Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta đang trên đà tăng trưởng mạnh cùng với đó là sự gia tăng mạnh mẽ về số lượng các xe cơ giới tham gia giao thông, tuy nhiên có một nghịch lý là tỷ lệ xe cơ giới tham gia bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới vẫn còn ở mức thấp. Điều này nói lên rằng thị trường tiềm năng của nghiệp vụ bảo hiểm này là rất lớn cũng như cơ hội đạt ra cho các doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh nghiệp vụ này phát triển. Mặt khác, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các doanh nghiệp BH trên thị trường nhằm mở rộng thị phần, thu hút đông đảo khách hàng tham gia đạt ra cho mỗi doanh nghiệp một vấn đề bức xúc là làm sao hoàn thiện sản phẩm của mình, tạo nên sự khác biệt , đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu và mong muốn của khách hàng.
Một thực tế có thể dễ dàng nhận thấy là từ khi triển khai nghiệp vụ BH này ở Việt Nam nói riêng và trên thể giới nói chung thì tác dụng mà nó mang lại là không thể phủ nhận. Nó đã góp phần to lớn vào sự ổn định của toàn xã hội cũng như mỗi doanh nghiệp, mỗi gia đình và bản thân mỗi cá nhân. Không chỉ vậy, nếu xét trên tầm kinh tế vĩ mô, nghiệp vụ bảo hiểm này còn giúp giảm chi cho ngân sách Nhà nước, tạo điều kiện để đầu tư vào các lĩnh vực khác góp phần phát triển nền kinh tế quốc dân.
Trong quá trình tìm hiểu về tình hình triển khai thực tế của nghiệp vụ trong những năm qua ở công ty cổ phần BH PJICO có thể nhận thấy dưới sự chỉ đạo sáng suốt và sát sao của ban lãnh đạo công ty cũng như những cố gắng không mệt mỏi của toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty, bằng sức trẻ, sự năng động sáng tạo trong công tác đã từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty nói chung và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ BH TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba nói riêng. Mặc dù vậy, để phát huy tốt hơn nữa kết quả này đòi hỏi công ty phải có những biện pháp tích cực nhằm khắc phục những khó khăn mà công ty đang gặp phải.
Với những kết quả khả quan đã đạt được cùng với những ưu thế vượt trội của mình chúng ta cùng hy vọng và tin rằng trong những năm tiếp theo PJICO sẽ không ngừng tự hoàn thiện, nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung và nghiệp vụ BH TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba nói riêng bằng việc phát huy những tiềm năng sẵn có, tận dụng những cơ hội thuận lợi để phấn đấu, tự khẳng định mình và có một vị thế ngày càng vững chắc trên thị trường BH Việt Nam cũng như có một vị thế xứng đáng trong con mắt khách hàng, đối tác và bạn hàng.
78 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1564 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại công ty cổ phần bảo hiểm petrolimex (pjico), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệu quả rất tốt tuy nhiên lại không gây ảnh hưởng quá lớn tới công tác chi. Thực tế cho thấy tỷ lệ xảy ra rủi ro đã giảm đi một cách đáng kể và điều này đã cải thiện rất tốt công tác bồi thường của văn phòng mà ta sẽ đề cập tới sau này.
3. Công tác giám định
Xét về mặt lý luận, giám định là quá trình xem xét, xác định mức độ thiệt hại của con người và của tài sản từ đó đưa ra kết luận về hiện trạng của con người và tài sản đó. Là một mắt xích quan trọng của nghiệp vụ, công tác giám định vừa bảo vệ lợi ích của khách hàng vừa bảo vệ lợi ichs cho Công ty bảo hiểm.
Công tác giám định của công ty trong những năm qua đạt được những kết quả khá khả quan, tỷ lệ các vụ tai nạn được giám định và xét giải quyết bồi thường luôn được duy trì ở mức cao trên 98%. Thực tế cho thấy, số vụ tai nạn mà công ty giám định được giải quyết bồi thường chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng số các vụ tai nạn phát sinh thuộc trách nhiệm của công ty, số vụ tai nạn tồn đọng vẫn còn khá nhiều, tuy nhiên đây cũng là kết quả khả quan thể hiện những nỗ lực và tinh thần làm việc nhiệt tình, có trách nhiệm của đội ngũ cán bộ của công ty đặc biệt là đội ngũ giám định viên. Cũng từ công tác giám định, hàng năm công ty đã phát hiện được rất nhiều vụ tai nạn không thuộc phạm vi bảo hiểm, giảm thiểu được số tiền bồi thường đồng thời còn phát hiện được những hành vi gian lận, trục lợi bảo hiểm của một số chủ xe.
Bên cạnh kết quả đáng khích lệ trên, trong những năm qua, công tác giám định ở PJICO còn bộc lộ một số hạn chế sau:
Số vụ tai nạn giao thông xảy ra hàng năm cho các chủ xe tham gia bảo hiểm tại công ty là rất lớn. Với đội ngũ cán bộ, giám định viên có hạn công ty không thể thực hiện giám định hết dẫn đến nhiều trường hợp cán bộ, giám định viên không tới được hiện trường. Các hồ sơ, biên bản giám định… có tính pháp lý hầu hết đều phải dựa vào kết luận của công an hay các ngành chức năng hoặc hồ sơ được lập sau khi xảy ra tai nạn một thời gian dài. Điều này dẫn đến việc giám định thiếu chính xác, thiếu thực tế, do đó dễ phát sinh các hiện tượng tiêu cực dẫn đến bồi thường không chính xác ảnh hưởng không tốt tới kết quả kinh doanh và quyền lợi của khách hàng.
Địa bàn hoạt động của xe cơ giới rất rộng lớn và phức tạp với nhiều đầu mối giao thông bên cạnh đó mạng lưới kinh doanh của công ty chưa thực sự trải rộng trên toàn quốc do vậy khi có những vụ tai nạn giao thông xảy ra ở quá xa công ty không thể có mặt kịp thời để giám định vì vậy hiện trường tai nạn không được bảo vệ, điều này cũng ảnh hưởng tới chất lượng của công tác giám định.
Là một công ty bảo hiểm mới được thành lập, đội ngũ cán bộ giám định viên còn trẻ, ít kinh nghiệm nên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ và chất lượng của công tác giám định.
Những tồn tại trên xuất phát từ một số nguyên nhân sau:
Các vụ tai nạn giao thông có liên quan trực tiếp đến ngành công an, cảnh sát giao thông và một số ban, ngành chức năng, do đó hồ sơ vụ tai nạn bị phụ thuộc rất nhiều vào hồ sơ của các cơ quan này.
Sự phối hợp giữa công ty bảo hiểm và lực lượng cảnh sát giao thông chưa được chặt chẽ, thêm vào đó là trình độ nghiệp vụ của các cán bộ giám định còn yếu.
Công tác tuyên truyền chưa thực sự hiệu quả dẫn đến một số chủ xe khi gây tai nạn không thông báo ngay cho công ty bảo hiểm mà để sau một thời gian mới tới bảo hiểm giải quyết. Trường hợp này xảy ra nhiều đặc biệt khi đó là các vụ tai nạn giao thông không nghiêm trọng tuy nhiên điều này lại ảnh hưởng không tốt tới uy tín cũng như hình ảnh của công ty.
4. Công tác bồi thường
Cũng như các công tác khác, bồi thường là một khâu rất quan trọng trong quá trình triển khai nghiệp vụ. Đó là công việc công việc cuối cùng của hợp đồng bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Bồi thường không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của người tham gia bảo hiểm mà còn tác động một cách trực tiếp tới uy tín và kết quả kinh doanh của công ty bảo hiểm. Riêng đối với nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba thì công tác bồi thường chính là lúc thể hiện rõ nhất ý nghĩa và tầm quan trọng của nó.
4.1 Tình hình giải quyết bồi thường tại công ty cổ phần bảo hiểm PJICO
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác bồi thường, PJICO đã rất chú trọng nhằm thực hiện tốt công tác này. Công ty không ngừng từng bước cải tiến lề lối làm việc, hoàn thiện quy trình giải quyết bồi thường. Công tác bồi thường đã có sự hướng dẫn về thời hạn tiếp nhận hồ sơ, việc phân cấp bồi thường cho cả phòng kinh doanh đã có tác dụng lớn trong việc giải quyết kịp thời các hồ sơ đề nghị bồi thường, giảm đáng kể khối lượng công việc của phòng giám định. Đây là nhân tố có tác động trở lại thúc đẩy công tác khai thác được tốt hơn. Thái độ phục vụ khách hàng cũng được cải thiện đáng kể thông qua việc cán bộ công ty xuống tận cơ sở hướng dẫn khách hàng làm thủ tục bồi thường kịp thời, chu đáo, tránh những rắc rối, phiền hà không đáng có cho khách hàng.
Tuy nhiên, vẫn còn có tình trạng hồ sơ giải quyết chậm, điều này xảy ra đối với những hồ sơ chưa đảm bảo thủ tục pháp lý, chứng từ chưa hợp lệ hay khi tiếp nhận hồ sơ chưa kiểm tra kịp thời, hướng dẫn làm thủ tục chưa chi tiết và chu đáo… khiến khách hàng phải đi lại nhiều.
Mỗi năm xác suất xảy ra tai nạn là khác nhau với mức độ nghiêm trọng khác nhau, do vậy công tác bồi thường ở PJICO hàng năm cũng khác nhau. Để có được cái nhìn tổng thể ta nghiên cứu bảng sau:
Bảng 5: Tình hình bồi thường nghiệp vụ BH TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba tại PJICO
Nguồn: Phòng giám định bồi thường PJICO
Chỉ tiêu
Năm
Số vụ tai nạn phát sinh trong năm(vụ)
Số vụ năm trước chuyển sang(vụ)
Số vụ được giải quyết bồi thường trong năm
Số vụ tồn đọng
Số tiền bồi thường
(triệu đ)
Tổng vụ được giải quyết(vụ)
Tỷ lệ giải quyết(%)
Tổng vụ tồn đọng(vụ)
Tỷ lệ tồn đọng(%)
2001
- Ôtô
- Xe máy
1,347
856
491
20
15
5
1,346
860
486
98.44
98.73
97.95
21
11
10
1.56
1.27
2.05
7,485.87
6,494.04
991.83
2002
-Ôtô
- Xe máy
1,418
896
521
13
8
5
1,416
895
520
98.94
99.00
98.85
15
9
6
1.06
1.00
1.15
7,896.60
6,805.88
1,090.72
2003
- Ôtô
- Xe máy
1,509
935
574
14
10
4
1,504
934
570
98.74
98.83
98.60
19
11
8
1.26
1.17
1.40
8,433.24
6,956.90
1,476.34
2004
- Ôtô
- Xe máy
1,633
1,023
610
19
11
8
1,640
1,026
614
99.48
99.22
99.35
12
8
4
0.73
0.77
0.64
8,596.00
7,024.37
1,517.63
2005
- Ôtô
- Xe máy
1,721
1,113
608
12
8
4
1,724
1,120
604
99.48
99.91
98.69
9
1
8
0.52
0.09
1.30
8,956.32
7,796.55
1,159.77
Thông qua bảng thể hiện tình hình bồi thường của nghiệp vụ tại PJICO ta có thể rút ra kết luận sau: số các vụ tai nạn phát sinh của xe cơ giới tham gia bảo hiểm tại PJICO liên tục tăng qua các năm, cụ thể, năm 2001 có 1,347 vụ phát sinh trong đó ôtô là 856 vụ và xe máy là 491 vụ.. Năm 2002 có 1,418 vụ, tăng so với năm 2001 là 71 vụ. Sang đến năm 2004 số vụ tai nạn đã tăng lên đến 1,633 vụ trong đó ôtô là 1,023 vụ và xe máy là 610 vụ. Cuối cùng là năm 2005 có 1,721 vụ tai nạn phát sinh trong đó ôtô chiếm tới 1,113 vụ và xe máy chiếm 608 vụ.
Tuy nhiên có một dấu hiệu đáng mừng đó là tỷ lệ giải quyết bồi thường của công ty là khá cao, các năm đều trên 98% trong đó năm đạt tỷ lệ bồi thường cao nhất là năm 2004 đạt 99.27% trong đó ôtô đạt 99.22% và xe máy đạt 99.35%. Điều này thể hiện sự nỗ lực rất lớn của toàn thể công ty nhằm mang lại lợi ích cao nhất cho phía khách hàng. Ngược lại với tỷ lệ bồi thường cao là tỷ lệ tồn đọng các vụ tai nạn thấp. Nếu năm 2001 có 21 vụ tồn đọng chưa được giải quyết thì đến năm 2005 chỉ còn 9 vụ chưa giải quyết trong dó chỉ có 1 vụ do ôtô gây ra và có 8 vụ do xe máy gây ra tương ứng với tỷ lệ tồn đọng rất thấp là 0.52%. Kết quả này cho thấy công ty đã thực hiện rất tốt khâu bồi thường do vậy hình ảnh và uy tín của công ty không ngừng được nâng cao trong mắt khách hàng.
Vì công tác bồi thường có liên quan trực tiếp tới kết quả kinh doanh của công ty nên ta đi xem xét Bảng tỷ lệ bồi thường so với doanh thu nghiệp vụ.
Bảng 6: Tỷ lệ bồi thường nghiệp vụ BH TNDS của chủ xe cơ giới tại PJICO
Năm
Doanh thu nghiệp vụ
(triệu đ)
Số tiền bồi thường
(triệu đ)
Tỷ lệ bồi thường
(%)
2001
-Ôtô
- Xe máy
7,784.9
6,650.4
1,134.5
7,485.87
6,494.04
991.83
96.00
97.64
87.42
2002
- Ôtô
- Xe máy
9,254.1
7,929.3
1,315.8
7,896.60
6,805.88
1,090.72
85.41
85.83
82.89
2003
- Ôtô
- Xe máy
10,400.4
8,491.8
1,908.6
8,433.24
6,965.90
1,776.34
81.08
81.92
77.35
2004
- Ôtô
- Xe máy
11,921.7
10,326.3
1,586.4
8,596.00
7,024.37
1,571.63
72.10
68.02
99.05
2005
- Ôtô
- Xe máy
13,892.9
12,011.1
1,881.8
8,956.32
7,796.55
1,159.77
64.46
64.90
61.61
Nguồn: Phòng giám định bồi thường PJICO
Bảng 6 cho ta thấy trong 5 năm qua cho chúng ta một nhận xét tỷ lệ bồi thường của công ty là khá cao đặc biệt trong những năm đầu như năm 2001 tỷ lệ bồi thường lên tới 96.00%, năm 2002 là 85.41%, tuy nhiên thật đáng mừng là trong những năm tiếp theo tỷ lệ này liên tục giảm, như năm 2004 chỉ còn 72.10% và năm 2005 chỉ còn là 64.46% trong đó ôtô là 64.90% và xe máy là 61.61%. Trong những năm trước tỷ lệ bồi thường cao có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của công ty và do vậy ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận các công ty. Không chỉ vậy tỷ lệ bồi thường cao còn gây tác động tiêu cực tới hình ảnh của công ty trong mắt khách hàng cũng như các đối tác kinh doanh trên thị trường. Tuy nhiên trong những năm gần đây do đã áp dụng những biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất có hiệu quả cũng như không ngừng mở rộng thị trường mới, khai thác triệt để thị trường cũ nhằm tăng doanh thu và thực hiện có hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi trong việc đầu tư sinh lời do vậy tỷ lệ bồi thường đã giảm đáng kể. Điều này là một tín hiệu hết sức khả quan đối với công tác giám định bồi thường trong toàn công ty.
Việc giải quyết bồi thường ở PJICO được thực hiện khá tốt song không thể tránh khỏi những thiếu sót cần được khắc phục. Đó là một số vụ tai nạn giải quyết còn chậm trễ, thủ tục rườm rà, nhiều khi chủ xe phải đi lại nhiều mới được giải quyết nên gây khó khăn cho họ rất nhiều. Thêm vào đó, việc giải quyết bồi thường đôi khi chưa tránh khỏi tiêu cực tạo sự chán nản cho các chủ xe khi nhận tiền bồi thường. Có rất nhiều lý do đưa ra giải thích cho sự chậm trễ này nhưng trong đó có một phần bắt nguồn chính từ phía khách hàng của công ty. Thông thường, người bị nạn hay đưa ra mức bồi thường rất lớn đôi khi vô lý nhưng người gây tai nạn bao giờ cũng muốn bồi thường ít nên công ty bảo hiểm phải đứng giữa thương lượng với 2 bên, chỉ trong trường hợp không thỏa thuận được mới cần đến sự can thiệp của tòa án. Đối với công ty bảo hiểm, việc hoàn tất hồ sơ tai nạn bị chậm trễ có thể do các cơ quan, đối tượng khác gây ra như: cơ quan công an, bệnh viện… Việc giám định không chính xác gây ra sự sai lệch trong việc xác định mức độ lỗi của chủ xe ảnh hưởng tới việc tính toán số tiền bồi thường.
4.2 Công tác bồi thường tại phòng bảo hiểm khu vực I
Đối với công tác bồi thường ở PJICO nói chung và ở văn phòng bảo hiểm khu vực I (số 1 Khâm Thiên, Hà Nội) nói riêng trong thời gian qua đã có những cải thiện đáng kể. Văn phòng đã thực hiện đầy đủ những quy định chung về trình tự bồi thường, quy tắc bồi thường thiệt hại… ngoài ra còn có những hoàn thiện đáng kể trong quá trình bồi thường mà do kinh nghiệm tích lũy được các cán bộ của phòng đã đưa vào thực tiễn triển khai nghiệp vụ. Trong những năm vừa qua văn phòng đã giải quyết bồi thường cho rất nhiều vụ tai nạn thuộc phạm vi trách nhiệm của mình từ đó đã phần nào giảm bớt những khó khăn cho những người không may gặp phải rủi ro. Trong thời gian thực tập ở đây tôi nhận thấy tác phong làm việc của các cán bộ của phòng là rất đáng học tập. Khi đã xác định trách nhiệm bồi thường thuộc phạm vi bảo hiểm phòng nhanh chóng gửi thông báo chấp nhận bồi thường cho khách hàng và trong thời gian ngắn nhất lập tức giải quyết bồi thường kịp thời, thỏa đáng.
Một dẫn chứng cụ thể, năm 2005 bồi thường nghiệp vụ của toàn công ty là 1,724 vụ trong đó ôtô là 1,120 vụ và xe máy là 604 vụ thì phòng bảo hiểm khu vực I đã chiếm 83 vụ( chiếm 7.41% so với tổng bồi thường nghiệp vụ) đối với ôtô và 39 vụ( chiếm 6.45% so với tổng bồi thường nghiệp vụ) đối với xe máy cùng với tổng số tiền bồi thường là 635 triệu đồng( chiếm 7.09% so với tổng số tiền bồi thường nghiệp vụ).
Thực hiện tốt công tác bồi thường cũng là một chiến lược trong quá trình phát triển của phòng bảo hiểm khu vực I nói riêng và PJICO nói chung. Qua đó lòng tin của khách hàng tham gia bảo hiểm tại công ty được củng cố và kéo theo đó là sự thu hút đông đảo các đối tượng khác trong xã hội cùng tham gia. Và như vậy có thể khẳng định vô hình chung việc thực hiện có hiệu quả công tác này lại là đòn bẩy thúc đẩy công tác khác phát triển hơn nữa.
5. Đánh giá kết quả và hiệu quả triển khai nghiệp vụ
Kết quả kinh doanh là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh quá trình thực hiện nghiệp vụ qua các khâu từ khâu khai thác đến khâu bồi thường, nó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc mở rộng và hoàn thiện nghiệp vụ. Kết quả kinh doanh có lãi sẽ tạo điều kiện cho công ty triển khai sâu rộng nghiệp vụ và duy trì sự ổn định và bền vững của nghiệp vụ. Kết quả kinh doanh được thể hiện thông qua 2 chỉ tiêu đó là Doanh thu và Lợi nhuận., trong đó:
Lợi nhuận nghiệp vụ = Doanh thu nghiệp vụ - Tổng chi nghiệp vụ
Trong đó:
Doanh thu từ nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba là toàn bộ số phí mà công ty đã thu được từ khách hàng tham gia bảo hiểm trong kỳ.
Tổng chi nghiệp vụ bao gồm: Chi bồi thường là khoản chi chiếm tỷ trọng lớn nhất, chi dự phòng nghiệp vụ, chi hoa hồng, nộp thuế cho ngân sách Nhà nước, chi đề phòng hạn chế tổn thất, chi khác.
Lợi nhuận là thước đo cụ thể kết quả kinh doanh từng nghiệp vụ bảo hiểm, nó cho biết tình hình kinh doanh đã đạt được ở mức độ nào, có hoàn thành hay vượt chỉ tiêu đặt ra hay không, nó còn cho phép đánh giá kết quả tăng trưởng trong kinh doanh. Dưới đây là kết quả kinh doanh của nghiệp vụ BH TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba tại PJICO trong 5 năm gần đây nhất- từ 2001 đến 2005.
Bảng 7: Kết quả kinh doanh nghiệp vụ BH TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba tại PJICO (2001 - 2005)
ĐỐI TƯỢNG
DOANH THU PHÍ BH
THỰC CHI
TỔNG CHI
LỢI NHUẬN
Chi bồi thường
Đề phòng hạn chế tổn thất
Chi hoa hồng
Chi khác
Số tiền
%DT
Số tiền
%DT
Số tiền
%DT
Số tiền
%DT
2001
- Ôtô
- Xe máy
7,784.9
6,650.4
1,134.5
6,985.87
6,494.04
991.83
89.00
101.80
1.30
130.54
1.67
61.31
0.78
7,279.51
505.39
2002
- Ôtô
- Xe máy
9,245.1
7,929.3
1,315.8
7,896.60
6,805.88
1,090.72
85.41
108.10
1.16
150.65
1.63
65.80
0.71
8,221.15
1,023.95
2003
- Ôtô
- Xe máy
10,400.4
8,491.8
1,908.6
8,433.24
6,956.90
1,776.34
81.08
117.60
1.13
170.86
1.64
69.53
0.67
8,791.23
1,609.70
2004
- Ôtô
- Xe máy
11,912.7
10,326.3
1,586.4
8,596.00
7,024.37
1,571.63
72.15
68.02
99.05
123.08
1.03
189.35
1.59
72.99
0.61
8,953.99
2,958.71
2005
- Ôtô
- Xe máy
13,892.9
12,011.1
1,881.8
8,956.32
7,796.55
1,159.77
64.46
64.91
61.63
128.82
0.93
200.47
1.44
75.11
0.54
9,360.72
4,532.18
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh phòng Kế toán PJICO
Bảng số liệu 7 cho ta thấy doanh thu phí BH của công ty không ngừng tăng lên qua các năm, lợi nhuận hàng năm cũng vì thế mà không ngừng tăng lên nhanh chóng, ta có thể điểm qua một vài năm cụ thể trong bảng như sau:
Năm 2001 doanh thu của công ty chỉ đạt 7,784.9 triệu đồng và lợi nhuận đạt 505.39 triệu đồng trong đó tổng chi của nghiệp vụ đã lên tới 7,279.51 triệu đồng.
Sang đến năm 2002 tình hình đã có sự cải thiện, doanh thu nghiệp vụ đạt 9,245.1 triệu đồng do đó lợi nhuận cũng tăng lên là 1,023.95 triệu đồng. Sở dĩ lợi nhuận của công ty có sự tăng đột biến là do doanh thu trong năm này tăng mạnh, tăng 118.2% so với năm 2001 mà nguyên nhân là do lượng xe cơ giới mà cụ thể là xe ôtô tham gia bảo hiểm tại công ty tăng lên đáng kể so với năm 2001. Bên cạnh đó số vụ tai nạn thuộc phạm vi trách nhiệm của công ty cũng tăng nhưng do không có nhiều vụ tai nạn quá nghiêm trọng dẫn đến số tiền bồi thường của nghiệp vụ giảm đi đáng kể trong cơ cấu của tổng chi và do đó lợi nhuận có sự tăng đột biến như vậy.
Tiếp tục phát huy những kết quả tốt mà công ty đã đạt được trong năm 2002, sang năm 2003 doanh thu và lợi nhuận của PJICO cũng có sự tăng trưởng mạnh. Doanh thu đạt 10,400.4 triệu đồng, lợi nhuận đạt 1,609.70 triệu đồng trong đó tổng chi nghiệp vụ là 8,791.23 triệu đồng.
Cùng xem xét tới năm 2005, năm cuối cùng trong bảng số liệu ta nhận thấy tình hình hoạt động kinh doanh của nghiệp vụ này thực sự có những khởi sắc trong những năm gần đây. Doanh thu phí BH năm 2005 đã đạt 13,892.9 triệu đồng, lợi nhuận đạt 4,32.18 triệu đồng trong đó tổng chi chiếm 9,360.12 triệu đồng. Kết quả này cho thấy công ty đang từng bước khẳng định thế mạnh của mình trong quá trình triển khai nghiệp vụ BH này trong khi có rất nhiều công ty BH lớn khác cũng tham gia trên thị trường với nghiệp vụ này. Có được một kết quả khả quan như vậy phải kể đến sự tích cực và nỗ lực hết mình trong công việc của cán bộ công nhân viên đặc biệt là đội ngũ cán bộ của phòng kinh doanh cũng như sự tích cực của hệ thống đại lý trong khâu khai thác nhằm thu hút đông đảo khách hàng tham gia bảo hiểm tại PJICO. Bên cạnh đó phải kể đến công tác đề phòng hạn chế tổn thất đã được PJICO thực hiện khá tốt do vậy các vụ tai nạn đã giảm đi đáng kể và có tác động tích cực tới khâu giải quyết bồi thường của công ty làm số tiền bồi thường được khống chế ở một mức có thể cho là chấp nhận được để mang lại lợi nhuận cho nghiệp vụ. Ta có thể nhận thấy hầu như các khoản chi đều giảm mạnh đặc biệt là chi bồi thường tuy nhiên các khoản chi cho hoa hồng lại giảm không đáng kể, điều này cho thấy công ty đã thu hút được nhiều đại lý, cộng tác viên có chất lượng, được hỗ trợ đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ chứ không thu hút một cách ồ ạt như trước đây, đó cũng là một nhân tố mang lại sự thành công cho công ty. Tuy vậy, trong năm này tỷ trọng doanh thu của nghiệp vụ BH TNDS vẫn còn thấp chỉ chiếm 1% tổng doanh thu phí BH của toàn công ty, dưới đây là biểu đồ cơ cấu doanh thu của năm 2005.
Biểu đồ cơ cấu DT nghiệp vụ BH năm 2005
Nhiệm vụ đặt ra cho ban lãnh đạo và cán bộ nhân viên của PJICO là làm sao từng bước nâng cao tỷ trọng về doanh thu của nghiệp vụ này trong thời gian tới nhằm khai thác triệt để tiềm năng cũng như những lợi thế sẵn có để mang lại hiệu quả cao hơn nữa cả về mặt kinh tế và xã hội.
Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ của PJICO trong những năm vừa qua.
Như chúng ta đã biết để đánh giá hiệu quả của các hoạt động kinh tế nói chung chúng ta thường sử dụng một số chỉ tiêu sau:
=
D
C
Hiệu quả theo doanh thu thể hiện 1 đồng chi phí bỏ ra thu về được bao nhiêu đồng doanh thu.
Và:
=
L
C
Hiệu quả theo lợi nhuận thể hiện 1 đồng chi phí bỏ ra đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận
Sau đây là bảng thể hiện hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ BH TNDS của PJICO trong 5 năm gần đây, từ 2001 đến 2005:
Bảng 8: Hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ BH TNDS từ năm 2001-2005
Năm
DT phí BH TNDS
Chi nghiệp vụ
Lợi nhuận
2001
7,784.9
7,279.51
505.39
1.069
0.069
2002
9,245.1
8,221.15
1,023.95
1.12
0.12
2003
10,400.4
8,791.23
1,609.70
1.18
0.18
2004
11,912.7
8,953.99
2,958.71
1.33
0.33
2005
13,892.9
9,360.72
4,532.18
1.48
0.48
Nguồn: Phòng Tổng hợp PJICO
Qua bảng trên ta thấy trong 5 năm qua hiệu quả về doanh thu của công ty luôn không ngừng tăng lên, năm 2001 hiệu quả doanh thu đạt 1.069 tức 1đồng chi phí bỏ ra thu về 1.069 đồng doanh thu, đến năm 2005 hiệu quả theo doanh thu đã đạt 1.48 tức 1 đồng chi phí bỏ ra đã thu về được 1.48 đồng doanh thu. Điều này thể hiện sự phát triển lớn mạnh của PJICO trong quá trình triển khai nghiệp vụ này.
Đồng thời với việc tăng trưởng về hiệu quả theo doanh thu hiệu quả theo lợi nhuận cũng tăng đều trong 5 năm vừa qua. Năm 2001 hiệu quả theo lợi nhuận đạt 0.069 tức 1 đồng chi phí bỏ ra đem lại 0.069 đồng doanh thu thì đến năm 2005 hiệu quả theo lợi nhuận đã tăng lên 0.48 tức 1 đồng chi phí bỏ ra đã đem lại 0.48 đồng lợi nhuận, đây là một con số đáng nể mà không phải doanh nghiệp BH nào cũng có thể đạt được.
Trên đây là những nét tổng quan nhất về tất cả các hoạt động trong các khâu, các lĩnh vực của nghiệp vụ BH TNSD của chủ xe cơ giới với người thứ ba và kết quả kinh doanh nghiệp vụ trong những năm gần đây. Kết thúc phần này chúng ta có thể kết luận về cơ bản nghiệp vụ đã được công ty triển khai khá tốt, mang lại hiệu quả kinh doanh cao với tỷ suất lợi nhuận hàng năm đều trên 10%. Hy vọng rằng kết quả này sẽ được công ty phát huy một cách tích cực hơn nữa trong những năm tiếp theo.
CHƯƠNG BA: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TNDS CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI VỚI NGƯỜI THỨ BA TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM PJICO TRONG THỜI GIAN TỚI
I. Một số vấn đề còn tồn tại của công ty
Trong quá trình hoạt động nói chung và quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới nói riêng công ty cũng còn có những tồn tại, thiếu sót cần phải sửa chữa. Một trong những khó khăn lớn nhất đối PJICO là công ty còn non trẻ, mới đi vào hoạt động được khoảnh 10 năm, đây là một con số rất khiêm tốn so với các đại gia khác trên thị trường bảo hiểm, đặc biệt là Bảo Việt với trên 30 năm tồn tại và phát triển và đã có mặt tại tất cả các tỉnh và thành phố; Bảo Minh tuy cũng mới được thành lập nhưng đã có được cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ từ bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh chuyển sang với hơn 20 năm kinh nghiệm và nguồn khách hàng quen thuộc; và còn một số doanh nghiệp bảo hiểm khác với những lợi thế đáng kể. Do đó, PJICO gặp rất nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh với các công ty này đặc biệt là trong việc tuyên truyền, giới thiệu sản phẩm của mình. Thêm vào đó là tính độc quyền nhà nước trong thị trường bảo hiểm Việt Nam từ trước đến nay nên tạo cho khách hàng thói quen sử dụng sản phẩm bảo hiểm của PJICO là rất khó khăn.
Hiểu biết của người dân cũng như của các doanh nghiệp trong nền kinh tế và tác dụng và trách nhiệm phải tham gia bảo hiểm TNDS là rất thấp, quan niệm “cuộc sống không có bảo hiểm như cầu thang không có tay vịn” chưa thực sự được người dân quan tâm và thấu hiểu.
Mạng lưới của PJICO chưa phủ rộng khắp cả nước, hiện nay công ty mới chỉ có 11 văn phòng đại diện ở khu vực Hà Nội- trung tâm văn hóa và kinh tế của cả nước, các chi nhánh của công ty cũng chỉ mới được đặt ở các tỉnh, thành phố lớn nên chưa khai thác được triệt để thị trường đầy tiềm năng ở trong nước.
Công tác tuyên truyền, quảng cáo chưa được thực hiện một cách sâu rộng, mạng lưới khai thác chưa được nhiều người biết đến do đó các nghiệp vụ, các sản phẩm mà công ty triển khai chưa được đón nhận một cách rộng rãi.
Mức phí mà công ty áp dụng đôi khi còn quá cao đối với một số chủ xe khiến họ e ngại không tham gia nhất là các chủ xe ôtô thường có mức phí cao.
Đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty có trình độ chuyên môn cao, trẻ tuổi và năng động nhưng lại thiếu kinh nghiệm. Lực lượng đại lý và cộng tác viên khai thác còn yếu, tính chuyên nghiệp chưa cao, trình độ nghiệp vụ còn hạn chế ảnh hưởng không nhỏ tới khâu khai thác của công ty.
Bên cạnh đó, việc phối hợp giữa các ngành công an, giao thông với công ty bảo hiểm chưa được thực hiện chặt chẽ, việc kiểm tra giấy chứng nhận bảo hiểm và phạt cảnh cáo nhiều khi bị buông lỏng làm cho của chủ xe coi thường pháp luật, hiệu lực chế độ bắt buộc tham gia bảo hiểm TNDS của chủ xe kém hiệu quả đặc biệt là trong cách quản lý xe môtô ở nước ta còn lỏng lẻo, chỉ cần chủ xe mua xe có giấy tờ hợp lệ là đủ, không cần sang tên đổi chủ, không cần khám xe định kỳ hàng năm vẫn đủ điều kiện lưu hành.
Ngoài ra còn một số hạn chế ở khâu giám định, bồi thường. Các khâu này đôi khi còn thiếu chính xác, chậm trẽ, thủ tục hồ sơ rắc rối… làm ảnh hưởng tới niềm tin của khách hàng đối với công ty.
Đội ngũ cán bộ khai thác của công ty còn mỏng, trong quá trình khai thác chưa làm tốt công tác giải thích, tuyên truyền một cách rõ ràng các điều kiện, phạm vi bảo hiểm… cho người tham gia bảo hiểm được rõ do vậy đã gây khó khăn, khúc mắc cho việc giải quyết sau này.
Một số vấn đề có thể đề cập ở đây là: ngoài khoản chi hoa hồng cho đại lý, cộng tác viên để tiến trình khai thác nhanh chóng đạt hiệu quả công ty cần thực hiện một số công tác khác để khuyếch trương hình ảnh của mình như chi cho hội nghị khách hàng, hội nghị tổng kết nhưng những khoản chi này là rất ít. Vì vậy công ty cần xem xét lại để có sự đổi mới trong những năm tiếp theo.
II. Mục tiêu và phương hướng triển khai nghiệp vụ này trong thời gian tới
Để phát huy kết quả kinh doanh mà nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đã đạt được trong những năm vừa qua và nhằm phục vụ khách hàng tốt hơn nữa, công ty đã đề ra một số mục tiêu và phương hướng hoạt động dự kiến trong thời gian tới:
Tiếp tục củng cố bộ máy tổ chức, không ngừng đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, xây dựng mạng lưới đại lý và cộng tác viên đầy đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng đáp ứng tốt nhất nhu cầu bảo hiểm của khách hàng. Bên cạnh đó, phát huy tính năng động, sáng tạo của toàn bộ cán bộ công nhân viên nhằm hoàn thành kế hoạch kinh doanh đã đặt ra, bảo toàn và tăng trưởng nguồn vốn, đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách Nhà nước.
Hoàn thiện các quy tắc, điều khoản, biểu phí phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong và ngoài nước.
Phối hợp với các công ty bảo hiểm, công ty tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm nhằm xây dựng một thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển mở rộng, cạnh tranh lành mạnh và tuân thủ đúng pháp luật.
Bổ sung và xây dựng những nguyên tắc, điều lệ hoạt động, quản lý tổ chức phù hợp với mô hình là công ty cổ phần trên cơ sở các văn bản pháp quy của Nhà nước.
Xây dựng chính sách khách hàng tốt đồng thời xây dựng phương án đầu tư từ phí bảo hiểm thu được trên cơ sở bảo toàn vốn và có lãi.
Tiếp tục phát huy khả năng và những ưu thế của mình với mục tiêu nâng cao chất lượng bảo hiểm, phát triển mạnh mẽ các nghiệp vụ bảo hiểm nhằm đáp ứng nhu cầu của đông đảo khách hàng, đặc biệt là những khách hàng tham gia bảo hiểm với giá trị lớn; tiếp thị những sản phẩm bảo hiểm mới như: bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tín dụng, bảo hiểm rủi ro trong kinh doanh, bảo hiểm chất lượng sản phẩm… từ đó đa dạng hóa các loại hình bảo hiểm của công ty.
III. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ BH TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba tại PJICO
Trong điều kiện cạnh tranh và đào thải khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường, sự chậm đổi mới, dậm chân tại chỗ của bất kỳ một doanh nghiệp thuộc bất kỳ loại hình kinh doanh nào cũng được coi là sự tụt hậu và thất bại. Chính vì vậy, để có thể tồn tại và phát triển được trong môi trường đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới, tìm tòi, sáng tạo con đường đi cho riêng mình, khắc phục các hạn chế, phát huy những ưu điểm của mình để thích nghi với tình hình mới.
Đối với một doanh nghiệp trẻ như PJICO, nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba không chỉ có ý nghĩa mang lại một nguồn doanh thu đáng kể hàng năm mà còn có mục đích xã hội rất to lớn góp phần tạo sự an toàn cho xã hội và mang lại lợi ích cho người tham gia bảo hiểm. Để khai thác một cách hiệu quả nhất nghiệp vụ này đòi hỏi ngoài việc Nhà nước phải đưa ra bộ luật bảo hiểm hoàn thiện nhằm tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động thì việc tìm kiếm những giải pháp tốt nhằm hoàn thiện nghiệp vụ bảo hiểm này là rất cần thiết. Với suy nghĩ đó, sau một thời gian thực tập tại văn phòng khu vực I của PJICO song song với quá trình tìm hiểu về nghiệp vụ bảo hiểm này và được sự giúp đỡ của các cán bộ trong văn phòng tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba tại công ty cổ phần bảo hiểm PJICO.
1. Công tác khai thác
Như trên đã đề cập rất cụ thể tầm quan trọng của công tác khai thác nhưng ở đây tôi xin nhấn mạnh một lần nữa rằng khai thác là “điều kiện cần” quyết định sự thành công hay thất bại của quá trình triển khai một nghiệp vụ bảo hiểm. Do vậy, để phát huy những kết quả đã đạt được, công tác khai thác nghiệp vụ này tại công ty cần phải được tiếp tục tăng cường và củng cố. Để tăng số lượng đầu xe tham gia bảo hiểm tại PJICO công ty nên kết hợp tính bắt buộc của nghiệp vụ này với các biện pháp khác để các chủ xe tham gia tự nguyện hơn. Phải làm sao cho khách hàng khi cầm tấm thẻ bảo hiểm không chỉ vì nghĩa vụ mà còn ý thức được quyền lợi của mình trong tấm thẻ đó. Nói chung về lâu dài, công ty phải làm cho chủ xe tham gia bảo hiểm một cách tự nguyện, coi đó là nhu cầu không thể thiếu trong sinh hoạt cũng như sản xuất kinh doanh.
Để đạt được mục tiêu lâu dài đó nhằm đẩy mạnh công tác khai thác công ty cần lưu ý tới một số vấn đề sau:
1.1 Đẩy mạnh hoạt động Marrketing, xúc tiến bán hàng, giới thiệu sản phẩm và hình ảnh của công ty
Công tác tuyên truyền, quảng cáo trong quần chúng nhân dân là một công tác vô cùng quan trọng. Đây là giải pháp cơ bản để đạt được kết quả cao trong khâu khai thác. Việc tuyên truyền quảng cáo có thể được thực hiện thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như sách, báo, tạp chí, biển báo, radio, vô tuyến truyền hình… Việc tuyên truyền phải được thực hiện thường xuyên, dễ hiểu, giải thích rõ tác dụng và quyền lợi khi tham gia bảo hiểm và cần phải được diễn giải bằng những từ ngữ đơn giản, dễ hiểu vì những thuật ngữ chuyên ngành thường rất xa lạ đối với người dân. Bên cạnh đó việc tuyên truyền quảng cáo cần được thực hiện đa dạng về hình thức, ngoài những hình thức nêu trên thì việc tuyên truyền cũng mang lại tác dụng rất lớn thông qua các phóng sự nói về sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới trên đài truyền hình, đài phát thanh của trung ương và các đài địa phương… Ngoài ra có thể thực hiện thông qua hội nghị khách hàng, các cuộc thi tìm hiểu và bảo hiểm nói chung và BH TNDS của chủ xe cơ giới nói riêng trong các cơ quan, doanh nghiệp đặc biệt là trong các trường học từ đó giáo dục cho học sinh, sinh viên- những người được coi là đội ngũ tri thức trẻ của đất nước, thấy được tác dụng to lớn của loại hình BH này và việc tham gia còn thể hiện trình độ nhận thức của mỗi cá nhân và trình độ văn minh của đất nước.
Thực tế hiện nay chi phí mà công ty dành cho tuyên truyền quảng cáo chưa nhiều, các chương trình quảng cáo chưa thực sự tạo được ấn tượng cho khách hàng vì vậy công ty cần phải chú trọng hơn nữa vào khâu này bằng việc tăng cường đầu tư cho công tác tạo hiệu quả cao và tích cực trong thời gian tới.
1.2 Xây dựng và quản lý hệ thống đại lý có hiệu quả
Yêu cầu đặt ra là phải xây dựng được lực lượng đại lý hùng hậu, có chất lượng cao, đáp ứng được những đòi hỏi thực tế đặt ra. Hiện nay, công ty đã xây dựng được các chi nhánh ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình… và các văn phòng đại diện trên khắp địa bàn Hà Nội và hệ thống đại lý, cộng tác viên rộng khắp. Tính tới thời điểm này PJICO đã có 54 chi nhánh, hàng trăm tổng đại lý và hàng ngàn cộng tác viên trên toàn quốc. Tuy nhiên, với một ngành kinh doanh thiên về xã hội và lấy nguyên tắc số đông bù số ít làm cơ sở như ngành bảo hiểm thì mạng lưới này có thể nói là còn thưa thớt, do đó trong thời gian trước mắt công ty nên giữ vững mối quan hệ với các bạn hàng cũ, chủ động tìm kiếm bạn hàng mới, tập trung đầu tư mở rộng mạng lưới chi nhánh, văn phòng đại diện tại các tỉnh thành trên cả nước để gần gũi khách hàng hơn nữa nhằm khai thác triệt để thị trường bảo hiểm còn rất nhiều tiềm năng này. Đồng thời mở các lớp nghiệp vụ, các lớp tập huấn nhằm nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ, cộng tác viên để đáp ứng yêu cầu thực tế hiện nay bởi công việc của nhân viên khai thác bảo hiểm không chỉ dừng lại ở việc ký hợp đồng và thu phí bảo hiểm mà họ còn là những tư vấn viên luôn bên cạnh giúp đỡ, chăm sóc khách hàng, hướng dẫn, giải thích cho họ hiểu được nghĩa vụ và quyền lợi khi tham gia bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới của và điều này thể hiện chất lượng dịch vụ của công ty. Với nghiệp vụ bảo hiểm này thì mức phí mà các công ty đưa ra là như nhau theo biểu phí mà Bộ Tài Chính ban hành, vì vậy các công ty cạnh tranh với nhau bằng chất lượng dịch vụ mà cụ thể là chất lượng hoạt động của mạng lưới đại lý, cộng tác viên của công ty.
Công ty phải thường xuyên giám sát, kiểm tra hoạt động của các đại lý bằng các hình thức khác nhau như với tư cách là người mua BH đưa ra các tình huống để xem xét phản ứng của đại lý từ đó rút ra kinh nghiệm, hướng dẫn đại lý xử sự với khách hàng, mang đến sự thỏa mãn cho khách hàng như thế mới có thể hy vọng vào sự trở lại của khách hàng.
Công ty cũng nên có chính sách thưởng, phạt đúng đắn đối với cán bộ, công nhân viên trong công ty: ai làm tốt, đạt doanh thu cao thì được thưởng, ai làm sai hoặc gây thiệt hại thì phải bị phạt theo các mức độ nặng nhẹ khác nhau; thực hiện hình thức khoán doanh thu theo tháng cho mỗi cán bộ nhân viên khai thác và tính trả lương theo doanh thu phải hợp lý, công bằng. Bên cạnh đó, công ty cần phải có biện pháp khuyến khích các chi nhánh, văn phòng, đại lý… thúc đẩy họ làm việc tích cức và có hiệu quả từ đó nâng cao doanh thu.
Đa dạng hóa sản phẩm
PJICO nên kết hợp với các doanh nghiệp bảo hiểm khác tư vấn, kiến nghị với Bộ tài chính trong việc đưa ra biểu phí phù hợp với sự đa dạng của các chủng loại xe hiện nay và phù hợp với những nhu cầu khác nhau của từng đối tượng khách hàng, cũng cần phải thống kê lại những thiệt hại thực tế do tai nạn gây ra về tính mạng, tài sản và sức khỏe con người để đưa ra hạn mức trách nhiệm theo tỷ lệ phù hợp. Mặt khác, công ty nên cử cán bộ khai thác gặp gỡ những khách hàng lớn để chào phí và thu phí, giải thích cặn kẽ về nghiệp vụ giúp khách hàng nhanh chóng ra quyết định. Công ty cũng nên linh hoạt trong việc thu phí tùy theo điều kiện của khách hàng, với những hợp đồng lớn, khách hàng chưa có điều kiện nộp phí ngay một lần thì có thể thu làm nhiều lần, với những khách hàng truyền thống hay những khách hàng có tỷ lệ xảy ra rủi ro không cao công ty nên có chính sách ưu đãi khi ký kết hợp đồng như giảm phí, gia tăng các quyền lợi bổ sung…
Là một công ty bảo hiểm với các cổ đông là các doanh nghiệp Nhà nước, các tổng công ty lớn và đây là nguồn khách hàng vô cùng quý giá vì vậy công ty cần phải tận dụng khai thác triệt để tạo nguồn thu đáng kể.
Xây dựng chính sách khách hàng hợp lý
Việc xây dựng một chính sách khách hàng hợp lý, khoa học là rất cần thiết, cụ thể công ty nên chia khách hàng thành nhiều loại để tiện cho việc khai thác, tập trung khai thác khách hàng quan trọng và có chính sách ưu đãi hợp lý đối với từng loại khách hàng.
Phối hợp với các ngành chức năng trong công tác khai thác
Đây cũng là một công việc khá quan trọng đòi hỏi sự quan tâm đúng mức của công ty, việc phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng như: cảnh sát giao thông, sở giao thông công chính, cục thuế, các trạm đăng kiểm… chủ xe cơ giới với người thứ ba về việc thu phí và cấp giấy chứng nhận bảo hiểm. Trên thực tế, PJICO đã triển khai công tác này tại một số tỉnh thành và đã đem lại hiệu quả ban đầu rất khả quan, việc làm này cần được nhanh chóng nhân rộng ở một số tỉnh thành khác nhằm cạnh tranh với các công ty bảo hiểm lớn như Bảo Việt, Bảo Minh… là những công ty đang triển khai tốt công tác này. Công ty nên cung cấp, hướng dẫn các cơ quan chức năng các văn bản pháp lý có liên quan đến chế độ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba, khi mối quan hệ giữa công ty và các cơ quan này trở nên mật thiết công ty có thể đề nghị được phép “dán tem” bảo hiểm phương tiện. Đây là một giải pháp hữu hiệu không chỉ đối với công ty mà còn thuận tiện cho các cơ quan chức năng trong việc nhận diện xe nào đã tham gia bảo hiểm, từ đó việc kiểm tra sẽ dễ dàng cho cả hai phía.
Đồng thời phải phối hợp với ngành cảnh sát giao thông để thống kê một cách chính xác, đầy đủ số lượng xe cơ giới lưu hành và cụ thể là số các chủ xe có xe đang hoạt động, đó là những địa chỉ tốt để cán bộ khai thác xuống tận cơ sở tuyên truyền, vận động các chủ xe tham gia bảo hiểm TNDS tại công ty. Đây là việc làm cần thiết để mở rộng thị phần và giúp các chủ xe thực hiện tốt quy định của Nhà nước.
Mở rộng mối quan hệ với các cơ quan thông tin đại chúng đặc biệt là Đài truyền hình trung ương, Đài truyền hình địa phương, Đài phát thanh, các tòa soạn báo… nhằm thông qua các phương tiện thông tin đại chúng này tuyên truyền, quảng cáo, giới thiệu rộng rãi ra công chúng về công ty và nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba mà công ty đang triển khai.
2. Công tác đề phòng, hạn chế tổn thất
Công tác đề phòng hạn chế tổn thất có vị trí khá quan trọng, nó không chỉ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty mà còn ảnh hưởng đến sự an toàn của toàn xã hội, chính vì vậy công tác này cần được sự quan tâm chú ý của ban lãnh đạo công ty. Muốn đạt hiệu quả cao trong quá trình thực hiện công tác này công ty cần chú ý một số vấn đề sau:
Đề xuất, kiến nghị với ngành giao thông vận tải, giao thông công chính thường xuyên quan tâm chỉ đạo việc sửa sang đường xá, cầu cống…; phối hợp xây dựng các biển báo, panô, áp phích tại các đầu mối giao thông quan trọng, những đoạn đường vòng, những đoạn đường có nhiều chướng ngại vật dễ xảy ra tai nạn; cùng tham gia với ngành giao thông vận tải xây dựng các gương cầu, đường lánh nạn… tại những nơi có địa hình nguy hiểm giúp lái xe sử lý trong những trường hợp nguy cấp. Việc làm này cần phải được chú trọng và duy trì thường xuyên vì nó mang lại hiệu quả rất cao và chi phí bỏ ra để thực hiện công tác đề phòng hạn chế tổn thất sẽ nhỏ hơn rất nhiều so với chi phí bồi thường cho các vụ tai nạn khi chưa có các biện pháp đề phòng này. Không chỉ vậy, việc làm này còn mang tính xã hội rất lớn, nó giúp giảm chi ngân sách Nhà nước đồng thời tạo được hình ảnh tốt đẹp của công ty trong lòng người dân từ đó khuyến khích họ tham gia bảo hiểm tích cực hơn nữa.
Định kỳ hàng năm tiến hành tổ chức các lớp tập huấn cho lái xe, phụ xe đề cao trách nhiệm của lái xe, phụ xe trong việc đảm bảo an toàn giao thông, đảm bảo tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật của phương tiện giao thông khi lưu hành, giáo dục, nhắc nhở lái xe, phụ xe tuyệt đối không vi phạm luật lệ an toàn giao thông khi xe đang hoạt động.
Phối hợp chặt chẽ với các ngành có liên quan và các chủ xe để khen thưởng, động viên và hỗ trợ kịp thời đối với các đơn vị thực hiện tốt công tác đề phòng, hạn chế tổn thất.
Tập hợp, thống kê các vụ tai nạn giao thông xảy ra trong từng năm theo nhiều tiêu chí khác nhau như về loại phương tiện, địa bàn hoạt động, nguyên nhân gây ra tai nạn… từ đó có hướng ngiên cứu tìm ra những biện pháp để đề phòng, hạn chế tổn thất phù hợp.
Thường xuyên đánh giá hiệu quả công tác đề phòng, hạn chế tổn thất, tránh việc kém hiệu quả trong việc chi phí cho đề phòng hạn chế tổn thất.
3. Công tác giám định bồi thường
Một nguyên nhân làm tồn đọng các hồ sơ tai nạn, giải quyết bồi thường không chính xác, thiếu kịp thời là khi tai nạn xảy ra không được giám định ngay. Việc xác định thiệt hại thực tế phụ thuộc nhiều vào hồ sơ giải quyết tai nạn của công an và những tài liệu đó đôi khi được lập rất sơ sài, không đủ căn cứ để tính toán bồi thường gây mất nhiều thời gian cho việc kết thúc hồ sơ tai nạn. Vì vậy, đây là một khâu hết sức quan trọng trong hoạt động của mỗi công ty bảo hiểm nói chung, nó cũng thể hiện chất lượng dịch vụ và uy tín của công ty đối với khách hàng. Nếu công tác này được thực hiện tốt- bồi thường nhanh chóng, chính xác và thỏa đáng, sẽ tạo được ấn tượng tốt về hình ảnh của công ty trong con mắt khách hàng và điều này đã trực tiếp làm tăng sức cạnh tranh của công ty, từ đó giúp công ty gia tăng lượng khách hàng, mở rộng thị phần, tăng doanh thu. Chất lượng của công tác này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh chung của công ty vì vậy công ty cần chú trọng đầu tư đúng mức và để giải quyết tốt những vấn đề đã nêu ở trên trong thời gian tới công ty cần tập trung vào một số biện pháp sau.
3.1 Nâng cao chất lượng cán bộ giám định
Đội ngũ cán bộ giám định là lực lượng nòng cốt trong khâu này. Công ty phải sàng lọc các cán bộ giám định đúng tiêu chuẩn như năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức… Nhân viên giám định phải được đào tạo chuyên nghiệp sâu rộng về chuyên môn nghiệp vụ. Các rủi ro dẫn đến tổn thất rất đa dạng và phức tạp, mặt khác các chủng loại xe cơ giới lưu hành hiện nay cũng rất phong phú, giá trị thực tế của các loại xe cũng rất khác nhau vì vậy đòi hỏi nhân viên giám định phải luôn cập nhật giá cả các loại xe và mức khấu hao quy định để đánh giá những tổn thất về mặt vật chất của bên thứ ba một cách chính xác. Tuy nhiên có một khó khăn khác mà các công ty bảo hiểm thường gặp phải trong đó có PJICO là việc đánh giá những thiệt hại đối với tính mạng và tình trạng sức khỏe của con người. Việc đánh giá thiệt hại để quy ra tiền bồi thường là rất khó khăn vì tính mạng và sức khỏe của con người là vô giá, không thể đo lường bằng bất cứ một công cụ tài chính nào. Xuất phát từ lý do đó công ty cần xây dựng bảng tỷ lệ bồi thường hợp lý, chinhs xác giúp cho công tác bồi thường được thuận lợi hơn. Đặc biệt trong điều kiện nước ta hiện nay trình độ hiểu biết về pháp luật của người dân còn rất hạn chế do vậy cán bộ bảo hiểm nói chung và cán bộ giám định nói riêng phải có những hiểu biết cần thiết về pháp luật, phải tổng quan được nội dung của các văn bản pháp lý theo một trình tự nhất định để dễ dàng giải quyết hồ sơ bồi thường một cách nhanh gọn, bỏ qua các thủ tục rườm rà, không cần thiết.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ giám định của PJICO cả tuổi đời và tuổi nghề đều còn rất trẻ do đó công ty cần khuyến khích họ nâng cao kinh nghiệm, khả năng của mình để đáp ứng với yêu cầu thực tế đặt ra ngày càng cấp thiết. Bên cạnh đó công ty cũng cần phải bồi dưỡng, bổ sung các cán bộ am hiểu về luật giao thông, hiểu biết về kỹ thuật ôtô, xe máy… để đảm bảo cho việc giám định được chính xác, các vụ tai nạn xảy ra được giải quyết một cách kịp thời, tránh tình trạng quá chạy theo doanh thu mà không quan tâm thực hiện tốt công tác bồi thường.
3.2 Phối hợp với các ngành chức năng trong công tác giám định
Việc phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng cũng là một công việc khá quan trọng nhằm thực hiện tốt công tác giám định bồi thường. Công tác giám định cần phải được tiến hành nhanh chóng ngay sau khi tai nạn xảy ra để đảm bảo tính chính xác, tránh tình trạng chủ xe và người bị nạn thông đồng lập chứng từ giả với mục đích gian lận, trục lợi bảo hiểm.
Cần thiết phải phối hợp với các cơ quan chức năng để xây dựng hồ sơ nhưng không nên phụ thuộc quá nhiều vào hồ sơ của công an mà nhất thiết phải có sự chủ động của cán bộ giám định và có thông qua thương lượng bồi thường. Nếu làm được như vậy sẽ gây ảnh hưởng tốt tới khách hàng và thông qua hoạt động bồi thường uy tín và hình ảnh của công ty ngày càng được củng cố, tạo kết quả tốt cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
3.3 Xây dựng và củng cố cơ sở vật chất, hệ thống thông tin liên lạc
Công ty cần xây dựng, củng cố và nâng cấp cơ sở vật chất hạ tầng và hệ thống thông tin liên lạc thông suốt giữa tổng công ty với các văn phòng đại diện, đại lý, chi nhánh và ngay cả các nhân viên của công ty cũng cần phải được trang bị những phương tiện tối thiểu trong những trường hợp cần thiết. Đặc biệt đối với cán bộ giám định, họ là những đối tượng cần được trang bị hệ thống máy móc, các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại và hoàn thiện hơn. Có như vậy mới thu nhận và xử lý thông tin một cách nhanh chóng và kịp thời, tạo thuận lợi cho việc giải quyết bồi thường cũng như tận dụng được những thời cơ tốt.
3.4 Các thủ tục phải được giải quyết nhanh chóng và theo đúng quy định của pháp luật
Thủ tục giải quyết bồi thường cần ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu khi hướng dẫn khách hàng làm các thủ tục giấy tờ cần thiết trong quá trình giải quyết bồi thường, tránh cho khách hàng phải đi lại nhiều lần, tạo tâm lý thoải mái cho họ khi nhận tiền bồi thường với mục đích bù đắp kịp thời những tổn thất và xoa dịu gánh nặng tâm lý của khách hàng khi không may gặp phải rủi ro.
Đối với những khách hàng truyền thống, khi họ gặp tai nạn ngoài phạm vi bảo hiểm, công ty không có trách nhiệm phải bồi thường thì công ty cũng nên hỗ trợ cho khách hàng một phần nào đó nhằm mục đích giảm bớt một phần gánh nặng tài chính cho khách hàng, đồng thời việc làm này cũng có tác dụng thắt chặt hơn nữa mối quan hệ giữa công ty với khách hàng, giúp công ty giữ chân được khách hàng cũ và còn thu hút thêm được khách hàng mới cho mình.
3.5 Xây dựng quy trình bồi thường, phân cấp bồi thường cho các văn phòng và các đơn vị trực thuộc
Nên xây dựng quy trình bồi thường, thủ tục bồi thường rõ ràng để cán bộ giải quyết bồi thường có thể áp dụng những quy trình, thủ tục đó để giải quyết bồi thường một cách khoa học và nhanh chóng. Cần phân cấp việc bồi thường cho các chi nhánh, các văn phòng đại diện có chức năng kinh doanh nhằm giảm bớt phần nào khối lượng công việc của phòng giám định giải quyết bồi thường; cần quy định đối với những tổn thất có số tiền bồi thường nhỏ thì nên để cho phòng kinh doanh trực tiếp giải quyết bồi thường cho nhanh chóng, kịp thời vì phòng này là phòng tiếp xúc trực tiếp với khách hàng và trực tiếp chăm sóc khách hàng; đối với những tổn thất có số tiền bồi thường lớn, tính chất nghiêm trọng cao cần phải có sự giám định chính xác, chặt chẽ thì nên để cho phòng giám định bồi thường giải quyết. Việc làm này đã được các văn phòng khu vực của công ty thực hiện khá tốt và nó nên được duy trì và phát huy hơn nữa.
4. Một số công tác khác
4.1 Tăng cường công tác đào tạo cán bộ, công nhân viên trong công ty. Cần tăng cường công tác đào tạo tại chỗ mà chủ yếu là tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên, văn phòng đại diện, các đại lý và cộng tác viên… để đáp ứng yêu cầu mới đặt ra ngày càng cấp thiết của công việc. Trong việc tuyển dụng cán bộ công ty cũng nên chú ý tới trình độ chuyên môn, năng lực làm việc hay khả năng giao tiếp… là những phẩm chất rất cần thiết đối với một cán bộ bảo hiểm, để từ đó thiết lập một đội ngũ cán bộ có chất lượng cao.
4.2 Tăng cường công tác quản lý. Công ty cần tăng cường công tác quản lý, thực hiện quy chế giám sát, kiểm tra chặt chẽ đối với các đơn vị, cá nhân trong toàn công ty đặc biệt là trong vấn đề chi tiêu tài chính.
4.3 Chấn chỉnh hoạt động đại lý. Việc giám sát, chấn chỉnh hoạt động của các đại lý, cộng tác viên là rất cần thiết, việc làm này phải được thực hiện theo quy định của Bộ tài chính, phải sàng lọc được những đại lý làm việc thực sự có hiệu quả.
4.4 Tăng cường giáo dục về tư tưởng và tác phong của người cán bộ. Công tác này là rất cần thiết đối với các doanh nghiệp nói chung và đặc biệt là đối với ngành bảo hiểm nói riêng. Việc giáo dục về tư tưởng tác phong cho người cán bộ không chỉ đảm bảo có được một đội ngũ cán bộ “sạch” theo đúng nghĩa mà còn góp phần không nhỏ nâng cao vị thế cũng như hình ảnh của công ty.
LỜI KẾT
Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta đang trên đà tăng trưởng mạnh cùng với đó là sự gia tăng mạnh mẽ về số lượng các xe cơ giới tham gia giao thông, tuy nhiên có một nghịch lý là tỷ lệ xe cơ giới tham gia bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới vẫn còn ở mức thấp. Điều này nói lên rằng thị trường tiềm năng của nghiệp vụ bảo hiểm này là rất lớn cũng như cơ hội đạt ra cho các doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh nghiệp vụ này phát triển. Mặt khác, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các doanh nghiệp BH trên thị trường nhằm mở rộng thị phần, thu hút đông đảo khách hàng tham gia đạt ra cho mỗi doanh nghiệp một vấn đề bức xúc là làm sao hoàn thiện sản phẩm của mình, tạo nên sự khác biệt , đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu và mong muốn của khách hàng.
Một thực tế có thể dễ dàng nhận thấy là từ khi triển khai nghiệp vụ BH này ở Việt Nam nói riêng và trên thể giới nói chung thì tác dụng mà nó mang lại là không thể phủ nhận. Nó đã góp phần to lớn vào sự ổn định của toàn xã hội cũng như mỗi doanh nghiệp, mỗi gia đình và bản thân mỗi cá nhân. Không chỉ vậy, nếu xét trên tầm kinh tế vĩ mô, nghiệp vụ bảo hiểm này còn giúp giảm chi cho ngân sách Nhà nước, tạo điều kiện để đầu tư vào các lĩnh vực khác góp phần phát triển nền kinh tế quốc dân.
Trong quá trình tìm hiểu về tình hình triển khai thực tế của nghiệp vụ trong những năm qua ở công ty cổ phần BH PJICO có thể nhận thấy dưới sự chỉ đạo sáng suốt và sát sao của ban lãnh đạo công ty cũng như những cố gắng không mệt mỏi của toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty, bằng sức trẻ, sự năng động sáng tạo trong công tác đã từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty nói chung và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ BH TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba nói riêng. Mặc dù vậy, để phát huy tốt hơn nữa kết quả này đòi hỏi công ty phải có những biện pháp tích cực nhằm khắc phục những khó khăn mà công ty đang gặp phải.
Với những kết quả khả quan đã đạt được cùng với những ưu thế vượt trội của mình chúng ta cùng hy vọng và tin rằng trong những năm tiếp theo PJICO sẽ không ngừng tự hoàn thiện, nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung và nghiệp vụ BH TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba nói riêng bằng việc phát huy những tiềm năng sẵn có, tận dụng những cơ hội thuận lợi để phấn đấu, tự khẳng định mình và có một vị thế ngày càng vững chắc trên thị trường BH Việt Nam cũng như có một vị thế xứng đáng trong con mắt khách hàng, đối tác và bạn hàng.
MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo tài chính của PJICO trong các năm 2001 - 2005
Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999
Giáo trình Kinh tế Bảo hiểm - bộ môn Kinh tế Bảo Hiểm, Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Giáo trình Quản trị Kinh doanh Bảo hiểm - bộ môn Kinh tế Bảo hiểm, Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Luật Kinh doanh Bảo hiểm và các văn bản pháp luật có liên quan
Tạp chí Bảo hiểm
Tạp chí Giao thông vận tải 2001 – 2005
Thời báo Kinh tế Việt Nam 2003 – 2005
Và các tài liệu khác
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36327.doc