+ Áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm: Các doanh nghiệp cần đẩy mạnh việc áp dụng khoa học công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm từ đó để tạo uy tín, mở rộng thị trường và xuất khẩu với giá cao, nhằm hạn chế sự thua thiệt về giá so với các đối thủ cạnh tranh chủ yếu Áp dụng các tiến bộ khoa học chủ yếu là vào khâu thu hoạch, bảo quản với những công nghệ tiên tiến hiện đại là một trong những nhân tố chủ yếu nâng cao chất lượng sản phẩm nông sản Việt Nam. Đồng thời, cần tập trung cho công tác nghiên cứu lai tạo giống tạo ra những giống có năng suất, chất lượng cao phục vụ xuất khẩu. Cụ thể, trong thời gian tới cần tạo ra bước chuyển biến mới để đáp ứng yêu cầu của chiến lược cạnh tranh nông sản trên thị trường Mỹ như sau:
Thứ nhất, Các doanh nghiệp nên xây dựng các tiêu chuẩn quản lý chất lượng: Thực tế cho thấy, thị trường Hoa Kỳ là một thị trường có yêu cầu về chất lượng rất cao. Vì vậy các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam cần áp dụng xây dựng các tiêu chuẩn về quản lý chất lượng để được cấp giấy chứng nhận ISO 9000, 9001. tiến tới đạt tiêu chuẩn về quản lý môi trường ISO 14000, một tiêu chuẩn được nhiều chuyên gia kinh tế đánh giá là không thể thiếu nếu muốn xuất khẩu vào thị trường Mỹ ở thế kỷ 21. Có thể nói ISO là giấy thông hành để các doanh nghiệp Việt Nam có thể được công nhận, có thể xâm nhập vào các thị trường lớn trên thế giới và có điều kiện cạnh tranh với sản phẩm của các nước khác.
Thứ hai, Huy động vốn đầu tư đổi mới công nghệ chế biến bảo quản: Chúng ta cần huy động vốn đầu tư để đổi mới công nghệ chế biến bảo quản còn lạc hậu trong sản xuất hàng nông sản ở Việt Nam từ nhiều nguồn khác nhau: Vốn đấu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước, vốn đầu tư từ nguồn vốn tự có của nhân dân, đầu tư từ vốn tín dụng, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
104 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1677 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
am cũng đã chiếm được một vị trí nhất định, thị phần mà hàng hoá nông sản của chúng ta đạt được chưa lớn so với nhu cầu của thị trường Mỹ cũng như một số đối thủ cạnh tranh khác, nhưng so sánh giữa các năm thì thị phần của Việt Nam trên thị trường Mỹ đã được nâng lên.
Sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam ngày càng có xu hướng được nâng cao. Các doanh nghiệp Việt Nam đang dần dần đứng vững trên thị trường Mỹ và từng bước thâm nhập sâu hơn vào thị trường này. Cụ thể như chúng ta đã phân tích ở trên, xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang Mỹ liên tục tăng qua các năm cả về giá trị lẫn khối lượng, đặc biệt là từ năm 1994 (năm Mỹ xoá bỏ cấm vận đối với Việt Nam). Mấy năm gần đây, tuy giá trị xuất khẩu của một số nông sản có tốc độ tăng trưởng không cao, thậm chí có mặt hàng còn giảm đi, nhưng về mặt sản lượng thì vẫn tăng. Mặt khác nếu như trước cấm vận, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ có thể đưa hàng hoá vào thị trường Mỹ thông qua một bước trung gian thì trong giai đoạn tiếp theo đã có nhiều hình thức như bán hàng trực tiếp cho các nhà nhập khẩu Mỹ, tiến hành liên doanh, liên kết nước ngoài, thực hiện gia công cho các dơn đặt hàng của Mỹ...
Trước hết về mặt giá cả. Mặc dù Việt Nam chưa được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN) - hàng hoá của Việt Nam vào Mỹ phải chịu mức thuế suất rất cao, nhưng hàng nông sản Việt Nam vẫn đảm bảo được mức giá cạnh tranh trên thị trường.
Về mặt chất lượng, hàng nông sản Việt Nam không ngừng được nâng cao dần qua các năm, và có những chuyển biến trong chuyển đổi dần cơ cấu xuất khẩu từ xuất khẩu hàng nông sản ở dạng thô sang xuất khẩu các sản phẩm từ nông sản đã được chế biến, mặc dù chất lượng hàng hoá nông sản xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn thua kém hơn nhiều so với các xuất khẩu nông sản sang Mỹ, nhưng để đạt được như vậy là cả một sự nỗ lực phấn đấu của toàn ngành và cả của Nhà nước Việt Nam.
Mấy năm gần đây, việc đầu tư, xây dựng các nhà máy chế biến ở Việt Nam cũng đã được quan tâm nhiều hơn, chúng ta cũng đã giành được một số kết quả đáng khích lệ. Đặc biệt năng suất về sản xuất một số mặt hàng nông sản ở Việt Nam cao hơn so với nhiều đối thủ cạnh tranh, sản lượng sản xuất lớn... Điều này góp phần tạo ưu thế để tăng sức cạnh tranh của hàng hoá nông sản Việt Nam trên thị trường Quốc tế nói chung cũng như thị trường Mỹ nói riêng.
Nhìn chung, sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ đang được nâng cao dần và có triển vọng lớn.
2.2. Những tồn tại trong việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ.
Trong thời gian qua, nhóm hàng nông sản đã có những bước tiến quan trọng trong cạnh tranh trên thị trường Mỹ, tuy nhiên chúng còn tồn tại những vấn đề nổi cộm cần được giải quyết:
Mặc dù có sự gia tăng về số lượng và giá trị của hàng nông sản xuất khẩu vào Mỹ nhưng nhìn chung quy mô còn nhỏ bé, chưa tương xứng với khả năng của Việt Nam và và quy mô của thị trường Mỹ. Hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam chỉ chiếm một phần rất nhỏ so với tổng nhu cầu của Hoa Kỳ.
Khả năng cạnh tranh của nông sản chưa cao, chất lượng thấp, giá thành cao, mẫu mã, chủng loại đơn điệu chưa theo sát nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Trong một số trường hợp không đáp ứng được các tiêu chẩn kiểm định ngặt nghèo của Mỹ nên đã bị tái xuất hoặc chưa hấp dẫn được người tiêu dùng. Hàng nông sản Việt Nam xuất sang Mỹ chủ yếu là các mặt hàng thô, mức độ gia công chế biến trong nước thấp, các mặt hàng sử dụng nhiều lao động, hàm lượng công nghệ, chất xám thấp. Do đó lãng phí tài nguyên thiên nhiên mà giá cả lại thấp. Các mặt hàng này lại ít được đa dạng, chủ yếu tập trung vào một số ít mặt hàng như: cà phê, gạo, cao su, hạt điều, chè... (đã trình bày ở trên). Việc đổi mới kiểu dáng, chủng loại sản phẩm ít được các doanh nghiệp quan tâm, chú trọng (Chủ yếu là xuất cái mình có mà chưa đi trước tìm hiểu cái thị trường cần). Giá trị và tỷ trọng xuất khẩu chưa thực sự ổn định theo thời gian. Đặc biệt là về giá trị, mấy năm gần đây do giá cả trên thị trường thế giới giảm mạnh làm cho giá xuất khẩu của ta bị giảm, như đối với một số mặt hàng nông sản: Hạt tiêu giảm 39,3%; cà phê 38%; hạt điều 28,3%; gạo 13,7% do đó lượng xuất khẩu tăng nhưng lại giảm về giá trị hoặc kim ngạch xuất khẩu tăng nhưng lại tăng chậm hơn lượng hàng xuất khẩu.
Như vậy, những điểm yếu trong sức cạnh tranh của hàng hoá nông sản xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là về mặt chất lượng. Chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam thấp, và thấp hơn nhiều so với các đối thủ cạnh tranh, chúng ta chưa có được những mặt hàng có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu khắt khe của thị trường Mỹ như nhiều đối thủ cạnh tranh khác, chất lượng thấp làm cho giá cả thấp, từ đó làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá nông sản xuất khẩu Việt Nam. Hơn nữa, mẫu mã sản phẩm cũng là một điểm yếu làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá mà Việt Nam vẫn chưa khắc phục được (mẫu mã đơn điệu, bao bì kém hấp dẫn...).
Bên cạnh đó, quá trình cạnh tranh trên thị trường Mỹ còn bộc lộ ra những điểm còn yếu kém của các doanh nghiệp Việt Nam. Đó là quy mô về vốn, năng lực sản xuất, khả năng thu gom hàng của các doanh nghiệp còn nhỏ, thấp và khả năng liên kết giữa các doanh nghiệp còn kém nên khó đáp ứng được các đơn đặt hàng của các doanh nghiệp Mỹ - vốn luôn lớn về số lượng lại đòi hỏi thời gian giao hàng rất ngắn. Hơn nữa các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm kinh doanh quốc tế, thiếu thông tin về thị trường, uy tín chưa cao do đó hoạt động xuất khẩu hay gặp phải các trường hợp bị ép giá, giao hàng không đúng thời hạn, không đúng thời điểm (mùa vụ), tính cạnh tranh kém.
Một vấn đề nữa là các biện pháp thâm nhập thị trường của các doanh nghiệp còn hạn chế, chưa đa dạng, còn thụ động, nhiều trường hợp vẫn phải thông qua trung gian do đó làm giảm lợi nhuận. Việc thành lập các chi nhánh bán hàng, sử dụng các đại lý bán hàng, thiết lập mạng lưới phân phối riêng cho doanh nghiệp tại thị trường Mỹ còn hạn chế.
Nói tóm lại, xét về tổng thể, tuy đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ nhưng hoạt động xuất khẩu nông sản vẫn còn khá nhiều mặt tồn tại và bất cập. Những tồn tại và bất cập này đều có mối liên quan chặt chẽ với nhau, vừa là nguyên nhân nhưng đôi khi cũng lại vừa là hậu quả của nhau, dòi hỏi phải được xử lý một cách dứt khoát và có hệ thống trong thời gian tới.
2.3. Nguyên nhân của các tồn tại.
a. Nguyên nhân chủ quan:
Trước hết, do chất lượng và công nghệ sản xuất - chế biến nông sản xuất khẩu còn thấp, dẫn đến nông sản của ta khó có thể cạnh tranh được với các nước khác trên thị trường Mỹ như Thái Lan, Braxin, Colombia... Chất lượng sản phẩm là vấn đề có tính quyết định, là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mức độ thoả mãn nhu cầu của hàng hoá về quy cách, phẩm chất, kiểu dáng, sở thích và tập quán tiêu dùng... Vấn đề chất lượng và công nghệ là nội dung cốt lõi của cạnh tranh và suy đến cùng cạnh tranh về chất lượng thực chất là cạnh tranh về kỹ thuật và công nghệ chế biến. ở Việt Nam, công việc chế biến còn nhiều bất cập, các khâu sản xuất và chế biến chưa thật sự ăn khớp với nhau, chưa đồng bộ. Nguyên nhân là do chúng ta bị phụ thuộc quá nhiều vào đầu ra, sản xuất mang tính mùa vụ chưa chủ động. Chúng ta chưa chủ động được nguồn hàng (cả đầu vào cũng như đầu ra), do đó mà các doanh nghiệp Việt Nam thường bị ép cấp, ép giá gây thua thiệt cho phía Việt Nam, hơn nữa khâu chế biến của Việt Nam còn lạc hậu, chưa tạo ra được những sản phẩm có chất lượng cao. Vì vậy, sản phẩm thô và sơ chế cũng như các sản phẩm đã được chế biến như sản phẩm nông sản xuất khẩu của Việt Nam mang tính đáp ứng thấp, mẫu mã đơn điệu, bao bì kém hấp dẫn đối với người tiêu dùng và do đó khả năng cạnh tranh còn khá thấp.
Bên cạnh đó, trong giai đoạn đầu của quá trình đổi mới, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu thông qua các trung gian do Việt Nam chưa tạo dựng được cho mình một "hình ảnh" cao trong khu vực, cả trên thế giới và đối với thị trường Mỹ, từ đó mà các mặt hàng nông sản của Việt Nam trước khi đem bán trên thị trường Mỹ đều phải qua các bước trung gian, tức là phải nhờ đến "hình ảnh quốc gia" của một nước thứ ba (mà nước này có vị thế cao hơn Việt Nam trên trường quốc tế. Từ trước đến nay Việt Nam thường xuất khẩu qua trung gian là Singapore). Điều này làm cho lợi nhuận bán hàng bị chia sẻ rất nhiều, đưa đến thua thiệt cho phía Việt Nam.
Một lý do nữa là, do sự yếu kém của chúng ta trong công tác tổ chức thông tin: chưa kịp thời, thiếu đồng bộ, chất lượng không cao. Điều này làm cho người nông dân không nắm bắt được nhu cầu của thị trường, thông tin hoàn toàn sai lệch dẫn dến sự thiệt thòi cho bản thân họ và cho cả quốc gia (bạn hàng và nước có nhu cầu không nắm được thông tin về ta).
Thêm vào đó, cũng còn lý do bản thân các doanh nghiệp chưa năng động, sáng tạo, chưa chủ động trong việc tìm cách thích ứng với thị trường, chưa xây dựng được cho mình một chiến lược phát triển dài hạn cùng với các biện pháp khả thi. Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn thiếu hiểu biết về môi trường kinh doanh của Mỹ, thiếu các thông tin về giá cả, nhu cầu của người tiêu dùng, về các đối tác có thể hợp tác... dẫn đến chậm đổi mới về mẫu mã, hình thức, các hình thức marketing chưa phong phú, chưa phù hợp...
b. Nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất, do lịch sử quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Mỹ nên trong một thời gian dài Việt Nam không có quan hệ kinh tế với Mỹ. Do đó các doanh nghiệp Việt Nam bỡ ngỡ trước một thị trường tương đối mới mẻ như Mỹ với sự cạnh tranh gay gắt, trình độ và tốc độ phát triển cao, với môi trường luật pháp phức tạp, khắt khe và đa dạng vào bậc nhất thế giới. Cũng do lịch sử quan hệ giữa hai nước, cho đến nay Việt Nam vẫn chưa được hưởng quy chế Tối huệ quốc (MFN) trong quan hệ thương mại với Mỹ. Đây là một cản trở không nhỏ đối với hàng hoá của Việt Nam bởi lẽ thuế suất hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ - như đã trình bày ở phần trên - có sự chênh lệch rất lớn giữa có và không có MFN. Từ trước đến nay, do Việt Nam chưa được hưởng quy chế tối huệ quốc nên hàng hoá của Việt Nam nhập khẩu vào Mỹ sẽ phải chịu mức thuế là 40%. Tuy nhiên đến nay chúng ta đã được hưởng quy chế này - khi hiệp định thương mại song phương có hiệu lực ngày 10/12/2001, thì thuế suất giảm xuống chỉ còn 3%.
Thứ hai, do khả năng về vốn, quản lý, kinh nghiệm kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp sau một thời gian dài hoạt động trong cơ chế bao cấp. Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn ít hiểu biết về luật pháp quốc tế, về kỹ thuật cũng như kinh nghiệm kinh doanh quốc tế, vẫn chưa làm quen được với một thị trường lớn, hiện đại, đa dạng và cạnh tranh gay gắt, do nước ta mới chuyển sang nền kinh tế thị trường hơn một thập kỷ nay, trong khi đó Mỹ đã phát triển trước chúng ta từ lâu.
Thứ ba, hoạt động của các cơ quan chức năng thường thiếu sự kết hợp hài hoà, thêm vào đó cho đến nay chúng ta vẫn còn thiếu một tổ chức chuyên trách hỗ trợ xuất khẩu. Về thủ tục xuất khẩu, tuy đã có sự cải tiến song vẫn bị coi là rườm rà, phức tạp, thiếu rõ ràng cùng với Bảng thuế xuất khẩu dàn trải, khó thực hiện là cản trở không nhỏ với hoạt động xuất khẩu.
Thứ tư, do sự biến động phức tạp, sự lên xuống thất thường của giá nông sản thế giới kéo theo sự sụt giảm giá trong nước đối với một số nông sản chính như cà phê, cao su, gạo, nên giá trị tăng thêm của nông sản không tương xứng với mức tăng sản lượng. Trong khi dó, khả năng tài chính trong nước lại không đủ lực để can thiệp vào sự thay đổi giá vì vậy đã dẫn đến việc xuất khẩu nông sản gặp rất nhiều khó khăn, chỉ thu được khối lượng ngoại tệ ít hơn rất nhiều so với kế hoạch.
Cuối cùng, có thể nói đến đó là mặc dù nông sản là một trong những mặt hàng chủ lực để phục vụ đời sống xã hội và xuất khẩu của Việt Nam nhưng từ nhiều năm nay, mặt hàng nông sản được coi là một loại sản phẩm bấp bênh nhất vì chịu rất nhiều rủi ro như: dễ bị thiên tai, địch hoạ, sinh lời ít, thu hồi vốn thấp... Đặc biệt là vấn đề thời tiết diễn biến phức tạp, có thể năm nay được mùa nhưng sang năm khác lại có thể mất mùa, rất khó lường trước được những sự rủi ro này. Vì vậy, việc tạo nguồn hàng chưa thật ổn định, nhiều khi không có hàng để xuất khẩu mà chỉ đủ tiêu dùng trong nước.
Tóm lại, nhận thức đầy đủ những hạn chế cũng như thành tựu trong cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng để các doanh nghiệp cũng như Nhà nước Việt Nam từ đó mà đưa ra được các chiến lược, chính sách và giải pháp nhằm ngày càng nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ.
CHƯƠNG III:
MộT Số GIảI PHáP Và KIếN NGHị NHằM NÂNG CAO SứC CạNH TRANH CủA HàNG NôNG SảN Việt Nam TRÊN thị trường Mỹ
I: Dự BáO NHU CầU hàng nông sản của Mỹ và triển vọng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam:
1. Tình hình cung hàng hoá nông sản trên thị trường thế giới.
Hiện nay, trên thị trường thế giới sản lượng nông sản có tốc độ tăng bình quân cao hơn chút ít so với tốc độ tăng dân số thế giới, trong khi tốc độ tăng tiêu thụ bình quân lại thấp hơn so với tốc độ tăng dân số. Điều này có nghĩa là tiêu thụ nông sản bình quân đầu người có xu hướng giảm và mức dự trữ nông sản sẽ tăng lên. Do đó, triển vọng buôn bán nông sản trên thị trường thế giới chỉ tăng bình quân rất nhỏ (khoảng 1%/năm).
a. Đối với mặt hàng gạo:
Bất chấp triển vọng chung của nhóm hàng như nêu trên, sản xuất, tiêu thụ và xuất nhập khẩu gạo trên thị trường thế giới đều tăng với tốc độ cao và đặc biệt là tốc độ tăng khối lượng xuất nhập khẩu gạo tăng cao hơn tốc độ tăng của sản xuất và tiêu thụ.
Xét về tiềm năng và xu thế, trong vòng 10 năm tới thị trường xuất khẩu gạo thế giới sẽ vẫn bị chi phối áp đảo bởi 8 nước xuất khẩu gạo gồm: Thái Lan, Mỹ, ấn Độ, Trung Quốc, Pakistan, Mianma, Campuchia, Việt Nam và Việt Nam sẽ phải cạnh tranh chủ yếu trong xuất khẩu gạo với 7 nước này.
Bảng 12: Các nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới hiện nay.
Đơn vị: Nghìn tấn
Nước
1991
1995
1999
Tốc độ tăng năm 1991-1999 (%)
Thái Lan
Việt Nam
Trung Quốc
ấn Độ
Mỹ
Pakistan
Myanma
Campuchia
Tổng
5.151,4
1.050
1.034,2
580,4
2.230
1.511,8
198,8
2,9
11.759,5
6.198
2.308,2
235,7
551,2
2.528
1.852,3
392,5
14.065,9
6.250
4.500
2.900
2.850
2.550
2.000
784
80
21.914
1,7
31,4
18,3
35,6
0,5
16,7
28,9
254
8,6
Các nước khác
Toàn cầu
4.327,1
16.086,6
9.237,2
23.303,1
1.866
23.780
-5,7
5,8
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 284 - Tháng 1/2002
Theo dự báo của USDA (Văn phòng Nông nghiệp Mỹ), sản lượng gạo thế giới đến năm 2009 sẽ đạt 429 triệu tấn. Sản lượng gạo tăng chủ yếu bắt nguồn từ tăng năng suất do áp dụng giống lúa mới, chống chịu sâu bệnh và giống lúa lai. Năng suất gạo ước tính tăng 2,1%/năm giai đoạn 1999 - 2009, tăng hơn 6% so với năm kỷ lục 1998.
Khả năng cung gạo chất lượng cao Japonica giảm, sẽ dẫn tới cầu lớn hơn cung trên thị trường gạo phẩm chất cao, do đó giá gạo loại này sẽ tăng mạnh. Theo USDA, giá gạo có xu hướng tăng trong suốt giai đoạn 1999 - 2009, nhưng nếu lấy năm 1990 làm gốc thì giá gạo lại giảm. Giá gạo Mỹ năm 1997 là 414 USD/tấn và Thái Lan 5% tấm là 352USD/tấn, đến năm 2002 dự báo sẽ giảm xuống còn 391,2 USD/tấn và 317,4 USD/tấn. Dự báo năm 2009 giá gạo Mỹ tăng lên 447,2 USD/tấn và gạo 5% tấm Thái Lan tăng lên 371,4 USD/tấn.
Thái Lan, Việt Nam, Mỹ và ấn Độ vẫn sẽ là các nước xuất khẩu gạo chính trên thế giới. Thái Lan tiếp tục dẫn đầu song sẽ bị mất thị phần cho Việt Nam. Xuất khẩu gạo dự báo sẽ tăng lên ở Pakistan, Myanmar, Campuchia, và các nước Châu Mỹ Latinh, trong khi đó Mỹ và ấn Độ sẽ giảm xuất khẩu. Trung Quốc vẫn xuất khẩu gạo song khối lượng sẽ giảm xuống.
Bảng 13: Dự báo các kịch bản (KB) xuất khẩu gạo của thế giới
và Việt Nam thời kỳ 2001 - 2010.
Đơn vị: Triệu tấn
Nước
2001 - 2005
2006 - 2010
KB.I
KB.II
KB.I
KB.II
Thái Lan
Việt Nam
Trung Quốc
ấn Độ
Mỹ
Pakistan
Myanma
Campuchia
Các nước khác
5,5
5,2
3,5
3,5
2,3
2,5
2
1
3
6
4
3,5
3,5
2,3
3
2
1,2
3
6
6,2
4
4
2
3
3
1,5
3
5,5
4,8
3,7
3,7
2
4
4
2
3
Toàn cầu
28,5
28,5
32,7
32,7
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 284 - Tháng 1/2002
Trước nhu cầu thị trường thế giới vẫn còn lớn và vươn lên của các nước giàu tiềm năng sản xuất lúa gạo đồng thời có lợi thế trong cạnh tranh xuất khẩu, Việt Nam đang đứng trước thời kỳ mới vừa có cơ hội vừa có thách thức. Với xu thế phát triển của đất nước, tương quan với tình hình thị trường và các nước cạnh tranh xuất khẩu gạo bên ngoài có thể nhận định chung: Việt Nam vẫn là một trong các nước có nhiều khả năng cùng với Thái Lan nằm trong nhóm 4 nước xuất khẩu gạo lớn nhất trong vòng 10 năm tới.
b. Đối với mặt hàng cà phê:
Giá cà phê trên thị trường thế giới vẫn tiếp tục giảm xuống mức thấp mới. Theo tổ chức cà phê thế giới (ICO) so với cùng kỳ năm 2000 giá cà phê các loại hiện đã giảm 39 - 44% và là mức thấp nhất kể từ tháng 6/1993.
Nguồn cung dư thừa vẫn là yếu tố gây bất lợi chủ yếu tới giá cà phê. Thêm vào đó một số nguồn tin cho rằng kế hoạch giữ lại cà phê của ACPC đã thất bại nên một số nước đã rút khỏi chương trình, trong đó có ấn Độ và Inđônesia. Braxin cũng có thể sẽ không tiếp tục tham gia kế hoạch này. Điều này cũng có nghĩa là cà phê sẽ tiếp tục được bán ra và lại càng làm giá giảm nhanh xuống mức thấp mới.
Theo báo cáo của ICO, tháng 2/2001 xuất khẩu cà phê thế giới tăng 1,55% so với cùng kỳ năm 2001. Trong đó xuất khẩu tăng kỷ lục ở Việt Nam và Uganda, đặc biệt trong hai tháng đầu năm 2001. Việt Nam đã xuất khẩu vượt Braxin, trở thành nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu cà phê.
Dự đoán sản lượng cà phê thế giới sẽ tăng bình quân 1,53%/năm, trong khi khối lượng tiêu thụ tăng thấp hơn với mức bình quân 1,39%/năm. Tuy nhiên, ảnh hưởng của vòng đàm phán Uruguay sẽ dẫn đến tăng nhu cầu nhập khẩu và nhịp độ xuất khẩu cà phê cao hơn so với nhịp độ tăng của sản xuất và tiêu thụ. Theo số liệu dự báo, xuất khẩu cà phê Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 sẽ tăng bình quân 2,77 - 3,8 %/năm, nghĩa là ở mức tăng gấp đôi so với thế giới. Trong điều kiện buôn bán quốc tế thuận lợi, Việt Nam vẫn có thể đạt được nhịp độ tăng khối lượng xuất khẩu, nhưng cần phải duy trì tốt các thị trường xuất khẩu đã có và mở rộng các thị trường mới, nâng cao chất lượng cà phê và tạo được danh tiếng của sản phẩm trên thị trường thế giới.
Sản lượng cà phê thế giới tăng 2,7%/năm giai đoạn 1994 - 2005. Theo FAO sản lượng cà phê toàn cầu dự tính đạt 7,31 triệu tấn vào năm 2005 so với 5,43 triệu tấn thời gian 1993 - 1995. Khu vực sản xuất cà phê lớn nhất thế giới là Châu Mỹ Latinh và vùng Caribê, sản lượng của các nước thuộc Châu Mỹ Latinh và vùng biển Caribee ước đạt 4,78 triệu tấn vào năm 2005. Trong đó, Braxin - nước sản xuất và xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới đạt sản lượng 2,3 triệu tấn năm 2005. Sản lượng cà phê dự tính sẽ tăng mạnh nhất ở các nước Châu á với tốc độ tăng 3,31%/năm giai đoạn 1994 - 2005. Dự kiến đến năm 2005 giá cà phê của Châu á đạt 1,36 triệu tấn. Trong đó, Việt Nam tăng 7,9%/năm, Inđônêsia tăng 1%/năm, ấn Độ tăng 1,9%/năm.
Theo dự báo của FAO, thị trường cà phê thế giới có xu hướng cung cao hơn cầu nên giá khó có thể tăng cao. Ngân hàng Thế giới dự báo đến năm 2005 giá cà phê chè là 2.540 USD/tấn và cà phê vối là 1.860 USD/tấn. Theo ước tính của FAO, xuất khẩu cà phê đến năm 2005 đạt 5,7 triệu tấn. Châu Mỹ Latinh và vùng biển Câribê là khu vực xuất khẩu lớn nhất, năm 2005 dự báo chiếm 66% khối lượng xuất khẩu toàn thế giới. Châu Phi chiếm 16%, Châu á tăng xuất khẩu, chiếm 17% tổng khối lượng xuất khẩu cà phê. Tuy nhiên, trong ngắn hạn, các nước này sẽ tạm trữ lượng cà phê xuất khẩu nhằm tăng giá cà phê trên thế giới.
c. Đối với mặt hàng cao su:
Dự báo giai đoạn 1994 - 2005 tốc độ tăng sản lượng cao su sẽ giảm từ mức 4,5% giai đoạn 1984 - 1994, xuống còn 3,4%/năm và đạt 7,76 triệu tấn vào năm 2005. Đông á sẽ tiếp tục chi phối sản lượng cao su toàn cầu. Thái Lan sẽ giảm tốc độ tăng sản lượng từ 8%/năm giai đoạn 1984 - 1994 xuống còn 5%/năm trong giai đoạn 1994 - 2005, đạt 2,65 triệu tấn năm 2005 và vẫn là nước xuất khẩu cao su lớn nhất thế giới. Sản lượng của Trung Quốc, ấn Độ và Philippine tiếp tục tăng song tốc độ sẽ giảm xuống do chịu sức ép cạnh tranh của các loại cây trồng khác và giới hạn về đất. Sản lượng của Inđônêsia đạt 1,9 triệu tấn và Việt Nam đạt 200 nghìn tấn voà năm 2005. Diện tích cao su của Malaysia sẽ là 900 nghìn tấn vào năm 2005, chỉ bằng 2/3 so với những năm của thập kỷ 80. Điều này sẽ dẫn đến giá cao su trong những năm tới sẽ tăng lên do nhu cầu tiêu thụ cao su trên thế giới tăng.
Thái Lan và Inđônêsia sẽ tiếp tục thống trị thị trường xuất khẩu cao su, trong khi xuất khẩu của Malayxia sẽ có xu hướng giảm. Đến năm 2005, ba nước này sẽ xuất khẩu 4,6 triệu tấn cao su, chiếm 86% thị trường xuất khẩu thế giới. Châu Phi, Mỹ Latinh và Đông á sẽ tiếp tục tăng xuất khẩu cao su, trong đó Việt Nam sẽ đạt tốc độ tăng nhanh nhất. Dự báo do sản lượng tăng mạnh nên đến năm 2005, Việt Nam sẽ xuất khẩu 150 nghìn tấn. Xuất khẩu của Srilanca sẽ giảm.
d. Đối với mặt hàng chè:
Sản lượng chè thế giới tăng hơn dự kiến trong năm 2000 về mùa vụ ở nhiều nước sản xuất tốt (trừ Kênia), đặc biệt Srilanka đã đạt được mức sản lượng cao kỷ lục cũng giống như ấn Độ. Trong khi đó, mùa vụ đã được cải thiện ở Việt Nam và Achentina. Theo “Dự báo của EIU về thị trường chè thế giới” (Bộ Thương mại), dự đoán sản lượng chè thế giới vẫn trên đà tăng lên và nhiều nước - không chỉ ấn Độ, Srilanka và một số nước cung cấp chè lớn ở Đông Phi mà còn ở những nước nhập khẩu lớn như Pakistan, Iran, Nêpan và Etiopia - sản lượng sẽ tăng trưởng mạnh trong tương lai. Vì vậy, đạt sản lượng kỷ lục sẽ là điều chắc chắn nếu thời tiết ổn định.
Từ bảng dưới đây (Bảng 13) cho thấy, cung của mặt hàng chè trên thế giới có xu hướng vượt cầu, năm 2001 cung vượt cầu là 60 nghìn USD và dự báo đến 2002 cung sẽ vượt cầu là 69 nghìn USD, năm 2003 cung cũng sẽ vượt cầu là 57 nghìn USD. Do cung vượt cầu vào những năm tới vì vậy giá chè không thể ở mức cao như mức cao nhất kể từ 13 năm qua vào đầu năm 1998.
Bảng 14: Dự báo về cung và cầu Chè trên thế giới.
Đơn vị: Nghìn tấn
Năm
1999
2000
2001
2002
2003
Cầu
2.005
2.023
2.072
2.116
2.158
So sánh (%)
-1,6
0,9
2,4
2,1
2,0
Cung
1.992
2.100
2.132
2.185
2.215
ấn Độ
806
870
870
890
890
Srilanca
315
320
320
320
320
Kênia
245
260
280
300
Trung Quốc
200
200
200
200
200
Inđônêxia
165
170
170
170
170
Các nước khác
288
300
312
325
335
So sánh (%)
-7,3
5,4
1,5
2,5
1,4
Cán cân cung cầu
-1,3
77
60
69
57
Nguồn: Trung tâm thông tin thương mại, Bộ Thương mại
Theo FAO, sản lượng chè thế giới sẽ tăng từ 1,97 triệu tấn năm 1994 lên 2,7 triệu tấn vào năm 2005, với tỷ lệ 2,8%/năm. ấn Độ, nước sản xuất chè lớn nhất có tốc độ tăng giai đoạn 1994 - 2005. Srilanka sẽ đạt 285 nghìn tấn. Sản lượng chè cũng tăng ở hầu hết các nước sản xuất chè chính.
Dự đoán xuất khẩu chè tăng 2,5%/năm giai đoạn 1994 - 2005, đạt 1,292 triệu tấn vào năm 2005, trong đó Trung Quốc, ấn Độ, Inđônêxia, Srilanca và Kênia chiếm 78% lượng xuất. Xuất khẩu chè của các nước Bănglađet, Malawi, Tanzania, Thổ Nhĩ Kỳ và Zimbabuê sẽ tăng nhanh. Srilanka - nước xuất khẩu chè lớn nhất thế giới sẽ xuất khẩu 263 nghìn tấn chè năm 2005, tăng 1,6%/năm. Trong khi đó, dự báo xuất khẩu sẽ tăng mạnh ở các nước Châu Phi - đến năm 2005 xuất khẩu chè của Châu Phi dự kiến sẽ đạt 401 nghìn tấn, tăng 2,8%/năm giai đoạn 1994 - 2005. Các thị trường chè tiềm năng có thuế quan rất cao, giảm thuế nhập ở các nước này sẽ tăng tiêu thụ chè thế giới. Theo Ngân hàng thế giới, giá chè năm 2005 sẽ tăng lên 1.790 USD/tấn.
e. Đối với mặt hàng điều:
Tình hình thị trường điều thế giới đang rất thuận lợi cho các nước trồng và xuất khẩu sản phẩm điều. Nhu cầu tiêu thụ không ngừng tăng trong khi sản lượng thu hoạch ở hầu hết tất cả các nước trồng điều chủ yếu của thế giới gần như không thay đổi trong hai thập kỷ qua và dao động ở mức 500 - 600 nghìn tấn/năm. Do đó, giá điều có xu hướng nhích dần so với nhiều nông sản khác trên thị trường thế giới. Dự báo giá nhân điều trong thập kỷ tới, nhất là từ nay đến năm 2005 sẽ không dưới 4.500 USD/tấn.
Các nước sản xuất và xuất khẩu chính của thế giới là ấn Độ, Braxin, Việt Nam, Inđônêxia, Kênia... Trong đó ấn Độ là nước xuất khẩu điều nhân lớn nhất thế giới, dự báo năm 2005 chiếm thị phần khoảng 455 toàn thế giới. Việt Nam hiện nay là nước xuất khẩu điều lớn thứ ba trên thế giới (sau ấn Độ và Braxin), dự báo đến năm 2005 chiếm 25% thị phần thế giới.
Tóm lại, trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, hầu hết các mặt hàng nông sản trên thế giới đều có xu hướng thuận lợi, cung hàng nông sản trên thế giới theo dự báo sẽ tăng và vượt cầu nên tạo ra sự cạnh tranh quyết liệt về chất lượng và giá cả. Đối với Việt Nam, năm 2001 hầu hết các mặt hàng nông sản của Việt Nam như gạo, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, cao su... đều có khối lượng xuất khẩu khá, song do hầu hết giá các mặt hàng nông sản trên thế giới giảm nghiêm trọng và giảm mạnh ở các mặt hàng Việt Nam có khối lượng xuất khẩu lớn nên lợi nhuận không cao. Từ đó Việt Nam đã có cái nhìn thực tế hơn khi điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông - lâm nghiệp, giảm sản lượng một số mặt hàng nông sản thị trường thế giới đang dư thừa như gạo, cà phê và tăng cường những mặt hàng mới có sức cạnh tranh hơn.
Tuy nhiên, triển vọng đối với một số sản phẩm nông sản mà Việt Nam có thể xuất khẩu riêng sang thị trường Mỹ - là thị trường tiêu thụ nông sản lớn nhất trên thế giới lại có phần sáng sủa hơn.
2. Dự báo nhu cầu hàng nông sản của Mỹ và triển vọng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ.
Thị trường nội địa Mỹ có vị trí vô cùng quan trọng trong nền thương mại thế giới. Với thị trường nội địa khổng lồ, mức tiêu dùng cao của các tầng lớp dân cư, Mỹ có khả năng tác động mạnh đến các dòng hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu. Mức tăng nhập khẩu của Mỹ năm 2000 là 13% so với năm ngoái 1999. Trong năm 1999 nhập khẩu của Mỹ tăng gấp 4 lần xuất khẩu. Mặt khác tình trạng khủng hoảng tài chính của các nước Châu á đã góp phần làm tăng sản lượng nhập khẩu của Mỹ từ các nước chịu ảnh hưởng. Cụ thể từ đầu năm 1998 đến năm 1999, mức tăng xuất khẩu của các nước bị khủng hoảng tài chính (Inđônêxia, Hàn Quốc, Philipin và Thái Lan...) sang Mỹ chiếm 93% mức tăng xuất khẩu của các nước này nói chung. Thực tế trong vòng 10 năm qua Mỹ đã nhập khẩu tăng 92% kể từ khi nền kinh tế thoát khỏi sự suy thoái vào đầu năm 1990, và bước vào giai đoạn phát triển kéo dài.
Hàng năm Mỹ nhập khẩu khoảng hơn 100 tỷ USD hàng nông sản. Dự báo trong tương lai con số này còn cao hơn nữa. Nguyên nhân là do Mỹ là một nước công nghiệp hàng năm nhập khẩu các tư liệu sản xuất và hàng hoá phục vụ công nghiệp, nguyên vật liệu chiếm tới 50% hàng nhập khẩu của Mỹ, trong đó cao su cũng là một trong những mặt hàng thuộc nhóm hàng hoá này, vì vậy tiềm năng nhập khẩu cao su của Mỹ trong những năm tới vẫn là rất lớn.
Đối với mặt hàng cà phê, mỗi năm Mỹ nhập khẩu khối lượng hàng nông sản cà phê khoảng 4 tỷ USD. Người Mỹ có thói quen uống cà phê rất nhiều lần trong ngày bởi điều kiện kinh tế xã hội của nước Mỹ có nhịp sống cao, thần kinh luôn căng thẳng là lý do làm cho người Mỹ uống nhiều cà phê nhất trên thế giới. Thu hút giới trẻ chuyển từ đồ uống giải khát có ga sang uống cà phê là mục tiêu quan trọng của hiệp hội ca phê Mỹ (NCA) và kết quả khảo sát gần đây cho thấy 79% số thanh niên Mỹ uống cà phê. Số người uống cà phê ở Mỹ là 54% hay 110 triệu người, số người uống cà phê không thường xuyên là 51 triệu người, chỉ tăng 1 triệu và 3 triệu người tương ứng so với năm 1999. Theo khảo sát, thì ở khu vực uống cà phê không thường xuyên được tăng thêm 13 triệu người trong vòng 4 năm qua. Tiêu thụ cà phê tính theo đầu người năm 2001, vẫn đạt mức 3,1 cốc/ngày, nhưng khác ở chỗ trọng lượng mỗi cốc cà phê tăng 9 ounce trong năm (1 ounce = 28,35 gam). Dự kiến năm 2002 mức tiêu thụ còn cao hơn nữa, đây là cơ hội cho các nước xuất khẩu cà phê sang Mỹ cũng như đối với Việt Nam.
Đối với mặt hàng gạo, gạo của Việt Nam không xuất khẩu trực tiếp sang Mỹ do chủng loại không thích hợp nhưng có nhiều khách hàng Mỹ mua gạo của ta để xuất sang Châu Phi theo các chương trình viện trợ của Chính phủ Hoa Kỳ và môi giới hoặc để Hoa Kỳ đảm bảo các hợp đồng cung ứng gạo đã ký với các nước khác - Hoa Kỳ thường nhập khẩu gạo để tái xuất sang các nước khác... Vì vậy, Việt Nam mặc dù vẫn còn hạn chế về mặt chất lượng trong xuất khẩu gạo sang thị trường Mỹ với mục tiêu phục vụ người tiêu dùng Mỹ, nhưng với các mục đích nhập khẩu gạo như trên của Mỹ thì Việt Nam vẫn có cơ hội để tăng xuất khẩu gạo vào thị trường này...
Mặc dầu kinh tế Mỹ gặp suy thoái trong năm 2001, đặc biệt là sau sự kiện 12/09, nhưng xuất khẩu của ta sang Mỹ năm 2001 vẫn đạt 1,065 tỷ USD, tăng 45,5% so với năm 2000, nâng cao tỷ trọng của thị trường này trong tổng kim ngạch xuất khẩu lên 7%. Bước sang năm 2002, xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ có thuận lợi cơ bản là Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đi vào thực thi, kinh tế Mỹ có biểu hiện hồi phục sớm hơn dự kiến. Trong bối cảnh đó, cần đặt ra mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ năm 2002 từ 50 - 70%.
Thị trường Hoa Kỳ đã được mở, tác động tích cực tới kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng. Trong Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện kế hoạch phát triển thương mại năm 2001 và phương hướng nhiệm vụ năm 2002 của Bộ Thương mại cho rằng “Xét giữa 2 hiệu ứng ngược chiều là ta được giảm thuế nhập khẩu vào Hoa Kỳ và kinh tế nước này tăng trưởng chậm lại thì hiệu ứng thứ nhất có phần mạnh hơn hiệu ứng thứ hai”. Vì vậy, về tổng thể, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ sẽ tăng, mức tăng thậm chí lớn hơn thời gian trước đây.
Hình 11: Dự báo tỷ trọng của thị trường Mỹ trong
tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Tỷ trọng (%)
Năm
Nguồn: Bộ Thương mại
Bảng 14: Dự báo xuất khẩu nông sản của Việt Nam vào Hoa Kỳ.
Đơn vị: Triệu USD
Mặt hàng
XK của VN vào
Hoa Kỳ
NK của Hoa Kỳ
Tăng XK hàng hoá VN vào Hoa Kỳ (%)
Thị phần VN tại HK
2000
2005
2010
2010
2005/2000
2010/2005
2010
Nông sản
62
100
500
12000
161
500
4,17
Cà phê hạt
162
200
350
3000
123
175
11,67
Hạt có dầu
15
50
100
3000
333
200
3,33
TKN XK hh VN vào HK
939
5850
11050
1157000
623
189
0,96
Nguồn: thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ
Những mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ gồm cà phê, hạt điều, hạt tiêu, cao su... Kim ngạch xuất khẩu nông sản sang Mỹ đạt trên 100 triệu USD/năm, trong đó cà phê, điều, hồ tiêu chiếm khoảng gần 90%. Triển vọng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp rõ nét nhất là cà phê và cao su, mỗi năm Mỹ nhập khẩu khối lượng hàng nông sản cà phê khoảng 4 tỷ USD, cao su 8 tỷ... Dự báo đến năm 2010, thị phần của Việt Nam tại Hoa Kỳ sẽ đạt 0,96% thị trường Hoa Kỳ. Trong đó, mặt hàng nông sản cà phê dự báo đạt thị phần cao nhất trên thị trường Mỹ và đạt 11,67% tổng giá trị nhập khẩu cà phê của Hoa Kỳ. Một số mặt hàng nông sản khác dự báo đạt thị phần 4,17% thị trường hàng hoá nông sản Hoa Kỳ.
Tóm lại, thời kỳ 2000 - 2005 dự báo tốc độ gia tăng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào Hoa Kỳ cao gấp 6 lần vì đây là thời kỳ mới phát triển sau khi hiệp định thương mại Việt nam - Hoa Kỳ được ký kết, Việt Nam sẽ được hưởng quy chế thương mại bình thường NTR (hay còn gọi là quy chế tối huệ quốc MFN), các mặt hàng nông sản của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chỉ phải chịu mức thuế suất là khoảng 3% (so với khi chưa được hưởng là khoảng 40%) và tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ cũng chiếm 19% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Giai đoạn 2005 - 2010, tốc độ tăng trưởng bắt đầu đi vào ổn định và giảm xuống chỉ còn 1,8%/năm. Như vậy, trong thời gian tới dự báo xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ sẽ tăng lên cả về giá trị và về tốc độ tăng, tuy nhiên đây mới chỉ là dự báo còn Việt Nam có thể đạt được hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào các nhân tố khác, trong đó có cả nhân tố khách quan từ bên ngoài và cả nhân tố chủ quan từ bên trong doanh nghiệp cũng như Chính phủ Việt Nam.
II: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao sức cạnh
tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ.
Để cạnh tranh được trên một thị trường rộng lớn như thị trường Mỹ, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sự đầu tư, nghiên cứu kỹ lưỡng từ đó đưa ra các giải pháp, chiến lược thích hợp với khả năng, trình độ của mình. Cạnh tranh trên thị trường nước ngoài nói chung cũng như thị trường Mỹ nói riêng không chỉ là hoạt động một sớm một chiều, được chăng hay chớ mà cũng đòi hỏi phải có chiến lược cả lâu dài và ngắn hạn, kèm theo các biện pháp, công cụ cụ thể nhằm đạt được mục tiêu của doanh nghiệp.
Cũng như để sản phẩm nông sản của Việt Nam ngày càng có vị thế cao trên thị trường Mỹ hay nói cách khác Việt Nam ngày càng xuất khẩu nhiều hơn mặt hàng nông sản sang thị trường này thì sản phẩm phải mang tính cạnh tranh cao, nghĩa là phải có khả năng cạnh tranh về nhiều mặt, trong đó sản phẩm có chất lượng cao và giá thành thấp là hai yếu tố cạnh tranh chính. Ngày nay, chất lượng càng trở thành yếu tố then chốt để cạnh tranh, cạnh tranh bằng giá cả sẽ dần dần không còn phù hợp nữa mà giải pháp thực tế cho cạnh tranh hiện nay là cạnh tranh bằng chất lượng. Chỉ có thể nói chiến lược cạnh tranh hướng về chất lượng mới có thể đảm bảo sự tồn tại và phát triển lâu dài của các doanh nghiệp Việt Nam. Hơn nữa như đã nêu trên trong phần những tồn tại, sức cạnh tranh của hàng hoá nông sản Việt Nam chưa cao do chất lượng chưa cao, mẫu mã, chủng loại đơn điệu do đó các doanh nghiệp nên:
+ áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm: Các doanh nghiệp cần đẩy mạnh việc áp dụng khoa học công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm từ đó để tạo uy tín, mở rộng thị trường và xuất khẩu với giá cao, nhằm hạn chế sự thua thiệt về giá so với các đối thủ cạnh tranh chủ yếu áp dụng các tiến bộ khoa học chủ yếu là vào khâu thu hoạch, bảo quản với những công nghệ tiên tiến hiện đại là một trong những nhân tố chủ yếu nâng cao chất lượng sản phẩm nông sản Việt Nam. Đồng thời, cần tập trung cho công tác nghiên cứu lai tạo giống tạo ra những giống có năng suất, chất lượng cao phục vụ xuất khẩu. Cụ thể, trong thời gian tới cần tạo ra bước chuyển biến mới để đáp ứng yêu cầu của chiến lược cạnh tranh nông sản trên thị trường Mỹ như sau:
Thứ nhất, Các doanh nghiệp nên xây dựng các tiêu chuẩn quản lý chất lượng: Thực tế cho thấy, thị trường Hoa Kỳ là một thị trường có yêu cầu về chất lượng rất cao. Vì vậy các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam cần áp dụng xây dựng các tiêu chuẩn về quản lý chất lượng để được cấp giấy chứng nhận ISO 9000, 9001... tiến tới đạt tiêu chuẩn về quản lý môi trường ISO 14000, một tiêu chuẩn được nhiều chuyên gia kinh tế đánh giá là không thể thiếu nếu muốn xuất khẩu vào thị trường Mỹ ở thế kỷ 21. Có thể nói ISO là giấy thông hành để các doanh nghiệp Việt Nam có thể được công nhận, có thể xâm nhập vào các thị trường lớn trên thế giới và có điều kiện cạnh tranh với sản phẩm của các nước khác.
Thứ hai, Huy động vốn đầu tư đổi mới công nghệ chế biến bảo quản: Chúng ta cần huy động vốn đầu tư để đổi mới công nghệ chế biến bảo quản còn lạc hậu trong sản xuất hàng nông sản ở Việt Nam từ nhiều nguồn khác nhau: Vốn đấu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước, vốn đầu tư từ nguồn vốn tự có của nhân dân, đầu tư từ vốn tín dụng, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
+ Chú trọng đầu tư cho thiết kế cải tiến mẫu mã, chủng loại hàng hoá và bao bì đóng gói: Do mẫu mã, bao bì đóng gói hàng hoá của Việt Nam chưa đáp ứng được với yêu cầu rất khắt khe của thị trường Mỹ. Vì vậy để tăng sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ các doanh nghiệp cần chú trọng đầu tư cho việc thiết kế mẫu mã hàng hoá và bao bì đóng gói.
+ Tích cực tìm hiểu thị trường Mỹ, tìm kiếm và xử lý tốt các thông tin: Từ đó đưa ra các chiến lược phát triển trong dài hạn và ngắn hạn. Như đã trình bày một trong những nguyên nhân hạn chế hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ là do sự thiếu hiểu biết, thiếu thông tin của các doanh nghiệp Việt Nam về thị trường này.
Các doanh nghiệp Việt Nam khi muốn xuất khẩu cũng như nâng cao sức cạnh tranh hàng hoá của mình trên thị trường Mỹ thì trước hết phải nghiên cứu rõ đối tác của mình cũng như môi trường pháp lý của nó. Từ đó làm quen với các phong cách, tập quán buôn bán theo kiểu Mỹ, làm quen với các tiêu chuẩn của Mỹ và hệ thống luật pháp phức tạp của Mỹ. Điều đó giúp cho hàng hoá của doanh nghiệp qua hải quan có thể được phép nhập khẩu một cách dễ dàng đồng thời đề phòng có những khiếu nại, kiện tụng xảy ra sau khi bán hàng. Bởi người dân Mỹ rất tôn trọng pháp luật và có thể đem đơn ra toà bất cứ lúc nào.
Thị trường Mỹ rất phức tạp với nhiều dân tộc, nhiều tầng lớp dân cư, nhiều tôn giáo tín ngưỡng khác nhau đã tạo ra sự đa dạng, phong phú trong nhu cầu, sở thích tiêu dùng hàng hoá. Những nhu cầu, sở thích đó thì luôn luôn thay đổi, không chỉ theo mùa mà cũng không có nguyên nhân nhất định. Ngày nay, không phải các doanh nghiệp bán những cái mình có mà phải bán những hàng hoá nào mà người tiêu dùng thích. Do đó phải nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu, sở thích của người tiêu dùng không những trong hiện tại mà phải dự báo được tương lai họ mong muốn gì. Việc nghiên cứu đó giúp cho doanh nghiệp có những giải pháp đối phó hiệu quả để có thể đứng vững trên thị trường hiện tại và thích ứng được với những thay đổi trong tương lai.
Hơn nữa, Mỹ là một thị trường rộng lớn, hấp dẫn nên không chỉ riêng Việt Nam mà rất nhiều nước trên thế giới đều mong muốn thiết lập và mở rộng quan hệ thương mại với Mỹ. Do đó tạo ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các đối thủ nhằm giành được nhiều thị phần hơn về phía mình. Mỗi đối thủ đều có những lợi thế và bất lợi riêng, vì vậy để thành công trong cạnh tranh thì chúng ta phải nghiên cứu nắm bắt được những mặt lợi thế và bất lợi đó của họ, đồng thời từ đó biết dược những lợi thế so sánh của mình là gì để phát huy nhằm nâng cao sức cạnh tranh.
Muốn làm tốt các công việc nghiên cứu đó thì doanh nghiệp Việt Nam phải biết cách thu thập và xử lý tốt các thông tin mà mình có, nhanh chóng nắm bắt được những cơ hội thuận lợi trong kinh doanh. Việc tìm hiểu thông tin có thể thông qua các phương tiện như: sách báo, khảo sát thực tiễn, tham gia các cuộc hội thảo, hội chợ triển lãm, thuê chuyên gia tư vấn hoặc qua các tổ chức tư vấn đặc biệt... Thông tin về thương mại ở Mỹ rất tự do, doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm, tiếp cận trên Internet, qua các công ty, qua văn phòng đại diện của doanh nghiệp ở Mỹ hoặc qua các tổ chức tư vấn của Chính phủ và phi Chính phủ...
Sau khi doanh nghiệp nghiên cứu kỹ thị trường thì bản thân doanh nghiệp phải nghiên cứu môi trường bên trong doanh nghiệp. Mình có những khả năng nào, có thế mạnh nào để có thể thâm nhập, cạnh tranh trên thị trường Mỹ và những điểm yếu gì cần khắc phục. Doanh nghiệp phải tự xây dựng một chiến lược phát triển cụ thể trong ngắn hạn và dài hạn phù hợp với bản thân doanh nghiệp, phù hợp với chính sách luật pháp của Nhà nước, và phù hợp với thị trường.
+ Tăng cường liên doanh liên kết hay thành lập các hiệp hội xuất khẩu chuyên ngành để đáp ứng các đơn đặt hàng: Thực tế các doanh nghiệp Việt Nam còn nhỏ bé về quy mô sản xuất, vốn kinh doanh, kinh nghiệm kinh doanh quốc tế. Trong khi đó thị trường Mỹ rất rộng lớn với nhiều loại công ty từ nhỏ đến rất lớn mới thành lập hay đã tồn tại hơn 100 năm. Môi trường cạnh tranh khắc nghiệt, yêu cầu chất lượng hàng hoá cao, các nhà nhập khẩu Mỹ thường có những đơn đặt hàng với số lượng lớn, đòi hỏi thời gian giao hàng đúng hạn trong một thời hạn không mấy rộng rãi... Ngoài ra các nhà phân phối Mỹ thường thiết lập hệ thống phân phối toàn cầu, nghĩa là không chỉ bán ở Mỹ mầ theo các kênh đi khắp thế giới. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam với quy mô vừa và nhỏ, khả năng tài chính và năng lực sản xuất có hạn khó lòng có thể đáp ứng được các đơn đặt hàng có quy mô lớn. Do vậy, nếu nhận được đơn đặt hàng vựơt quá khả năng của mình, các doanh nghiệp nên liên kết với các doanh nghiệp khác cùng ngành hàng để đảm bảo được quy mô và thời hạn giao hàng... Từ đó mà có thể đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường nhằm duy trì, củng cố và nâng cao thị phần của mình cũng như của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung. Có thể nói khả năng liên kết của các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ trên thị trường Mỹ là một vấn đề cần lưu ý.
Các doanh nghiệp cũng nên tiến hành liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài để thu hút vốn, công nghệ và học tập kinh nghiệm nhằm mục tiêu tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường Mỹ. Nhất là hiện nay, khi hiệp định thương mại có hiệu lực, nhiều nước mà trước hết là các nước trong khu vực như Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore... sẽ gia tăng đầu tư vào Việt Nam vì họ coi Việt Nam là cầu nối để hàng hoá của họ được xuất khẩu vào thị trường Mỹ với mức thuế suất thấp. Các doanh nghiệp Mỹ cũng sẽ đến Việt Nam nhiều hơn để sử dụng những lợi thế ở thị trường Việt Nam trong việc sản xuất hàng hoá rồi xuất khẩu ra các thị trường khác, trong đó có thị trường Mỹ.
Làm được như vậy các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gia tăng sức cạnh tranh của mình trong cuộc chiến tranh giành thị phần trên thị trường Mỹ, tạo nên uy tín cho nhãn mác Việt Nam, từ đó củng cố và phát triển thị phần cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung.
+ Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng cáo khuyếch trương sản phẩm của Việt Nam trên thị trường Mỹ: Các biện pháp này có thể được thực hiện thông qua các hội chợ, triển lãm, và đặc biệt qua mạng Internet. Hiện nay thương mại điện tử tuy mới xuất hiện nhưng đang được phát triển rất nhanh chóng và đang trở thành một công cụ hỗ trợ kinh doanh rất đắc lực. Vì vậy muốn hợp tác với nước Mỹ một cách nhanh chóng và hiệu quả, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam không còn con đường nào khác là phải tiếp cận từng bước một cách hợp lý, tạo môi trường kinh doanh thực sự, và hình thành thương mại điện tử ở Việt Nam để hội nhập với thương mại điện tử thế giới. Để có thể hoạt động tốt trong thương mại điện tử, các doanh nghiệp cần xác định bước đi thích hợp trong sử dụng Internet, cụ thể là: chuẩn bị làm việc trong môi trường tiếng Anh là chủ yếu; nhanh chóng làm quen và sử dụng các dịch vụ Internet như thư điện tử (E-mail). Thông qua E-mail doanh nghiệp có thể truyền tải văn bản, hình ảnh và tương lai cả video và âm thanh. Tham gia trao đổi tin tức trên mạng Internet. Doanh nghiệp có thể tham gia trao đổi theo một nhóm chuyên ngành hẹp theo chủ đề doanh nghiệp quan tâm. Bằng cách này, doanh nghiệp có thể tién hành nghiên cứu thị trường, nghiên cứu sản phẩm, tiếp xúc với khách hàng.
+ Tận dụng và phát huy lực lượng Việt kiều đang sống và làm việc tại Mỹ: Với số lượng trên 2 triệu người đang sinh sống và làm việc tại Mỹ, trong đó một số lớn là những người có trình độ khoa học cao do được tiếp xúc với nền công nghệ hiện đại, có sự am hiểu về luật pháp Mỹ và có tâm huyết, có năng lực. Đây sẽ là nguồn lực đáng kể cho các doanh nghiệp Việt Nam thu hút và khai thác triệt để trong việc hợp tác kinh doanh sử dụng làm môi giới, trung gian với các công ty Mỹ. Đồng thời với một lực lượng đông đảo như vậy, họ cũng là một thị trường tiêu thụ đáng kể hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ và qua đó quảng bá hàng Việt Nam tới các cộng đồng người khác ở Mỹ. Từ đó mà mở rộng và nâng cao được thị phần cho doanh nghiệp.
Với vai trò quan trọng như vậy, lực lượng Việt kiều ở Mỹ đang và sẽ trở thành những đối tác quan trọng của các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ. Để phát huy vai trò của lực lượng này, các doanh nghiệp cần chủ động trong việc tìm kiếm, hợp tác, đồng thời phải có các đối sách phù hợp để ưu đãi, kêu gọi và tạo điều kiện cho họ hợp tác kinh doanh, quay về đóng góp cho quê hương. Các doanh nghiệp sẽ đóng vai trò cầu nối giữa họ với quê hương và thông qua các hoạt động cụ thể của các doanh nghiệp Nhà nước sẽ đưa ra các chính sách, biện pháp vĩ mô phù hợp để phát huy vai trò của người Việt Nam ở nước ngoài nói chung, ở Mỹ nói riêng.
Bên cạnh đó Nhà nước cần hỗ trợ và tạo mọi điều kiện thuận lợi trong hoạt động của các doanh nghiệp:
+ Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, thường xuyên cung cấp các thông tin cập nhật về thị trường Mỹ cho các doanh nghiệp Việt Nam: Thông qua việc thiết lập hệ thống các trung tâm thương mại tại các thành phố lớn như New York, Los Angeles, Boston... nhằm tạo cầu nối giảm chi phí giao dịch cho các công ty xuất nhập khẩu trong nước, tăng kim ngạch xuất khẩu. Trung tâm này do Nhà nước đứng ra bảo trợ hoặc kết hợp với các công ty Mỹ và Việt kiều tổ chức.
Công tác xúc tiến thương mại cần đảm bảo khuyến khích và hỗ trợ cho các doanh nghiệp xây dựng ở nước ngoài hệ thống mạng lưới đại lý, phân phối hàng hoá, kho ngoại quan, trung tâm trưng bày sản phẩm; áp dụng các phương thức mua bán linh hoạt như giao hàng thanh toán chậm, đổi hàng, lập công ty pháp nhân nước sở tại để nhập hàng Việt Nam; hợp tác với nước ngoài và cụ thể ở đây là Mỹ trong lĩnh vực quảng cáo, giới thiệu hàng hoá thông qua báo chí, truyền hình và xuất bản ấn phẩm...
Mặt khác cần tăng cường vai trò của các đại sứ quán, các tham tán thương mại ở Mỹ trong các hoạt động xúc tiến thương mại. Cần có biện pháp và phương hướng hành động thích hợp nhằm tạo mối quan hệ gắn bó giữa các tham tán thương mại với các hiệp hội ngành hàng. Từ đó khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng mạng lưới đại lý phân phối hàng, trung tâm trưng bày sản phẩm ở Mỹ, đồng thời cung cấp kịp thời những thông tin cho các doanh nghiệp trong nước về giá cả, cạnh tranh, biến đổi trong nhu cầu tiêu dùng...
+ Hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu: Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp cải tiến công tác tổ chức quản lý xuất khẩu nông sản theo hướng phân khu vực thị trường cho các đầu mối xuất khẩu lớn để tạo hướng chuyên sâu về khu vực thị trường cho các doanh nghiệp xuất khẩu, hạn chế sự cạnh tranh giữa chính các doanh nghiệp của ta làm thiệt hại đến lợi ích quốc gia, xây dựng cơ chế quản lý giá lãi suất, thuế, tỷ giá và dự trữ xuất khẩu linh hoạt nhưng phải nằm trong khuôn khổ nhất định.
+ Xây dựng trung tâm chuyên thu thập và cung cấp thông tin: Nhằm cung cấp các thông tin về xuất nhập khẩu nông sản trên thị trường thế giới cũng như thị trường Mỹ cho các doanh nghiệp trong nước để giúp cho các doanh nghiệp định hướng sản xuất, chế biến và xuất khẩu nông sản đồng thời giúp cho các quyết định của doanh nghiệp có chất lượng cao.
+ Tăng cường đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng: Như bến cảng, kho bãi để giảm chi phí vận chuyển và bốc xếp hàng hoá nhằm tăng sức cạnh tranh cho hàng nông sản xuất khẩu nói chung và sang thị trường Mỹ nói riêng.
+ Củng cố và phát triển quan hệ toàn diện với Mỹ: Mỹ có một vị trí quan trọng, nhất là về kinh tế trong chính sách đối ngoại của các quốc gia.Việc Việt Nam có quan hệ bình thường với Mỹ sẽ đóng góp tích cực vào việc tăng cường vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Hơn nữa trong điều kiện ngày nay, chính trị và kinh tế là những nội dung không thể tách biệt. Một bất đồng nhỏ về chính trị cũng có thể dẫn đến sự đổ vỡ các quan hệ kinh tế và ngược lại. Đặc biệt Mỹ là nước thường sử dụng kinh tế để chi phối về chính trị cũng như sử dụng kinh tế để chi phối về chính trị. Vì vậy việc Nhà nước ta tiếp tục phát triển quan hệ thương mại với Mỹ sẽ có tác động quan trọng đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam nói chung cũng như hàng nông sản nói riêng sang thị trường Mỹ.
kết luận
Nhìn lại quá trình đổi mới của nước ta cho thấy Đảng và Nhà nước đã sớm nhận ra tầm quan trọng của sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản. Thông qua xuất khẩu các quốc gia có được nguồn ngoại tệ nhằm trang trải các nhu cầu nhập khẩu, góp phần duy trì và mở rộng tái sản xuất trong nước, tranh thủ tiến bộ khoa học và công nghệ thế giới, đáp ứng nhu cầu không ngừng nâng cao trình độ phát triển kinh tế - xã hội đất nước, hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
Từ kinh nghiệm phát triển của nhiều nước, nhất là các nước trong khu vực, mấy chục năm gần đây cho thấy thi hành các chính sách nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp hướng về xuất khẩu đã nhanh chóng khắc phục tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, thúc đẩy phát triển kinh tế vượt bậc. Song muốn đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản cũng đồng nghĩa với việc phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá đó trên thị trường nước nhập khẩu. Đặc biệt Mỹ là một thị trường rất hấp dẫn, không chỉ đối với Việt Nam mà đối với hầu hết các nước trên thế giới đều có mong muốn xuất khẩu hàng hoá vào thị trường này. Do đó để đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản sang Mỹ thì đòi hỏi Việt Nam phải cạnh tranh được với hàng nông sản của các nước khác cũng xuất khẩu sang thị trường này.
Thông qua nghiên cứu đề tài này, ta thấy mặc dù Việt Nam có nhiều lợi thế và tiềm năng về xuất khẩu hàng hoá nói chung, hàng nông sản nói riêng trên thị trường Mỹ với quy mô lớn, tuy nhiên sức cạnh tranh chưa cao. Để khai thác có hiệu quả khả năng của Việt Nam và và quy mô của thị trường Mỹ, một mặt đòi hỏi sự nỗ lực của người sản xuất và kinh doanh, mặt khác đòi hỏi phải có sự quan tâm đồng bộ và nhiều mặt của Nhà nước để tạo dựng vị thế và sức cạnh tranh cao cho hàng hoá nông sản xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Mỹ.
Qua thời gian thực tập tại Vụ Hợp tác quốc tế - Bộ Nông nghiệp & PTNT, cùng với kiến thức đã tích luỹ được ở trong trường, em đã mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu những giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ. Nội dung luận văn tốt nghiệp đã phần nào giải quyết được 3 vấn đề lớn:
Làm sáng tỏ sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ.
Phân tích và đánh giá thực trạng sức cạnh tranh của hàng hoá nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ trong thời gian qua.
Đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá nông sản Việt Nam trên thị trường Mỹ trong thời gian tới.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do trình độ còn hạn chế, hàng hoá và thị trường lại là những lực lượng đầy biến động nên không thể tránh khỏi sự thiếu sót về sự cập nhật thông tin. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy giáo, cô giáo, các cô, chú các anh chị và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28624.doc