Luận văn Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp giầy nữ Niệm Nghĩa – Hải Phòng

Mặt hàng da giầy hiện nay là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đứng thứ 4 trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, mỗi năm đã thu về cho đất nước một khoản ngoại tệ lớn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Trong những năm tới Chính phủ cần chú trọng giải quyết một số khó khăn còn tồn tại để tạo điều kiện thuận lợi cho ngành Công nghiệp Giầy phát triển -Thứ nhất: Đề nghị Chính phủ và Bộ Công nghiệp hoàn thiện quy hoạch tổng thể ngành công nghiệp da giầy đến năm 2010. Trên cơ sở đó chỉ đạo các địa phương thực hiện đầu tư phát triển ngành da giầy theo đúng hướng và theo quy hoạch vùng, tạo điều kiện để ngành thực hiện các mục tiêu phát triển, tránh đầu tư kém hiệu quả. -Thứ hai: Để tránh sự phụ thuộc quá nhiều vào việc nhập nguyên phụ liệu sản xuất giầy của các doanh nghiệp giầy Việt Nam. Hiện nay Chính phủ cần đầu tư phát triển các cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu phục vụ cho ngành Giầy như sau: + Về thuộc da: Chính phủ thực hiện sự phối hợp giữa các ngành chăn nuôi và công nghiệp thực phẩm để sớm hình thành nghề chăn nuôi bò thịt, bò sữa ở các vùng sinh thái thích hợp, đầu tư kỹ thuật giết mổ, lột da và bảo quản da hiện đại để sau năm 2005 có được nguồn nguyên liệu đạt tiêu chuẩn quốc tế cung cấp cho ngành thuộc da trong cả nước về chất lượng, số lượng và giá cả thay thế da nhập khẩu. + Các loại nguyên liệu giả da + Các loại vật liệu làm đế giày + Các loại khuôn mẫu, phụ tùng, phụ liệu

doc55 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1543 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp giầy nữ Niệm Nghĩa – Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ầy: Quá trình sản xuất tại xí nghiệp giầy nữ Niệm Nghĩa là quá trình sản xuất liên tục có khối lượng sản phẩm lớn nhưng chủng loại ít.Với đặc thù trên sản phẩm của xí nghiệp không có chủng loại mẫu mã đa dạng. Đồng thời quá trình sản xuất liên tục có tính linh hoạt kém, khó thích ứng được với những biến động nhu cầu thị trường. Quy trình sản xuất giày của xí nghiệp được bố trí theo dây chuyền. Do công nghệ sản xuất được bố trí dựa trên dây chuyền là loại công nghệ thế giới sử dụng vào những năm 80 nên tốc độ chậm, sử dụng nhiều lao động. Đặc điểm của dây chuyền sản xuất băng tải này là rất khó cân đối năng lực sản xuất giữa các khâu, dẫn đến năng suất lao động của toàn chuyền phụ thuộc vào năng lực sản xuất của khâu yếu nhất. Đặc điểm dây chuyền sản xuất giầy của xí nghiệp: Nguyên liệu Chặt May Gò Chỉnh lý Hoàn tất Bán thành phẩm của một chuyền lại là đầu vào cho chuyền tiếp theo. Do vậy việc bố trí sản xuất kinh doanh hợp lý và cân đối năng lực sản xuất giữa các khâu là một công việc rất quan trọng để đảm bảo cho dây chuyền vận hành nhịp nhàng. 1.2. Kết quả sản xuất trong 3 năm gần đây) 2000 – 2002 ): Bước vào những năm đầu mới thành lập, xí nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, nhưng những năm tiếp theo tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp có nhiều tiến triển tốt đẹp hơn, vượt qua khó khăn, duy trì được hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả của mình.. Đời sống của cán bộ công nhân viên được cải thiện và nâng cao rõ rệt. Xí nghiệp luôn hoàn thành nhiệm vụ của cấp trên giao cho và nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước. a. Tổng sản lượng và giá trị tổng sản lượng : Bảng 1: Một số số liệu về tổng sản lượng và giá trị tổng sản lượng Chỉ tiêu Đơn vị tính 2000 2001 2002 Tổng sản lượng Đôi 2.429.120 2.225.750 2.205.240 Giá trị tổng sản lượng 1000 d 19.468.951 19.707.522 20.566.876 Nguồn: Phòng tài chính kế toán Trong những năm gần đây số lượng sản phẩm xí nghiệp sản xuất không ổn định là do đặc điểm của từng loại sản phẩm trong đơn đặt hàng bên phía đối tác cung cấp cho xí nghiệp gia công sản xuất. Có những sản phẩm trong quá trình sản xuất cần ít công đoạn nhưng trong những công đoạn đó lại cần có nhiều thao tác để tạo thành sản phẩm và ngược lại. b. Tổng sản lượng và giá trị tổng sản lượng một số mặt hàng chính: Bảng 2: Sản lượng và giá trị tổng sản lượng một số mặt hàng chính Chỉ tiêu Đơn vị tính 2000 2001 2002 Tổng sản lượng Trong đó: Giầy cao cổ Giầy bao Xăng đan Đôi 2.434.640 2.235.932 2.218.002 Đôi 531.932 690.329 788.492 Đôi 932.220 928.432 1.011.970 Đôi 970.448 617.171 417.540 Giá trị tổng sản lượng Trong đó: Giầy cao cổ Giầy bao Xăng đan 1000 đ 19.525.252 19.807.931 20.687.353 1000 đ 7.566.904 9.837.188 11.235.627 1000 đ 6.572.143 6.545.446 7.134.394 1000 đ 5.386.205 3.425.297 2.317.342 Nguồn: Phòng tài chính kế toán c. Tình hình chi phí sản xuất: Bảng 3: Một số số liệu về chi phí sản xuất của xí nghiệp Đơn vị:Đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1.Chi phí nhân công trực tiếp: 12.546.218.203 12.832.456.794 13.387.624.982 2.Chi phí sản xuất chung: 7.122.732.922 6.875.066.113 7.179.242.214 Trong đó: *CP Điện: 1.636.671.968 1.663.211.568 1.801.328.640 *KHTSCĐ: 1.771.692.039 1.409.168.208 1.036.446.374 *Công cụ LĐ: 265.511.648 225.724.900 286.648.000 *Thuê kho: 246.182.760 286.720.736 320.084.860 *V.tư pvụ SX: 244.583.249 246.182.760 297.203.404 *Quản lý PX: 968.067.129 1.099.800.079 1.103.640.568 *Vận chuyển NVL: 349.260.832 373.087.446 392.168.046 *CP chờ kết chuyển: 141.255.303 256.309.000 284.041.362 *Thuế nhập khẩu: 98.031.858 32.850.000 106.413.000 *Thuế đất: 67.250.800 55.612.260 52.356.180 *CP khác bằng tiền: 1.334.225.341 1.226.399.156 1.756.790.154 Nguồn: Phòng tài chính kế toán Song song với nhịp độ tăng doanh thu thì chi phí sản xuất hàng năm của xí nghiệp cũng tăng dần lên qua từng năm. Có thể nói rằng trong những năm qua xí nghiệp vẫn duy trì sự ổn định trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng qua những số liệu trên chúng ta cũng có thể thấy rằng mức độ phát triển của xí nghiệp là không cao. Do đó trong những năm tới xí nghiệp cần có những biện pháp để đẩy mạnh hơn nữa tốc độ phát triển này. 2. tình hình kinh doanh 2.1.Đặc điểm mặt hàng kinh doanh và thị trường kinh doanh: a. Đặc điểm về sản phẩm: Xí nghiệp hiện nay sản xuất ba sản phẩm chính là xăng đan, giầy bao và giầy cao cổ. Nói chung, những sản phẩm giày có những đặc điểm chung như sau: - Giầy là sản phẩm chịu ảnh hưởng sâu sắc của thời tiết, khí hậu. Sản phẩm giày được tiêu thụ chủ yếu ở các nước ôn đới và hàn đới; lượng sản phẩm tiêu thụ tăng vọt vào mùa đông - khi thời tiết bắt đầu rét lạnh và vào dịp đầu năm, khi nhu cầu mua sắm tăng để đón năm mới. - Giày cũng là một phần của thời trang, nó tôn vinh vẻ đẹp của con người. Do vậy chủng loại mẫu mã giày chịu ảnh hưởng sâu sắc của môi trường xã hội, văn hoá, tập quán tiêu dùng và thu nhập của dân cư. Với các đặc trưng trên thì có thể khẳng định giầy là sản phẩm có vòng đời sản phẩm ngắn, sự thay đổi mẫu mã, hình thức diễn ra liên tục. Thông thường thì việc nghiên cứu chế tạo mẫu mới phải được bắt đầu từ mùa trước để có thể tung sản phẩm ra thị trường ở mùa sau. Vì vậy để tăng mức tiêu thụ sản phẩm thì việc đòi hỏi cung ứng sản phẩm đúng theo nhu cầu thị trường là vô cùng quan trọng. b. Đặc điểm về thị trường: Xí nghiệp giầy nữ là đơn vị gia công hàng xuất khẩu cho đối tác nước ngoài. Nhiệm vụ chủ yếu của xí nghiệp là thực hiện các công đoạn sản xuất để tạo ra thành phẩm. Do đó toàn bộ sản phẩm của xí nghiệp chỉ được phép xuất khẩu ra nước ngoài cho Công ty CHIAOSANG mà không dược phép tiêu thụ ở thị trường nội địa. Vì vậy, xí nghiệp có những thuận lợi nhất định khi không phải thăm dò thị trường, không phải tìm nguồn cung ứng nguyên vật liệu...Tuy nhiên, xí nghiệp không được tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, không được ký kết hợp đồng trực tiếp nên giá cả, nguyên vật liệu, thời gian và số lượng sản phẩm sản xuất đều phụ thuộc vào phía đối tác. Chính vì điều này mà xí nghiệp đã không thể tiếp xúc được với những thị trường đầy tiềm năng như: Thị trường EU, Mỹ, Nhật. Nhưng quan trọng nhất là xí nghiệp đã bỏ qua thị trường đầy tiềm năng trong nước với hơn 70 triệu dân. 2.2. Kết quả hoạt động kinh doanh: Bảng 4: Một số chỉ tiêu qua các năm Đơn vị: Đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Tổng vốn kinh doanh 17.558.680.000 17.801.682.000 18.585.350.000 Tổng chi phí 19.468.951.125 19.707.522.907 20.566.867.206 Lợi nhuận 56.301.562 100.408.965 120.486.735 Nguồn: Phòng tài chính kế toán Qua bảng báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chúng ta có thể thấy rằng trong những năm qua, tình hình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp phát triển tương đối ổn định. Chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận luôn có xu hướng năm sau cao hơn năm trước. Trong những năm mới thành lập, xí nghiệp gặp rất nhiều khó khăn do bước đầu còn thiếu đội ngũ cán bộ kỹ thuật lành nghề, công nhân trực tiếp sản xuất thì mới được đào tạo còn thiếu kinh nghiệm.Trong khi đó thị trường sản xuất giầy lại có sự cạnh tranh gay gắt. Nhưng với sự nỗ lực, tập trung cố gắng cao của ban giám đốc cùng toàn thể cán bộ công nhân viên, tình hình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp ngày càng ổn định và từng bước phát triển cao hơn trong những năm gần đây. 3. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung tại xí nghiệp : Bảng 5 : Bảng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Doanh thu 19.525.252.687 19.807.931.872 20.687.353.941 Tổng vốn kinh doanh 17.558.680.000 17.801.682.000 18.585.350.000 Tổng sản lượng 2.429.119 2.088.208 2.084.437 Giá trị tổng sản lượng 19.525.252.687 19.807.931.872 20.687.353.941 Tổng chi phí 19.468.951.125 19.707.522.907 20.566.867.206 Cán bộ cnv 1.732 1.765 1.824 Tổng quỹ lương 12.546.218.203 12.832.456.794 13.387.624.982 Lợi nhuận 56.301.562 100.408.965 120.486.735 Nộp NSNN 538.000.000 545.000.000 570.000.000 Nguồn: Phòng tài chính kế toán Trong 3 năm trở lại đây , doanh thu và lợi nhuận của xí nghiệp không ngừng tăng lên. Năm 2000, doanh thu là 19.525.252.687 đ, năm 2001 là 19.807.931.872 đ, và đến năm 2002, doanh thu tăng lên là 20.687.353.941 đ. Một kết quả tương đối khả quan tuy rằng tỷ lệ tăng còn rất khiêm tốn.Tương tự, lợi nhuận cũng tăng qua các năm. Năm 2000, lợi nhuận là 56.301.562 đ, năm 2001 là 100.408.965 đ và tăng lên 120.486.735 đ năm 2002 tuy rằng tổng sản lượng có xu hướng giảm dần. Song song với sự tăng trưởng về lợi nhuận và doanh thu thì số lượng cán bộ công nhân viên và tổng quỹ lương của xí nghiệp cũng tăng liên tục qua các năm. Trong những năm qua, xí nghiệp luôn thực hiện tốt các nghĩa vụ đối với Ngân sách nhà nước. Năm 2000, xí nghiệp nộp 538.000.000đ. Năm 2001 là 545.000.000đ, và năm 2002 là 570.000.000đ. Mặc dù hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp trong những năm qua có những kết quả khả quan. Nhưng so với chỉ tiêu doanh thu thì chúng ta thấy rằng chỉ tiêu tổng chi phí sản xuất kinh doanh của xí nghiệp vẫn tồn tại ở mức cao. Nguyên nhân này làm cho lợi nhuận của xí nghiệp đạt được vẫn chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với tổng doanh thu. Điều này cho chúng ta thấy rằng để nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh thì bên cạnh những biện pháp làm tăng doanh thu, xí nghiệp cũng cần phải tiến hành các biện pháp triệt để làm giảm chi phí sản xuất kinh doanh để tiến tới ngày càng nâng cao hơn nữa lợi nhuận thu được. Với những kết quả thu được và với thực tế sản xuất kinh doanh hiện nay, trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, muốn tồn tại và phát triển thì xí nghiệp da giầy Niệm Nghĩa cũng như tất cả các doanh nghiệp khác không còn con đường nào khác là ngày cành phải phấn đấu nỗ lực, cố gắng hết mình để nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. iIi- Phân tích hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh tại xí nghiệp. 1. Hiệu quả sản xuất kinh doanh thông qua một số chỉ tiêu tài chính : 1.1.Hiệu quả sử dụng vốn: a. Vốn cố định: Bảng 6 : Hiệu quả sử dụng tài sản cố định Đơn vị: 1000 đ Chỉ tiêu 2000 2001 2001 01/00 02/01 Doanh thu 19.525.252 19.807.931 20.687.353 101,4 101,4 Lợi nhuận 56.301 100.408 120.486 178,3 120,0 Nguyên giá TSCĐBQ 15.436.827 15.578.328 16.183.669 100,9 103,9 Nguyên giáMMTBBQ 12.384.275 12.685.825 13.225.646 102,4 104,2 Sức sản xuất của TSCĐ 1,265 1,272 1,279 100,5 100,5 Sức sản xuất của MMTB 1,577 1,562 1,565 99,0 100,2 Sức sinh lời của TSCĐ 0,0037 0,0065 0,0075 175,7 115,4 Sức sinh lời của MMTB 0,0045 0,0079 0,0091 175,5 115,2 Suất hao phí TSCĐ 0,79 0,786 0,782 99,5 99,5 Nguồn: Phòng tài chính kế toán Qua bảng trên chúng ta thấy sức sản xuất của tài sản cố định tăng đều qua từng năm nhưng sức sản xuất của máy móc thiết bị lại có sự thay đổi.Điều này được thể hiện rõ qua các biểu sau: Biểu 1: Sức sản xuất của tài sản cố định Qua biểu trên chúng ta thấy rằng sức sản xuất của tài sản cố định tăng qua từng năm. Điều này chứng tỏ rằng tốc độ tăng của doanh thu hàng năm luôn lớn hơn tốc độ tăng của nguyên giá bình quân tài sản cố định. Năm 2000, một đồng tài sản cố định tạo ra 1,265 đồng doanh thu. Đến năm 2001, doanh thu đạt được là 1,272 đồng trên một đồng vốn cố định và tiếp tục tăng đều đến năm 2002 với mức đạt được là 1,279 đồng. Biểu 2:Sức sản xuất của máy móc thiết bị Qua các thông số ở biểu 8, ta thấy rằng sức sản xuất của máy móc thiết bị năm 2001 giảm đi so với năm 2000, có nghĩa là từ mức một đồng nguyên giá máy móc thiết bị tạo ra 1,577 đồng doanh thu năm 2000 giảm xuống còn 1,562 đồng năm 2001. Nhưng đến năm 2002 chỉ tiêu này lại tăng lên 1,565 đồng. Suất hao phí tài sản cố định giảm dần qua các năm điều này được thể hiện qua các số liệu ở biểu sau: Biểu 3: Suất hao phí tài sản cố định Suất hao phí tài sản cố định giảm dần qua từng năm. Năm 2000, để tạo ra một đồng doanh thu thì cần 0,79 đồng tài sản cố định.Năm 2001 cần 0,786 đồng và đến năm 2002 chỉ còn cần 0,782 đồng. Nhận xét: Mặc dù hiệu quả sử dụng tài sản cố định của xí nghiệp có xu hướng tăng lên qua các năm nhưng thực tế thì mức sức sản xuất của tài sản cố định và sức sinh lời của tài sản cố định đều thấp hơn rất nhiều so với mức bình quân của ngành. Năm 2002, sức sản xuất của tài sản cố định là 1,279 đồng và sức sinh lời của tài sản cố định là 0,007 đồng trong khi đó mức chỉ tiêu chung của ngành lần lượt là 3,2 đồng và 0,7 đồng. Điều này chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản cố định của xí nghiệp còn rất thấp. b. Vốn lưu động: Bảng 7 : Hiệu quả sử dụng vốn lưu động Đơn vị: 1000 đ Chỉ tiêu 2000 2001 2002 01/00 02/01 Doanh thu 19.525.252 19.807.931 20.687.353 101,4 101,4 Lợi nhuận 56.301 100.408 120.486 104,8 108,0 VLĐ bình quân 2.121.853 2.223.353 2.401.680 - 0,3 - 0,3 Số vòng quay VLĐ 9,2 8,9 8,6 Sức sinh lời VLĐ 0,026 0,045 0,05 Thời gian luân chuyển 39 40 42 1 2 Hệ số đảm nhiệm VLĐ 0,1 0,112 0,116 0,012 0,004 Nguồn: Phòng tài chính kế toán Từ bảng trên ta thấy hiệu quả sử dụng vốn lưu động của xí nghiệp là tương đối cao. Số vòng quay vốn lưu động năm 2000 là 9,2 vòng và thời gian luân chuyển là 39 ngày. Nhưng trong các năm hiệu quả sử dụng vốn lưu động lại có dấu hiệu giảm dần. Số vòng quay năm 2001 giảm xuống còn 8,9 vòng , thời gian luân chuyển từ 39 ngày năm 2000 nay tăng lên thành 40 ngày.Và đến năm 2002, tình trạng này vẫn tiếp tục xảy ra khi số vòng quay lại giảm xuống còn 8,6 vòng ,thời gian luân chuyển là 42 ngày. Điều này do lượng vốn lưu động trong hai năm qua tăng nhanh hơn lượng doanh thu. Cụ thể là: năm 2001, doanh thu tăng 101,4% nhưng lượng vốn lưu động lại tăng tới 104,8%. Năm 2002, doanh thu tiếp tục tăng 101,4% nhưng vốn lưu động còn tăng cao hơn cả năm 2001 với mức 108%. Biểu 4: Số vòng quay vốn lưu động Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động của xí nghiệp cũng có chiều hướng giảm đi.Chúng ta có thể theo dõi qua biểu sau: Biểu 5: Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động: Qua biểu trên chúng ta thấy hệ số đảm nhiệm vốn lưu động có xu hướng tăng lên.Năm 2000, để tạo ra một đồng doanh thu thì cần có 0,1 đồng vốn lưu động, nhưng năm 2002 lại cần có tới 0,112 đồng vốn lưu động để tạo ra một đồng doanh thu. Và năm 2002 tăng lên 0,116 đồng. Nhận xét: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của xí nghiệp là tương đối tốt. Số vòng quay vốn lưu động của xí nghiệp đạt được lần lượt qua các năm 2000, 2001, 2002 là 9,2 vòng, 8,9 vòng, và 8,6 vòng. Trong khi đó, số vòng quay của vốn lưu động ngành da giầy là 10 vòng. Tuy nhiên, trong vài năm vừa qua tốc độ luân chuyển vốn lại có xu hướng giảm đi. Đây chính là vấn đề mà xí nghiệp cần chú ý giải quyết để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. c. Tổng vốn: Bảng 8 : Đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh Đơn vị : 1000 đ Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 01/00 02/01 Giá trị tổng sản lượng 19.525.252 19.807.931 20.687.353 101,4 101,4 Tổng lợi nhuận 56.301 100.408 120.486 178,3 119,9 Vốn kinh doanh 17.558.680 17.801.682 18.585.350 101,3 104,4 Vốn chủ sở hữu 15.806.396 15.892.540 16.498.256 100,5 103,8 Sức sản xuất của tổng vốn 1,112 1,1127 1,113 100 100 Sức SX của vốn chủ sở hữu 0,81 1,246 1,254 153,8 100,6 Sức sinh lời của tổng vốn 0,0032 0,0056 0,0065 175 116 Sức sinh lời của vốn CSH 0,0036 0,0063 0,0073 1,75 116 Tỷ suất LN/DT 0,0029 0,005 0,006 172,4 120 Tỷ trọngVốn CSH / tổng vốn 0,9 0,89 0,88 98,88 98,87 Nguồn: Phòng tài chính kế toán Việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh theo nhóm chỉ tiêu tổng tài chính sẽ cho chúng ta một cái nhìn toàn diện nhất về thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nó có thể là cơ sở để so sánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành, hoặc có thể để theo dõi kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị qua các năm. Ta có thể theo dõi tình hình tăng sức sản xuất của vốn kinh doanh bình quân qua biểu sau: Biểu 6: Sức sản xuất của tổng vốn Đơn vị: Triệu đồng *Sức sản xuất của vốn kinh doanh bình quân luôn ổn định qua các năm. Năm 2000 một đồng vốn tạo ra 1,112 đồng doanh thu. Năm 2001 là 1,1127 đồng, 2002 tuy sức sản xuất của tổng vốn có sự tăng trưởng nhưng tỷ lệ tăng trưởng là không đáng kể với mức một đồng vốn tạo ra 1,113 đồng doanh thu. *Do tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng vốn cao nên sức sản xuất của vốn chủ sở hữu cũng không hơn nhiều so với sức sản xuất của tổng vốn. Tuy nhiên mức sản xuất cũng tăng qua các năm. Năm 2000, một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra 0,81 đồng doanh thu nhưng đến năm 2001 thì một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra được 1,246 đồng doanh thu và đến năm 2002 thì con số này là 1,254 đồng. *Sức sinh lời của tổng vốn của xí nghiệp hiện nay là quá thấp) năm 2000, một đồng vốn kinh doanh chỉ tạo ra được có 0,0032 đồng lợi nhuận.Năm 2001 là 0,0056 đồng và năm 2002 là 0,0065 đồng ). Tuy sự thay đổi sức sinh lời của tổng vốn đang có chiều hướng tăng trưởng đều qua các năm nhưng sức sinh lời của tổng vốn vẫn ở mức quá thấp so với một số doanh nghiệp cùng ngành. *Cùng với sự tăng trưởng sức sinh lời của tổng vốn thì tỷ suất lợi nhuận cũng có sự chuyển biến tích cực qua các năm: Năm 2000 là 0,0029 và tăng đều qua các năm 2001,2002 với mức là 0,005 và 0,006. Nhận xét: Hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp trong những năm gần đây tuy có hướng phát triển tích cực theo chiều hướng đi lên một cách ổn định nhưng như vậy là chưa đủ bởi nếu so sánh với một số doanh nghiệp cùng ngành thì chỉ tiêu sức sản xuất của tổng vốn của xí nghiệp là tương đối thấp. Đặc điểm của ngành công nghiệp Da giầy là ngành sử dụng nhiều lao động thủ công, giá trị máy móc thiết bị thấp nên trung bình sức sản xuất của tổng vốn kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành đạt được trong khoảng 1,5 – 2 đồng, nghĩa là 1 đồng vốn kinh doanh sẽ tạo ra được từ 1,5 đến 2 đồng doanh thu. Mặt khác, nếu coi gửi tiết kiệm là một cơ hội của vốn kinh doanh thì trong giai đoạn 2000 – 2002, lãi suất tiết kiệm trung bình là khoảng 8,0% /năm thì rõ ràng sức sinh lời của vốn sản xuất kinh doanh của xí nghiệp là quá thấp. Như vậy có thể đánh giá được rằng hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp là chưa khả quan. 1.2. Tình hình doanh thu Biểu 7: Doanh thu của xí nghiệp từ năm 2000 – 2002 Đơn vị: Tỷ đồng. Qua biểu trên chúng ta thấy rằng kết quả doanh thu mà xí nghiệp đạt được trong những năm qua luôn có tỷ lệ tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước.Năm 2000, doanh thu của xí nghiệp là 19.525.252.000 đ. Năm 2001, xí nghiệp đạt được mức là 19.807.931.000 đ. Tăng 101,4% so với năm 2000. Và đến năm 2002 con số này tiếp tục tăng khi doanh thu của xí nghiệp là 20.687.353.000 đ, tăng 104% so với năm 2001. Để đạt được điều này cán bộ công nhân viên của xí nghiệp đã phải cố gắng hết sức để vượt qua những khó khăn trong giai đoạn mới thành lập cùng với sự giúp đỡ của Công ty Da giầy Hải phòng, xí nghiệp đã từng bước đi vào ổn định và ngày càng hoạt động một cách hiệu quả hơn. 1.3. Tình hình lợi nhuận: Tình hình lợi nhuận của xí nghiệp vài năm trở lại đây tương đối khả quan. Mức lợi nhuận luôn có hướng năm sau cao hơn năm trước, cho dù mức độ tăng không nhiều. Bảng 9: Tình hình lợi nhuận của xí nghiệp thời gian 2000 - 2002 Đơn vị : 1000 đ Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Giá trị tổng sản lượng 19.525.252.687 19.807.931.872 20.687.353.941 Tổng chi phí 19.468.951.125 19.707.522.907 20.566.867.206 Lợi nhuận 56.301.562 100.408.965 120.486.735 Nguồn: Phòng tài chính kế toán Từ bảng trên ta thấy sự cố gắng nỗ lực của toàn bộ cán bộ công nhân viên xí nghiệp trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn trong những năm đầu mới thành lập nhưng đến nay xí nghiệp đã có những bước phát triển rất đáng mừng. Qua những thông số liệu về tình hình hoạt động sản xuất và kinh doanh của xí nghiệp Giầy nữ Niệm nghĩa trong những năm qua đã được phân tích sơ bộ ở trên, chúng ta thấy rằng việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là vấn đề cần thiết đối với xí nghiệp. Do vậy, việc đánh giá thực hiệu quả sản xuất kinh doanh là cần thiết để từ đó tìm ra các bộ phận, các khâu trong dây chuyền sản xuất có hiệu quả còn thấp để tìm ra nguyên nhân và đưa ra các giải pháp cần thiết, kịp thời nhằm góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị. 1.4. Tình hình chi phí Mức tổng chi phí sản xuất kinh doanh của xí nghiệp còn rất cao so với doanh thu chính vì vậy tỷ suất lợi nhuận của xí nghiệp rất thấp so với các đơn vị cùng ngành. Biểu 8: Tổng chi phí sản xuất kinh doanh qua các năm 2000 - 2002 Đơn vị: Tỷ đồng. Việc tỷ trọng tổng chi phí trên tổng doanh thu còn rất cao) 99,7% năm 2000 và 2 năm 2001,2002 giảm xuống còn 99,4% ) đang là vấn đề quan tâm hàng đầu của xí nghiệp. Trong thời gian tới, xí nghiệp cần chú trọng tới việc thực hiện các biện pháp giảm chi phí trên một đơn vị sản phẩm để góp phần làm giảm giá vốn hàng bán.Trong đó đặc biệt phải quan tâm tới việc xây dựng và quản lý định mức nguyên vật liệu để tránh việc sử dụng lãng phí, sử dụng vượt mức như ở trong xí nghiệp hiện nay. 2. Hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị 2.1. Đặc điểm về máy móc thiết bị Do đặc điểm của xí nghiệp được phía đối tác cung cấp máy móc thiết bị nên đa số những thiết bị này được sản xuất tại Đài Loan. Nhưng phần lớn máy móc thiết bị ở đây không đồng bộ.Trong quá trình kiểm kê máy móc , nhiều máy móc thiết bị đã cũ. Ký, mã hiệu không còn rõ.) Phần phụ lục 1 ) Qua những số liệu ở Phần phụ lục 1 ta thấy xí nghiệp có rất nhiều máy móc thiết bị để sản xuất nhưng lại ít về số lượng. Điều này cũng gây không ít khó khăn cho xí nghiệp, bởi muốn quá trình sản xuất diễn ra liên tục thì xí nghiệp phải đảm bảo trong khi sản xuất không có sự cố nào do máy móc gây ra trong hoàn cảnh máy móc thiết bị của xí nghiệp phần lớn đều đã cũ và không đồng bộ. Đây cũng là một khó khăn cho ban lãnh đạo xí nghiệp. 2.2. Hiệu quả sử dụng Theo đánh giá của ban lãnh đạo thì công suất tối đa) công suất thiết kế ) của xí nghiệp khoảng 3.000.000 đôi/năm. Nhưng trên thực tế trong 3 năm trở lại đây sản lượng cao nhất của xí nghiệp cũng chỉ đạt 2.429.119 đôi. Có nghĩa là mức độ sử dụng chỉ đạt 81%, chưa kể đến những năm xí nghiệp không đạt tới mức sản lượng này. Nguyên nhân là do xí nghiệp không thể tự tìm đối tác mà tất cả đều phụ thuộc vào sản lượng của những đơn đặt hàng mà Công ty CHIAOSANG cung cấp. Do vậy mà hiệu quả sử dụng không cao. Đây chính là sự lãng phí mà xí nghiệp cần phải khắc phục ngay trong thời gian tới. 3.Hiệu quả sử dụng lao động 3.1.Đặc điểm về lao động Là một ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động cho nên hiệu quả sử dụng lao động sẽ là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của toàn xí nghiệp. Đặc điểm về cơ cấu lao động: Tính đến cuối tháng 12 năm 2002,xí nghiệp có 1.824 người.Trong đó, tổng số cán bộ quản lý là 150 người.Lao động trực tiếp là 1.674 người. Biểu9: Cơ cấu lao động phân theo chuyên môn: Trong một doanh nghiệp sản xuất thì tỷ lệ cán bộ công nhân làm việc gián tiếp với số công nhân lao động trực tiếp như vậy là tương đối hợp lý. Vì vậy xí nghiệp nên giữ tỷ lệ lao động này để hoạt động một cách hiệu quả hơn trong những năm sắp tới. Bảng 10: Cơ cấu lao động phân theo trình độ học vấn Loại lao động Số người Tỷ lệ% Sau đại học 0 đại học 12 0,67 Trung cấp 138 7,56 Phổ thông 1.674 91,77 Nguồn: Phòng quản lý nhân sự Qua bảng trên chúng ta nhận thấy đội ngũ cán bộ lao động trong xí nghiệp phần lớn có trình độ trung cấp .Ngoài ra không có một cán bộ nào có trình độ sau đại học.Đây cũng là một vấn đề mà xí nghiệp cần quan tâm trong thời gian sắp tới. Bảng 11: Cơ cấu lao động phân theo độ tuổi và bậc thợ Loại lao động Số người Tỷ lệ% Trên 35 tuổi 327 17,93 Từ 25 – 35 tuổi 242 13,27 Dưới 25 tuổi 1.255 68,8 Công nhân bậc 1/7 102 5,6 Công nhân bậc 2/7 1.586 86,95 Công nhân bậc 3/7 121 6,63 Công nhân bậc 4/7 15 0,82 Nguồn: Phòng quản lý nhân sự Qua bảng trên chúng ta nhận thấy cơ cấu tay nghề công nhân sản xuất trong xí nghiệp chưa đảm bảo công việc được giao.Số công nhân có tay nghề bậc cao còn quá ít, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng làm giảm tỷ lệ phế phẩm.Vấn đề đặt ra là trong thời gian sắp tới, để nâng cao hiệu quả sản xuất thì xí nghiệp phải đào tạo và nâng cao tay nghề cho đội ngũ công nhân Khi xét cơ cấu lao động theo độ tuổi ta thấy số lượng cán bộ công nhân viên dưới 25 tuổi chiếm số lượng lớn)68,8%) trong tổng số cán bộ công nhân viên. Điều này có nghĩa là xí nghiệp có một đội ngũ công nhân viên trẻ khoẻ, năng động, sáng tạo và tràn đầy nhiệt huyết đối với công việc, sẵn sàng cống hiến hết sức mình cho sự phát triển của xí nghiệp. Tuy còn thiếu kinh nghiệm nghề nghiệp)1.586 công nhân lao động có trình độ chuyên môn bậc 2/7 )nhưng bù lại tuổi trẻ sẽ giúp họ có tinh thần học hỏi cao, nỗ lực không mệt mỏi để hoàn thành công việc được giao.Đây là điều kiện khá thuận lợi của xí nghiệp. 3.2. Hiệu quả sử dụng lao động Bảng 12: Năng suất lao động qua các năm Đơn vị tính: 1000 đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1.Tổng doanh thu Tốc độ phát triển 2.Số lao động bình quân Tốc độ phát triển 3.Công nhân SX trực tiếp Tốc độ phát triển 4.Năng suất cán bộ CNV Mức tăng tuyệt đối Mức tăng tương đối 5.Năng suất CNSXTT Mức tăng tuyệt đối Mức tăng tương đối 19.525.252 1.732 1.590 11.273 12.280 19.807.931 101,4% 1.765 102% 1.618 101,8% 11.223 - 50 99,56% 12.242 - 38 99,7% 20.687.353 101,4% 1.284 103,3% 1.674 103,5% 11.342 119 101% 12.350 108 100,8% Nguồn: Phòng quản lý nhân sự Ta có thể phân tích tình hình chuyển biến năng suất lao động qua các biểu sau: Biểu10: Năng suất lao động của CBCNV Đơn vị: Triệu đ Năng suất lao động của cán bộ công nhân viên trong các năm qua không ổn định bởi số lượng cán bộ công nhân viên trong xí nghiệp thay đổi và điều đặc biệt quan trọng là xí nghiệp có tới trên 80% là nữ công nhân chính vì vậy trong lúc những công nhân sản xuất chính nghỉ phép thì xí nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm nguồn nhân lực để thay thế. Biểu 11: Năng suất của công nhân TTSX: Đơn vị: Triệu đồng Cùng với sự thay đổi năng suất của toàn bộ cán bộ công nhân viên thì năng suất của công nhân trực tiếp sản xuất cũng thay đổi theo cùng mức độ. Đặc điểm công nghệ sản xuất giầy là theo dây chuyền. Mỗi khi có đơn đặt hàng thì toàn bộ công nhân được huy động hêt để sản xuất. Vì vậy, khi có một dây chuyền nào sản xuất không hiệu quả thì nó ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất của toàn xí nghiệp. Hơn nữa, xí nghiệp lại chưa có bộ phận theo dõi thời gian thực tế, năng lực lao động của công nhân sản xuất nên rất khó đánh giá một cách chính xác hiệu quả sử dụng thời gian lao động. Nhận xét: Năng suất lao động của xí nghiệp không ổn định và còn rất thấp so với các đơn vị khác cùng ngành có cùng đặc điểm kinh tế kỹ thuật. Vì vậy, trong những năm tới xí nghiệp cần thực hiện các biện pháp tăng năng suất lao động để góp phần tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. 4. Hiệu quả kinh tế xã hội: Những năm vừa qua mức sống của cán bộ công nhân viên trong xí nghiệp Giầy nữ Niệm Nghĩa không ngừng được nâng cao. Ban lãnh đạo luôn có chủ trương khuyến khích công nhân lao động bằng những biện pháp khen thưởng để tạo không khí thi đua lao động trong xí nghiệp. Hàng năm xí nghiệp tạo công ăn việc làm cho khoảng hơn 1700 lao động với mức thu nhập tương đối cao so với một số doanh nghiệp trong ngành Da giầy. Bảng 13: Các chỉ tiêu hiệu quả xã hội Chỉ tiêu 2000 2001 2002 Số lao động 1.732 1.765 1.824 Thu nhập bình quân 580.000 600.000 650.000 Nộp NSNN 538.000.000 545.000.000 570.000.000 Nguồn: Phòng tài chính kế toán Thu nhập bình quân của người lao động luôn tăng qua các năm. Xí nghiệp luôn luôn thực hiện tốt các nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước với mức nộp năm sau cao hơn năm trước. iv- Đánh giá những ưu nhược điểm về hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp 1. Những thành tựu: Hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp có những dấu hiệu tăng trưởng đáng mừng. Điều này thể hiện ở các chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận xí nghiệp đạt được năm sau luôn cao hơn năm trước, mức sống của cán bộ công nhân viên không ngừng được cải thiện. Lãnh đạo xí nghiệp nhận nhiệm vụ sản xuất các sản phẩm giầy xuất khẩu, chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Công ty Da giầy Hải Phòng với phương châm: đặt mục tiêu chất lượng lên hàng đầu, do vậy xí nghiệp luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong công tác tổ chức chỉ đạo sản xuất: Sắp xếp bố trí lại các phòng ban, tổ chức lại các dây chuyền sản xuất, các phân xưởng có hiệu quả đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của việc sản xuất và khách hàng. Bộ phận sản xuất mẫu đã cho ra đời hàng trăm mẫu mới, trong đó có rất nhiều mẫu được bạn hàng chấp nhận và cho đưa vào sản xuất. Đây là điều kiện quan trọng để xí nghiệp có những bước đi mới sau này. Xí nghiệp cũng áp dụng một cách rộng rãi một số biện pháp khuyến khích lao động như chế độ khen thưởng, xử lý chặt chẽ vi phạm kỷ luật, lỗi quy trình cùng nhiều biện pháp giáo dục ý thức lao động, tinh thần trách nhiệm của công nhân sản xuất. Kết quả đạt được đã chứng tỏ nỗ lực hết mình của ban giám đốc cũng như lực lượng công nhân sản xuất với hầu hết các mã hàng đều có hướng giảm được tỷ lệ phế phẩm. Công tác an toàn sản xuất, an ninh chính trị, phòng cháy chữa cháy trong những năm qua đã được xí nghiệp quan tâm thực hiện nghiêm túc nên không xảy ra một sự cố đáng tiếc nào. 2. Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân: 2.1. Những tồn tại trong khâu sản xuất: *Năng suất lao động thấp: Trong phần đánh giá hiệu quả sử dụng lao động, chúng ta biết rằng năng suất lao động của công nhân là rất thấp, thấp hơn rất nhiều so với mức bình quân của ngành, nguyên nhân: - Công nghệ sản xuất giầy của xí nghiệp là công nghệ ép dán, sử dụng nhiều lao động thủ công. Các khâu quan trọng ảnh hưởng đến năng suất lao động của toàn chuyền sử dụng lao động thủ công là chính. - Đặc điểm của quá trình sản xuất: bán thành phẩm của một khâu trong dây chuyền lại là đầu vào cho các khâu tiếp theo.Do vậy, việc cân đối năng lực sản xuất cho các khâu là rất khó dẫn đến năng lực sản xuất của toàn dây chuyền phụ thuộc vào năng lực sản xuất của khâu yếu nhất cho nên có những tổ sản xuất phải làm việc thêm ca để đáp ứng năng lực sản xuất cho những chuyền tiếp theo. * Chất lượng sản phẩm của xí nghiệp còn thấp, nguyên nhân: - Công nghệ ép dán mà xí nghiệp đang sử dụng chỉ là mức độ hiện đại trung bình so với công nghệ ép đùn và công nghệ lưu hoá. Công nghệ ép đùn là công nghệ tiên tiến nhất trên thế giới, và hiện nay chỉ các công ty liên doanh với Hàn Quốc hoặc Đài Loan và các Công ty đầu ngành mới có. - Trang thiết bị máy móc cũ vẫn còn nhiều và vẫn được tận dụng sản xuất, dẫn đến tình trạng máy móc thiết bị không đồng bộ, cũ mới đan xen. Việc phân bổ máy móc hiện đại, kết hợp máy cũ không hợp lý, nơi thừa, nơi thiếu hoặc không tiện cho quá trình sản xuất.Vấn đề này ít nhiều đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến chất lượng sản phẩm. - Xí nghiệp chủ yếu sản xuất theo đơn đặt hàng, mỗi đơn hàng lại có chủng loại mẫu mã khác nhau.Khi công nhân tương đối quen sản xuất với một mã hàng thì đơn hàng đó lại hết. Do việc sản xuất gián đoạn theo mã hàng như vậy nên khó có thể tạo ra được một kỹ năng tay nghề ổn định cho công nhân. - Trình độ tay nghề của công nhân còn thấp, bậc thợ 2/7 chiếm đa số và không lao động nào có tay nghề trên bậc 4/7. Do đó những sản phẩm đòi hỏi chất lượng cao thì công nhân không thể đáp ứng được. - Đặc trưng của ngành da giầy là kết hợp máy móc thiết bị với lao động thủ công. Do vậy, lực lượng công nhân sản xuất chính vẫn là phụ nữ. Họ có đôi tay khéo léo, chịu khó làm việc. Tuy nhiên, do tỷ lệ lao động nữ chiếm khá cao trong công xí nghiệp, khoảng 90%, đã làm ảnh hưởng lớn tới năng suất lao động cũng như chất lượng sản phẩm và công tác quản lý lao động. Họ có chế độ ngày nghỉ cao: nghỉ đẻ, nghỉ ốm, con ốm...trong giai đoạn đó, xí nghiệp buộc phải tìm người khác thay thế. Người được thay thế có khi phải đào tạo lại hoàn toàn hoặc phải học thêm mới có thể làm việc được, do đó chất lượng sản phẩm không đảm bảo bằng người lao động chính. Hơn nữa, những công nhân sau khi nghỉ đẻ quay trở lại làm việc tay nghề không còn linh hoạt, ổn định dễ dẫn đến làm không đúng quy cách hay không đạt tiêu chuẩn. *Giá thành sản xuất sản phẩm của xí nghiệp còn cao, nguyên nhân: - Việc tuân thủ định mức kinh tế – kỹ thuật chưa được chặt chẽ. Đối với mỗi loại sản phẩm, phòng sản xuất mẫu và định mức đều làm dưỡng , xây dựng hệ thống định mức kinh tế – kỹ thuật sau đó chuyển xuống các phân xưởng sản xuất. Nhưng trình độ tay nghề của công nhân còn thấp, do đó lượng nguyên vật liệu bao giờ cũng lớn hơn định mức. 2.2. Những tồn tại trong hoạt động quản lý: * Xí nghiệp chưa xây dựng được các chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh dài hạn, nguyên nhân: - Là đơn vị sản xuất gia công cho đối tác nước ngoài nên xí nghiệp không thể chủ động xây dựng chiến lược, kế hoạch dài hạn. Mà chủ yếu tình hình sản xuất kinh doanh lại phụ thuộc vào phía đối tác.Do đó, trong xí nghiệp mất đi một bộ phận quan trọng đó là bộ phận nghiên cứu thị trường. - Bộ máy quản lý gián tiếp của xí nghiệp rất thiếu những cán bộ có trình độ học vấn cao cũng như là có kinh nghiệm làm việc lâu năm. - Các biện pháp để nâng cao tay nghề công nhân, các chế độ khuyến khích nâng cao chất lượng đối với công nhân sản xuất trực tiếp chưa được tổ chức một đồng bộ và liên tục. Công tác định mức lao động còn chưa được chính xác, chưa phù hợp nên chưa tạo ra được tâm lý thoải mái cho người sản xuất. * Về thị trường: Xí nghiệp chỉ chú trọng vào việc sản xuất, gia công hàng xuất khẩu mà bỏ ngỏ thị trường trong nước. Trong khi đó thị trường trong nước là một thị trường lớn và đầy tiềm năng. Phần iii Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp giầy nữ niệm nghĩa- hải phòng I. Phương hướng phát triển của xí nghiệp trong thời gian tới: Trong những năm tới môi trường kinh doanh sẽ ngày càng khó khăn bởi: - Sự cạnh tranh quyết liệt của hàng hoá Trung Quốc, đây là một thị trường giàu tiềm năng, một nguồn cung cấp hàng hoá với số lượng lớn và giá rẻ. Đặc biệt là sau khi Hiệp định thương mại Trung – Mỹ có hiệu lực thì phần lớn đơn hàng sản xuất giầy đã bị thu hút về thị trường này. - Do có sự chuyển đổi cơ cấu mặt hàng: các đơn đặt hàng nhỏ lẻ, số lượng ít tăng lên, các đơn đặt hàng có số lượng lớn giảm đi. - Giá cả sản phẩm xuất khẩu trong những năm tới sẽ có xu hướng giảm sút. Căn cứ vào đặc điểm tình hình thị trường và tiềm lực của xí nghiệp phương hướng phát triển trong những năm tới sẽ là: - Xí nghiệp vẫn tiếp tục sản xuất kinh doanh trên cơ sở các hợp đồng phía đối tác cung cấp. - Từng bước thành lập hệ thống nghiên cứu thị trường với mục đích bước đầu khai thác thị trường trong nước. Sau khi có những sản phẩm có sức cạnh tranh, xí nghiệp sẽ từng bước hướng tới các thị trường tiềm năng khác như: Mỹ, Nhật, Châu Âu. Đặc biệt là sau khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ có hiệu lực thì Mỹ sẽ là thị trường mà xí nghiệp nhắm tới, xí nghiệp sẽ có nhiều thận lợi tập trung mở rộng phát triển quan hệ giao dịch với thị trường đầy tiềm năng này. Năm 2003, Xí nghiệp có các chỉ tiêu phấn đấu sau: Doanh thu: 24.000.000.000 đ Nộp NSNN: 700.000.000 đ Thu nhập bình quân của CBCNV: 650.000 đ ii. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp giầy nữ hải phòng: Qua thời gian thực tập ở xí nghiệp giầy nữ Niệm Nghĩa, xuất phát từ thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp, tôi thấy rằng việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh là một việc rất cần thiết, cần phải thực hiện ngay. Từ những tồn tại và nguyên nhân đã phân tích, tôi mạnh dạn xin đưa ra một số giải pháp và kiến nghị sau: 1. Giải pháp 1.1. Thành lập bộ phận nghiên cứu thị trường Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, để chiến thắng được đối thủ cạnh tranh, xí nghiệp cần phải giải quyết được 3 câu hỏi: Sản xuất cái gì ? Sản xuất cho ai? Sản xuất như thế nào? Xuất phát từ thực trạng trên, xí nghiệp cần hình thành một bộ phận thực hiện chuyên trách hoạt động Marketing trên cả thị trường trong nước cũng như nước ngoài. Để thực hiện việc nghiên cứu, đánh giá thị trường một cách chính xác nhất, sâu sắc nhất, để từ đó có các chính sách và chiến lược Marketing phù hợp. Theo tôi cơ cấu tổ chức này có thể như sau: Bảng 14: Cơ cấu lao động của tổ chức Stt Chức danh Số người 1 2 3 Trưởng phòng Nhân viên thu thập thông tin Nhân viên xử lý thông tin 1 5 2 Tổng số 8 Chức năng và nhiệm vụ của bộ phận này: * Chức năng: - Trưởng phòng: có nhiệm vụ tổ chức, điều phối hoạt động của phòng. Đồng thời thực hiện việc tổng hợp báo cáo hoạt động Marketing cho Ban Giám đốc, cùng phối hợp hành động với các phòng ban khác trong xí nghiệp xây dựng các chính sách chiến lược Marketing. Tuy nhiên để đảm bảo tính khả thi cao thì phòng Marketing phải có mối liên hệ chặt chẽ với các phòng ban khác, đặc biệt là phòng xuất nhập khẩu và phòng mẫu. - Bộ phận thu thập thông tin gồm có 5 người, trong đó có 1 người phụ trách thị trường Châu Âu)EU), 1 người thị trường Mỹ, 1 người thị trường Nhật Bản. Còn lại 2 người tập trung ở thị trường trong nước. Bộ phận thu thập thông tin cần thu thập những thông tin sau. - Bộ phận xử lý thông tin tối thiểu cần có 2 người, 1 người phụ trách việc đánh giá cung cầu sản phẩm, 1 người đánh giá các đối thủ cạnh tranh, tổng hợp phân tích các thông tin về môi trường kinh doanh quốc tế. Bộ phận này có thể trực tiếp nằm dưới sự điều hành của Phó giám đốc phụ trách lĩnh vực sản xuất và kinh doanh. *Nhiệm vụ chủ yếu của bộ phận này là thu thập và xử lý các thông tin: + Môi trường luật pháp các nước, các chính sách ưu đãi đối với các nước đang phát triển, các tập quán, các thông lệ quốc tế, bán hàng và tâm lý tiêu dùng của các quốc gia hiện là bạn hàng hay sẽ trở thành bạn hàng của xí nghiệp trong tương lai. + Thông tin về các hãng cạnh tranh trong và ngoài nước, các hãng kinh doanh lớn trên thế giới, chiến lược kinh doanh của họ trong những năm tới. Các hãng vận tải, các hoạt động ngân hàng có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu của xí nghiệp. + Thông tin về các hãng cạnh tranh trong và ngoài nước, các hãng kinh doanh lớn trên thế giới, chiến lược kinh doanh của họ trong những năm tới. Các hãng vận tải, các hoạt động ngân hàng có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu của xí nghiệp. Lợi ích khi thành lập bộ phận nghiên cứu thị trường: - Thứ nhất: Thành lập bộ phận nghiên cứu thị trường sẽ giúp xí nghiệp nắm được tình hình thị trường sâu sát hơn, phải tạo lập được mối quan hệ trực tiếp với các Công ty thương mại, đại lý tiêu thụ của nước ngoài. Nhờ vậy xí nghiệp dần dần sẽ tiến tới ký kết hợp đồng xuất, nhập khẩu trực tiếp, không cần thông qua các nhà môi giới. - Thứ hai: Nhờ nắm vững nhu cầu, thị hiếu của thị trường nước ngoài, trung tâm mẫu sẽ chủ động sáng tạo ra các mẫu mã mới, tránh sự phụ thuộc sản xuất theo các mẫu mà nhà môi giới đưa đến. - Thứ ba: Giúp cho xí nghiệp chủ động trong sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho việc lập kế hoạch sản xuất cũng như kế hoạch huy động các nguồn lực sát với yêu cầu thực tế hơn. Tuy nhiên cũng có những khó khăn khi thành lập bộ phận này: - Thứ nhất: Việc thành lập bộ phận nghiên cứu thị trường sẽ làm cho bộ máy quản lý thêm cồng kềnh gây khó khăn cho hoạt động tổ chức điều hành. - Thứ hai: Thành lập bộ phận nghiên cứu thị trường sẽ mất một khoản chi phí ban đầu khá lớn để chi trả cho các thiết bị văn phòng như máy tính, máy fax, máy in, bàn ghế, điện thoại... - Thứ ba: Làm tăng thêm chi phí do phải trả lương và các chi phí để bộ phận này hoạt động. Mặc dù việc thành lập bộ phận nghiên cứu thị trường gặp phải những khó khăn như trên, song các lợi ích thu được là rất lớn, quyết định việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Các khó khăn trên về lâu dài sẽ khắc phục được. Phù hợp với xu thế phát triển ngày nay thì việc thành lập bộ phận nghiên cứu thị trường là một điều tất yếu. 1.2. Tăng cường công tác đào tạo và bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho cán bộ công nhân viên của xí nghiệp: Xuất phát từ thực trạng lao động của xí nghiệp hiện nay, trình độ tay nghề công nhân còn thấp, bậc thợ chủ yếu là 2/7. Đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế – kỹ thuật có trình độ đại học không nhiều lại thiếu kinh nghiệm, chuyên môn nghiệp vụ chưa vững. Trong những năm tới, để nâng cao hiệu quả kinh doanh thì việc đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề cho đội ngũ cán bộ công nhân viên là thực sự cần thiết. Để việc đào tạo đạt hiệu quả và có chất lượng, xí nghiệp nên thực hiện theo các nguyên tắc sau: - Nguyên tắc 1: Xác định đúng đối tượng cần đào tạo. Chỉ những công nhân có trình độ tay nghề quá thấp, không đáp ứng được yêu cầu công việc hay những cán bộ quản lý có chuyên môn còn yếu mới nên đưa đi đào tạo. Tránh trường hợp cử không đúng người hay đào tạo sai khả năng. - Nguyên tắc 2: Thực hiện đào tạo lý luận kết hợp với thực hành. Trước hết cần trang bị những kiến thức lý luận để họ nắm được những vấn đề cơ bản, sau đó tạo điều kiện cho họ thực hành để giúp họ đạt hiệu quả cao trong học tập. - Nguyên tắc 3: Kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo, đào tạo lại và khả năng tự bồi dưỡng. Đây là một nguyên tắc cơ bản cần quán triệt. Trong xu thế khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển, cùng sự biến chuyển nhanh chóng của nền kinh tế thế giới đã nảy sinh những kiến thức lý luận mới, đòi hỏi người làm công tác kinh doanh phải luôn luôn cập nhật bổ sung kiến thức mới. Do đó, tuỳ vào đối tượng mà xí nghiệp thực hiện hình thức đào tạo phù hợp. - Nguyên tắc 4: Đội ngũ quản trị viên cấp cao cần được tiến hành đào tạo bổ sung kiến thức liên tục, bởi vì họ là những người hoạch định chiến lược, đưa ra các quyết định sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Họ cần cập nhật được các thông tin, kiến thức mới nhất để có thể nắm bắt được những thời cơ đưa doanh nghiệp đi lên. Để phù hợp với đặc điểm tình hình hiện nay thì xí nghiệp nên áp dụng các hình thức đào tạo sau: -Học tập tại các trường đại học và các trường đào tạo chuyên nghiệp.: Đây là hình thức đào tạo rất tốn kém về thời gian và tài chính, chủ yếu được áp dụng đối với các cán bộ quản lý kinh tế và kỹ thuật. Các cán bộ thường phải đi học trong thời gian dài cho nên sẽ gây tác động không nhỏ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Đòi hỏi xí nghiệp phải xác định xem đối tượng nào cần thiết mới cử đi học, không nên cử nhiều cán bộ đi một lúc để đảm bảo số nhân viên còn lại vẫn giải quyết được các yêu cầu công việc đặt ra. - Tổ chức các khoá học và thực tập ngắn hạn để nâng cao trình độ chuyên môn, có thể học theo định kỳ 1 năm theo hình thức vừa học vừa làm ở các trường chuyên nghiệp. Đây là hình thức được áp dụng khá phổ biến ở nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có đội ngũ công nhân trực tiếp sản xuất cao như các đơn vị trong ngành da giầy. Hàng quý, xí nghiệp có thể cử một số cán bộ chuyên môn hay cũng có thể chọn ra một số công nhân sản xuất trực tiếp thuộc các xí nghiệp để cử đi đào tạo ngắn hạn, nâng cao tay nghề. Mục đích của hình thức đào tạo này là trong một khoảng thời gian ngắn có thể cung cấp thêm những kiến thức cũng như nâng cao trình độ tay nghề chuyên môn cho các đối tượng tham gia. - Tham quan, khảo sát tại các doanh nghiệp tiên tiến. Hình thức này có tác dụng rất tốt đối với cán bộ công nhân viên của xí nghiệp.Việc tham quan các doanh nghiệp đầu ngành có thiết bị máy móc hiện đại sẽ giúp cho công nhân tiếp cận với công nghệ sản xuất tiên tiến, đồng thời học hỏi được cách vận hành máy móc, cách tổ chức sản xuất khoa học. Việc thực hiện theo hình thức này có thể tiến hành vào một thời gian bất kỳ trong năm, không kéo dài và số lượng người tham gia không lớn, thông thường chỉ cần chọn một số người tiêu biểu. Tóm lại, các hình thức đào tạo trên còn phải được thực hiện đan xen, kết hợp nhằm tạo ra hiệu quả cao nhất cho hoạt động đào tạo của xí nghiệp 1.3. Phấn đấu giảm mức tiêu hao nguyên vậy liệu nhằm làm giảm giá thành sản phẩm Để giảm tỷ lệ tiêu hao nguyên vật liệu cho mỗi loại sản phẩm, nhằm giảm tỷ lệ hao hụt trong quá trình sản xuất thì xí nghiệp cần tiến hành đồng bộ những giải pháp sau: Thứ nhất: Xác định mức dự trữ nguyên vật liệu hợp lý, giảm chi phí vận chuyển từ kho đến nơi sản xuất. Trong số các nguyên vật liệu đầu vào của xí nghiệp thì các nguyên liệu như xăng, keo rất dễ bị bay hơi trong quá trình dự trữ. Do vậy, để giảm thiểu tối đa mức hao hụt nguyên vật liệu thì xí nghiệp cần phải xây dựng kế hoạnh dự trữ xăng, keo hợp lý nhất. Thứ hai: Xây dựng hệ thống định mức tiêu hao nguyên vật liệu tiên tiến: Sự tiêu tốn và lãng phí nguyên vật của xí nghiệp trong thời gian qua một phần là do hệ thống định mức xây dựng chưa sát với thực tế và các phân xưởng chưa tuân thủ nghiêm ngặt theo định mức tiêu hao nguyên vật liệu do phòng Mẫu và định mức đề ra. Để thực hiện tiết kiệm nguyên vật liệu thì trước tiên phòng Mẫu và định mức cần xây dựng lại hệ thống định mức trên cơ sở trình độ tay nghề của công nhân và mức độ hiện đại của máy móc thiết bị. Từ đó xây dựng một quy chế thưởng phạt nghiêm minh đối với thực hiện mức. Nếu như chuyền nào có mức tiêu hao nguyên vật liệu thấp hơn mức sẽ được hưởng 50% mức tiết kiệm đó. Hệ thống định mức cần được phân tích đánh giá và xây dựng lại 3 tháng một lần sao cho phù hợp với đặc điểm mỗi thời kỳ sản xuất kinh doanh. Thứ ba: Cần triệt để tận dụng thu hồi phế liệu phế phẩm. Đối với khâu cắt người công nhân cần phải tính toán cách đặt dao cắt sao cho số phế liệu là ít nhất. Đồng thời cần xem xét những mẩu phế liệu đó có thể tận dụng để tạo thành những chi tiết nhỏ hơn được không. 2. Kiến nghị Mặt hàng da giầy hiện nay là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đứng thứ 4 trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, mỗi năm đã thu về cho đất nước một khoản ngoại tệ lớn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Trong những năm tới Chính phủ cần chú trọng giải quyết một số khó khăn còn tồn tại để tạo điều kiện thuận lợi cho ngành Công nghiệp Giầy phát triển -Thứ nhất: Đề nghị Chính phủ và Bộ Công nghiệp hoàn thiện quy hoạch tổng thể ngành công nghiệp da giầy đến năm 2010. Trên cơ sở đó chỉ đạo các địa phương thực hiện đầu tư phát triển ngành da giầy theo đúng hướng và theo quy hoạch vùng, tạo điều kiện để ngành thực hiện các mục tiêu phát triển, tránh đầu tư kém hiệu quả. -Thứ hai: Để tránh sự phụ thuộc quá nhiều vào việc nhập nguyên phụ liệu sản xuất giầy của các doanh nghiệp giầy Việt Nam. Hiện nay Chính phủ cần đầu tư phát triển các cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu phục vụ cho ngành Giầy như sau: + Về thuộc da: Chính phủ thực hiện sự phối hợp giữa các ngành chăn nuôi và công nghiệp thực phẩm để sớm hình thành nghề chăn nuôi bò thịt, bò sữa ở các vùng sinh thái thích hợp, đầu tư kỹ thuật giết mổ, lột da và bảo quản da hiện đại để sau năm 2005 có được nguồn nguyên liệu đạt tiêu chuẩn quốc tế cung cấp cho ngành thuộc da trong cả nước về chất lượng, số lượng và giá cả thay thế da nhập khẩu. + Các loại nguyên liệu giả da + Các loại vật liệu làm đế giày + Các loại khuôn mẫu, phụ tùng, phụ liệu Nhờ có đẩy mạnh sản xuất nguyên liệu trong nước, tạo nguồn nguyên liệu thay thế nhập khẩu, tạo điều kiện cung cấp cho các doanh nghiệp sản xuất giầy nguồn nguyên liệu giá rẻ, chất lượng cao, số lượng ổn định giúp cho doanh nghiệp chủ động trong sản xuất kinh doanh hơn. -Thứ ba: Tiềm lực về vốn của các doanh nghiệp giày Việt Nam hiện nay vẫn còn yếu. Để cho doanh nghiệp có khả năng mở rộng tiềm lực vốn, Chính phủ nên hình thành một nguồn vốn ưu đãi và quy định thời gian vay vốn đầu tư đối với ngành công nghiệp giày từ 7 –10 năm. Chỉ với điều kiện như trên thì các doanh nghiệp giày mới có khả năng hoàn trả vốn vay mà không phải chiếm dụng từ các nguồn khác. Nhờ vậy các doanh nghiệp mới mạnh dạn vay vốn, đầu tư các thiết bị máy móc hiện đại để dần dần nâng cao vị trí của ngành công nghiệp giày Việt Nam trên thị trường quốc tế. -Thứ tư: Để phát triển khoa học công nghệ và nguồn nhân lực phục vụ cho công nghiệp da giầy, trong những năm tới nên mở riêng một trường đào tạo kỹ sư chuyên ngành da giầy. Cung cấp cho các cán bộ trong ngành da giầy những kiến thức cơ bản và mới nhất về khoa học công nghệ ngành da giầy. Dần dần tiến tới Việt Nam sẽ tự chế tạo ra các máy móc thiết bị sản xuất Giầy. - Thứ năm: Chính phủ cần hoàn thiện hơn nữa cơ chế xuất nhập khẩu, đưa ra các chính sách xuất nhập khẩu đồng bộ và sát với thực tế hơn. Kết luận Sau gần 10 năm kể từ ngày thành lập, có thể nói Xí nghiệp giầy nữ Niệm Nghĩa đã đạt được những kết quả đáng khích lệ: Doanh thu tăng đều qua các năm, đời sống vật chất của cán bộ công nhân viên được nâng cao, luôn hoàn thành tốt các nghĩa vụ với nhà nước.... Tuy nhiên, xí nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần khắc phục. Đề tài: “ Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp giầy nữ Niệm Nghĩa- Hải Phòng” đã được tôi lựa chọn trên cơ sở thực tế tình hình hoạt động của xí nghiệp với mong muốn phần nào giải quyết những vướng mắc hiện có trong công tác tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ của cô giáo Ths. Nguyễn Thu Hà cùng toàn bộ các cô, các chú, các anh chị trong xí nghiệp đã giúp đỡ tôi hoàn thành Luận văn này. Mặc dù có nhiều cố gắng, song do khả năng bản thân còn hạn chế nên Luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Do vậy, rất mong sự đóng góp của các thầy cô và các bạn. Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn!. Tài liệu tham khảo 1. Phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nguyễn Văn Phúc - NXB Thống kê 2. Quản trị sản xuất tác nghiệp - Đại học Kinh tế Quốc dân 3. Giáo trình tài chính doanh nghiệp - Trường đại học Quản lý và Kinh doanh 4. Các tài liệu liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp giầy nữ Niệm Nghĩa - Hải Phòng mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36199.doc
Tài liệu liên quan