Qua lịch sử phát triển chúng ta có thể nhận thấy rằng đói nghèo luôn luôn là một vấn đề nổi cộm ở bất kỳ một quốc gia nào từ phát triển đến đang phát triển, mặc dù ở những nước đang phát triển nó tỏ ro nghiêm trọng và phức tạp hơn những tất cả người nghèo ở các nước đều có chung một đặc điểm là họ luô phải chấp nhận những thiệt thòi so với xã hội. Chính vì thế mà bất kỳ quốc gia nào muốn tăng trưởng và phát triển một cách bền vững và đưa thành tựu của phát triển đến với mọi người dân đều luôn đặc biệt quan tâm đến công tác xoá đói, giảm nghèo.
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta luôn dành một sự quan tâm đặc biệt cho công tác xoá đói, giảm nghèo mà đặc biệt là cho đồng bào các dân tộc ít người. Nhiều chương trình, dự án đã được phê duyệt và triển khai trên phạm vi cả nước và bước đầu đã đem lại hiệu quả nhất định, nhất là những chương trình, dự án hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo đặc biệt khó khăn. Thực tế triển khai các chương trình hỗ trợ cơ sở hạ tầng cho các xã đặc biệt khó khăn trong thời gian qua đã chứng minh một điều rằng: cơ sở hạ tầng phát triển là điều kiện quan trọng để các vùng nghèo có điều kiện phát triển sản xuất kinh tế - xã hội, là một nhân tố quan trọng trong công cuộc xoá đói, giảm nghèo cho các vùng đó. Nhưng nó cũng đặt ra cho chúng ta nhiều câu hỏi mà trước tiên là làm sao để phát triển cơ sở hạ tầng các vùng nghèo có hiệu quả, chúng ta nên đảm bảo về mặt công bằng xoá đói, giảm nghèo hay đảm bảo hiệu quả về mặt kinh tế? Làm sao để cộng đồng người nghèo nhận được nhiều hơn lợi ích từ các hoạt động đó? Chính vì vậy với việc lựa chọn đề tài này tôi hi vọng phần nào có thể giúp được các cơ quan hoạch định, cũng như các cơ quan tổ chức thực hiện ở trung ương và địa phương tìm được câu trả lời phù hợp cho riêng mình, để góp phần đẩy nhanh công tác xoá đói, giảm nghèo đặc biệt là cho đồng bào các dân tộc ít người, đưa đất nước ngày càng phát triển nhanh và bền vững.
Tuy nhiên, do nhiều hạn chế về nhận thức, lý luận và thu thập thông tin vì thế đề tài của tôi không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được các ý kiến góp ý và nhận xét của các thầy cô giáo và các bạn trong khoa để tôi có thể hoàn thiện hơn bài viết của mình.
84 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1287 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp phát triển kết cấu hạ tầng nhằm xoá đói giảm nghèo cho các vùng dân tộc ít người từ nay đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n xuất, kiến thức khoa học, văn hóa, xã hội, chủ động vận dụng vào sản xuất và đời sống; kiểm soát được phần lớn các dịch bệnh xã hội hiểm nghèo; có đường giao thông cho xe cơ giới và đường dân sinh kinh tế đến các trung tâm cụm xã; thúc đẩy phát triển thị trường nông thôn" có nhiều khó khăn, chưa thực hiện đồng bộ ở tất cả các xã vào năm 2005, nhất là mục tiêu đầu tư CSHT ở những xã có suất đầu tư cao.
Từ kết quả thực hiện Chương trình 135, có thể đánh giá tổng quát: Năm 2001, các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương đã chuyển biến mạnh mẽ, năng động hơn trong quản lý chỉ đạo, thực hiện Chương trình với kết quả khả quan hơn cả về mục tiêu và nhiệm vụ, Chương trình 135 tiếp tục đi nhanh vào cuộc sống, đầu tư đúng mục tiêu, đúng đối tượng và có hiệu quả; KT-XH các xã ĐBKK có bước phát triển, tỷ lệ đói nghèo giảm nhanh; tạo ra phong trào lao động sản xuất sôi động, sự hồ hởi, phấn khởi và tin tưởng của đồng bào các dân tộc vào đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Chương trình đã hội tụ được sự giúp đỡ, tình cảm, trách nhiệm của nhân dân cả nước; thu hút được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, các ngành gần dân hơn, giúp đỡ cơ sở nhiều hơn.
Nguyên nhân có được những kết quả đó, và cũng là những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn vận hành Chương trình 135 ba năm qua:
- Trước hết, các cấp, các ngành đã có được những bài học kinh nghiệm, phát huy thành quả về quản lý chỉ đạo thực hiện ở giai đoạn I: Chương trình 135 là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đã được Chính phủ chỉ đạo với quyết tâm cao và bằng những quyết sách đặc biệt; Cơ chế quản lý với những nguyên tắc hợp lòng dân, dân chủ công khai, xã có công trình, dân có việc làm, xuất phát từ lợi ích của dân, đã khơi dòng sức dân và được nhân dân tích cực thực hiện; các cấp, các ngành thường xuyên đổi mới công tác quản lý, tổ chức chỉ đạo; hiệu quả thực hiện Chương trình luôn gắn liền với kết quả đào tạo cán bộ cơ sở, nâng cao dân trí cho nhân dân.
- Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Phan Văn Khải tại Hội nghị sơ kết giai đoạn I: nhiều tỉnh đã "tổ chức rút kinh nghiệm về công tác quản lý chỉ đạo, điều hành cụ thể thực hiện Chương trình 135 ở từng ngành, từng cấp" đã có những chính sách, giải pháp cụ thể đẩy nhanh tiến độ, giải ngân nhanh hơn và chất lượng công trình tốt hơn những năm trước, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ và năng động trong quản lý chỉ đạo, lồng ghép các Chương trình, dự án thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội tổng hợp.
3. Đánh giá chung về kết quả thực hiện các chương trình dự án xoá đói, giảm nghèo trong thời gian qua
Một là: Các chương trình, dự án đã được triển khai đồng bộ, đều khắp trong cả nước. Hệ thống cơ chế, chính sách xoá đói, giảm nghèo được ban hành kịp thời, các địa phương đều xác định xoá đói, giảm nghèo là nhệm vụ trọng tâm trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, do đó đã có những giải pháp thích hợp để tổ chức thực hiện.
Hai là: Các chương trình, dự án đã xác định đúng đối tượng hộ nghèo, xã nghèo thông qua các cuộc khảo sát, điều tra, đánh giá lại thực trạng đói nghèo và nhu cầu hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng quy mô và hiệu quả. Đối tượng hộ đói nghèo được các địa phương quan tâm, theo dõi quản lý thông qua hệ thống sổ sách từ cơ sở.
Ba là: Các địa phương đã có nhiều giải pháp linh hoạt để thực hiện các chương trình, dự án, có sự phối hợp, kết hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương và các tổ chức đoàn thể, bước đầu huy động được sự tham gia, đóng góp của nhân dân.
Bốn là: Chế độ báo cáo đã được các Bộ, ban, ngành và địa phương thực hiện tương đối kịp thời, do đó đã giúp cho công tác chỉ đạo, điều hành chương trình của Chính phủ và chính quyền các cấp kịp thời, sát với thực tế hơn và đúng trọng tâm hơn.
Năm là: Mục tiêu chung của các chương trình dự án là mục tiêu cụ thể của từng dự án được thực hiện đã đạt chỉ tiêu đề ra. Xoá đói, giảm nghèo đã trở thành chương trình hành động của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và tổ chức đoàn thể, được nhân dân đồng tình ủng hộ và tích cực tham gia nên phong trào xoá đói, giảm nghèo ở nước ta trong những năm qua đã thu được những kết quả bước đầu đáng mừng. Tốc độ xoá đói, giảm nghèo diễn ra tương đối nhanh trên cả nước, và đặc biệt là các vùng dân tộc ít người như ở các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, một số tỉnh miền núi phía Bắc đã giảm 4 - 5% tỷ lệ đói nghèo trong một năm.
Chương III: Một số giải pháp phát triển kết cấu hạ tầng nhằm xoá đói, giảm nghèo cho các vùng dân tộc
ít người ở nước ta, từ nay đến năm 2010
I. Phương hướng, nhiêm vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi đến năm 2010
1. Bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế
Từ thực tiễn kết quả phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi vừa qua, chứng tỏ đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta về công tác dân tộc và miền núi là hết sức đúng đắn. Các chính sách đó thể hiện đường lối “đổi mới” của Đảng vào vùng dân tộc và miền núi đã và đang từng bước tạo ra những chuyển biến, bước tiến quan trọng đưa các dân tộc thiểu số hội nhập vào sự phát triển chung của cả nước. Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt nam, vùng dân tộc và miền núi cần tiếp tục được đổi mới, tạo ra những bước phát triển mạnh hơn nữa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng.
Bước vào giai đoạn mới, thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi có những thuận lợi, khó khăn cơ bản như sau:
1.1. Một số thuận lợi cơ bản
Đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế: Đã thoát ra khỏi các cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội, đến nay tổng sản phẩm trong nước GDP tăng gấp 2,07 lần so với năm 1991. Tích luỹ nội bộ của nền kinh tế từ mức không đáng kể, đến năm 2000 đã đạt 27% GDP. Điều đó đã cho phép Đảng và Nhà nước ta có đủ nguồn lực cần thiết đảm bảo thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi.
Quan hệ sản xuất đã có những bước đổi mới quan trọng, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế vùng dân tộc và miền núi: Doanh nghiệp Nhà nước đang từng bước được sắp xếp lại, kinh tế tập thể đã có những bước chuyển đổi và phát triển theo phương thức mới, kinh tế hộ gia đình được khảng định tạo điều kiện phát triển; kinh tế trang trại phát triển mạnh đã và đang làm thay đổi nền sản xuất ở vùng dân tộc và miền núi theo hướng sản xuất hàng hoá, công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Quan hệ quốc tế của nước ta ngày càng mở rộng, uy tín của nước ta ngày càng nâng cao. Các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng quan tâm đồng tình và ủng hộ chủ tương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi của Đảng và Nhà nước ta. Những năm gần đây các nước, các tổ chức quốc tế đã cam kết viện trợ những khoản vốn lớn hỗ trợ cho xoá đói, giảm nghèo ở vùng dân tộc và miền núi.
Đời sống của đồng bào các dân tộc được cải thiện, niềm tin của đồng bào vào Đảng và Nhà nước được nâng cao và củng cố.
Qua thực tế triển khai 12 năm thực hiện Nghị quyết số 22/NQTW, Quyết định số 72/HĐBT chúng ta đã thu được nhiều kinh nghiệm và những bài học quý báu cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi thời gian tới.
1.2. Một số khó khăn
Nhìn chung vùng dân tộc và miền núi là vùng nghèo nhất cả nước, số xã đặc biệt khó khăn còn rất lớn với 2325 xã, chênh lệch mức sống, phân hoá giàu nghèo giữa các dân tộc, giữa các vùng có khỏang cách lớn và xu hướng ngày càng gia tăng.
Những yếu tố mất ổn định xã hội như di cư tự do, du canh du cư, tôn giáo, tệ nạn xã hội.. vẫn diễn biến phức tạp.
Xây dựng đội ngũ cán bộ còn nhiều tồn tại, yếu kém, bất cập so với yêu cầu, nhiệm vụ thực tế đang đặt ra.
Các thế lực thù địch trong và ngoài nước dùng mọi thủ đoạn không ngừng chống phá cách mạng nước ta. Trong đó vùng dân tộc và miền núi là địa bàn quan trọng, chúng tập trung tấn công bằng nhiều thủ đoạn, biện pháp khác nhau hòng tuyên tuyền, kích động nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định xã hội, an ninh quốc phòng. Sự kiện bạo loạn ở Tây Nguyên tháng 2 năm 2001 đã chứng tỏ rất rõ điều đó.
2. Một số quan điểm cơ bản
Trước tình hình thực tế trên, để thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng về công tác dân tộc và miền núi đã nêu trong văn kiện đại hội Đảng lần thứ IX, chúng ta cần thấu suốt các quan điểm cơ bản sau :
Thứ nhất, phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi là một bộ phận hữu cơ của chiến lược phát triển tổng thể nền kinh tế quốc dân. Các dịa phương vùng dân tộc và miền núi có nhiều tiềm năng trong những năm qua, bước đầu đã khai thác tốt góp phần rất quan trọng đóng góp vào những thành tựu chung của đất nước... Song việc tận dụng những lợi thế tiềm năng của vùng dân tộc và miền núi cần được đẩy mạnh hơn. Đường lối chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng cần được cụ thể hoá hơn nữa, phù hợp với điều kiện tự nhiên, lịch sử, tập quán, kinh tế, văn hoá của từng vùng, từng dân tộc.
Thứ hai, phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc và miền núi là sự nghiệp của cả nước, trước hết là sự nghiệp của nhân dân các dân tộc miền núi và đồng bào miền xuôi lên định cư ở miền núi.
Chúng ta cần nhấn mạnh là: Phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi là vì lợi ích trực tiếp của nhân dân miền núi, đồng thời vì lợi ích chung của cả nước. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh của Đảng ta đề ra không thể thực hiện được nếu hơn 20 triệu đồng bào thuộc 54 dân tộc ở miền núi còn khó khăn, nghèo đói. Đồng bào các dân tộc thiểu số no ấm, đoàn kết hòa nhập phát triển cùng các dân tộc khác có ý nghĩa quyết định cho thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta. Nhưng muốn thành công cần phải quán triệt, nhận thức rõ: Nhà nước giúp đỡ là quan trong những yếu tố quyết định là sự lỗ lực cố gắng của đồng bào các dân tộc, của đại phương vùng dân tộc và miền núi. Các mô hình phát triển kinh tế xã hộithành công đã chứng minh rất rõ điều đó là cần phải tạo điều kiện để nhân dân tham gia các quá trình xây dựng thực hiện chính sách, kế hoạch, dự án... bản thân người dân phải nỗ lực học hỏi kiến thức mới, vươn lên tự tích luỹ để đầu tư, xây dựng cuộc sống cho gia đình và đóng góp cho xã hội ; hết sức tránh tư tưởng ỷ lại, trong chờ nhà nước và cơ chế xin – cho...
Thứ ba, phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi phải dựa trên cơ sở đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, phù hợp với đặc điểm, tình hình của từng địa phương, từng vùng. Tiếp tục điều chỉnh quan hệ sản xuất ở miền núi để thúc đẩy lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội ; việc lựa chọn các hình thức sản xuất phải xuất phát từ nguyện vọng của đồng bào phù hợp với thực tế sản xuất và trình độ sản xuất của mỗi dân tộc ; sắp xếp tổ chức lại các nông lâm trường ở miền núi ; phát triển mạnh kinh tế trang trại, kinh tế hộ gia đình ; khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ở miền núi.
Thứ tư, phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi phải toàn diện, đặt trong mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng. Phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng là hai nhiệm vụ chiến lược trong tình hình mới ở vùng đồng bào dân tộc và miền núi. Vùng dân tộc và miền núi tuy đã có những bước phát triển nhưng vẫn là vùng còn khó khăn nhiều mặt, đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ các giải pháp. Qua một số dự án đã ttriển khai cho thấy nếu không phát triển đồng bộ thì không thể thu được kết quả tốt. Nếu chỉ phát triển giao thông rồi để đấy thì đời sống đồng bào sẽ còn khó khăn; hoặc nếu đưa vốn tín dụng cho đồng bào nhưng không hướng dẫn cách làm ăn và tiêu thụ sản phẩm thì người dân cũng không vay vốn. Nếu tiếp tục đầu tư như vậy thì chúng ta không những gây lãng phí cho ngân sách Nhà nước, cho nguồn lực xã hội, mà hiệu quả mang lại cho các vùng dân tộc ít người lại chẳng được là bao nhiêu. Vì thế trong các giải pháp phát triển thì phát triển giao thông có ý nghĩa quan trọng nhất và phải đi trước một bước.
Phát triển kinh tế phải đồng bộ với các vấn đề văn hoá xã hội, củng cố hệ thống chính trị và an ninh quốc phòng. Bài học về sự kiện Tây Nguyên tháng 2 năm 2001 đã chứng minh điều đó rất rõ ràng: Tỉnh Đắc Lắc phát triển quá nhanh cây cà phê, thu nhập tăng nhanh đạt gần 400 USD/người, song phân hoá giàu nghèo, vấn đề môi trường, đất đai, tôn giáo diễn biến phức tạp từ đó kẻ thù lợi dụng kích động gây mất ổn định trật tự chính trị – xã hội...
Thứ năm, ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi nhất là vùng sâu, vùng xa vùng đặc biệt khó khăn, vùng biên giới và vùng căn cứ cách mạng nhằm nhằm khắc phục sự chênh lệch lớn về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng, giữa các dân tộc.
3. Mục tiêu phát triển tại các vùng dân tộc ít người của Việt Nam
3.1. Mục tiêu tổng quát đến năm 2010
Đưa vùng dân tộc và miền núi ra khỏi tình trạng chậm phát triển về kinh tế, tất cả các vùng đặc biệt khó khăn, các dân tộc đặc biệt khó khăn được đảm bảo các cơ sở hạ tầng thiết yếu, từ bỏ phương thức sản xuất tự nhiên hái lượm tự cung tự cấp chuyển sang định canh định cư và sản xuất hàng hoá; không còn hộ đói giảm hộ nghèo còn 10%.
Phấn đấu 100% số xã có đủ hạ tầng cơ sở cần thiết, mở rộng điện lưới quốc gia đến trung tâm tất cả các xã nghèo.
Phổ cập giáo dục trung học cơ sở cho thanh thiếu niên các dân tộc trong các độ tuổi.
Giải quyết dứt điểm các bệnh dịch xã hội : Sốt rét, bướu cổ, phong, lao, tỷ lệ suy dinh dưỡng còn dưới 20% ; 100% trẻ em được tiêm chủng và chăm sóc sức khoẻ.
Văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số được bảo tồn, ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc được phổ biến và nâng cao.
Xây dựng đội ngũ cán bộ của tất cả các dân tộc thiểu số, đảm nhiệm và đáp ứng được yêu cầu phát triển.
Hệ thống chính trị, xã hội được tăng cường đảm bảo ổn định xã hội, phát trỉen kinh tế đảm bảo an ninh quốc phòng.
3.2. Mục tiêu đến năm 2005
Phát triển đồng bộ các mặt kinh tế – xã hội, đảm bảo không còn hộ đói, giảm nhanh hộ nghèo ; cơ bản xây dựng xong các công trình hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn ; đồng bào các dân tộc đặc biệt khó khăn được ổn định và có bước phát triển, giữ vững ổn định chính trị xã hội, an ninh quốc phòng. Các chỉ tiêu cơ bản :
- Tốc độ tăng trưởng GDP ít nhất 7%/năm;
- Thu nhập bình quân đầu người gấp 2 lần so với năm 2000;
- Bình quân lương thực đầu người đạt 400kg/người/năm;
- Giá trị công nghiệp tăng 10-12%/năm, phát triển nhanh công nghiệp chế biến nông lâm sản, đảm bảo tất cả được sơ chế.
- Hoàn thành công tác định canh định cư.
- 80% số dân được dùng nước sạch;
- Mở rộng mạng lưới điện quốc gia đến trung tâm 900 xã nghèo, đảm bảo 100% huyện có điện;
- 100% số xã, cụm xã có đường ô tô đến trung tâm và đi lại được cả 4 mùa;
- 90%số hộ được nghe đài, xem phim, xem truyền hình;
- 100% số xã được phổ cập tiểu học và xoá mù chữ;
- Số hộ nghèo đói còn 10%;
- Giải quyết xong cơ bản bệnh sốt rét, bướu cổ, và một số bệnh xã hội khác; tỷ lệ trẻ em suy đinh dưỡng còn 20%;
II. Một số giải pháp phát triển cơ sở hạ tầng cho các vùng dân tộc ít người ở nước ta giai đoạn từ nay đến năm 2010
Có thể nói trong những năm qua Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đặt vấn đề xoá đói, giảm nghèo đặc biệt là xoá đói, giảm nghèo cho các vùng dân tộc ít người thành một nhiệm vụ cấp thiết không chỉ trước mắt mà còn là mục tiêu trong kế hoạch dài hạn của đất nước. Chính vì vậy trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước luôn dành một sự ưu tiên đặc biệt cho công tác ấy, nhiều dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nhằm hỗ trợ các vùng dân tộc đặc biệt khó khăn đã được phê duyệt và triển khai trên phạm vi cả nước. Mặc dù đối tượng của các dự án đó tập chung vào các vùng dân tộc ít người, và phạm vi ảnh hưởng của các dự án đó là không nhỏ, nhưng do những đặc điểm như đã nêu ở trên của các vùng dân tộc ít người mà hiệu quả của các dự án này chưa cao và thiếu tính bền vững. Vì vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để hoạt động đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cho các vùng dân tộc ít người đặc biệt khó khăn mang lại hiệu quả cao? Và làm thế nào để đồng bào dân tộc ít người là đối tượng được hưởng nhiều lợi ích nhất từ các hoạt động đó? Với phạm vi kiến thức và sự hiểu biết của mình tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề vừa nêu, trong đó bao gồm nhóm giải pháp chung và nhóm giải pháp riêng.
1. Nhóm giải pháp chung
Các dân tộc ít người ở nước ta hiện nay đa phần đều nằm trong diện đói nghèo mặc dù mức độ và tỷ lệ giữa các vùng có khác nhau, nhưng nhìn chung tỷ lệ đói nghèo vẫn còn cao, tình trạng nghèo đói còn trầm trọng. Vì thế cần phải khẳng định một điều rằng chúng ta cần phải tiếp tục đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cho các vùng đó để giúp đỡ đồng bào các vùng ấy thoát khỏi đói nghèo. Tuy nhiên do đặc điểm về mặt cư trú, đồng bào các dân tộc ít người thường sinh sống tại những vùng có địa hình hiểm trở, đi lại khó khăn, dân cư sinh sống thưa thớt, vì thế trong những năm qua đầu tư cho các vùng này thường giàn trải, thiếu tập trung và hiệu quả không cao. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra là chúng ta nên hướng đầu tư vào mục tiêu tăng trưởng hay mục tiêu công bằng và làm thế nào để hoạt động đầu tư ấy lại có kết quả cao nhất, bởi lẽ hai mục tiêu này tại các vùng đó thường xuyên có sự mâu thuẫn với nhau, hơn nữa tại mỗi vùng đồng bào lại có những điều kiện về tự nhiên, về nhân khẩu học,… lại khác nhau nên hướng đầu tư tại mỗi vùng cũng là rất khác nhau. Để giải quyết vấn đề này trong các nhóm giải pháp chung cho hoạt động đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tôi xin đưa ra 2 giải pháp chính là giải pháp về quy hoạch phát triển và giải pháp về vốn (bao gồm cả huy động, sử dụng và quản lý vốn).
1.1. Cần có những quy hoạch và định hướng phát triển theo vùng một cách chi tiết.
Cần tiếp tục xây dựng, bổ sung và hoàn thiện quy hoạch tổng thể về kinh tế - xã hội của từng tỉnh, từ đó các địa phương trong tỉnh lấy quy hoạch chung của tỉnh làm định hướng để trên cơ sở ấy để xây dựng các kế hoạch chi tiết hơn cho phù hợp với điều kiện và năng lực của địa phương mình. Tại các vùng dân tộc ít người do gặp nhiều khó khăn về tài nguyên thiên nhiên nên quy hoạch nên tập chung vào việc sử dụng tối đa thế mạnh và tiềm năng của mỗi vùng, chẳng hạn như phát triển các vùng trồng cây công nghiệp (thông qua giao đất giao rừng, khuyến khích trồng và bảo vệ rừng), phát triển kinh tế hộ gia đình như kinh tế vườn, đồi rừng thông qua việc tìm kiếm các loại vật nuôi và cây trồng thích hợp, phát triển các quy hoạch về du lịch đặc biệt là du lịch sinh thái.
ở đây cũng cần phải hiểu rằng quy hoạch phát triển tại các vùng này không chỉ là quy hoạch về mặt tự nhiên, quy hoạch đất đai, đầu tư mà quan trọng hơn cả theo tôi là quy hoạch dân số nhằm sắp xếp và bố trí lại dân cư, theo hướng định canh, định cư, giao đất sử dụng lâu dài cho đồng bào cùng với đó là việc hướng dân kỹ thuật canh tác, nghiên cứu và ứng dụng các loại cây, con phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng giúp đồng bào ổn định cuộc sống, ổn định sinh hoạt. Quy hoạch được dân cư một cách hợp lý sẽ là điều kiện quan trọng giúp hoạt động đầu tư bớt giàn trải, và tập trung hơn, nhờ vậy mà hiệu quả đầu tư sẽ được nâng cao hơn.
Quy hoạch càng chi tiết, càng có tính khả thi cao sẽ càng tạo ra sự hấp dẫn đối với hoạt động đầu tư cả trong và ngoài nước vì nó mang đến cho nhà đầu tư cảm giác an toàn và tin cậy, từ đó có cơ chế cởi mở, thu hút vốn đầu tư vào địa phương nhằm phát huy các thế mạnh tiềm tàng. Hơn nữa phát triển theo quy hoạch sẽ giúp cho mọi địa phương và các hộ gia đình tránh được tình trạng phát triển kinh tế chạy theo phong trào một cách rập khuôn, máy móc như thời gian vừa qua ở một số địa phương, dẫn đến hiệu quả thấp, mục tiêu không hoàn thành.
Tuy nhiên, quy hoạch tốt mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải là đủ để đảm bảo cho đầu tư có hiệu quả. Vậy sau quy hoạch chúng ta cần thực hiện những giải pháp gì? Theo tôi sau quy hoạch thì công tác quan trọng hơn cả là việc huy động vốn, sử dụng vốn và quản lý vốn, vì thế dưới đây tôi xin được đưa ra một số giải pháp về vốn bao gồm cả giải pháp về huy động, về sử dụng và về quản lý vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo vùng dân tộc ít người vùng sâu, vùng xa.
1.2. Giải pháp về vốn
1.2.1. Giải pháp về huy động vốn
Thực tế trong những năm qua đầu tư cho các vùng này lại chủ yếu là từ ngân sách, từ các quỹ từ thiện do nhân dân đóng góp và một phần từ nguồn tài trợ nước ngoài (ODA), việc nguồn vốn chủ yếu tập trung từ ngân sách đã khiến cho đầu tư bị giàn trải không tập trung vì nhu cầu đầu tư thì lớn mà khả năng đảm bảo từ nguồn vốn ngân sách thì nhỏ. Chính vì thế hoạt động đầu tư cho các vùng này những năm qua không tránh khỏi giàn trải, thiếu tập trung. Vì vậy vấn đề đặt ra trong những năm tới là làm thế nào để có thể huy động được nhiều hơn các nguồn vốn ngoài ngân sách, theo tôi để có thể làm được điều đó chúng ta cần phải thực hiện một số giải pháp sau.
- Tiếp tục huy động các nguồn vốn từ nhân dân dưới các hình thức tự nguyện và bắt buộc hoặc kết hợp hai hình thức này:
+ Tự nguyện dưới hình thức tổ chức các phong trào ủng hộ đồng bào khó khăn thành các phong trào thường xuyên và rộng khắp, động viên tất cả các thành phần, các tầng lớp trong cả nước tham gia và ủng hộ phong trào này.
+ Bắt buộc dưới hình thức thuế thu nhập cao đối với những người có thu nhập trên một mức nhất định. Có thể nói trong những năm qua tuy chúng ta đã áp dụng loại thế thu nhập đối với những người có thu nhập cao, nhưng do nhiều hạn chế về mặt xác định thu nhập nên đối tượng chịu thuế còn ít, nên thu từ loại hình thuế này còn thấp. Do đó nên chăng chúng ta cần áp dụng một thuế suất phù hợp hơn, một ngưỡng thu nhập thấp hơn để mở rộng đối tượng đánh thuế nhằm tăng doanh thu thuế.
+ Kết hợp giữa tự nguyện và bắt buộc dưới hình thức phát hành công trái trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng chẳng hạn như công trái giáo dục và công trái y tế… Trong đó có quy định mức công trái tối thiểu đối với người mua, nhằm buộc người mua phải mua một lượng công trái trên mức nhất định nào đó.
- Huy động các nguồn vốn viện trợ không hoàn lại từ nước ngoài. Do đầu tư vào các vùng này thường có tỷ suất lợi nhuận thấp do đó chúng ta chỉ có thể huy động các nguồn vốn viện trợ không hoàn lại cho đầu tư chứ không thể huy động các nguồn vay nước ngoài. Để làm được điều này chúng ta cần tiếp tục mở rộng quan hệ giao lưu, trao đổi hợp tác với tất cả các quốc gia trên thế giới.
- Huy động đầu tư từ các thành phần kinh tế trong nền kinh tế dưới các chính sách ưu đãi đặc biệt về mặt tài chính (sử dụng lãi suất ưu đãi, thời hạn vay…), về mặt cơ sở hạ tầng như việc hỗ trợ về đất đai, đảm bảo cho thuê đất lâu lăm, về thuế suất như việc áp dụng các loại thuế suất ưu đãi đặc biệt cho các đối tượng đầu tư vào các vùng nghèo. Ngoài ra nên chăng chúng ta vẫn giành sự ưu đãi nhất định cho các doanh nghiệp đã, đang đầu từ vào các vùng nghèo khi họ tiến hành đầu tư phát triển tại các vùng khác trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
1.2.2. Giải pháp về mặt sử dụng vốn
Để đảm bảo hoạt động sử dụng vốn có tập trung, có trọng điểm theo tôi chúng ta phải đầu tư phát triển theo quy hoạch. Tức là các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt các dự án đầu tư chỉ phê duyệt những dự án đầu tư theo đúng quy hoạch, đúng mục tiêu phát triển tại mỗi vùng, kiên quyết không vì bất kỳ lý do nào đó mà phá vỡ các quy hoạch đã lập.
Ngoài việc đầu tư theo quy hoạch theo tôi một giải pháp quan trọng cần tiếp tục được thực hiện mạnh mẽ và tích cực hơn trong việc phát triển cơ sở hạ tầng tại các vùng đồng bào dân tộc ít người đó là sự tham gia trực tiếp của đồng bào trong việc quyết định lựa chọn các dự án, các hạng mục công trình. Hiện nay sự tham gia của nhân dân trong thôn bản mới chỉ hạn chế ở việc lập kế hoạch và xây dựng những công trình nhỏ trong thôn, còn trong các dự án và công trình lớn còn chưa có sự tham khảo ý kiến của nhân dân sở tại. Vì vậy chúng ta cần phải thực hiện một cách triệt để nguyên tắc dân chủ trong công tác phát triển hạ tầng cơ sở, đưa người dân tham gia tích cực hơn trong các kế hoạch và quyết định đầu tư trong vùng.
Tuy nhiên do hạn chế về học vấn và trình độ nên sự hiểu biết của đồng bào dân tộc ít người là vô cùng hạn chế vì vậy trước khi đưa người dân tham gia vào quá trình lập kế hoạch và các quyết định đầu tư cần đưa các thông tin về kế hoạch và dự án đến từng thôn bản, rồi đến từng người dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các cán bộ thôn bản, tuyết đối tránh tình trạng lợi dụng sự kém hiểu biết của đồng bào để trục lợi cá nhân, gây mất lòng tin của đồng bào.
1.2.3. Giải pháp về quản lý sử dụng vốn
Giải pháp này chỉ xin đi sâu vào giải pháp quản lý việc sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Do hiện nay nguồn vốn từ ngân sách của Nhà nước khi về đến địa phương không những bị thất thoát một phần không nhỏ, mà gay vả khi về đến địa phương cũng lại bị địa phương bớt xén và đầu tư không đúng mục đích, họ thường chuyển nguồn vốn hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của Nhà nước sang các dự án khác tuỳ theo tình hình cụ thể của địa phương mình, mặc dù việc chuyển hướng đầu tư này có mang lại những hiệu quả kinh tế xã hội nhất định, nhưng một lần nữa chúng ta lại cần phải nhắc đến việc phát triển theo quy hoạch chung của cả nước và quy hoạch cụ thể của từng vùng. Chính vì thế vấn đề đặt ra trong công tác quản lý vồn đầu tư hạ tầng cơ sở tại các địa phương bao gồm cả việc chống thất thoát và đảm bảo đầu tư đúng mục đích của cả nước, tuy không đi sâu nghiên cứu khía cạnh về vốn nhưng để hoạt động đầu tư có hiệu quả theo tôi giải pháp cần thiết và quan trọng hơn cả là việc tham gia của đồng bào trong việc quản lý và giám sát các dự án. Mặc dù trong văn bản tạm thời của Chiến lược Xóa đói giảm nghèo dành ưu tiên cao cho việc tham gia của các nhà chức trách địa phương trong giám sát và quản lý các công trình hạ tầng, nhưng việc thực hiện còn rất nhiều hạn chế, hơn nữa do trình độ của cán bộ thôn bản, thậm chí cấp xã huyện còn rất thấp, vì thế việc giao trách nhiệm quản lý và giám sát cho cán bộ địa phương còn gặp nhiều khó khăn. Vì thế để thực hiện được giải pháp này theo tôi cần làm tốt một số vấn đề sau:
- Sau khi đã có quyết định đầu tư thì nhân dân trong vùng phải biết, dự án đầu tư của tỉnh thì các huyện trong tỉnh phải biết, của huyện thì tất cả các xã trong huyện phải biết, của xã thì các thôn bản phải biết, của thôn bản thì dân trong thôn phải biết.
- Khi triển khai đầu tư các thông số kỹ thuật cơ bản đều phải được công bố rộng rãi cho nhân dân cùng biết để nhân dân cùng tham gia theo dõi quản lý và giám sát như: tổng vốn dầu tư, chiều dài đường, độ rộng bao nhiêu, dày bao nhiêu, số phòng học, số trạm y tế,…. Trong các công trình Nhà nước và nhân dân cùng làm cần làm rõ dân địa phương đóng góp cái gì, tài chính như thế nào, bao nhiêu, ngày công ra sao, và phần Nhà nước đóng góp là cái gì, tỷ lệ là bao nhiêu?.
- Ngoài ra để nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ thôn bản cần phải bồi dưỡng, tập huấn cho họ một cách thường xuyên liên tục…
Trên đây chỉ là những giải pháp chung cho việc phát triển cơ sở hạ tầng các vùng dân tộc ít người để cụ thể và chi tiết hơn tôi xin được tiếp tục đi vào các giải pháp riêng cho từng hạ tầng cơ sở.
2. Nhóm giải pháp riêng
2.1. Các giải pháp phát triển mạng lưới điện quốc gia cho các vùng dân tộc ít người
Điện lưới chưa phát triển đến từng xã là một trong những nguyên nhân chính gây nên năng suất thấp và kỹ thuật canh tác lạc hậu nhiều năm mà không hề có sự đổi mới. Chính vì vậy đưa được điện lưới quốc gia đến từng thôn bản sẽ tạo ra một bước tiến quan trọng trong việc cơ giới hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn cũng như các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người. Để phát triển mạng lưới điện quốc gia, tôi xin đề xuất một số giải pháp sau:
2.1.1. Các giải pháp hỗ trợ
Do đặc điểm của các vùng dân tộc ít người là nghèo và thu nhập thấp, chính vì vậy bản thân các vùng này không có đủ điều kiện để có thể tự mình đưa được mạng lưới điện về vùng. Chính vì vậy Chính phủ nên hỗ trợ các vùng dân tộc ít người ở một số mặt sau:
ỉ Hỗ trợ, đầu tư xây dựng mạng lưới điện quốc gia đến tận các trung tâm cụm xã
Do đồng bào dân tộc ít người thường sinh sống dàn trải trên địa bàn rộng, dân cư thưa thớt chính vì thế vấn đề đặt ra cho phát triển điện lưới là nên đưa điện lưới đến tận hộ gia đình nhằm đảm bảo mục tiêu công bằng xã hội hay chỉ nên đưa điện lưới đến trung tâm cụm xã - nơi có nhiều điều kiện phát triển nhất trong vùng để đảm bảo hiệu quả đầu tư? Theo tôi việc đưa điện lưới quốc gia đến từng hộ, thậm chí là từng thôn bản sẽ là việc làm không thiết thực, gây lãng phí lớn và thực sự không cần thiết, vì thế chúng ta chỉ nên đưa điện lưới đến trung tâm cụm xã, những nơi có điều kiện phát triển , sau đó khi kinh tế - xã hội của vùng đã phát triển chúng ta mới tiếp tục triển khai phát triển điện lưới đến từng thôn bản, từng hộ gia đình, tất nhiên điều này sẽ đòi hỏi rất nhiều thời gian.
ỉ Hỗ trợ vốn hoặc cho vay tín dụng ưu đãi với lãi suất bằng không để nhân dân tự làm các công trình cấp điện tại chỗ.
Hiện nay, tại các vùng dân tộc ít người chúng ta nên phát triển mạng lưới điện dưới các hình thức thuỷ lợi nhỏ, các trạm phát điện sử dụng năng lượng mặt trời để tận dụng nguồn tài nguyên nước và tài nguyên nhiệt vô tận của vùng. Ngoài việc hộ trợ và xây dựng các nhà máy thuỷ điện lớn nên chăng Nhà nước cần có các biện pháp tư vấn, hướng dẫn kỹ thuật để người dân địa phương có khả năng tự xây dựng và lắp đặt các trạm phát điện (sử dụng năng lượng mặt trời hoặc năng lương gió), nhà máy thuỷ điện nhỏ để cung câp điện tại chỗ cho người dân.
ỉ Hỗ trợ kinh phí sửa chữa lớn cho các vùng khó khăn, cho các dân tộc đặc biệt khó khăn: Do các vùng khó khăn, các dân tộc ít người đặc biệt khó khăn không có đủ kinh phí để duy tu, bảo dưỡng cũng như sửa chữa lớn lên sẽ là cần thiết khi Chính phủ hỗ trợ một phần kinh phí cho hoạt động duy tu, bảo dưỡng và sữa chữa lớn, sửa chữa thường xuyên.
Tuy nhiên cần phải thấy rõ rằng, phát triển mạng lưới điện đến tận thôn bản sẽ không đem lại một kết quả tốt đẹp nào nếu đi kèm với nó không có các hình thức sản xuất, canh tác thích hợp, tiến bộ đem lại hiệu quả cao, vì đây là những vấn đề gắn bó mật thiết với nhau, điện là để phục vụ sản xuất và đời sống và sẽ là vô ích nếu đồng bào dân tộc ít người vẫn duy trì lối canh tác lạc hậu phi hiệu quả không cần sử dụng điện năng như trước đây, hay cũng sẽ thành vô ích nếu bà con không có kiến thức để phát triển sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật… Do đó, mọi biện pháp đều cần một sự đồng bộ của những giải pháp kèm theo, cho nên cùng với việc đưa điện lưới đến với đồng bào cần có các chính sách giúp bà con có thể nắm bắt kỹ thuật canh tác mới, hướng dẫn bà con sản xuất sao cho có hiệu quả.
2.1.2. Các giải pháp về nhân sự
ỉ Đào tạo, tập huấn cán bộ, nhân viên làm nhiệm vụ quản lý giám sát, vận hành và duy tu, bảo dưỡng hệ thống phân phối điện, đặc biệt nên đào tạo, tập huấn cho chính đồng bào dân tộc ít người để tự họ quản lý và bảo dưỡng hệ thống phân phối điện trong làng, bản của họ.
ỉ Ưu tiên đồng bào các dân tộc ít người tình nguyện làm việc tại các vùng xa xôi, hẻo lánh. Có chính sách ưu đãi hợp lí, tiền lương thoả đáng.
Thực hiện được những điều này không chỉ giúp cho công tác quản lý mạng lưới điện quốc tại các vùng dân tộc ít người trở lên dễ dàng, đỡ tốn kém hơn mà còn tạo ra công ăn việc làm cho người dân địa phương, giúp họ phần nào ổn định được cuộc sống và góp phần nâng dân chí địa phương.
2.2. Các giải pháp phát triển hệ thống đường giao thông
Hệ thống giao thông lạc hậu, kém phát triển là nguyên nhân quan trọng nhất gây nên sự cách biệt, chính vì vậy, nếu giải quyết tốt sẽ là cơ hội của người nghèo miền núi, của các dân tộc ít người vùng sâu, vùng xa thoát khỏi đói nghèo. Tuy nhiên vấn đề hiện nay là tiềm năng phát triển của các vùng dân tộc ít người không được như đồng bằng trong khi địa bàn thì rộng, địa hình quanh co, phức tạp do đó đầu tư phát triển giao thông các vùng này hiệu quả sẽ không cao, do đó có nên đầu tư phát triển giao thông đến tận thôn bản mặc dù hiệu quả kinh tế không cao hay không? Theo tôi, việc phát triển giao thông không chỉ đơn thuần vì mục đích kinh tế mà nó còn đảm bảo công bằng về mặt xã hội, hơn nữa giao thông phát triển sẽ là điều kiện thuận lợi cho đồng bào giao lưu, học hỏi kinh nghiệm sản xuất, mở rộng thị trường tiêu thụ, cho nên về lâu về dài phát triển giao thông là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất trong các yếu tố cơ sở hạ tầng nhằm giúp đồng bào phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thu ngắn khoảng cách với đồng bào Kinh. Vì thế phát triển giao thông miền núi, vùng sâu, vùng xa là cần thiết.
Để phát triển hệ thống giao thông tại các vùng dân tộc ít người, theo tôi cần thực hiện một số giải pháp sau:
ỉ Kết hợp hình thức Nhà nước và dân nhân cùng làm chủ yếu là bằng hình thức Nhà nước và nhân dân cùng góp vốn tất nhiên Nhà nước sẽ góp một khoản vốn lớn hơn, còn nhân dân thì tham gia lao động, thi công cũng như giám sát thi công công trình.
ỉ Nhà nước nên trợ giúp về phương tiện kỹ thuật và thuê lao động tại địa phương, góp phần giải quyết được công ăn việc làm cho những hộ nghèo hoặc trợ quỹ dưới hình thức Nhà nước cho không lương thực, dân đóng góp ngày công.
ỉ Cần có một cơ chế, chế độ, chính sách ưu đãi về vốn vay, thu phí giao thông… để các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng giao thông. Tức là cần có nhiều hình thức huy động nguồn lực năng động để đạt được mục tiêu đề ra.
ỉ Thường xuyên tiến hành duy trì và bảo dưỡng đường miền núi. Do địa hình dốc, phức tạp, độ xói mòn lớn, mưa gió bất thường nên đường thường xuyên hư hỏng nặng sau mùa mưa. Biện pháp tốt nhất là nên giao công việc này cho cơ quan địa phương phối hợp với cung, hạt giao thông và được Nhà nước giúp đỡ một phần kinh phí sửa chữa.
ỉ Về lâu dài cần có kế hoạch từng bước nâng cấp đường giao thông tại các vùng dân tộc ít người theo hướng nhựa hoá tỉnh lộ, đá hoá huyện lộ, cơ giới hoá xã lộ và mở rộng đường liên thôn, liên bản để xe ngựa và xe máy có thể đi lại dễ dàng.
Việc nâng cấp hệ thống giao thông sẽ đem lại rất nhiều lợi ích tuy không mang lại lợi ích nhanh chóng như đầu tư vào các lĩnh vực khác. Nhưng cái lợi lớn nhất là giải thoát thế bí cho kinh tế địa phương, tạo cơ hội cho dân tộc thiểu số tiếp cận với kinh tế thị trường, giao lưu buôn bán, trao đổi để cải thiện đời sống và từ đó có thể vươn lên xoá đói, giảm nghèo, xoá dần khoảng cách kinh tế - xã hội giữa miền núi và miền xuôi, giữa đồng bào dân tộc ít người và dân tộc Kinh.
2.3. Phát triển giáo dục
Phát triển giáo dục, nâng cao học vấn cho các dân tộc ít người sẽ giúp các vùng này có đủ cán bộ nhân lực có trình độ học vấn và nhận thứcphục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội và xoá đói, giảm nghèo. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra cho phát triển giáo dục các vùng này hiện nay là trong khi do nhận thức còn hạn chế, và chi phí cho giáo dục đối với người dân tộc còn cao (gồm cả chi phí trực tiếp cho giáo dục lẫn chi phí gián tiếp do mất đi lao động trẻ em) nên số học sinh đến trường ở các vùng này còn hạn chế thì chúng có nên xây dựng, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng giáo dục ở rộng khắp các thôn bản, làng xã hay không mặc dù chất lượng các cơ sở giáo dục lại không đảm bảo tiêu chuẩn, hơn nữa đội ngũ giáo viên cũng không có đủ để đảm bảo chất lượng cho công tác giảng dạy. Theo tôi đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho tương lai, sẽ không thể phát triển kinh tế - xã hội cho các vùng đồng bào dân tộc ít người nếu ở đó không có đội ngũ cán bộ có trình độ, có kỹ năng, người dân không có đủ trình độ học vấn và nhận thức để tiếp thu kỹ thuật tiên tiến và kinh nghiệm sản xuất. Cho dù hệ thống giao thông, thuỷ lợi có phát triển đến đâu nhưng nếu người dân nơi đó không biết cách khai thác, sử dụng có hiệu quả thì sẽ trở lên lãng phí và kém hiệu quả, Chính vì thế theo tôi để phát triển giáo dục có hiệu quả thì không cần phải xây dựng các trường học kiên cố cho tất cả các xã, tuỳ từng vùng với những điều kiện cụ thể chúng ta có thể phát triển các loại hình giáo dục cho phù hợp để tăng khả năng tiếp cận giáo dục cho người dân (sẽ được trình bày cụ thể trong phần sau).
Phát triển hệ thống giáo dục cần tập trung vào hai vấn đề sau:
- Giảm chi phí đi học cho các dân tộc ít người.
- Tạo ra những lợi ích thiết thực của việc đi học và làm cho nhân dân hiểu rõ điều này.
Để thực hiện được điều đó cần tập trung vào các giải pháp sau:
Thứ nhất, tăng mức độ sẵn có của giáo dục thông qua chương trình xây dựng trường học để giảm khoảng cách từ nhà đến trường.
Đa phần các con em các dân tộc ít người ở miền núi, vùng sâu, vùng xa đến trường học phải qua một chặng đường dài, phải trèo đèo, lội suối. Do đó, đây là một cản trở rất lớn cho khả năng tiếp cận giáo dục của người nghèo. Vì vậy, vấn đề xây dựng và phát triển mạng lưới giáo dục vẫn còn là một vấn đề cần được quan tâm, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa. Cùng trong nội dung của việc tăng mức độ sẵn có của giáo dục cho người nghèo, một nội dung không kém phần quan trọng là nâng cao mạng lưới cơ sở hạ tầng giáo dục. Hiện nay hầu hiết các trường học còn tạm bợ, tranh tre, nứa lá còn chiếm tỷ trọng khá cao. Bàn học cho thầy trò, bảng đen, đồ dùng dạy và học còn thiếu thốn và chưa đảm bảo các tiêu chuẩn tối thiểu. Điện nước phần lớn các trường học ở nông thôn còn chưa có.
Có thể tăng khả năng tiếp cận các cơ sở giáo dục cho đồng bào các dân tộc ít người bằng một số giải pháp sau:
+ Mở các nhóm xoá mù tại chòm, xóm, thôn, bản; người biết khá dạy người biết kém, người biết kém dạy người chưa biết ở bất kỳ nơi nào (ở nhà buổi tối, nhà nghỉ ở nương, trên đường đi chợ, đi làm,… ). Có chế độ khen thưởng, động viên, khuyến khích thích hợp và kịp thời đối với những người tình nguyện dạy đạt kết quả tốt dưới hình thức hỗ trợ một khoản tiền hoặc vật chất để.
+ Mở rộng loại hình lớp học bán trú dân nuôi thành một qui định đóng góp hợp lý của toàn dân (bằng ngô, lúa, lương thực, thực phẩm tự có).
Thứ hai, giảm chi phí đến trường cho mỗi thành viên đi học của các gia đình.
Khi cho con em mình đi học thì các gia đình phải gánh chịu 2 loại chi phí đó là chi phí trực tiếp cho giáo dục và cho phí cơ hội do việc mất đi lao động trẻ em. Do đó, để giải quyết vấn đề này cần loại bỏ các chi phí chính thức: Cụ thể là xoá bỏ học phí chính thức cho những học sinh thuộc diện dân tộc ít người đặc biết khó khăn. đồng thời cần phải kết hợp tác động với các biện pháp khác nữa như sau:
+ Tăng trợ cấp đi học để giảm yêu cầu đóng góp cho cha mẹ học sinh bằng việc trợ cấp giáo dục phải bao gồm cả trợ cấp đầu vào cho giáo dục đối với người nghèo. Trợ cấp đào tạo giáo viên, sách giáo khoa, các thiết bị trường học …
+ Tiến tới cung cấp miễn phí sách giáo khoa cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục tiểu học thay vì phải mất tiền như hiện nay.
+ Cần trích hợp lý một phần nhỏ kinh phí từ các chương trình, dự án trên địa bàn để hỗ trợ cho giáo dục và con em các dân tộc ít người. Cần phải thấy đầu tư cho giáo dục tốt chính là nâng cao hiệu quả thực hiện các chương trình dự án.
Đối với các vùng dân tộc ít người cần áp dụng những cải cách này sao cho người nghèo luôn được sự hỗ trợ cần thiết ứng với mức độ chi phí của mình để đảm bảo cho con em họ đến trường được. Các chính sách trợ giúp về giáo dục phải phân loại theo mức độ giáo dục vì các nguồn lực có hạn và mức độ cần thiết của mỗi cấp học với người nghèo trong giai đoạn hiện nay có khác nhau. Cụ thể là:
+ Đối với giáo dục tiểu học, con em các hộ dân tộc ít người đặc biệt khó khăn, ngoài việc được miễn học phí theo quy định của luật phổ cập giáo dục còn được miễn giảm các khoản tiền như đóng góp xây dựng trường, trợ giúp các dụng cụ học tập.
+ Đối với giáo dục phổ thông, con em các hộ dân tộc ít người đặc biệt khó khăn được miễn giảm học phí và các khoản đóng góp xây dựng trường.
Thứ ba, nâng cao chất lượng giáo dục cho đồng bào các dân tộc ít người:
Hiện nay, cơ sở hạ tầng trường học, đội ngũ giáo viên nhiều nơi, nhất là vùng sâu, vùng cao còn thiếu rất nhiều về mặt số lượng và chất lượng thấp. Chương trình giáo dục còn nhiều bất cập, nên khả năng tiếp cận của học sinh còn thấp. Đời sống vật chất và tinh thần của giáo viên nông thôn còn nhiều khó khăn, thiếu thốn làm chất lượng giảng dạy cũng kém sút hẳn so với các vùng khác.Vì nhiều lý do từ phía người cung cấp dịch vụ giáo dục cũng như từ bản thân người nghèo làm chất lượng của học sinh ở các vùng nghèo thấp hơn hẳn so các học sinh các vùng khác, đặc biệt là tình trạng bỏ học ở đây rất cao.
Để nâng cao chất lượng giáo dục cho đồng bào các dân tộc ít người cần thực hiện một số biện pháp sau:
+ Dần dần đào tạo, thay thế hệ thống giáo viên thôn bản bằng hệ thống giáo viên người dân tộc và có chế độ đãi ngộ để họ đủ sống, yên tâm để có thể bám trường, bám lớp giảng dạy.
+ Cải thiện đời sống cho các giáo viên và các trường miền núi (tài trợ một số trang thiết bị văn hoá thiết yếu như sách báo, tranh ảnh, vi deo, catssete…).
+ Tiếp tục phát triển chương trình dạy song ngữ (dạy học song song bằng hai thứ tiếng, tiếng tiến Kinh và tiếng dân tộc)
+ Mở rộng sự cộng tác, hợp tác giữa các đơn vị quân đội, đoàn thể nhân dân với nhà trường nhằm giúp đỡ, ủng hộ về vật chất, ngày công sửa trường lớp và đồ dùng, sách vở học tập.
2.4. Các giải pháp phát triển mạng lưới y tế
Về tình hình y tế miền núi, vùng dân tộc ít người hiện nay, cần lưu ý một số vấn đề sau đây:
- Sự kém hiểu biết của người dân miền núi về bảo về sức khoẻ và phòng bệnh dịch thường dẫn đến tình trạng phát bệnh đến giai đoạn trầm trọng, mãn tính nên rất khó chữa trị.
- Các bệnh nguy hiểm lại thường bắt nguồn từ những bệnh rất thông thường. Do một lý do nào đó coi thường hoặc ngại đi đến các cơ sở khám chữa bệnh, do không có thuốc… nên từ bệnh này đã chuyển sang bệnh khác khó chữa trị hơn.
- Các phương pháp chữa trị dân gian tỏ ra có hiệu quả, rẻ tiền và dễ kiếm ở địa phương. Song vẫn dễ xảy ra tình trạng một số bà con vùng sâu, vùng xa chữa bệnh bằng phương pháp lạc hậu hoặc bị lừa bịp phản khoa học của thầy mo, thầy cúng nên thường gây nguy hiểm đến tính mạng.
- Hệ thống trạm y tế dường như nặng nề hình thức, thiếu khả năng chuyên môn, thuốc thang và cán bộ để phục vụ trên địa bàn rộng nhưng phân tán.
Từ những vấn đề nêu trên, xin đề xuất một số biện pháp y tế miền núi có tính khả thi như sau:
ỉ Giáo dục, phổ biến các kiến thức y tế, bảo vệ sức khoẻ ban đầu cho bà mẹ, trẻ em để bước đầu có thể phát hiện, tự chữa các bệnh thông thường.
Đây là một vấn đề hết sức quan trọng và vô cùng cần thiết trong việc đảm bảo sức khoẻ cho đồng bào các dân tộc ít người. Đa phần các dân tộc ít người như đã nêu ở trên thường sinh sống ở các vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa. Chính vì vậy, trong khi mạng lưới y tế còn chưa về được đến từng thôn bản thì khả năng tiếp được các cơ sở y tế là rất khó khăn và họ phải vượt qua một chặng đường dài mới có thể đến được các cơ sở y tế. Hơn nữa trong thôn, bản của họ vẫn còn tồn tại thầy mo, thầy cúng chữa bệnh bằng các phương pháp phi khoa học kém hiệu quả, thậm chí còn gây nguy hiểm đến tính mạng cho người bệnh. Do đó, giáo dục, phổ biến các kiến thức y tế, bảo vệ sức khoẻ ban đầu cho bà mẹ, trẻ em để họ có đủ nhận thức để tự nhận biết và tự chữa được các bệnh thông thường không những giúp đồng bào dân tộc ít người có thể tự đảm bảo được sức khoẻ mà còn giúp họ thoát khỏi những thủ tục mê tín dị đoan, phi khoa học.
ỉ Nâng cao khả năng tiếp cận các cơ sở, dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ công cộng.
Để nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ công cộng cần thực hiện một số biện pháp sau:
+ Phổ biến rộng khắp mạng lưới y tế viên cộng đồng gồm các giáo viên phổ thông, người có trình độ học vấn, các cán bộ đoàn thể … kết hợp công tác chuyên trách với công tác y tế cộng đồng.
+ Tập hợp, tổ chức các bà lang, ông lang có uy tín ở địa phương cùng hợp tác chữa bệnh. Khuyến khích chữa bệnh bằng thuốc nam, thuốc lá. Xây dựng vườn thuốc thôn bản.
+ Kết hợp với sự giúp đỡ về y tế của lực lượng y tế bộ đội biên phòng các đồn biên phòng vùng sâu, vùng xa.
+ Tổ chức các đợt khám chữa bệnh lưu động, miễn phí, định kỳ xuống các thôn bản. Phát hiện kịp thời để đưa các bệnh nhân nặng về tuyến y tế huyện, tỉnh.
ỉ Giảm chi phí y tế cho đồng bào các dân tộc ít người:
Để giảm chi phí cho người nghèo cần đưa ra các giải pháp chính là:
+ Cần phải thiết lập một cơ chế và xây dựng một hệ thống y tế trợ cấp cho các hộ dân tộc ít người, áp dụng các loại giá khác nhau cho việc sử dụng các dịch vụ y tế khám và chữa bệnh cho các nhóm người có mức thu nhập khác nhau. Kể cả áp dụng các chính sách miễn phí cho những người đặc biệt khó khăn. Để thực hiện được điều này cần bán thẻ bảo hiểm y tế với giá thấp hoặc cấp miễn phí cho các hộ nghèo, đồng thời phối hợp với các chương trình xã hội khác để chăm lo sức khoẻ người nghèo.
+ Cấp thuốc nhân đạo cho các trường hợp quá khó khăn và các đối tượng thuộc chính sách xã hội.
Vấn đề đặt ra làm sao có thể xác định chính xác đối tượng nào là nghèo cần được miễn giảm và trợ cấp các dịch vụ y tế. Để giải quyết điều này, biện pháp quan trọng là: Củng cố hệ thống chứng nhận miễn phí dựa trên cơ sở khảo sát chính xác mức thu nhập, số nhân khẩu trong gia đình kết hợp với công tác giảm chi phí tại các cơ sở y tế thường được người nghèo sử dụng.
ỉ Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ của hệ thống dịch vụ y tế cơ sở.
Để nâng cao chất lượng dịch vụ y tế cho người nghèo, có nhiều biện pháp, trong đó đặc biệt là phải tăng kinh phí đào tạo và cung cấp đầy đủ thuốc men chữa bệnh vừa túi tiền, cần thiết phải quy hoạch đội ngũ nhân viên y tế xã và các vùng đói nghèo, trong đó đưa lương của nhân viên y tế xã vào ngân sách của nhà nước là một yếu tố quan trọng.
Kết luận
Qua lịch sử phát triển chúng ta có thể nhận thấy rằng đói nghèo luôn luôn là một vấn đề nổi cộm ở bất kỳ một quốc gia nào từ phát triển đến đang phát triển, mặc dù ở những nước đang phát triển nó tỏ ro nghiêm trọng và phức tạp hơn những tất cả người nghèo ở các nước đều có chung một đặc điểm là họ luô phải chấp nhận những thiệt thòi so với xã hội. Chính vì thế mà bất kỳ quốc gia nào muốn tăng trưởng và phát triển một cách bền vững và đưa thành tựu của phát triển đến với mọi người dân đều luôn đặc biệt quan tâm đến công tác xoá đói, giảm nghèo.
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta luôn dành một sự quan tâm đặc biệt cho công tác xoá đói, giảm nghèo mà đặc biệt là cho đồng bào các dân tộc ít người. Nhiều chương trình, dự án đã được phê duyệt và triển khai trên phạm vi cả nước và bước đầu đã đem lại hiệu quả nhất định, nhất là những chương trình, dự án hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo đặc biệt khó khăn. Thực tế triển khai các chương trình hỗ trợ cơ sở hạ tầng cho các xã đặc biệt khó khăn trong thời gian qua đã chứng minh một điều rằng: cơ sở hạ tầng phát triển là điều kiện quan trọng để các vùng nghèo có điều kiện phát triển sản xuất kinh tế - xã hội, là một nhân tố quan trọng trong công cuộc xoá đói, giảm nghèo cho các vùng đó. Nhưng nó cũng đặt ra cho chúng ta nhiều câu hỏi mà trước tiên là làm sao để phát triển cơ sở hạ tầng các vùng nghèo có hiệu quả, chúng ta nên đảm bảo về mặt công bằng xoá đói, giảm nghèo hay đảm bảo hiệu quả về mặt kinh tế? Làm sao để cộng đồng người nghèo nhận được nhiều hơn lợi ích từ các hoạt động đó? Chính vì vậy với việc lựa chọn đề tài này tôi hi vọng phần nào có thể giúp được các cơ quan hoạch định, cũng như các cơ quan tổ chức thực hiện ở trung ương và địa phương tìm được câu trả lời phù hợp cho riêng mình, để góp phần đẩy nhanh công tác xoá đói, giảm nghèo đặc biệt là cho đồng bào các dân tộc ít người, đưa đất nước ngày càng phát triển nhanh và bền vững.
Tuy nhiên, do nhiều hạn chế về nhận thức, lý luận và thu thập thông tin vì thế đề tài của tôi không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được các ý kiến góp ý và nhận xét của các thầy cô giáo và các bạn trong khoa để tôi có thể hoàn thiện hơn bài viết của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Danh mục tài liệu tham khảo
“Việt Nam tấn công đói nghèo” Báo cáo của nhóm công tác các chuyên gia Chính phủ – Nhà tài trợ – Tổ chức phi chính phủ., 1999.
Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói, giảm nghèo. NXB Bản Đồ, Hà Nội, tháng 05 năm 2002.
Xoá đói, giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
Vấn đề nghèo ở Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996.
Các đề xuất của người nghèo về chính sách (Tập I, II, III). Tổng hợp của nhóm Hành động Chống Đói nghèo, 2002.
Thông tin kinh tế - xã hội (số 3, 5, 6, 11, năm 2002; số 2,3 năm 2003).
Tạp chí Kinh tế Phát triển số 3, 5 – 2002.
“Đổi mới chính sách xã hội luận cứ và giải pháp” GS Phạm Xuân Nam, NXB Chính trị Quốc gia, 1997.
Văn kiện Đại hội Đảng VIII, NXB. CTQG, Hà Nội, 1996.
“Kinh tế thị trường và sự phân hoá giàu – nghèo ở vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nước ta hiện nay. NXB. CTQG. HN. 1999.
“Kết quả điều tra kinh tế - xã hội hộ gia đình 1994 – 1997, NXB Thống kê, Hà Nội, 1999.
“Thống kê kinh tế - xã hội 631 tỉnh và thành phố”. NXB Thống kê, Hà Nội, 2002.
“Tác động kinh tế của Nhà nước nhằm góp phần xoá đói, giảm nghèo trong quá trình đẩy mạnh CNH – HĐH ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ”. Đề tài cấp bộ Khoa Quản lý kinh tế, Học viện CTQG – HCM. Hà Nội. 1997.
“Định hướng chiến lược việc làm và xoá đói, giảm nghèo trong chiến lược phát triển nông thôn Việt Nam đến năm 2000”. Hội thảo: Toạ đàm về chuyển đổi nông nghiệp nông thôn Việt Nam, Bộ LĐTB-XH , 1999.
“Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa”. Tài liệu phục vụ Hội nghị toàn quốc Triển khai Chương trình 135. Hà Nội, 1999.
“Mười cuộc điều tra lớn”. NXB Thống kê Hà Nội. 2000.
“Một số vấn đề chính sách bảo đảm xã hội”. Bộ LĐTB – XH, Hà Nội 1995.
“Dự thảo chiến lược xoá đói, giảm nghèo giai đoạn 2001 – 2010, Bộ LĐTB - XH.
“Báo cáo tình hình đói nghèo Việt Nam”. Nguyễn Hữu Hải – Vụ trưởng Vụ Bảo trợ Xã hội. Hội thảo chuẩn đói nghèo tại Việt Nam. 2002.
“Kết quả điều tra cơ bản lao động và một số vấn đề xã hội ở vùng miền núi phía Bắc”. NXB Thống kê. Hà Nội. 2002.
“Dân số và phát triển ở các xã điển hình trong 50 năm qua”. NXB KHXH: GS.TS Đặng Thu. 1996.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37015.doc