Luận văn Một số giải pháp phát triển hoạt động bán hàng bằng hình thức thương mại điện tử ở Việt Nam

Bám sát sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, công nghệ thông tin đã có những phát triển vượt bậc, góp phần quan trọng vào việc phát triển toàn diện nền kinh tế- xã hội nước ta, trong đó nổi bật là việc nghiên cứu hoạt động bán hàng trong môi trường thương mại điện tử (TMĐT) quốc tế. Tuy đây là một vấn đề còn khá mới mẻ nhưng nó đã và đang trở thành một xu thế tất yếu và thu hút được không ít các doanh nghiệp Việt Nam, giúp họ đáp ứng được yêu cầu phát triển xu thế hội nhập nền kinh tế thế giới. Ở các nước phát triển đang tiên phong trong nền kinh tế mạng, hoạt động bán hàng bằng hình thức thương mại điện tử đã có điều kiện hình thành và đã phát triển rất nhanh. Thành công có, thất bại có, nhưng nó đã được thừa nhận là đang trong qúa trình mở đường và cần phải có thời gian thử nghiệm. Mặc dù hoạt động bán hàng bằng hình thức thương mại điện tử đã bắt đầu được áp dụng thử nghiệm ở một số doanh nghiệp Việt Nam nhưng thực tế ở Việt Nam, hạ tầng cơ sở thương mại điện tử đã bắt đầu xây dựng nền móng ban đầu, chuẩn bị tạo lập những môi trường kinh doanh mới. Xuất phát từ thực tiễn đó tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp phát triển hoạt động bán hàng bằng hình thức thương mại điện tử ở Việt Nam” làm đề tài cho bài luận văn tốt nghiệp đại học của mình để từ đó đưa ra một số kiến nghị và giải pháp phát triển TMĐT nói chung và hoạt động bán hàng nói riêng ở Việt Nam. Ngoài phần mở đầu và kết luận, bố cục của luận văn được chia thành 3 chương: CHƯƠNG I: Tổng quan về Thương mại điện tử và hoạt động bán hàng bằng hình thức thương mại điện tử CHƯƠNG II: Thực trạng hoạt động bán hàng thương mại điện tử ở Việt Nam CHƯƠNG III: Một số giải pháp phát triển bán hàng bằng hình thức thương mại điện tử ở Việt Nam

doc46 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1638 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp phát triển hoạt động bán hàng bằng hình thức thương mại điện tử ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản quy phạm pháp luật, cơ sở hạ tầng công nghệ, đào tạo nhân lực và sẽ lựa chọn một số doanh nghiệp làm thí điểm thực hiện TMĐT Quá trình phát triển TMĐT ở Việt Nam Trong nghị quyết 49/CP ngày 04/08/1993 của Chính phủ có nêu rõ: “Mục tiêu xây dựng và phát triển công nghệ thông tin ở nước ta đến năm 2000 là: xây dựng những nền móng bước đầu vững chắc cho một kết cấu hạ tầng về thông tin trong xã hội, có khả năng đáp ứng các nhu cầu cơ bản về thông tin trong quản lý nhà nước và trong các hoạt động kinh tế-xã hội…”. Một trong những kết cấu hạ tầng đó là: hệ thống các đường truyền tin thông minh, hệ thống các thiết bị đầu cuối và các phần mềm kèm theo dùng để trao đổi, xử lý thông tin. Mục tiêu hàng đầu trong kế hoạch tổng thể đến năm 2000 của chương trình quốc gia về công nghệ thông tin nêu rõ: “Xây dựng hệ thống các máy tính và các phương tiện truyền thông được liên kết với nhau trong các mạng với những công cụ phần mềm đủ mạnh, các hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu có khả năng phục vụ các hoạt động quản lý nhà nước và các hoạt động huyết mạch của nền kinh tế”. Mặt khác nhu cầu của xã hội về thông tin đang phát triển rất nhanh. Trước tình hình đó, tổng công ty bưu chính- viễn thông đã xây dựng kế hoạch tổng thể về phát triển mạng và dịch vụ truyền số liệu tới năm 2000 nhằm tạo ra một kết cấu hạ tầng vững mạnh về mạng số liệu của Việt Nam. Ngày 19/11/1997 Việt Nam chính thức nối mạng với Internet toàn cầu. Việc triển khai công nghệ mới này đã góp phần không nhỏ đưa Việt Nam hoà nhập vào cộng đồng thế giới. Tính đến hết năm 1998, Internet Việt Nam đã hoạt động được một năm với 4 nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) chính thức do tổng cục bưu điện cấp giấy phép là công ty điện toán và truyền số liệu (VDC), công ty phát triển đầu tư công nghệ (FPT), mạng NetNam của Viện Công nghệ thông tin và công ty cổ phần dịch vụ bưu chính viễn thông Sài Gòn(Sài Gòn Postel). Trên Internet còn hiện diện của 9 nhà cung cấp thông tin (ICP) trên Internet. Đó là mạng CINET của Bộ văn hoá thông tin, mạng Phương Nam của trung tâm hội chợ triển lãm Việt Nam, công ty Pacrim, FPT, VDC, thông tấn xã Việt Nam. Tổng cục du lịch, báo nhân dân và trung tâm thông tin bưu điện trực thuộc tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam. Một số bất cập là giá cước truy nhập Internet còn quá cao so với thu nhập bình quân chung, khiến các thuê bao Internet phải dè sẻn trong sử dụng dịch vụ trong khi đó sử dụng dịch vụ nước ngoài rẻ hơn rất nhiều. Theo con số tổng kết của công ty FPT mức độ sử dụng trung bình của khách hàng nước ngoài chỉ là 30 giờ/ tháng với mức trung bình phải trả khoảng 800.000đồng/ tháng trong khi khách hàng Việt Nam thì số giờ sử dụng chỉ là 5 giờ/ tháng với mức cước trung bình phải trả khoảng 180.000đồng/ tháng. Ngoài ra cũng phải kể đến yếu tố trình độ tiếng anh và vi tính của các khách hàng còn hạn chế nên đến nay Internet vẫn chưa phải là dịch vụ phổ thông. “Vạn sự khởi đầu nan” Chúng ta hoàn toàn tin tưởng Internet Việt Nam sẽ phát triển mạnh hơn trong những năm sau. II. Thực trạng ở một số tổ chức và công ty 1. Công ty điện toán và truyền số liệu, tên giao dịch quốc tế là Viet Nam Data Communication Company (VDC) Là một doanh nghiệp nhà nước thuộc Tổng công ty Bưu chính- Viễn thông Việt Nam (VNPT) hoạt động theo luật pháp Việt Nam và theo điều lệ tổ chức hoạt động của VNPT được quy định tại nghị định 51/CP ngày 1 tháng 8 năm 1995 của chính phủ. Các sản phẩm dịch vụ chủ yếu của VDC: Dịch vụ VNN Internet: Chính thức triển khai tháng 12/1997, là mạng Internet mạnh nhất Việt Nam, chiếm 70% thị phần với doanh thu luôn luôn tăng. Dịch vụ thư điện tử( Vnmail): Mail offline, Fmail, Mail Plus, Wedmail. Dịch vụ truyền số liệu Vietpac: Dịch vụ chuyển mạnh gói trên X25, kết nối mạng toàn cầu với hơn 30 nước, môi trường, truyền dẫn nhanh, an toàn là mạng truyền số liệu hoàn chỉnh nhất tại Việt Nam. Leased IP, Frame relay, VPN Dịch vụ truyền báo, viễn ấn, chế bản điện tử Dịch vụ Void, Internet roaming. Nghiên cứu và phát triển các sản phẩm tin học: phần mềm kế toán VNPT, phần mềm tính cước và quản lý thuê bao, quản lý mạng cáp, phần mềm quản lý được chứng nhận của ORACLE… Chiến lược phát triển của công ty trong tương lai là triển khai mạng TMĐT, đây là chiến lược đứng đắn, đầy triển vọng phát huy được những lợi thế của công ty. Hiện nay, VDC là công ty duy nhất ở Việt Nam được cấp phép IAP. VNN/Internet của VDC chiếm hơn 70% thị phần Việt Nam. Hơn nữa trong thời kỳ 2001- 2006 công ty nào có thể phát huy những nguồn tài chính mạnh hơn bất cứ ISP Việt Nam nào khác để đầu tư vào phát triển Internet/ Web và mọi công nghệ xung quang Internet/ Web. Tuy nhiên, đi vào TMĐT đòi hỏi các tiêu chuẩn cao hơn là các tiêu chuẩn của mọi công ty công nghệ cao: Đó là các yêu cầu và tiêu chuẩn của doanh nghiệp tri thức, trong đó công nghệ là quan trọng nhưng không mang tính quyết định, mà vai trò quyết định là ở trí tuệ và sức mạnh của tổ chức mới, trí tuệ và sức mạnh của lãnh đạo, của chuyên gia và cả của khách hàng của nhà cung cấp và đối tác chiến lược của công ty. VDC có 3 dự án thử nghiệm TMĐT: *Dự án thanh toán tại VDC3 Dự án thanh toán VDC-VDC1/ VCB Dự án Payment Gateway VDC2. Phương hướng trong thời gian tới của công ty là: triển khai TMĐT trong nội bộ trước đây là hướng thực tiễn hơn, và có thể đơn giản hơn, hiệu quả có thể thấy rõ hơn là khi đem ra thị trường, bao gồm: -Hoàn thiện một bước hệ thống cước và mọi hệ thống cơ sở dữ liệu khách của VDC thành một cơ cấu kho dữ liệu thống nhất toàn công ty. -Trong kho dữ liệu của công ty, xây dựng một Data Mart làm nền cho hệ thống quản lý khách hàng theo hai phương pháp luận và thực hành thích hợp là CMR (Custommer Relationship Managerment: Quản lý hệ thống khách hàng) và ERP(Enterprise Resourees Planning) -Triển khai một hệ thống phần mềm tổng hợp để củng cố VNN/Internet. Xây dựng một cơ chế xử lý thông tin sâu, nhằm hỗ trợ lãnh đạo chi tiết mọi luồng thông tin quản lý và tác nghiệp tạo tính minh bạch tổ chức, hỗ trợ ra quyết định lãnh đạo Xây dựng hệ thống trả lương cho nhân viên công ty và các dịch vụ thanh toán tiền mặt, thanh toán chuyển khoản giữa VDC và VNPT trên cơ sở hợp tác với một ngân hàng thương mại hoặc tạo ra một máy chủ thanh toán, thuê một vài máy Teller công suất nhỏ, đặt trong nhà để tự làm dịch vụ này cho nội bộ VDC và VNPT. Như vậy, VDC vừa trực tiếp kinh doanh điện tử trực tiếp, vừa cung cấp các dịch vụ xung quanh kinh doanh điện tử. 2. Các ngân hàng Việt Nam Hệ thống ngân hàng Việt Nam cho tới năm 1995 bao gồm Ngân hàng Nhà nước, bốn ngân hàng thương mại tuốc doanh (Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Đầu tư phát triển, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), bốn ngân hàng liên doanh, 50 ngân hàng cổ phần 21 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 62 văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài. Bốn ngân hàng thương mại quốc doanh lớn chiếm 80% tổng khối lượng giao dịch và có tới 70% tổng số tài khoản khách hàng trong đó có nhiều khách hàng lớn là các tổng công ty 90/91. Phương tiện thanh toán bằng tiền mặt đã giảm dưới 12% tổng khối lượng thanh toán và không còn giữ vai trò là phương tiện thanh toán được uỷ quyền…Chiếm vị trí chủ yếu 85% trong khối lượng thanh toán qua các hệ thống ngân hàng. Đến nay ngân hàng nhà nước và bốn ngân hàng thương mại quốc doanh đều có hệ thống thanh toán điện tử riêng để đáp ứng các nhu cầu thanh toán của khách hàng trong nội bộ hệ thống và đi ra ngoài qua hệ thống bù trừ và thanh toán liên ngân hàng của ngân hàng nhà nước. Ngoài ra, các ngân hàng còn tham gia hệ thống thanh toán Swift với hàng ngàn bức điện thanh toán đi đến. Mặc dù vậy các ngân hàng lớn trong nước chưa chuyển đổi được mô hình giao dịch cũ sang mô hình ngân hàng có các sản phẩm TMĐT được cung cấp trên Internet, đến từng khách hàng và cho phép các khách hàng có thể đặt hàng và thanh toán qua mạng đáp ứng nhu cầu của nhiều khách hàng đòi hỏi các khoản thanh toán phải được thực hiện ngay lập tức. Mặt khác còn phải chịu sức ép cạnh tranh tranh từ phía các ngân hàng nước ngoài với cách thức hoạt động chuyên nghiệp. Trước sức ép gay gắt của quá trình hội nhập toàn cầu hoá, trong lĩnh vực ngân hàng không có bất cứ một hàng rào nào bảo vệ cho các ngân hàng trong nước. Tất cả sẽ có cùng một sân chơi bình đẳng. Do đó các ngân hàng Việt Nam phải nhanh chóng đưa ra các sản phẩm dịch vụ, nghiệp vụ trên cơ sở công nghệ mới để trước hết cạnh tranh thắng lợi trong nước sau đó vươn ra ngoài khu vực và thế giới. Hiện nay, ngân hàng công thương đang tham gia thực nghiệm dự án “Hạ tầng cơ sở thanh toán điện tử trong TMĐT” Theo đó khách hàng có thể truy cập đến địa chỉ Website của ngân hàng công thương Việt Nam và sử dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến Internet (Online banking) sau khi được kiểm tra các yếu tố truy xuất như tên chủ tài khoản, mã bảo mật khách hàng có thể xem thông tin về tài khoản của mình, kiểm tra số dư tài khoản, tìm chi tiết các giao dịch gần nhất, chỉ số mới nhất như tỷ số hối đoái, lãi xuất tiền gửi, tư vấn về một số lĩnh vực… 3. Công ty phát triển đầu tư công nghệ FPT Công ty phát triển đầu tư công nghệ FPT được thành lập theo quyết định số 80-88TC/VNC năm 1988 với tên gọi ban đầu là “Công ty Công nghệ thực phẩm” trực thuộc Viện nghiên cứu công nghệ quốc gia. Trong quá trình hoạt động, công ty đã nhiều lần đổi tên, tách nhập cho phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ thực tế. Ngày 25 tháng 6 năm 1993, theo quyết định số 85-93 QĐTC/VNC công ty có tên gọi chính thức được sử dụng cho tới ngày nay là công ty phát triển đầu tư công nghệ FPT trực thuộc Bộ khoa học công nghệ và môi trường Các hoạt động kinh doanh chủ đạo của công ty FPT thể hiện chủ yếu thông qua trung tâm Internet FPT. Cơ sở vật chất kỹ thuật của trung tâm trang bị khá hiện đại. Được hỗ trợ bởi các đối tác, phần lớn thiết bị mạng dùng tại trung tâm Internet FPT là sản phẩm của hãng công nghệ thông tin hàng đầu thế giới như: Compaq, 3com, IBM, Packard Bell. Toàn hệ thống vận hành trên nền tảng hệ điều hành Windows NT 4.0 của Microsoft. Trong quá trình kinh doanh của mình, trung tâm Internet FPT đã đóng góp vào việc thúc đẩy TMĐT phát triển tại Việt Nam thông qua các hoạt động sau: *Phát triển số lượng khách hàng nối mạng Internet *Cung cấp các thông tin về các doanh nghiệp Việt Nam lên mạng Internet. *Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ TMĐT (Có thể lấy hai dịch vụ sau làm ví dụ: -Dịch vụ Web hosting (Văn phòng ảo giao dịch trên toàn cầu): -Dịch vụ đặt tên miền cho địa chỉ website của doanh nghiệp trên Internet (Mail- Offline): *Phổ cập kiến thức và tuyên truyền về lợi ích sử dụng Internet (Cung cấp các sản phẩm phần mềm phục vụ thương mại và hỗ trợ kỹ thuật) III. Các cơ hội và thách thức trên con đường tiến tới Thương mại điện tử đối với các doanh nghiệp Việt Nam 1. Các cơ hội Khi nói đến TMĐT có nghĩa là tính chất hoạt động kinh tế của con người đang thay đổi khắp mọi nơi trên thế giới không chỉ tại những nước phát triển nhất. TMĐT giúp các doanh nghiệp tham gia thu được nguồn thông tin phong phú về kinh tế, thương mại và thị trường. Từ đó doanh nghiệp có căn cứ xây dựng chiến lược sản xuất và kinh doanh thích hợp với xu thế phát triển của thị trường trong nước, khu vực và thế giới. TMĐT làm giảm chi phí sản xuất, trước hết là chi phí văn phòng đó là giảm chi phí thuê diện tích mặt bằng, chi phí tìm kiếm, chi phí in chuyển giao tài liệu. Điều quan trọng là giải phóng các nhân viên có năng lực khỏi nhiều công đoạn sự vụ để tập trung vào hoạt động kinh doanh chính Lợi ích của việc dùng trang web như một công cụ Marketing là hết sức rõ ràng. Web cho phép các doanh nghiệp sử dụng tiềm năng không hạn chế của mình trong lĩnh vực quảng cáo về sản phẩm, dịch vụ, nắm bắt được xu thế phát triển của thị trường và các công nghệ mới. TMĐT giúp giảm chi phí tiếp thị và bán hàng, nhân viên tiếp thị có thể giao dịch với nhiều khách hàng. Người tiêu dùng và doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch. thời gian giao dịch qua Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua fax bằng 5% giao dịch qua bưu điện chi phí giao dịch qua Internet chỉ bằng khoảng 5% chi phí giao dịch qua fax hay chuyển phát nhanh. tiết kiệm thời gian có ý nghĩa sống còn đối với buôn bán, nhất là trong cạnh tranh hiện đại. TMĐT giúp thiết lập và củng cố quan hệ đối tác, thông qua mạng (Nhất là dùng Web) các bên tham gia có thể giao dịch trực tiếp và liên tục với nhau, gần như không còn khoảng cách địa lý, và thời gian, nhờ đó cả lĩnh vực hợp tác và quản lý đều được tiến hành nhanh chóng và liên tục. 2. Những thách thức đặt ra cho các công ty Thương mại điện tử ở Việt Nam Cơ hội mà thương mại Internet tạo ra là không thể phủ nhận, song nó cũng đưa ra nhiều thách thức cho các doanh nghiệp. Chi phí giao dịch giảm và thông tin phong phú sẽ làm giảm lợi nhuận cũng như lợi thế cạnh tranh của một số lĩnh vực kinh doanh. Đó là các ngành từ trước đã tận dụng được sự mất cân đối về thông tin giữa người mua và người bán như môi giới bất động sản và những ngành luôn phải ở gần khách hàng để giảm chi phí tìm kiếm và chi phí mua hàng của khách như ngành bán lẻ. Internet cho phép giảm chi phí xuất bản do đó có thể tạo ra một môi trường hỗn độn bởi quá nhiều thông tin. Khi đó sự chú ý của khách hàng cũng là yếu tố quan trọng với các doanh nghiệp. Cạnh tranh về giá cả cũng gia tăng vì các phần mềm có thể dễ dàng giúp xác định được các nhà cung cấp có giá rẻ nhất là các mặt hàng thông dụng. Để ứng phó với các thách thức của TMĐT tính hiệu quả cao, lợi nhuận giảm, sự quá tải thông tin…các nhà quản trị phải xác định lại các chiến lược kinh doanh, Sự bất bình đẳng liên quan đến việc truy nhập thông tin là sự bất bình đẳng nổi bật nhất giữa các doanh nghiệp của các nước đang phát triển và các nước phát triển. Hàng năm doanh nghiệp có tiềm năng của nước ta không thể thực hiện được lợi thế cạnh tranh của mình vì họ không thâm nhập được tới những thông tin liên quan đến thương mại. Họ không nắm được các cơ hội kinh doanh cũng như những thị trường tiềm năng. Việt Nam đang trong quá trình cắt giảm thuế quan theo Chương trình tự do hoá mậu dịch của các nước Asian(AFTA). Năm 1998 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái bình dương(APEC) và trong tương lai không xa sẽ có tư cách thành viên của WTO. Xu thế thương mại không giấy tờ dựa trên cơ sở trao đổi các dữ liệu điện tử đang mạnh dần. Nó cho phép xác định ngay lập tức các cơ hội xuất nhập khẩu và khả năng thiết lập ngay quan hệ với các nhà sản xuất- nhập khẩu tiềm năng đó. Tình trạng thiếu thông tin đôi khi dẫn đến những thiệt hại to lớn không thể tính hết trong kinh doanh. Việt Nam bước vào thế kỷ mới trong xu thế hoà nhập với thế giới và khu vực. Điều ấy cũng có nghĩa là chúng ta bước vào sân chơi, phải hiểu luật chơi của hình thức kinh doanh quốc tế. Đất nước ta lại đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Internet đã được triển khai tại Việt Nam nhất định sẽ là một công cụ đắc lực giúp các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung rút ngắn con đường hội nhập nền kinh tế thế giới. IV. Đánh giá chung rút ra từ thực tiễn phát triển TMĐT Việt Nam Thực tế nhiều năm qua, hầu như mọi thành phần kinh tế đều sử dụng điện thoại, fax…Trong các hoạt động giao dịch, kinh doanh, nhiều bộ, ngành như: hàng không, du lịch, kinh doanh, dầu khí…Đã trao đổi dữ liệu qua mạng máy tính dạng rộng, đó chính là các phương tiện của TMĐT. Khá nhiều doanh nghiệp sử dụng e-mail để trao đổi thông tin, hoặc tiến hành truy cập Internet để thu thập thông tin, tìm kiếm bạn hàng. Đặc biệt là quảng cáo trên mạng, xây dựng các Website để quảng cáo sản phẩm, dịch vụ, cũng như giới thiệu về bản thân doanh nghiệp của mình. Những việc mua bán qua mạng vẫn rất hạn chế do chưa hội đủ điều kiện để phát triển, các doanh nghiệp hiện còn chưa nhận thức đúng mức về tầm quan trọng của TMĐT trong hoạt động kinh doanh của mình. Thực tế này cho thấy, để hội nhập và bứt lên trong cuộc chạy đua kinh tế, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tập trung mọi nỗ lực để phát triển mạnh TMĐT trong thời gian tới. Siêu thị máy tính Bluesky ở Hà Nội là một trong những đơn vị tham gia vào hoạt động TMĐT sớm nhất, từ tháng 5/1999; Nhưng tỷ lệ giao dịch qua mạng Internet chỉ chiếm khoảng 2-5% trên tổng doanh thu của siêu thị. Trung bình mỗi tháng có khoảng 20-25 đơn đặt hàng qua mạng song vẫn tiến hành thanh toán theo phương thức thông thường, tức là trả bằng tiền mặt và kèm theo chứng từ trên giấy; Để vào thị trường lớn như nước Mỹ, một doanh nghiệp cần có lượng hàng đủ lớn để bán trên kênh thông thường, trong khi đa số các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô sản xuất vừa và nhỏ nên rất khó thâm nhập. Và để quảng bá một nhãn hiệu hàng hoá đến thị trường Mỹ thì cần đến khoảng 200 triệu USD cho một chiến dịch quảng cáo khá tốn kém. Đây là một khoản mà hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đều không thể. Do kênh bán hàng này đắt đỏ như vậy nên chi phí trong các khâu xuất nhập khẩu, bán buôn và bán lẻ lên đến 100-200%giá trị ban đầu: Một đôi giày thể thao chúng ta xuất khẩu khoảng 5USD sang thị trường Mỹ nếu bán rẻ cũng lên đến 20-30USD/ đôi. Song nếu ta có Website bán trực tuyến thì ta vượt qua cả ba công đoạn trong quá trình tiêu thụ hàng hoá trên tiến thẳng đến người tiêu dùng Mỹ. V. Một số điều cần lưu ý khi doanh nghiệp muốn tham gia TMĐT. 1.Vấn đề lựa chọn tên miền của doanh nghiệp trên Internet Hệ thống tên miền có thể coi là một “danh bạ điện thoại ảo” cũng giống như trong danh bạ, mỗi người có một cái tên và một số điện thoại tương ứng, mỗi máy tính kết nối với Internet đều có một tên miền và một con số giao thức Internet (Internet Protocol-IP). Khi lựa chọn tên miền cần xem xét các vấn đề sau: Quy định đăng ký tên miền: Tên quốc tế hay quốc gia; Việc đặt tên miền. quy định của pháp luật Việt Nam không cần việc đăng ký tên miền ở nước ngoài. Đây là điều hợp lý, bởi nội dung thông tin nằm ở các trang web chứ không phải ở tên miền. Hiện tại ở Việt Nam, một số nhà ISP cung cho phép bán để những web site có tên miền quốc tế. Ngoài ra, việc chuyển giao tên miền từ nước ngoài về phải do tự bản thân làm lấy. Trong khi ở nước ngoài việc chuyển tên miền từ máy chủ sang máy chủ khác do phía máy chủ mới tự làm và thường là miễn phí. Do đặc điểm của Internet là không có giới hạn về khoảng cách, nên có thể thuê tên miền của một nước khác và ngược lại người nước ngoài có thể thuê chỗ để trang web của mình trên máy chủ ở Việt Nam. Điều quan trọng là giá cả và chất lượng dịch vụ. Theo số liệu của Network solutions, hai nước có số người đăng ký tên miền quốc tế nhiều nhất là Trung Quốc và Ấn Độ. Đây cũng là một nguyên nhân làm cho Internet của hai nước này phát triển rất nhanh. Khi có càng nhiều người đăng ký tên miền thì có nghĩa là có nhiều người quan tâm đến việc kinh doanh trên Internet và phát triển ra thị trường nước ngoài. Tên miền được phân làm ba nhóm: Tên miền quốc tế, tên miền quốc gia, tên miền thứ cấp Tên miền quốc tế mà có thể đăng ký trong thời điểm hiện tại là: Com.(Thương mại); Net(Mạng máy tính); Org (Tổ chức). mới đây có thêm hai tên mới nữa là TV và WS (Website). Tên miền quốc tế do một đơn vị duy nhất quản lý đó là: Tổ chức ICANN quản lý và công ty chính đảm trách việc quản lý đăng ký là Network solutions. Giá để có tên miền trong thời gian hai năm là 70USD (35USD/ năm) và có thể thanh toán bằng séc hoặc thẻ tín dụng. Những nơi cho thuê chỗ để trang web cũng cho phép đăng ký tên miền với phí đăng ký khoảng 25USD hoặc miễn phí. Nhưng phải chú ý thêm dòng “Internic charge is not included. Internic will bill you separately”. Điều này có nghĩa là bạn vẫn phải trả tiền thuê tên miền cho Internic (Inter network information center) và mọi vấn đề liên quan đến tên miền cũng như thanh toán phải làm việc trực tiếp với Network solutions (Hai năm trả một lần với giá 35USD/ năm). Sau khi đã có tên miền, có thể chuyển về máy chủ nơi lưu trữ các trang web của công ty. Bởi vì tên miền có thể chuyển đi, chuyển lại bao nhiêu lần cũng được và thường việc chuyển giao là miễn phí thời gian từ lúc đăng ký đến lúc có tên miền mất khoảng 24 tiếng. Trong một số trường hợp đặc biệt thì mất khoảng 48 tiếng. Mỗi nước có tên miền quốc gia đặc trưng riêng và do nước đó quản lý. Ví dụ: VN là của Việt Nam; SG của Singapo; JP của Nhật Bản…Giá đăng ký tên miền quốc gia thường cao hơn tên miền quốc tế. Có thể đăng ký tên miền của Trung Quốc hay Nhật Bản nếu có lợi cho kinh doanh của công ty. Phí dịch vụ đăng ký tên miền của các nhà ISP Việt Nam ở thời điểm hiện tại vào khoảng 500.000Đ và phí duy trì tên miền khoảng 1.200.000đ/ năm. Thời gian để có tên miền mất khoảng 20 ngày. Tên miền thứ cấp là tên miền nằm dưới một tên miền khác. Tên miền thứ cấp của VDC có dạng: Tên-công-ty.VNN.VN. Giá thuê tên miền thứ cấp gần bằng thuê tên miền quốc gia (khoảng 1.200.000đ/năm). Việc đặt tên miền nên lựa chọn phù hợp với nội dung kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Hiện tại trên thế giới có khoảng 150 triệu tên miền đang chiếm giữ. Chính vì thế việc đầu tiên là phải kiểm tra xem tên miền đăng ký có còn không. Rõ ràng, vấn đề tên miền là rất phức tạp, nhưng việc thiết lập một chuẩn tên miền chung là vô cùng quan trọng và không thể lảng tránh trong kỷ nguyên công nghệ thông tin mà các doanh nghiệp đang tiến đến. 2. Một số vấn đề khác khi doanh nghiệp tham gia hoạt động bán hàng bằng hình thức TMĐT TMĐT điện tử dễ dàng bắt đầu song rất khó thực hiện tốt. Khi tham gia vào TMĐT doanh nghiệp phải tính đến khả năng mà doanh nghiệp phải tốn kém chi phí đầu tư ban đầu là rất lớn. Tuy vậy, việc nắm bắt xu hướng phát triển của thế giới, đi trước những người khác một bước, và xây dựng một tầm nhìn tương lai là một điều cần thiết để doanh nghiệp phát triển lâu dài. Đầu tư cho hạ tầng công nghệ, hệ thống phát triển lâu dài, hệ thống phát triển TMĐT, cũng như đào tạo nguồn nhân lực có tri thức cao như hiện nay quả là điều không dễ dàng đối với doanh nghiệp, nhưng khi đã làm được điều này, thì mới hứa hẹn đang mở ra trước mắt. Đó là triển vọng mở rộng quan hệ làm ăn với thế giới bên ngoài, những cơ hội mới. Nhưng nếu thất bại thì chi phí cơ hội mất đi ngay từ ban đầu là rất lớn, và sẽ mất tất cả. Xây dựng hệ thống mạng nội bộ LAN, hệ thống mạng ngoại bộ và diện rộng (Để tích hợp những đối tác, khách hàng, nhà cung cấp, tạo nên một hệ thống cơ cấu quản trị marketing thống nhất, hệ thống kết hộp cả liên kết ngang lẫn liên kết dọc). Và sau đó, không gì khác là thiết kế một trang web của công ty, địa chỉ giao dịch, và tất cả những thành phần trợ giúp doanh nghiệp thực hiện quá trình giao dịch trực tuyến. Nhưng liệu khách hàng có bỏ ra một phút để kích vào trang web xem xét những sản phẩm được giới thiệu không? Vậy thì, doanh nghiệp phải làm thế nào để mọi cư dân trên Internet biết được? Đây là những viên gạch đầu tiên xây dựng về danh tiếng công ty. Thông qua một số cơ chế tự động truy tìm thông tin thoả mãn một số yêu cầu đã định sẵn của các máy truy tìm thông tin như trên, người sử dụng Internet sẽ tối thiểu hoá về chi phí việc tìm kiếm những thông tin cần thiết. Đương nhiên, một website hợp lý, ấn tượng, lôi cuốn, đơn giản…là vấn đề cực kỳ quan trọng. Và tạo cho khách hàng một lòng tin đầu về sự an toàn mà trang chủ của công ty có thể đem lại cho họ sau này cùng những chứng chỉ về chất lượng sản phẩm mà công ty có. Sau khi xây dựng website, khách hàng sẽ tiếp tiếp cận sản phẩm thông tin qua hình vẽ, những lời mô tả, giới thiệu, sơ đồ, cấu tạo, các Video clip…Với các sản phẩm vô hình sẽ đơn giản hơn nếu như có thể cho khách hàng dùng thử sản phẩm phần mềm miễn phí, hay Shareware, hoặc sử dụng phương thức dùng trước thanh toán sau… Kế hoạch phải luôn được vạch ra một cách chính xác và linh hoạt, doanh nghiệp không nên cố gắng thực hiện toàn bộ kế hoạch kinh doanh trực tuyến trước khi phát hiện những trở ngại gây khó khăn. Dell Computer là một công ty sinh sau đẻ muộn so với những công ty máy tính hàng đầu như Apple, IBM, Compaq…Thế nhưng ngay từ khi thực hiện TMĐT Micheal Dell (Chủ tịch công ty) đã xây dựng một quan điểm kinh doanh là tập trung vào bán các sản phẩm máy tính trực tuyến) Với tư tưởng chủ đạo; “Bán máy tính trực tiếp đến tay người tiêu dùng, vì vậy có thể thấu hiểu tốt nhất nhu cầu của khách hàng và cung cấp giải pháp đầy đủ nhất hiệu quả nhất đáp ứng nhu cầu đó”), nơi mà thị trường còn đang là để ngỏ mà những hãng lớn chưa để mắt tới. Chỉ sau một thời gian ngắn, năm 1999 doanh thu của công ty đã lên đến 28,5 tỷ USD, với 37.000 nhân viên trên 170 nước, và là nhà cung cấp PC lớn thứ hai trên thế giới và một số thị trường Mỹ. mục tiêu mà Dell đạt được thể hiện ở việc 50% hàng được bán qua mạng Internet, 50% hỗ trợ kỹ thuật qua mạng, 76% giao dịch được thực hiện qua mạng. đặc điểm lớn đáng để học hỏi đó là: thiết kế, chế tạo sản phẩm, cung cấp dịch vụ theo yêu cầu của từng đối tượng khách hàng: Chủng loại sản phẩm, dịch vụ rất phong phú và đa dạng, và tuy 65% thu nhập là từ doanh nghiệp lớn và vừa, tuy nhiên vẫn tập trung phục vụ cả các hộ gia đình và các doanh nghiệp nhỏ. Trong khi môi trường kinh doanh điện tử đang còn nhiều bất cập về rất nhiều mặt, và còn nhiều rủi ro, thì doanh nghiệp không thể không tính đến việc duy trì mô hình kinh doanh trên hai hệ thống thương mại: Kinh doanh truyền thống và hoạt động TMĐT. Hai hình thức này cùng tồn tại sẽ tạo những bước hậu thuẫn cho nhau, hỗ trợ cho nhau lấp những khiếm khuyết mà mỗi hình thức luôn tiềm ẩn. Điều này giúp cho công ty mua bán qua mạng tránh được rủi ro. Thị trường thực tế thường bị giới hạn bởi khu vực địa lý, nơi mà có các đại lý hoặc chi nhánh của công ty trực tiếp đứng ra thực hiện quá trình giao dịch với khách hàng, thường thì đây là khu vực thị trường trong nước. Duy trì khu vực thị trường này, là nhằm tạo cho doanh nghiệp có một lượng khách hàng truyền thống, khách hàng trung thành. Khu vực thị trường này mang tính ổn định khá cao. Sự tăng trưởng khu vực truyền thống này tuỳ thuộc vào sự thay đổi tập quán tiêu dùng của thị trường. Đây cũng là nơi mà công ty khẳng định sự đánh giá của khách hàng về sản phẩm của mình về chất lượng, dịch vụ, khả năng thoả mãn nhu cầu thị trường…Là tiền đề đưa hàng hoá đó lên khu vực thị trường mới, thị trường Internet, nơi tập trung khách hàng không chỉ truyền thống mà cả những khách hàng tiềm năng. Không giới hạn về dung lượng thị trường, thành phần thị trường đa dạng, cơ cấu phức tạp, mang tính quốc tế. Như vậy, không hẳn những gì thành công trong thị trường truyền thống của công ty lại có thể áp dụng thành công trên thị trường ảo. Bởi tính chất của nhu cầu thị trường đã đổi khác, mở rộng, phức tạp và khó ước đoán hơn …Công ty sẽ phải phân chia thị trường theo từng khu vực địa lý, trong từng khu vực ấy, sẽ có những đoạn thị trường có thể đáp ứng được. Mỗi đoạn thị trường cần có những chính sách Marketing riêng biệt. Ngoài ra, công ty còn có thể đi sâu hơn nữa với đoạn thị trường mục tiêu, đó là chính sách Marketing chuyên biệt hoá, cá biệt hoá đến từng cá nhân khách hàng mục tiêu. Đối với các thư khiếu nại, hỏi đáp, hay hỗ trợ kỹ thuật trực tuyến của khách hàng, doanh nghiệp nên tiến hành lên kế hoạch trả lời tất cả những email được gửi đến trong vòng 24 giờ, thể hiện sự tận tuỵ, nghiêm túc trong công việc và là tôn trọng khách hàng, đây là cách xây dựng lòng tin tốt nhất và đem lại cho doanh nghiệp lợi thế cạnh tranh. Vào những dịp lễ đặc biệt, một bức thư điện tử hỏi thăm, một lời chào, một lời chúc quan tâm đến khách hàng, chắc chắn sẽ làm khách hàng chú ý và luôn nhớ đến doanh nghiệp khi có một chiến dịch tiếp thị mới, ngoài những khách hàng mới cần lôi kéo, doanh nghiệp có thể tính đến việc gửi email cho cả khách hàng cũ nhằm thu hút được một tỷ lệ lớn sự quay trở lại site của khách hàng. Và đó là kết quả bán hàng tốt nhất của doanh nghiệp Chương 3 Một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển thương mại điện tử và hoạt động bán hàng bằng hình thức thương mại điện tử Nâng cao nhận thức về TMĐT Con đường nâng cao nhận thức về TMĐT ở Việt Nam a. Khối chủ thể chính phủ Để nâng cao nhận thức về TMĐT ở Việt Nam, khối đi tiên phong phải là khối chủ thể Chính phủ. Trước hết cần hoạch định chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp thử nghiệm, khai thác Internet. Qua những việc thử nghiệm này, các doanh nghiệp mới có điều kiện so sánh giữa phương thức cũ và phương thức mới. Thực tiễn chính là môi trường tốt nhất cho việc nâng cao nhận thức về TMĐT. Ngoài ra, theo kinh nghiệm tổng kết của nước ngoài. Chính phủ cần khuyến khích mọi biện pháp nhằm nâng cao nhận thức về TMĐT cho mọi thành phần trong xã hội như: in và phổ biến sách báo nói về TMĐT, cung cấp các chương trình giáo dục và đào tạo về TMĐT phù hợp với từng lứa tuổi, từng loại đối tượng; tổ chức các cuộc hội thảo về TMĐT để các doanh nghiệp để các doanh nghiệp đã đi trước, có kinh nghiệm về TMĐT hướng dẫn, phổ biến kinh nghiệm cho các doanh nghiệp đi sau triển khai áp dụng TMĐT có hiệu quả hơn. Cần chủ trương giảm đáng kể các chi phí trong quá trình thực hiện như: khai thác thông tin trên Internet, chi phí truyền thông, chi phí mở những Website chuyên đề về TMĐT. Qua đó tạo ra nhu cầu, mong muốn và hứng thú để các doanh nghiệp áp dụng TMĐT trong công việc kinh doanh. Như vậy với khối chủ thể Chính phủ bên cạnh việc cần chuẩn bị lại kiến thức về TMĐT cập nhật và nâng cao nhận thức về lĩnh vực này thì Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, thúc đẩy để sớm đạt được ba chỉ tiêu nói trên. b. Khối chủ thể doanh nghiệp Do cộng đồng các doanh nghiệp Việt Nam nhận thức về TMĐT không đồng đều, nên chúng ta sẽ nghiên cứu theo hai loại: doanh nghiệp hạt nhân hay doanh nghiệp có quan tâm chuẩn bị về TMĐT và các doanh nghiệp khác, doanh nghiệp hạt nhân tuy rất ít nhưng đã có chuẩn bị một số cơ sở vật chất, nhân lực để tham gia TMĐT. Đối với các doanh nghiệp này cần nâng cao kiến thức TMĐT cho họ chứ không cần trang bị các kiến thức cơ bản, họ cần được khuyến khích để tham gia vào thử nghiệm TMĐT do nhà nước chỉ đạo, đầu tư. Nhà nước có thể cung cấp Website cho họ thử nghiệm TMĐT với những nội dung ban đầu đơn giản như cung cấp thông tin sản phẩm, dịch vụ, tìm kiến bạn hàng, thư tín thương mại…Từ những thử nghiệm thành công của họ và nhânn diện rộng, tạo ra những hình ảnh mẫu. Với phần đông các doanh nghiệp còn lại, có thể nói nhận thức về TMĐT hầu như chưa có hay nếu có thì chưa chuẩn bị nên việc phổ cập kiến thức cơ bản cho khối chủ thể này là rất quan trọng. Thể hiện qua 4 mức sau: *Với các doanh nghiệp ở mức 1 Không có cơ sở vật chất cho TMĐT như máy tính, máy điện thoại, máy fax thì cần cho họ nhận thức thấy tác dụng của chúng và từ đó đầu tư mua sắm. Bên cạnh đó cần tiến hành các biện pháp trang bị các kiến thức về TMĐT cũng như tạo cho họ sự hiện diện trên Website trên Internet để môi trường kinh doanh bên ngoài tác động vào họ, hiện có tới 60% doanh nghiệp Việt Nam đang ở mức này. *Với các doanh nghiệp mức 2 Đã có cơ sở vật chất cần thiết (như đã nói ở trên) nhưng chưa kết nối truy cập mạng Internet thì cần đáp ứng nhu cầu thông tin nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, đồng thời cũng mở ra khả năng cung cấp cho họ các cơ hội để làm quen với cách buôn bán hiện đại trên mạng. Với các doanh nghiệp loại này tham gia TMĐT chủ yếu là để trao đổi tin tức. Qua khảo sát số doanh nghiệp loại này chiếm khoảng 30%. *Với các doanh nghiệp mức 3 (Chiếm 10%) Đã có sự hiện diện trên website ở Internet nhưng họ chưa biết sử dụng website đó để tiến hành TMĐT, cần có sự hỗ trợ, thúc đẩy để họ nhanh chóng tham gia vào TMĐT bằng cách cung cấp những cơ hội kinh doanh, gỡ bỏ các cản trở, tạo các công cụ và biện pháp hỗ trợ. *Với các doanh nghiệp ở mức 4(0%) Doanh nghiệp đang tiến hành TMĐT, đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt về tính bảo mật, an toàn, môi trường pháp lý, phòng rủi ro… c. Khối chủ thể người tiêu dùng Người tiêu dùng tham gia vào TMĐT trong quan hệ với doanh nghiệp có bán lẻ hàng hoá, thông tin sản phẩm, dịch vụ online, mở rộng phát triển thị trường, trong quan hệ với chính phủ gồm có các quan hệ về thuế, giấy phép, thông tin phúc lợi và giữa những người tiêu dùng với nhau như các vấn đề về thanh toán tiền mặt, bán đấu giá online, mua bán đồ đã qua sử dụng. Bảo vệ người tiêu dùng là mục tiêu ngày càng cao trong thương mại. Quy cách, phẩm chất hàng hoá và thông tin có liên quan trong TMĐT đều ở dạng số hoá, nên người mua có thể chịu rủi ro lớn hơn so với giao dịch thương mại vật thể. Dễ bổ trợ, phải có cơ chế trung gian bảo đảm chất lượng. Đây là một khía cạnh đang nổi lên trước nhiều rủi ro ngày càng gia tăng trong giao dịch TMĐT, gây thiệt hại đến quyền lợi người tiêu dùng. 2. Những biện pháp nâng cao nhận thức về TMĐT 2.1. In và phổ biến sách về TMĐT Ở Việt Nam hiện nay, TMĐT còn là một vấn đề hết sức mới mẻ, do đó, để phổ cập một kiến thức cơ bản về vấn đề này cần phải phát hành các loại sách chuyên ngành về ứng dụng công nghệ thông tin vào lĩnh vực thương mại. phát hành sách về TMĐT sẽ mang đến cho bạn đọc những thông tin về TMĐT một cách có hệ thống nhất, đầy đủ và chính tắc. Tuy nhiên bằng biện pháp phát hành sách chúng ta mới chỉ đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu nghiên cứu của các cán bộ trong các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan nghiên cứu và đào tạo, các bộ, ngành có liên quan đến hoạt động TMĐT. Những người đi tiên phong trong lĩnh vực này. Riêng đối với các đối tượng như: người tiêu dùng, các doanh nghiệp nhỏ, tư thương…thì biện pháp phát hành sách chưa đạt hiệu quả cao. 2.2. Viết báo, đăng bài, tuyên truyền về TMĐT Biện pháp phát hành sách có thể cung cấp nhiều thông tin đến bạn đọc, song đối tượng đọc lại không thể rộng rãi như việc đăng báo, mặc dù đăng báo cũng có hạn chế của nó như thông tin không tổng quan và đầy đủ, thông tin quá chắt lọc và mỗi bài báo chỉ có thể đề cập đến một vấn đề nhỏ, bạn đọc muốn có nhận thức đầy đủ phải mất công sưu tập…theo trung tâm thông tin thương mại, các ý kiến phản hồi về các bài báo chưa nhiều. 2.3. Tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng: Đài phát thanh, tivi Ở Việt Nam hiện nay, đài và tivi là những phương tiện thông tin đại chúng, phát triển cả ở thành thị và nông thôn với khối lượng người nhận tin rất lớn. Do vậy đây là một phương tiện cần thiết và hiệu quả 2.4. Xây dựng website trên mạng thương mại Hình thức này chủ yếu nhằm vào các đối tượng sử dụng hệ thống máy tính trong các giao dịch thương mại của mình. nội dung của website có thể gồm những thông tin ban đầu về TMĐT, sách và các bài báo đã được đăng trong và ngoài nước, diễn đàn trao đổi, thảo luận…hiện nay trung tâm thông tin thương mại đã xây dựng được một website như vậy tuy quy mô chưa lớn, bước đầu đã cung cấp cho người dùng những kiến thức cơ bản và trả lời được những vướng mắc của họ khi có nhu cầu tìm hiểu kỹ về vấn đề này. Theo thống kê không đầy đủ, tính đến ngày 4/5/2000, có khoảng hơn 100 lượt người truy cập vào trang thông tin này tại Việt Nam 2.5. Tổ chức các hội thảo về TMĐT Hình thức này thu hút được nhiều thành phần xây dựng tham gia. Tại đây, đại biểu có thể tiếp thu được những ý kiến, quan điểm khác nhau về TMĐT, chất lượng thông tin thường cao, hiệu quả và mất ít thời gian hơn so với tự đọc sách và nghiên cứu. Họ cũng có thể đặt ra các câu hỏi và trao đổi thảo luận làm cho các kiến thức hiểu biết khác thêm sống động. Qua những lần tổ chức hội thảo này, có thể giới thiệu các mô hình TMĐT cụ thể để giới thiệu, cũng có thể chọn một số doanh nghiệp có khả năng để làm thí điểm và báo cáo kinh nghiệm trong hội thảo. tuy nhiên, hình thức này lại rất tốn kém về tài chính và công sức tổ chức, nên chăng song song với việc tổ chức các hội thảo ta nên thí điểm tổ chức các lớp tập huấn, phổ cập kiến thức. II. Xây dựng cơ sở hạ tầng 1. Xây dựng hạ tầng cơ sở pháp lý Một trong những thách thức cần phải được giải quyết ngay là xây dựng một khung pháp luật cho các hoạt động thương mại và mua bán nói riêng tiến hành thông qua các phương tiện điện tử và đặc biệt là các giao dịch thông qua mạng Internet. Khung pháp lý cần có tính thống nhất để có thể điều chỉnh không phân biệt mục đích tiêu dùng hay kinh doanh, không phụ thuộc vào công nghệ được sử dụng cho giao dịch. mặt khác, tính thống nhất của khung pháp luật về mặt TMĐT còn phải được thể hiện sự thống nhất cả ở trong nước lẫn phạm vi toàn cầu. Bên cạnh đó, khung pháp lý đặt ra phải là một môi trường pháp lý linh hoạt và rõ ràng, tránh sơ cứng, không phát huy được những ưu thế vốn có của các giao dịch, tránh việc người sử dụng phải tuân thủ quá nhiều thủ tục phiền hà. Việc cân bằng giữa lợi ích của nhà nước và lợi ích phát triển của TMĐT cũng cần được đặt ra. Chúng ta không có những ưu thế về cơ sở hạ tầng công nghệ, vì vậy, pháp luật cũng phải tiên liệu những thách thức, rủi ro gặp phải khi tham gia môi trường. Lợi ích của nhà nước thể hiện ở việc quy định những chính sách về thuế, hải quan- nhưng đây là vấn đề rất nan giải trong điều kiện hoạt động TMĐT không biên giới. Để hoàn thành nhiệm vụ tạo ra nền tảng pháp lý cho các hoạt động thương mại trên siêu xa lộ thông tin toàn cầu, chính phủ nên tạo điều kiện cho việc phát triển các quy tắc và điều luật đơn giản và có thể dự đoán được của quốc gia cũng như của quốc tế. Hiện nay, Uncitral (United Nations Commision on International Trade Law- uỷ ban luật thương mại quốc tế của liên hợp quốc) đã hoàn thành một luật mẫu về TMĐT mở đường cho việc sử dụng các thủ tục điện tử, góp phần xây dựng sự thừa nhần về pháp lý đối với TMĐT. Đây có thể coi là một dự thảo luật mẫu về những vấn đề chủ yếu và cốt lõi nhất của luật thương mại. nội dung của dự luật mẫu này gồm các vấn đề sau: + Giá trị pháp lý của các hình thức thông tin điện tử +Giá trị pháp lý của chữ kỹ điện tử + Vấn đề bản gốc +Vấn đề pháp luật về hợp đồng +Chính sách thuế +Vấn đề hải quan +Bảo vệ người tiêu dùng +Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ +Bảo vệ bí mật cá nhân + Vấn để giải quyết tranh chấp liên quan đến TMĐT Sau cùng, do thương mại ngày càng đậm nét tính toàn cầu, và việc các doanh nghiệp có xu hướng lựa chọn các quy định pháp luật rõ ràng, minh bạch và đơn giản nhất là điều chỉnh giao dịch thương mại của mình ngày càng trở nên phổ biến. Vì vậy việc lựa chọn pháp luật cần phải được đặt ra. Tức là pháp luật nước ta cần có quy định mới đối với việc lựa chọn pháp luật cho các TMĐT với điều kiện vẫn đảm bảo với lợi ích kinh tế và các lợi ích liên quan khác của quốc gia cũng như các doanh nghiệp 2. Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ Hiện nay, CNTT đã trở thành một lĩnh vực thiết yếu của đời sống kinh tế Việt Nam. Nhưng khi công nghệ thông tin đã trở nên phổ biến, đất nước ta lại đứng trước những thách thức mới của TMĐT nhiều vấn đề khác có liên quan đến nền kinh tế số. Vậy làm thế nào để ứng dụng công nghệ thông tin- Một lĩnh vực đang tiến bộ hết sức nhanh chóng- Một cách hiệu quả vào các hoạt động của các doanh nghiệp trên một môi trường kinh doanh cũng luôn thay đổi, luôn xuất hiện những nhu cầu mới… Đối với các bộ phận hạ tầng cơ sở như: hạ tầng cơ sở truyền thông (Mạng đường truyền telephone có dây và không dây, vệ tinh…) hạ tầng cơ sở internet (Các chuẩn mở, giao thức, các điểm kết nối…)phần mềm và các công cụ internet (Các ngôn ngữ, các công cụ phát triển…) phải được hình thành các tiêu chuẩn nhằm tạo khả năng kết nối và liên thông trên mạng. Xây dựng cơ sở hạ tầng về bảo vệ hệ thống bảo mật thông tin trên mạng và các hệ thống ngăn chặn sự truy cập trái phép “Fire wall” từ bên ngoài đảm bảo tính riêng tư cho khách hàng. Các tiêu chuẩn công nghệ xây dựng phải đảm bảo an toàn, bí mật và thuận lợi cho khách hàng, tiến tới theo đúng tiêu chuẩn quốc tế nhằm mục đích tạo dựng được các tiêu chuẩn giao diện tương thích giữa các ngân hàng hay tổ chức tín dụng, tăng cường khả năng quản lý và khai thác vốn trong nghành tài chính ngân hàng- hệ thống viễn thông phải được cải tiến với băng thông truyền lớn nhưng giá phải rẻ để tạo cho các ngân hàng khả năng cạnh tranh thông qua các dịch vụ và các kênh phân phối của hệ thống bảo mật an toàn mã hoá cũng phải đưa ra các tiêu chuẩn cùng với chữ ký điện tử và các mẫu chứng từ (Form) TTĐT tạo ra tiếng nói chung cho ngành ngân hàng để đảm bảo tính toàn vẹn dữ liệu của mình- hệ thống lưu trữ thông minh (Lưu chữ bằng thư viện) đảm bảo một phần trong việc chống gian lận tại chỗ và các kẻ đột nhập từ bên ngoài vào hệ thống đồng thời ngăn chặn được sự phá hoại của virus- hệ thống ngăn chặn sự truy cập trái phép phải được áp dụng như hệ thống Fire wall đảm bảo được sự an toàn cho thông tin khách hàng và loại bỏ được những hành vi và ý đồ xấu của những kẻ phá hoại. Để giải quyết những vấn đề có hiệu quả nhà nước cần ban hành những chính sách, quy định cụ thể để tạo môi trường và các điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của các doanh nghiệp III. Phương hướng hoạt động và một số ý kiến đề xuất nhằm phát triển Thương mại điện tử tại Việt Nam 1.Những nhận định chung Ở nước ta việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các ngành kinh tế không còn là một điều mới mẻ. Hầu hết các nhà doanh nghiệp đều hiểu lợi ích của việc ứng dụng công nghệ thông tin nhưng không ít doanh nghiệp vẫn còn lúng túng trong triển khai. Có lẽ một phần là do nhà nước chưa có đủ các chính sách, quy định, hướng dẫn khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực này. Một lý do cũng rất quan trọng là các doanh nghiệp chưa chủ động nghiên cứu áp dụng tin học, chưa có thói quen quản lý điều hành bằng thông tin, chưa có khoa học đầu tư vốn và đào tạo cán bộ, nhân viên tương xứng. Trong thời gian tới các doanh nghiệp cần phải đổi mới phong cách hoạt động kinh doanh, quản lý điều hành phù hợp với xu thế của thời đại công nghệ thông tin. Các doanh nghiệp cần nghiên cứu để đưa ra chiến lược, kế hoạch triển khai thích hợp, vận dụng hài hoà chiến lược về công nghệ thông tin trong chiến lược hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. bên cạnh việc đầu tư thích đáng vào trang bị hợp lý hệ thống tin học( phần cứng, phần mềm, truyền thông…) cần chú trọng vấn đề đào tạo để có được đội ngũ cán bộ nhân viên có đủ trình độ để sử dụng. Khai thác hiệu quả hệ thống tin học của doanh nghiệp. 2. Phương hướng phát triển Việc chuyển tử kinh doanh truyền thống sang kinh doanh điện tử không đơn thuần chỉ là việc bán hàng thông qua mạng toàn cầu mà là một bước biến đổi cả một tổ chức kinh doanh nhằm tận dụng lợi thế tiềm tàng của internet, hoàn thiện hơn tổ chức nội tại của doanh nghiệp và gắn kết chặt chẽ hơn nữa với khách hàng, nhà hàng cung cấp và các đối tác kinh doanh. Mục tiêu của việc tiến hành kinh doanh điện tử đối với các doanh nghiệp là sử dụng Web để nâng cao khả năng xử lý những giao dịch và thông tin quan trọng liên quan đến những dữ liệu tài chính, dịch vụ bán hàng, sản xuất, phân phối, quản trị nhân lực và quan hệ khách hàng. Trái với suy nghĩ của nhiều người, kinh doanh điện tử không phải là một thực thể hoàn toàn độc lập với kinh doanh truyền thống. Nó đơn giản là hình thức kinh doanh áp dụng những lợi thế của một môi trường công nghệ mới. Cũng như trong kinh doanh truyền thống, những công ty thành công trong kinh doanh điện tử thường là những tổ chức có chiến lược kinh doanh ở cấp vĩ mô được nghiên cứu kỹ lưỡng, nhằm vào việc cung cấp những dịch vụ hoàn hảo tới một nhóm khách hàng nhất định. Cũng giống như việc phát triển một chiến lược kinh doanh trong nền kinh tế truyền thống, chiến lược kinh doanh điện tử của bạn cũng bắt đầu bằng việc xem xét vị thế công ty mình trên thị trường, bao gồm những điểm mạnh, điểm yếu; sản phẩm và các kênh phân phối; những thách thức do cạnh tranh mang lại cũng những cơ hội mới trên thị trường và các nhân tố khác. Và chắc chắn là, bạn cũng cần phải xem xét những cơ hội và thách thức từ những đối thủ cạnh tranh trên internet. Một chiến lược kinh doanh thành công hay thất bại cũng phụ thuộc vào khả năng doanh nghiệp có làm tốt không những chức năng mà cũng đặt ra với kinh doanh truyền thống, như là thực hiện đơn hàng và quản lý dây truyền cung ứng Chẳng hạn như việc xây dựng một website thương mại điện tử trông hấp dẫn sẽ chẳng mấy mang lại lợi ích khi mà website này mang lại hàng tá đơn đặt hàng, song bộ phận sử lý đơn hàng lại không thể giao hàng nhanh chóng. Những website thương mại điện tử thời gian đầu tiến hành công việc xử lý đơn hàng chẳng khác mô hình kinh doanh truyền thống là mấy. Thông thường các đơn hàng được xử lý bằng tay trong các công đoạn như: nhập liệu, gửi đi, in lời xác nhận, quyết định xem sản phẩm nào sẵn sàng để xuất đi… Cho tới thời gian gần đây thì cách thức duy nhất để tự động hoá những quá trình này là thông qua hệ thống lập kế hoạch tốn kém của doanh nghiệp với chi phí lên tới hàng triệu USD và tốn khá nhiều thời gian để đi vào vận hành. Khi một khách hàng đặt hàng và hàng trong kho có đủ, quy trình xử lý sẽ tiến hành kiểm tra tài khoản phải trả của khách hàng và nếu đạt yêu cầu, một lệnh xuất hàng sẽ được in ra và gửi tới kho hàng. Quá trình này được thực hiện một cách chi tiết trong việc kiểm tra tình trạng tín dụng của khách hàng, không chỉ vào thời gian đặt hàng mà còn vào lúc hàng được xuất đi. Có thể có trường hợp, khi một công ty mua hàng và nhận hàng từng phần trong thời gian 6 tháng, trong thời gian này nếu tình trạng tín dụng của công ty xấu đi, số lượng hàng chưa giao sẽ được ngưng lại. Hệ thống xử lý cũng sẽ tự động in những nhãn mác hàng hóa và những giấy tờ khác phù hợp với những quy định trong hợp đồng và pháp luật. Hoá đơn sẽ được in ra ngay khi hàng được đặt mua Vì vậy khi lập chiến lược phát triển bán, việc đầu tiên mà một tổ chức cần cân nhắc là “Cái gì là ích lợi chủ yếu, không phải là về lĩnh vực kinh doanh trên mạng cho hoạt động kinh doanh chung của công ty?”. Hiện nay nhiều Website TMĐT trực tuyến từ doanh nghiệp tới khách hàng và các nước trong khu vực cho đến nay chưa sinh lời. Nếu mục tiêu của doanh nghiệp là bán được nhiều hàng hơn nữa thì hãy xem Internet là kênh bán hàng thứ hai hỗ trợ các kênh và các cách thức bán hàng truyền thống. Đương nhiên là việc dựa vào Internet để có thể bán được thêm bao nhiêu hàng tuỳ thuộc rất nhiều vào bản thân loại hình sản phẩm (Sản phẩm có kết cấu vật lý đòi hỏi giao hàng tận nơi trong khi sản phẩm số hoá có thể chuyển giao ngay trên mạng), thị trường mà công ty hướng tới và vào ngân quỹ tiếp thị của doanh nghiệp. Việc giao hàng quốc tế có lẽ là một trong những vấn đề khó khăn nhất vì đòi hỏi cả một mức giá cả phù hợp lẫn thời gian giao hàng nhanh chóng. Trong điều kiện đó việc thuê các hãng chuyển phát nhanh có thể là quá đắt đỏ. Thay vào đó doanh nghiệp có thể nghiên cứu các thị trường mục tiêu để có thể tìm ra một biện pháp tối ưu. Chẳng hạn ký hợp đồng với các nhà vận chuyển ở từng địa bàn, lợi ích của việc lập kế hoạch tốt cho mỗi giải pháp TMĐT sẽ làm giảm phí tổn và bán được nhiều hàng hơn. Dù sao trước khi tham gia vào TMĐT, doanh nghiệp hãy tự đặt cho mình câu hỏi lớn: tạo sao? Và như thế nào mà xác định sự quan trọng của internet đối với doanh nghiệp? Bởi khi đã có sự thống nhất từ cấp cao nhất xuống dười thì hiệu quả việc khai thác internet của doanh nghiệp không còn chỉ là việc sử dụng hiệu quả của từng cá nhân mà trở thành hiệu quả sử dụng đồng bộ của cả tập thể. Một khi các doanh nghiệp có thể xác định được điều này và chuẩn bị kế hoạch chiến lược có cấu trúc tốt, công ty hãy bắt đầu lên đường. Kết luận Thương mại điện tử- một hiện thực và hình thức kinh doanh mới đã và đang làm thay đổi sâu sắc các hoạt động kinh tế và môi trường xã hội. Và đã ảnh hưởng đến các lĩnh vực như truyền thông, tài chính, thương mại bán buôn và bán lẻ. Nó đem lại triển vọng trong các lĩnh vực như giáo dục, y tế và quản lý. TMĐT trở thành một công cụ kinh doanh quan trọng trong xu thế toàn cầu hoá ngày càng mạnh mẽ. Đối với các công ty kinh doanh, TMĐT tạo ra động lực kinh tế, tác động đến môi trường kinh doanh, cách thức kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Các chức năng trung gian truyền thống được thay thế, các sản phẩm và thị trường mới đang phát triển, các quan hệ mới chặt chẽ hơn được tạo ra giữa các doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với khách hàng và giữa khách hàng với nhau. TMĐT đóng vai trò như một chất xúc tác thúc đẩy nhanh và làm lan toả rộng rãi hơn các thay đổi đang diễn ra trong nền kinh tế như các quá trình cải cách về mặt pháp lý, thiết lập các kết nối điện tử giữa các doanh nghiệp, toàn cầu hoá các hoạt động kinh tế, đặt ra nhu cầu về người lao động có trí tuệ cao, các khuynh hướng phân ngành mới (ngân hàng điện tử, đặt chỗ trực tiếp trong du lịch, marketing đến từng khách hàng…). Đối với hoạt động bán hàng, chi phí cho một điểm bán hàng TMĐT rẻ hơn nhiều so với việc dựng và quản lý cơ sở vật chất do điểm bán TMĐT mang tính mở, có thị trường toàn cầu. Bằng cách đưa thông tin trực tiếp dưới dạng dễ truy cập, các doanh nghiệp TMĐT đã làm tăng hiệu quả của quá trình bán hàng Ở Việt Nam, tuy cơ sở hạ tầng về kỹ thuật (mà cụ thể là internet) còn nhiều yếu kém và bất cập, TMĐT hầu như chưa được phát triển nhưng những áp lực mà TMĐT tạo ra ngày một rõ nét. Các doanh nghiệp Việt Nam vốn đã vất vả trong việc giành giật lấy một chỗ đứng trên thị trường nội địa, hiện đang phải đối mặt với các lực lượng cạnh tranh mới từ việc mở cửa tất yếu thị trường trong xu hướng tự do hoá và hội nhập kinh tế đang phải quan tâm, lo lắng về những đối thủ cạnh tranh đến từ những nơi không xác định qua internet. Xác định lại hướng đi của mình là một việc làm hết sức cần thiết. Điều còn thiếu đối với nhiều doanh nghiệp Việt Nam, rất đáng tiếc, lại chính là yếu tố văn minh thương mại hay văn minh trong kinh doanh, thể hiện ở sự cầu thị và chân thành với khách hàng. Trong môi trường kinh doanh TMĐT các doanh nghiệp phải hiểu được nguy cơ tụt hậu trong cạnh tranh của mình, phải biết được những nhược điểm cố hữu của mình thì mới có thể có những chính sách và biện pháp đúng đắn. Trong TMĐT, yếu tố không gian có thể coi là đã bị loại bỏ một cách tương đối, vì vậy yếu tố thời gian đã gây sức ép đáng kể lên thái độ và hành vi của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không chỉ cần thông tin mà cần thông tin một cách nhanh chóng, tức thời. Internet đã tạo cho các doanh nghiệp cơ hội ấy nhưng không vì thế mà cho phép doanh nghiệp vượt qua ngưỡng an toàn và bỏ qua tính chính xác, hay độ tin cậy của thông tin. Thông tin qua internet đem lại càng thực sự hữu ích đối với kinh doanh khi nó được tiếp cận và xử lý trên quan điểm kinh doanh hiện đại.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKQ17.doc
Tài liệu liên quan