình hoàn toàn phù hợp với quy định của L/C, người mua đồng ý chấp nhận thanh toán nhưng thực tế hàng giao lại không đúng như chứng từ quy định làm cho máy móc không hoạt động được. Trường hợp này, Công ty đá ốp lát đã phải tốn kém chi phí và thời gian để yêu cầu người bán thực hiện đúng hợp đồng. Đây là biểu hiện lừa đảo của phía bên bán mà chi nhánh ngân hàng Công thương Hà tây đã phải tư vấn rất nhiều cho khách hàng để nhận đủ hàng như quy định bằng cách dùng luật pháp của Việt nam để trì hoãn thanh toán và yêu cầu phía bên bán giảm giá bù đắp thiệt hại cho Công ty đá ốp lát. Kết quả thời gian thanh toán được kéo dài thêm 1 năm, số tiền phải thanh toán được giảm từ 639.000 USD xuống còn 500.000 USD. - Theo điều 9diii-UCP500, người bán có quyền không chấp nhận sửa đổi L/C mà không cần thông báo cho ngân hàng phát hành và người mua biết. Điều này làm cho người mua rất bị động, nhất là trong trường hợp sửa đổi quy cách phẩm chất hàng hoá và người mua đã ký hợp đồng bán lại số hàng hoá nhập khẩu cho một công ty trong nước bởi vì họ chỉ có thể biết quy cách hàng hoá có được thay đổi không khi ngân hàng phát hành nhận được bộ chứng từ xuất trình. + Những tồn tại và vướng mắc nguyên nhân từ phía khách hàng: Trình độ hiểu biết về kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam còn non yếu, trình độ hiểu biết về thanh toán quốc tế, tập quán quốc tế về xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế còn rất hạn chế nhất là đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mới được Nhà nước cho phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Vì vậy trong khi ký hợp đồng nhập khẩu cũng như khi thực hiện gặp nhiều khó khăn vướng mắc dễ bị phía nước ngoài lợi dụng. Có những trường hợp khách hàng nước ngoài tự thảo các hợp đồng, doanh nghiệp Việt nam chỉ việc đọc qua rồi ký mà không hề biết rằng có rất nhiều điều khoản bất lợi cho mình. Khi phát hiện ra muốn sửa đổi tất yếu sẽ gặp rắc rối và chi phí phát sinh. Việc thiếu thông tin và thiếu các mối quan hệ với đối tác nước ngoài làm cho các doanh nghiệp Việt Nam không mua được hàng trực tiếp từ người sản xuất hoặc các nhà phân phối lớn mà phải ký hợp đồng với các trung gian, mua bán vòng vèo, làm cho giá mua bị đẩy lên cao, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp từ đó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của ngân hàng vì thông thường các L/C phát hành đều do ngân hàng tài trợ. Các tranh chấp phát sinh trong quá trình thanh toán quốc tế bằng L/C không chỉ bắt nguồn từ sự trung thực của đối tác nước ngoài mà nhiều trường hợp còn do các doanh nghiệp Việt Nam gây ra. Ngoài việc thiếu hiểu biết, thiếu thông tin trong kinh doanh xuất nhập khẩu, thông tin về tiền tệ, tài chính, nhiều doanh nghiệp Việt Nam chỉ quan tâm đến mối lợi trước mắt, không chịu giữ uy tín để kinh doanh lâu dài. Sau khi đã ký hợp đồng và nhờ ngân hàng mở L/C, do giá cả của hàng hoá có xu hướng hạ xuống, tỷ giá đồng tiền thanh toán tăng so với đồng Việt Nam dẫn đến khách hàng bị tổn thất trong kinh doanh. + Những tồn tại và vướng mắc, nguyên nhân từ phía chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây: Quy mô hoạt động chưa lớn, doanh số thanh toán còn thấp, Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây còn nhỏ bé, các giao dịch phát sinh chưa lớn, chưa có nhiều, trong khi đó các khoản giao dịch với quy mô lớn phức tạp lại được thực hiện ở ngân hàng Ngoại thương hoặc một số nước ngoài khác như: ANZ Bank, City bank... vào hội sở Ngân hàng Công thương Việt Nam. Do khách hàng xuất khẩu rất ít nên nguồn ngoại tệ để Ngân hàng Công thương Hà Tây đáp ứng nhu cầu nhập khẩu hàng hóa của khách hàng chủ yếu mua từ Ngân hàng Công thương Trung ương và một phần mua từ các nguồn khác. Trong khi đó, quy định về kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng Công thương Việt Nam cũng đang làm cản trở hoạt động mua bán ngoại tệ của chi nhánh. Nhằm mục đích quản lý tập trung nguồn ngoại tệ trong hệ thống, tránh tình trạng mua bán vòng vèo, Ngân hàng Công thương Việt Nam quy định: các chi nhánh không được bán ngoại tệ cho các chi nhánh khác cùng hệ thống và cho các ngân hàng khác, khi có ngoại tệ mua chưa bán vượt mức quy định phải chuyển về Ngân hàng Công thương Việt Nam. Quy định này sẽ là hợp lý nếu như khi chi nhánh có nhu cầu về ngoại tệ để bán cho khách hàng thanh toán L/C, Ngân hàng Công thương Việt Nam có thể cung ứng ngay. Nhưng trên thực tế, Ngân hàng Công thương Việt Nam không có đủ nguồn ngoại tệ để thực hiện việc này, buộc chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây phải tìm mua từ khách hàng và các ngân hàng khác. Do chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây không được phép bán ngoại tệ cho các ngân hàng khác, không có mối quan hệ mua bán nên rất khó mua được ngoại tệ từ các ngân hàng này. Trong khi nguồn mua từ khách hàng không đủ, khách mở L/C thường chỉ có tiền VND, chủ yếu trông chờ vào nguồn mua của ngân hàng để thanh toán nên vào những thời điểm khan hiếm ngoại tệ, nhu cầu thanh toán L/C lớn là áp lực đối với chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây, có trường hợp vì không đáp ứng được ngoại tệ, khách hàng đã sang ngân hàng khác hoạt động. Do các ngân hàng nước ngoài có nhiều ưu thế hơn trong cuộc chạy đua dành giật thị trường. Mặc dù thời gian xâm nhập vào lĩnh vực Thanh toán quốc tế ở Việt Nam ngắn như nhau nhưng các ngân hàng nước ngoài có khả năng tài chính mạnh, nguồn vốn lớn, lại có mạng lưới rộng khắp, trang thiết bị hiện đại đảm bảo cho khâu thanh toán được diễn ra nhanh chóng, chính xác, kịp thời với giá rẻ. Việc cải tiến phần mềm chương trình thanh toán quốc tế và việc tham gia vào mạng SWIFT của chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây đã tạo điều kiện cho việc mở L/C và thanh toán nhanh chóng, chính xác hơn trước. Tuy nhiên, chương trình IBS đến nay vẫn chưa được hoàn thiện, còn thiếu rất nhiều mẫu điện quan trọng phục vụ cho việc chuyển tin. Hiện nay trong chương trình IBS của Ngân hàng Công thương Hà Tây chỉ có 4 mẫu điện để thực hiện các giao dịch L/C nhập khẩu đó là MT700/701, MT707, MT799, MT202. Ba mẫu điện MT734, MT740, MT756 mặc dù đã được dịch từ tài liệu của SWIFT sang tiếng Việt những vẫn chưa được thiết lập và cài đặt trong chương trình IBS. Vì vậy khi chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây cần thông báo từ chối thanh toán L/C, ủy quyền hoàn tiền hoặc thông báo thanh toán thì đều phải sử dụng điện MT799, vì điện MT799 không có các trường tương ứng với các chi tiết cần nêu nên việc lập điện mất nhiều thời gian hơn. Các chương trình thống kê của IBS cũng chưa được hoàn thiện nên việc thống kê L/C vẫn sử dụng chương trình cũ, nhập số liệu thủ công, vì vậy các số liệu thống kê chưa chính xác, nhiều chỉ tiêu chưa thống kê được, làm cho công tác báo cáo thống kê mất nhiều thời gian. Các bức điện của IBS được truyền chung đường truyền với mạng thanh toán điện tử bằng VND nên việc lập điện và truyền, nhận điện thường bị chậm, đặc biệt là trong giờ cao điểm. Tuy chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây rất chú trọng đến việc trang bị vật chất cho hoạt động thanh toán quốc tế nhưng số lượng máy tính và các thiết bị khác hiện nay chưa đáp ứng đủ nhu cầu, nhiều khi cán bộ phải chờ đợi nhau để vào máy lập L/C, điện thanh toán... Việc này cũng phần nào ảnh hưởng đến chất lượng của nghiệp vụ thanh toán L/C. Một nguyên nhân nữa cũng không kém phần quan trọng là marketing ngân hàng chưa được áp dụng trong hoạt động Thanh toán quốc tế tại chi nhánh: trong cơ chế thị trường việc ứng dụng marketing vào kinh doanh dịch vụ ngân hàng là điều rất cần thiết và có ý nghĩa to lớn cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Hầu hết các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đã ứng dụng được marketing vào trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng. Vì thế chỉ sau một thời gian ngắn do biết áp dụng chính sách marketing vào Thanh toán quốc tế mà các ngân hàng nước ngoài đã chiếm được thị phần đáng kể trong hoạt động này. + Những tồn tại, vướng mắc ở tầm vĩ mô: - Hành lang pháp lý cho hoạt động Ngân hàng nói chung, thanh toán quốc tế nói riêng của Việt Nam còn thiếu, bất cập và chưa đồng bộ. Mặc dù đã có luật Ngân hàng nhưng các nghị định hướng dẫn thực hiện chậm được ban hành, hơn nữa điều kiện để thực thi luật còn chưa đầy đủ, chúng ta chưa có riêng một quy chế, văn bản pháp lý hướng dẫn giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu, chưa có các hướng dẫn về việc áp dụng UCP 500, INCOTERMS. Sự khác biệt giữa luật quốc gia và các điều luật quốc tế gây khó khăn cho các bên tham gia thanh toán L/C. Các văn bản hiện hành thì quy định chồng chéo, qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi nên khó áp dụng, hiệu lực pháp lý chưa cao. Có những mặt hàng, năm nay cho phép nhập nhưng năm sau lại không cho phép nhập nữa làm cho các doanh nghiệp đã ký hợp đồng nhập khẩu với nước ngoài rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Biểu thuế luôn được thay đổi nên việc tính hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn. Thủ tục hành chính trong quản lý hoạt động nhập khẩu rườm rà, mất nhiều thời gian, gây phiền toái, thậm chí làm lỡ nhiều cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp và ngân hàng. Sự phối hợp giữa các bộ ngành liên quan chưa chặt chẽ, chức năng của từng bộ ngành, đặc biệt là chức năng của ngân hàng trong việc quản lý nhập khẩu chưa được làm rõ cũng là một trở ngại cho hoạt động thanh toán quốc tế. Tình trạng thâm hụt cán cân thương mại, cán cân vãng lai triền miên đã làm thị trường ngoại tệ liên ngân hàng có thời điểm mất cân đối làm cho việc mua bán ngoại tệ của ngân hàng gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến khả năng mua bán ngoại tệ của ngân hàng thương mại nhằm đáp ứng nhu cầu mua ngoại tệ thanh toán L/C cho khách hàng, nhất là trong những trường hợp mua số lượng lớn. Đó cũng là điều gây ảnh hưởng lớn tới sức thu hút khách hàng trong lĩnh vực thanh toán xuất nhập khẩu tại ngân hàng. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THANH TOÁN QUỐC TẾ BẰNG PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HÀ TÂY 3.1/ Sự cần thiết phải phát triển Thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây: Nền kinh tế nước ta đang dần hòa nhịp với nền kinh tế thế giới và khu vực. Việt Nam đã là thành viên chính thức của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), là thành viên của tổ chức kinh tế Châu á Thái Bình Dương (APEC)... Để tiếp cận tiến trình hội nhập, chính phủ Việt Nam đã đưa ra những kế hoạch cụ thể về cắt giảm thuế suất xuất nhập khẩu, thời gian thực hiện, ngành hàng, chế độ hạn ngạch... Mặt khác các bộ ngành đã có những cải thiện đáng kể phải cải cách thủ tục hải quan, tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư để thu hút các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài... góp phần thúc đẩy tăng trưởng các giao dịch quốc tế, giao dịch ngoại thương. Để thực hiện tốt việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp và cũng chính là hiệu quả của chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây, chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây phải tự cải thiện nâng cao năng lực phục vụ, năng lực chuyên môn và năng lực quản trị để phục vụ kịp thời các yêu cầu của doanh nghiệp, hạn chế các rủi ro có thể xảy ra cho các doanh nghiệp và ngân hàng. 3.2/ Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả Thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây: 3.2.1/ Đối với Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây: * Nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế theo phương thức tính dụng chứng từ: Trong bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào nếu muốn mở rộng việc cung ứng sản phẩm, dịch vụ thì điều phải quan tâm là làm thế nào để khách hàng viết đến sản phẩm dịch vụ mà mình cung ứng và sản phẩm dịch vụ đó được đánh giá là có chất lượng tốt. Thực hiện dịch vụ thanh toán Quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ cũng không phải là trường hợp ngoại lệ của các ngân hàng thương mại nói chung và chi nhánh ngân hàng công thương Hà Tây nói riêng. Vậy, như thế nào thì được coi là dịch vụ có chất lượng tốt? Có thể có nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề này, song nhìn chung một dịch vụ thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ được đánh giá là có chất lượng tốt khi mà việc thanh toán được Ngân hàng hoàn thành một cách chính xác, nhanh gọn và thuận tiện. Chất lượng dịch vụ thanh toán quốc tế này không phải chỉ thể hiện ở một hai khâu trong quá trình tiến hành nhiệm vụ mà nó là sự tổng hợp của tất cả các khâu từ: quy trình mở L/C, trình độ của các đơn vị tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, mức độ phức tạp của các giao dịch phát sinh, trình độ của cán bộ thanh toán... Trong khả năng có thể tác động được nhằm nâng cao chất lượng phục vụ thanh toán quốc tế theo phương thức tính dụng chứng từ, chi nhánh ngân hàng công thương Hà Tây nên tập trung vào việc cải tiến dần hoàn thiện quy trình mở L/C, đồng thời nâng cao nghiệp vụ thanh toán của mỗi cán bộ thanh toán, điều này khổng chỉ thoả mãn nhu cầu của khách hàng về dịch vụ thanh toán quốc tế mà còn làm cho khách hàng cảm thấy đến với ngân hàng mình được chăm sóc một cách chu đáo, uy tín của ngân hàng được nâng cao. Một là: Đối với quy trình mở L/C: Hiện nay, ở tất cả các khâu trong quy trình mở L/C đã được tiêu chuẩn hoá mang tính Quốc tế, không thể thêm vào hoặc bớt đi bất cứ một khâu nào cả. Song điều khác biệt ở đây là thời gian hoàn tất công việc này của các ngân hàng. Nếu như ngân hàng thực hiện công việc trong thời gian ngắn mà vẫn đảm bảo yêu cầu nghiệp vụ thì cũng có thể coi là đã cung ứng dịch vụ thanh toán quốc tế chất lượng tốt hơn so với ngân hàng khác với thời gian thực hiện dài hơn. Bởi vì trong cơ chế thị trường sôi động như hiện nay cơ hội kinh doanh đến và đi rất nhanh chóng, chỉ cần nhanh hơn đối thủ một chút ít là có thể đem đến sự thành công lớn. Do đó, việc tiết kiệm được thời gian là yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của khách hàng và cũng có nghĩa là ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ thanh toán mà ngân hàng cung ứng. Có thể thấy, tiết kiệm thời gian là một cách tiếp cận khách hàng rất hiệu quả, chiếm được cảm tình của họ một cách nhanh nhất. Chính vì vậy, chi nhánh nên rút ngắn thời gian làm thủ tục và mở L/C một cách tốt nhất có thể được, ứng dụng một cách linh hoạt đối với từng đối tượng khách hàng. Chẳng hạn như: đối với khách hàng mới tham gia vào thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ, có thể họ còn nhiều bỡ ngỡ thì cán bộ thanh toán phải hướng dẫn tỉ mỉ từng chi tiết, thủ tục và chỉ cho họ cách làm như thế nào là nhanh nhất, tránh cho họ phải đi lại nhiều lần mất thời gian không cần thiết. Tuy nhiên, đối với những khách hàng thuộc đối tượng này ngân hàng cũng cần phải có thời gian để đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh, năng lực tài chính, khả năng trả nợ cho ngân hàng trong trường hợp vay để mở L/C.. để có quyết định đúng đắn. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng nên có sự thông báo về khoảng thời gian mà khách hàng có thể phải chờ để họ yên tâm, đồng thời ngân hàng chủ động liên hệ với khách hàng để cùng tìm hướng giải quyết các vướng mắc tránh việc lãng phí thời gian của khách hàng trong việc đi lại để làm thủ tục. Đối với các khách hàng có mối quan hệ thường xuyên với chi nhánh, thì nên giảm bớt các thủ tục không cần thiết với các lần giao dịch sau, ví dụ: giấy đăng ký kinh doanh, giấy phép thành lập, đăng ký mã số xuất nhập khẩu (nếu có)... bởi vì đối với khách hàng này trong lần giao dịch trước ngân hàng đã có sự hiểu viết rõ họ là ai? Tình hình hoạt động sản xuất như thế nào? Và như vậy chỉ trong khoảng thời gian ngắn yêu cầu mở L/C của khách hàng đã được thực hiện. Trong trường hợp khách hàng vay vốn ngân hàng để thanh toán L/C thì vấn đề quan trọng nhất là việc rút ngắn thủ tục vay vốn. Điều này đòi hỏi phải có sự phối hợp nhịp nhàng, ăn khớp giữa phòng kinh doanh đối ngoại và văn phòng kinh doanh tín dụng, để tạo điều kiện tốt nhất phục vụ khách hàng. Hai là: Trình độ nghiệp vụ và thái độ phục vụ của cán bộ thanh toán. Đây là yếu tố mà khách hàng dễ cảm nhận nhất khi họ đến giao dịch với ngân hàng, bao giờ cũng vậy, con người là yếu tố quyết định ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với khách hàng họ không cần quan tâm đến công việc của ngân hàng là gì? Các cán bộ thanh toán thực hiện mở quy trình L/C ra sao? Kiểm tra thanh toán chứng từ như thế nào? Mà vấn đề chính họ quan tâm để đánh giá chất lượng dịch vụ thanh toán ngân hàng cung ứng là phong cách làm việc, thái độ phục vụ và kết quả họ mong đợi. Chính vì vậy đòi hỏi mỗi cán bộ thanh toán không ngừng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, đồng thời luôn thể hiện tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ vui vẻ nhiệt tình để khi khách hàng đến với ngân hàng họ cảm thấy gần gũi nhằm đáp ứng một cách tốt nhất các nhu cầu đa dạng và phức tạp của khách hàng. Bên cạnh đó giữa cán bộ thanh toán phải có sự quan tâm thống nhất trong công việc ngoài việc phục vụ một số khách hàng nhất định thì mỗi cán bộ thanh toán còn phải nắm được tất cả các nhu cầu của khách hàng đến giao dịch thanh toán với ngân hàng theo phương thức tín dụng chứng từ một cách khái quát nhất và sẵn sàng phục vụ khách hàng khi cán bộ thanh toán phụ trách công việc đó đi vắng tránh lãng phí thời gian đi lại chờ đợi của khách hàng. Không chỉ có vậy, chất lượng thanh toán còn được thể hiện rõ qua cách ứng xử giải quyết các vấn đề của cán bộ thanh toán trong những tình huống đặc biệt phức tạp, mới phát sinh. Nếu như các vấn đề trên được cán bộ thanh toán xử lý nhanh nhạy, chính xác khách hàng cảm thấy hài lòng về kết quả cuối cùng thì đó là một bằng chứng sáng giá nhất để khẳng định khả năng chuyên môn trình độ nghiệp vụ tốt của các cán bộ thanh toán. Chính vì vậy, đòi hỏi mỗi cán bộ thanh toán phải không ngừng học hỏi mở rộng nâng cao kiến thức đến các lĩnh vực có liên quan đặc biệt là trong nghiệp vụ ngoại thương nhằm xử lý tốt các tình huống có thể xảy ra. Rõ ràng nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ là một giải pháp hợp lý tạo cơ sở nền tảng vững chắc cho việc mở rộng và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế. Đồng thời đây cũng là biện pháp hữu hiệu để thu hút khách hàng mà không phải bỏ ra bất cứ một khoản chi phí nào cho hoạt động quảng cáo, khuyếch trương. Bởi lẽ khi khách hàng sử dụng và đánh giá chất lượng dịch vụ thanh toán quốc tế là tốt thì "tâm lý lan truyền" sẽ thúc đẩy các khách hàng khác quan tâm và đi đến sẽ ưu tiên lựa chọn dịch vụ mà ngân hàng cung ứng khi họ có nhu cầu. * Nâng cao chất lượng công tác đào tạo và sử dụng nhân lực: Hiện nay đội ngũ cán bộ chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây đã và đang được quan tâm đào tạo. Trình độ cán bộ có vai trò rất lớn trong việc quyết định đến hiệu quả hoạt động của chi nhánh nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ nói riêng. - Đối với cán bộ thanh toán quốc tế phải nắm vững nghiệp vụ thanh toán quốc tế, quy trình thanh toán quốc tế, những thông lệ quốc tế, các tập quán của các nước trên thế giới có quan hệ trong thanh toán. Phải có trình độ về ngoại ngữ, đây là yêu cầu không thể thiếu đối với cán bộ thanh toán quốc tế, đòi hỏi phải đọc hiểu hợp đồng ngoại thương, các thông lệ quốc tế, các chứng từ liên quan đến quy trình thanh toán, biết soạn thảo các bức điện giao dịch... Có như vậy mới làm chủ được quá trình, giải quyết các nghiệp vụ phát sinh mới đảm bảo được hoạt động có hiệu quả và an toàn. - Đối với cán bộ tín dụng xuất nhập khẩu: Ngoài việc phải nắm vững nghiệp vụ chuyên môn tín dụng, cán bộ tín dụng xuất nhập khẩu còn phải có trình độ hiểu biết về nghiệp vụ ngoại thương như thanh toán quốc tế, kỹ thuật giao kết hợp đồng ngoại thương, vận tải quốc tế, bảo hiểm quốc tế, chính sách ngoại thương của nhà nước trong từng thời kỳ... Cán bộ tín dụng phải có trình độ ngoại ngữ để đọc và hiểu được hợp đồng ngoại thương, thư tín dụng từ đó mới làm chủ được công việc, thực hiện tốt việc tư vấn cho khách hàng quyết định đầu tư chính xác, tránh được rủi ro cho khách hàng và ngân hàng. * Giải pháp thu hút khách hàng: Đối với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh thì khách hàng là một yếu tố cực kỳ quan trọng quyết định khối lượng và quy mô hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là trong cơ chế thị trường. Hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và thanh toán L/C nói riêng cũng không nằm ngoài quy luật này. Để thu hút được khách hàng thì ngoài việc thực hiện tốt các giải pháp về nghiệp vụ thanh toán L/C, tín dụng, công nghệ thông tin đã nói ở trên, chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây cần phải: + Đẩy mạnh công tác tiếp thị quảng cáo bằng cách thường xuyên tăng cường tiếp xúc, tìm hiểu nhu cầu khách hàng, tăng cường hoạt động quảng cáo nhằm thu hút khách hàng có hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. + Làm tốt công tác tư vấn đối với khách hàng, tư vấn ngay từ khi ký hợp đồng và trong quá trình thực hiện hợp đồng để làm giảm bớt rủi ro cho khách hàng cũng như cho ngân hàng. + Đổi mới phong cách phục vụ, giao tiếp văn minh lịch sự, bố trí những cán bộ có trình độ phục vụ các khách hàng chiến lược để có thể sẵn sàng hướng dẫn, giúp đỡ khách hàng làm thủ tục nhanh chóng, chính xác. + Phải xây dựng chiến lược khách hàng và thực hiện chính sách khách hàng hợp lý, không phân biệt thành phần kinh tế nhưng có áp dụng một số ưu đãi hợp lý trong quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, phải đáp ứng đến mức cao nhất các yêu cầu của khách hàng nếu có thể. + Đa dạng hoá các dịch vụ kinh doanh đối ngoại trên cơ sở đó củng cố mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng đồng thời nâng cao uy tín và quy mô hoạt động ngân hàng. * Thực hiện các giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ: Bản thân phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tỏ ra ưu việt, song nó không phải là phương thức thanh toán bảo đảm tránh rủi ro cho các bên tham gia một cách tuyệt đối. Vì thế để mở rộng hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ, một mặt phải hiểu và thực hiện đúng các nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng để hạn chế rủi ro. Những rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải: + Khi ngân hàng đóng vai trò là ngân hàng mở thư tín dụng: rủi ro về tỷ giá, rủi ro nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán, do nhà xuất khẩu có hành vi lừa đảo. + Với tư cách là ngân hàng thông báo: rủi ro xảy ra khi ngân hàng thiếu cẩn thận trong quá trình kiểm tra mà khi quyết định thông báo L/C hoặc sửa đổi L/C, cụ thể là: - Đối với rủi ro về giá: Chi nhánh có thể hạn chế rủi ro này bằng các giải pháp sau: + Định mức ký quỹ hợp lý: sẽ giúp ngân hàng tránh được rủi ro về tỷ giá, đặc biệt trong thời kỳ tỷ giá tăng mạnh, buộc nhà nhập khẩu phải lựa chọn giải pháp nhận hàng có lợi hơn. Định mức ký quỹ hợp lý là một việc làm không dễ, bởi lẽ định mức kỳ quỹ cao, một cách cảm tính hoặc vì lợi ích cục bộ của chi nhánh sẽ gây khó khăn cho khách hàng, khách hàng có thể không đồng ý và bỏ sang quan hệ với ngân hàng khác có tỷ lệ ký quỹ thấp hơn. Điều này ảnh hưởng lớn đến uy tín của ngân hàng. Nhìn chung mức ký quỹ cao hay thấp còn tuỳ thuộc vào các yếu tố như: uy tín, khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu, khả năng tiêu thụ sản phẩm nhập khẩu, hiệu quả kinh tế lô hàng nhập khẩu và tỷ lệ trượt giá của đồng tiền... + Bên cạnh định mức ký quỹ hợp lý, chi nhánh có thể hạn chế rủi ro tỷ giá bằng cách thực hiện các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ có kỳ hạn. - Đối với rủi ro nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán: Để hạn chế rủi ro này biện pháp quan trọng là phải thẩm định để nắm tình hình tài chính của nhà nhập khẩu, thể hiện bản chất của L/C là hoàn toàn độc lập với hợp đồng ngoại thương và hàng hoá. Có nắm vững được tình hình tài chính và khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu mới giúp cho ngân hàng hạn chế được rủi ro trên, việc thẩm định tình hình tài chính chi nhánh không những được thực hiện tốt từ khi khách hàng có yêu cầu mở L/C đặc biệt là các L/C có giá trị lớn, mà còn phải thường xuyên theo dõi để có thể có các giải pháp kịp thời để hạn chế phòng ngừa rủi ro có thể xảy ra. Tóm lại, rủi ro trong hoạt động ngân hàng nói chung và rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ nói riêng là điều không thể tránh khỏi, vì vậy phòng ngừa rủi ro là hết sức quan cần thiết, đây là cả một nghệ thuật kinh doanh của nhà hoạt động ngân hàng. * Giải pháp về công tác kiểm tra, kiểm soát: Kiến nghị với Phòng Kiểm soát nội bộ tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây hàng năm nên ít nhất một lần tổ chức kiểm tra hoạt động kinh doanh đối ngoại nhất là thanh toán hàng nhập bằng phương thức tín dụng chứng từ để phát hiện kịp thời những tồn tại, đưa ra được những giải pháp tốt hơn trong việc thực hiện nghiệp vụ này nhằm giúp cho các thanh toán viên ngày càng hoàn thiện về kiến thức để phục vụ khách hàng tốt hơn nữa. Phòng Kiểm soát nội bộ của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây cần xem chương trình kiểm tra hoạt động kinh doanh đối ngoại của chi nhánh để giúp cho hoạt động kinh doanh đối ngoại trong đó có thanh toán hàng nhập ngày càng được hoàn thiện hơn. 3.2.2/ Đối với khách hàng: * Năng lực của cán bộ doanh nghiệp khi tham gia thanh toán quốc tế: Để doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế điều quan tâm chủ yếu của doanh nghiệp là năng lực của cán bộ tham gia thanh toán quốc tế. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với cán bộ tham gia thanh toán quốc tế phải giỏi về nghiệp vụ ngoại thương, biết tất cả các thông tin có liên quan đến L/C như: quy trình mở L/C, những điều kiện mà ngân hàng yêu cầu... Điều kiện mà ngân hàng yêu cầu đó là: giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá, hợp đồng nhập khẩu hàng hoá (bản sao), đơn xin mở L/C trả ngay (theo mẫu của ngân hàng). Để có đội ngũ cán bộ giỏi thì doanh nghiệp cần phải làm gì? + Phải xây dựng một chiến lược con người rõ ràng tương xứng với tầm vóc của mình để đưa doanh nghiệp đến sự thành công rực rỡ. + Tiêu chuẩn hoá cán bộ doanh nghiệp trên cơ sở các tiêu chuẩn về đạo đức tư tưởng trình độ chuyên môn, khả năng giao tiếp, khả năng quản lý... + Thường xuyên tổ chức việc nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ doanh nghiệp để họ luôn luôn đáp ứng được những yêu cầu của nền kinh tế thị trường. + Thực hiện chế độ khuyến khích kịp thời, thưởng phạt nghiêm minh, tạo cho họ có điều kiện tốt nhất để hoàn thành công việc. + Thông qua các đơn thi tuyển công khai để tuyển dụng những người có năng lực. - Tìm hiểu đối tác: Bên cạnh việc nâng cao năng lực của cán bộ, thì việc tìm hiểu đối tác cung ứng không kém phần quan trọng. Theo điều 15 của UCP 500 quy định: "Các ngân hàng không chịu trách nhiệm về hình thức, sự hoàn bị, tính chính xác, tính chân thật, sự giả mạo hoặc hiệu lực pháp lý của bất cứ chứng từ nào, hoặc về những điều kiện chung hoặc riêng được quy định trong các chứng từ hoặc ghi thêm vào các chứng từ đó; các ngân hàng cũng không chịu tránh nhiệm về tên hàng, số lượng, trọng lượng, phẩm chất, trạng thái, bao bì, việc giao, trị giá hoặc sự tổn thất của hàng hoá mà bất cứ chứng từ nào đại diện hoặc về thiện chí hoặc hành vi hoặc thiếu sót khả năng thanh toán, sự thực hiện nghĩa vụ hoặc tín nhiệm của người gửi hàng, của những người chuyên chở, những người nhận chuyên chở, những người nhận hoặc những người bảo hiểm hàng hoá hay bất kỳ người nào khác". Chính vì quy định trên nên khi người mua và người bán khi ký hợp đồng mua bán phải tìm hiểu kỹ về nhau trên các mặt, tư cách pháp nhân, năng lực tài chính, sở trường và uy tín kinh doanh... - Nguồn vốn ký quỹ của doanh nghiệp tại ngân hàng: Khi doanh nghiệp tham gia mở L/C tại ngân hàng thì yêu cầu đặt ra của ngân hàng đối với doanh nghiệp phụ thuộc vào các yếu tố sau: - Doanh nghiệp có phải là cổ đông của ngân hàng không? - Mức độ quan hệ mật thiết và lâu dài với ngân hàng. - Phụ thuộc vào loại L/C: trả ngay hay trả chậm. - Số dư tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng mở L/C ít hay nhiều. - Mức độ uy tín trong thanh toán qua các năm. - Mức ký quỹ tuỳ vào từng ngân hàng quy định riêng, có khách hàng không phải ký quỹ, hoặc ký quỹ với các mức khác nhau 10%, 20%, 30%, ...50% đôi khi mức ký quỹ lên tới 100% trị giá ký quỹ của L/C. Những yêu cầu trên của ngân hàng nó cũng đem lại một số những mặt thuận lợi và khó khăn cho các doanh nghiệp. Cụ thể: Đối với những doanh nghiệp có quá trình hình thành và phát triển lâu dài và đã trở thành bạn hàng thân thiết của ngân hàng thì họ rất có lợi trong tham gia thanh toán với ngân hàng. Vì trong quá trình mở L/C có thể họ không phải ký quỹ cho ngân hàng, hoặc nếu có ký quỹ thì chỉ phải ký với mức thấp không đáng kể. Còn đối với những doanh nghiệp mới tham gia vào hoạt động thanh toán tín dụng thì sẽ gặp nhiều những bất lợi. Vì họ chưa tạo dựng được lòng tin cho ngân hàng nên mức ký quỹ của các doanh nghiệp này tại ngân hàng thường là rất cao nhiều khi doanh nghiệp không thể đáp ứng ngay được, bởi trong quá trình kinh doanh thì hầu hết các doanh nghiệp đều thiếu vốn và đều được hy vọng ngân hàng sẽ giúp vốn cho mình. Chính vì vậy để thu hút ngày càng nhiều doanh nghiệp đến với ngân hàng thì ngân hàng có thể có một số giải pháp có lợi hơn nữa đối với các doanh nghiệp mới tham gia vào quá trình kinh doanh như: - Giảm bớt mức ký quỹ cho các doanh nghiệp mới tham gia kinh doanh. - Có thể cho doanh nghiệp vay vốn khi họ đã xuất trình được bản hợp đồng, bản giải trình đầy đủ trong quan hệ giao dịch buôn bán. - Giảm bớt các thủ tục rườm rà trong giao dịch. - Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu, khi mở L/C cần lưu ý bám sát hợp đồng và ghi rõ ràng, cụ thể trách nhiệm giao hàng, cung cấp hàng của người bán. Đặc biệt các điều khoản về hàng hoá, chủng loại, qui cách, phẩm chất, đơn giá phải ghi ngắn gọn nhưng vẫn rõ ràng tránh để người bán cố tình hiểu sai, giao hàng không đúng. Và ngoài ra, để đảm bảo quyền lợi của mình, người nhập khẩu nên yêu cầu trong L/C là người bán phải Fax hoá đơn và vận đơn tới người mua trong vòng 2-3 ngày kể từ ngày giao hàng, ghi rõ số lượng hàng hoá đã giao, số B/L, tên tàu, ngày tàu khởi hành... để nhà nhập khẩu theo dõi xem người bán có thực hiện đúng L/C không? - Đối với người xuất khẩu khi nhận được L/C phải xem xét kỹ L/C, phát hiện kịp thời những chỗ mập mờ, những điều khoản bất lợi, điều khoản khó thực hiện, những điều khoản khác với hợp đồng để đề nghị sửa đổi ngay, tránh việc không thực hiện được các qui định trong L/C dẫn đến bị bên mua từ chối thanh toán hoặc trừ tiền. 3.3/ Kiến nghị đối với Nhà nước: Hệ thống pháp luật của nước ta tuy đã có nhiều đổi mới, cải cách để phù hợp với xu thế kinh tế mới nhưng vẫn còn nhiều bất cập như còn thiếu, có sự chồng chéo, tính ổn định không cao. Thời gian qua Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường như luật Thương mại, luật Doanh nghiệp, luật Ngân hàng Nhà nước, luật các tổ chức tín dụng, bên cạnh dó là các Quyết định, các Nghị định,... Song vấn đề ban hành các Nghị định, văn bản pháp quy để thi hành luật còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa hoàn chỉnh. Bên cạnh đó còn có nhiều lĩnh vực chưa được điều chỉnh bởi các quan hệ pháp luật hoặc đã được sửa đổi bổ sung nhiều lần, không có tính ổn định nên việc thực thi và áp dụng là rất khó. Ở các quốc gia phát triển đều có những Luật hoặc văn bản dưới Luật quy định về các giao dịch thanh toán quốc tế trên cơ sở thông lệ quốc tế có tính đến đặc thù của sự phát triển kinh tế và tập quán của nước họ. Cho đến nay ta chưa hề có văn bản nào quy định, hướng dẫn giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu để các ngân hàng thương mại áp dụng vào thực tế. Vậy Nhà nước cần phải sớm nghiên cứu, soạn thảo và áp dụng hệ thống luật lệ, tạo điều kiện về môi trường pháp lý cho ngân hàng hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và hoạt động thanh toán L/C xuất nhập khẩu nói riêng. Hoạt động thanh toán quốc tế có liên quan đến mối quan hệ kinh tế quốc nội cũng như quốc tế, liên quan đến luật pháp các quốc gia có liên quan và thông lệ quốc tế. Do đó, luật pháp cần phải có những quy định cụ thể để điều chỉnh mối quan hệ này trong sự tương quan với thông lệ quốc tế UCP 500. Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần bổ sung, hoàn thiện và có những văn bản dưới luật hướng dẫn việc áp dụng UCP-500 và các thông lệ quốc tế khác trong thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu tại các ngân hàng thương mại, như: ban hành các quy định về quy trình thực hiện thanh toán quốc tế áp dụng tại Việt Nam trên cơ sở các thông lệ quốc tế và cách xử lý các tranh chấp trong thanh toán quốc tế, quy định mẫu biểu về các loại chứng từ liên quan đến thanh toán quốc tế thống nhất với quốc tế, ban hành quy chế chiết khấu chứng từ hàng hoá xuất khẩu... Giao dịch thanh toán quốc tế được thực hiện tại các ngân hàng nhưng lại liên quan đến rất nhiều ban, ngành, các lĩnh vực khác trong nước như: Bộ Thương mại, Tổng cục hải quan, phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam,... nên cần có sự kết hợp chặt chẽ của các cơ quan hữu quan nhằm tạo ra sự nhất quán cho việc ban hành cũng như áp dụng và thi hành các quy định về thanh toán quốc tế. Hiện đại hoá công nghệ thanh toán ngân hàng theo hướng hoà nhập với cộng đồng thế giới. Rút ngắn thời gian giao dịch, giảm bớt chi phí giao dịch. Sớm triển khai các công nghệ ngân hàng ảo (Vituaral Banking). - Tăng cường quan hệ đối ngoại, khuyến khích hoạt động ngoại thương: Hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức Tài sản cố định tại các ngân hàng Việt Nam nói chung và ở chi nhánh ngân hàng công thương Hà Tây nói riêng chỉ có thể mở rộng khi hoạt động ngoại thương trên địa bàn diễn ra sôi động. Vậy tăng cường hoạt động đối ngoại sẽ là cơ sở để phát triển hoạt động ngoại thương. Chính sách đối ngoại của nhà nước ta là thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ đối ngoại với tình thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới... (trích văn kiện Đại hội Đảng VIII) đang ngày càng có hiệu quả. Chúng ta đã đạt được những bước tiến lớn trong quan hệ đối ngoại, tham gia vào khối ASEAN, khu vực mậu dịch tự do Châu Á (AFTA) là thành viên của APEC và tiến tới tham gia vào WTO. Chính những điều đó đã đưa hoạt động ngoại thương của nước ta phát triển lên một tầm cao mới. Song trong thời gian tới các lỗ lực ngoại giao cần phải tăng cường hơn nữa để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam xâm nhập vào thị trường lớn như Liên minh Châu âu (EU) thị trường Nhật Bản, khu vực châu Phi và Mỹ la tinh. Đây là những thị trường rộng lớn đầy tiềm năng. Bên cạnh việc tăng cường các quan hệ đối ngoại Nhà nước cần có các biện pháp khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển hơn nữa bằng việc đề ra những luật khuyến khích các doanh nghiệp tự do tìm đối tác xuất khẩu. Hiện nay nhà nước ta đang thực hiện chiến lược hướng tới xuất khẩu đồng thời từng bước thay thế hàng nhập khẩu. Chúng ta dã và đang xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế hướng tới xuất khẩu, hoàn thiện công tác quản lý nhà nước cải cách chính sách thuế...Vì thế công tác xuất nhập khẩu của nước ta đạt được những bước khả quan (xuất khẩu tăng 23% so với năm 1999). Mặc dù vậy nhìn nhận một cách nghiêm túc thì các chính sách và các biện pháp thúc đẩy hoạt động ngoại thương vẫn còn tồn tại một số những hạn chế nhất định như: + Thiếu các giải pháp đồng bộ về phát triển thị trường, đầu tư, công nghệ. + Sự kết hợp giữa các cơ quan chức năng chưa nhịp nhàng, thiếu vắng tổ chức chuyên trách hỗ trợ xuất khẩu. + Các thủ tục xuất nhập khẩu đã được cải tiến song vẫn còn là rườm rà. + Các chính sách khuyến khích xuất nhập khẩu giúp cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước còn có sự khác biệt thiếu nhất quán đồng bộ. Nhà nước cần tiếp tục thực hiện các chính sách, biện pháp thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển vững mạnh, tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại Việt Nam trong đó có cả chi nhánh ngân hàng công thương Hà Tây mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ một cách nhanh chóng có hiệu quả . Kết luận Trong tiến trình phát triển kinh tế với xu hướng quốc tế hoá toàn cầu, hầu hết các nước đều tham gia thương mại quốc tế nhằm tận dụng lợi thế so sánh của mình cũng như bổ sung một khoản lớn ngoại tệ vào ngân sách quốc gia. Một trong những yếu tố đóng vai trò xúc tác thúc đẩy phát triển hoạt động thương mại quốc tế là các phương thức thanh toán quốc tế. Trong số các phương thức thanh toán quốc tế, phương thức tín dụng chứng từ với những đặc tính ưu việt hơn hẳn các phương thức khác, nên hiện nay được sử dụng khá phổ biến trên thị trường quốc tế. Chính vì vây, phát triển hoạt động thanh toán quốc tế luôn là vấn đề được các nhà kinh tế quan tâm. Xuất phát từ thực tế đó, chuyên đề tập trung nghiên cứu những lí luận cơ bản về thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ, cách thức, nội dung thực hiện phương thức này tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây, trên cơ sở đó thấy được những khó khăn bất cập của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây trong giai đoạn hiện nay và từ những khó khăn đó, luận văn tốt nghiệp đã đi sâu vào phân tích kỹ lưỡng để tìm hiều nguyên nhân và từ đó đưa ra một số giải pháp cũng như kiến nghị mang tính tham khảo nhằm nâng cao hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây. Do thời gian tìm hiểu thực tế và trình độ hiểu biết còn hạn chế, luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, nhiều ý kiến đưa ra còn mang tính chủ quan, vì vậy, để giúp luận văn tốt nghiệp có ý nghĩa thực tiễn cao hơn cũng như phạm vi áp dụng rộng rãi hơn, tôi rất mong nhận được sự tham gia đóng góp ý kiến của các thầy, các cô giáo, các cán bộ ngân hàng cùng các bạn sinh viên. Thay cho lời kết, một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Th.S Nguyễn Hải Đạt, các thầy cô giáo trong khoa, các cán bộ nhân viên phòng kinh doanh đối ngoại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Tài liệu tham khảo: 1. UCP 500 - Phòng thương mại quốc tế, NXB trường Đại học Ngoại thương. 2. Giáo trình luật thương mại - trường Đại học Kinh tế quốc dân 1998. 3. Giáo trình Thanh toán quốc tế trong ngoại thương, PGS. Đinh Xuân Trình, NXB Giáo dục, 1995. 4. Giáo trình Thương mại quốc tế, chủ biên PGS.TS Nguyễn Duy Bột, NXB Thống Kê 1997. 5. Giáo trình kĩ thuật nghiệp vụ ngoại thương, tác giả Vũ Hữu Tửu, trường đại học ngoại thương Hà Nội. 6. Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, Th.S Trần Văn Nam, PTS. Trần Thị Hoà Bình, NXB Thống Kê, năm 1997. 7. Thời báo kinh tế, thời báo ngân hàng các năm 2000, 2001, 2002. 8. Tạp chí kinh tế đầu tư. 9. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh - Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây các năm 2000, 2001, 2002. 10. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh đối ngoại, phòng kinh doanh đối ngoại - Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây, các năm 2000, 2001, 2002. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37101.doc
Tài liệu liên quan