Luận văn Một số giải pháp tài chính hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài : Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, sự tồn tại nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, nhiều loại hình doanh nghiệp với những quy mô, trình độ khác nhau là tất yếu. Việc tập trung sản xuất ở quy mô nhỏ sẽ khai thác tối đa lợi thế về tính đa dạng hóa của sản phẩm, đáp ứng từng phân khúc rất nhỏ của thị trường, giúp các doanh nghiệp tìm được chỗ đứng trên thị trường, đồng thời cũng giảm thiểu rủi ro do biến động của thị trường. Quy mô gọn nhẹ nên khả năng thu hút vốn trong dân dễ dàng và nhanh chóng, phát huy được nội lực trong nền kinh tế. Hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế đều có DNNVV. Phát triển khu vực kinh tế các DNNVV là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự ra đời của Luật Doanh Nghiệp 2005, Luật Đầu Tư 2005 đã có những tác động tích cực đến quá trình phát triển doanh nghiệp của Việt Nam, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp. Việc phát triển DNNVV góp phần đa dạng hoá các thành phần kinh tế, góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng GDP của đất nước, đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa, dich vụ cho nền kinh tế. DNNVV còn góp phần giải quyết công ăn việc làm và ổn định đời sống xã hội cho hàng triệu lao động. Với tỷ trọng hơn 96% trong tổng số các doanh nghiệp là DNNVV, DNNVV đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Do đó, các chính sách của Chính phủ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV phát triển là hết sức cần thiết. Thời gian qua, thông qua hàng loạt các Nghị định, Thông tư, Chỉ thị về các chính sách hỗ trợ cho sự phát triển của các DNNVV được ban hành chứng tỏ Nhà nước ta đã đánh giá đúng vai trò của các DNNVV trong nền kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế, các DNNVV còn gặp nhiều khó khăn như : sự phân biệt đối xử về hành chính giữa các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nguồn vốn hoạt động hạn chế, cơ hội tiếp cận với các nguồn tài trợ còn gặp nhiều trở ngại, khoa học công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý kinh doanh còn yếu kém, Trong đó, vấn đề nguồn vốn hoạt động của các DNNVV là vấn đề quan trọng và cấp thiết nhất. Do đó, việc lựa chọn đề tài về các chính sách tài chính thúc đẩy sự phát triển các DNNVV nhằm góp phần mở ra nhiều cơ hội cho các DNNVV tiếp cận với các nguồn vốn đa dạng hơn để các doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước. Đề tài: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH HỖ TRỢ CHO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA 2. Mục đích của đề tài : Xuất phát từ vai trò quan trọng của DNNVV trong nền kinh tế, đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề sau : - Nghiên cứu các vấn đề về DNNVV, đặc điểm, vai trò, các nguồn tài trợ từ bên ngoài cho sự phát triển DNNVV. - Nghiên cứu thực trạng về sự tồn tại, phát triển và những khó khăn mà DNNVV gặp phải trong quá trình tiếp cận với các nguồn tài trợ từ bên ngoài. - Nghiên cứu định hướng của Nhà nước về phát triển DNNVV và các chính sách hỗ trợ cho các DNNVV phát triển. Từ đó, đưa ra cái nhìn tổng quan về thực trạng hình thành, tồn tại và phát triển của các DNNVV ở Việt Nam. Đồng thời đưa ra một số giải pháp tài chính giúp cho các DNNVV tiếp cận một cách tốt nhất các nguồn tài trợ nhằm thúc đẩy sự phát triển của các DNNVV trong giai đoạn hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu : - Đối tượng nghiên cứu: + Các nguồn tài trợ và vai trò của chúng đối với sự phát triển của DNNVV trong nền kinh tế. + Thực trạng tiếp cận các nguồn tài trợ của các DNNVV. + Các chính sách, giải pháp tài chính phát triển DNNVV. Do xuất phát ban đầu là các DNNVV có nguồn vốn tự có rất hạn chế, do đó trong quá trình hoạt động các DNNVV tận dụng các nguồn vốn từ bên ngoài là chủ yếu. Chính vì vậy, các giải pháp tài chính ở đây chỉ đề cập đến các giải pháp giúp DNNVV tiếp cận với các nguồn tài trợ từ bên ngoài mà không đề cập đến nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp. + Đưa ra kiến nghị hoàn thiện các chính sách trên nhằm khắc phục những vướng mắc trong quá trình thực hiện. - Phạm vi nghiên cứu: Các DNNVV ở Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu : - Phương pháp nghiên cứu sử dụng được vận dụng tổng hợp từ các phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, suy luận logic. - Nguồn thông tin dữ liệu từ nhiều nguồn như từ các khảo sát, nghiên cứu khoa học về DNNVV của các nhà nghiên cứu, các dữ liệu từ Tổng cục thống kê, Sở kế hoạch và đầu tư, Niên giám thống kê, các kết quả khảo sát về DNNVV của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, các bài báo, tạp chí, báo điện tử, nhận định của các chuyên gia về các vấn đề của DNNVV, 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu : - Khoa học: Sự phát triển các DNNVV giữ một vai trò quan trọng trong sự phát triển chung của nền kinh tế. Do đó, đã có nhiều đề tài, công trình nghiên cứu khoa học về các giải pháp phát triển DNNVV ở Việt Nam. Nhà nước ta cũng đã đưa các chính sách hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này phát triển. - Thực tiễn: Việc nhìn nhận, đánh giá vai trò của các DNNVV trong nền kinh tế một cách đúng đắn sẽ giúp các doanh nghiệp này phát triển mạnh mẽ hơn và đóng góp nhiều hơn vào sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam. 6. Kết cấu của luận văn : Luận văn gồm ba chương cùng với phần mở đầu và kết luận như sau : - Phần mở đầu - Chương 1 : Lý luận cơ bản về doanh nghiệp nhỏ và vừa và nguồn tài trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Chương 2 : Thực trạng các nguồn tài trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. - Chương 3 : Một số giải pháp tài chính thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Kết luận - Tài liệu tham khảo

pdf110 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1753 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp tài chính hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trực tiếp nhập khẩu tài sản, máy móc thiết bị cho thuê. - Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các loại hình công ty CTTC liên doanh với nước ngoài để thu hút nguồn vốn lớn và nâng cao trình độ chuyên môn về kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý. - Nhà nước cũng cần có các chính sách khuyến khích cho các công ty CTTC để các công ty CTTC có các chương trình tài trợ cho các DNNVV, ví dụ như ưu đãi thuế (thuế xuất nhập khẩu, thuế chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản, thuế thu nhập doanh nghiệp), ngoại tệ, lãi suất huy động vốn trung dài hạn…nhằm giúp các công ty CTTC có thể giảm các chi phí đầu vào và từ đó giảm giá cho thuê, nâng cao khả năng cạnh tranh và mở rộng qui mô hoạt động. 78 - Với tình hình hiện tại các công ty CTTC chỉ tập trung ở các thành phố lớn, trong khi đó DNNVV với tỷ lệ trên 96% tồn tại khắp cả nước thì các công ty CTTC chưa thể đáp ứng được nhu cầu hiện nay. Do đó các công ty CTTC cần mở rộng thêm địa bàn hoạt động trên khắp các tỉnh thành của cả nước. 3.2.2.2 Nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của các Công ty cho thuê tài chính - So với mặt bằng lãi suất hiện nay, để cạnh tranh và tồn tại thì các công ty CTTC cần có chính sách giảm các loại chi phí đầu vào nhằm giảm giá dịch vụ để thu hút khách hàng. - Trong xu thế hội nhập, quốc tế hóa nền kinh tế thị trường thì nguồn nhân lực là một yếu tố hết sức quan trọng. Do đó, việc đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là thế mạnh của mỗi doanh nghiệp. Các công ty CTTC cần tăng cường đào tạo nguồn nhân lực có chuyên môn để theo kịp nhu cầu hiện nay. - Thực hiện đa dạng hóa các hình thức CTTC như: Hình thức mua và cho thuê lại đối với các tài sản thuê là máy móc thiết bị, dây chuyền sàn xuất hiện đại, có thời gian sử dụng tương đối dài và chậm lạc hậu về công nghệ; Hình thức cho thuê trả góp, hình thức này đáp ứng được nhu cầu thích sở hữu hơn là đi thuê của người dân và các nhà doanh nghiệp; Hình thức cho thuê hợp tác, hình thức này không chỉ giúp cho các công ty CTTC có thể khắc phục tình trạng thiếu vốn của mình mà còn khắc phục được quy định của Chính phủ về mức giá trị cho thuê đối với một khách hàng không vượt quá 30% vốn tự có của các công ty CTTC. Đa dạng hóa tài sản cho thuê bằng cách bám sát thị trường công nghệ nắm bắt thông tin về các máy móc thiết bị mới, công nghệ hiện đại, nhu cầu thuê của các DNNVV để lựa chọn các tài sản thuê cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng. 79 - Đơn giản hóa các thủ tục cho thuê, rút ngắn thời gian thẩm định hợp đồng, năng lực tài chính, khả năng trả nợ của doanh nghiệp đi thuê. - Nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng theo tiêu chí nhanh chóng, an toàn, thuận lợi cho khách hàng. 3.2.2.3 Nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ cho thuê tài chính đối với các DNNVV Trong thời gian qua hoạt động của các công ty CTTC phần nào đã làm giảm sức ép và gánh nặng cho hệ thống ngân hàng trong việc cung ứng vốn cho doanh nghiệp đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Song, sự hiểu biết nói chung của công chúng đối với hoạt động của các công ty CTTC còn hạn chế. Nhiều khách hàng tiềm năng chưa tiếp cận và tận dụng được những lợi ích của phương thức này mang lại. Do đó, cần phải có chiến lược tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu rộng rãi về hoạt động CTTC để nâng cao sự hiểu biết cho công chúng như báo chí, truyền thanh, truyền hình, đồng thời có các chương trình đào tạo, xây dựng trung tâm hỗ trợ hoặc tư vấn cho khách hàng. Việc tuyên truyền, tiếp thị phải làm rõ nét các lợi thế, ưu điểm của loại dịch vụ này có như vậy mới tạo ra được sự cạnh tranh với các hình thức cấp vốn khác trong nền kinh tế. Nội dung, quy trình CTTC phải được phổ biến dễ hiểu, đơn giản thể hiện được ý nghĩa, lợi ích và mục đích mà doanh nghiệp hướng tới đối với loại hình CTTC. Nhà nước và Hiệp hội CTTC cũng cần phát huy vai trò của mình tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đến gần với các công ty CTTC hơn. - Các công ty CTTC cần thường xuyên tiến hành tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề, các lớp học giới thiệu hoạt động CTTC đến với các chủ doanh nghiệp. 3.3 Các giải pháp hỗ trợ 80 3.3.1 Giải pháp về chính sách thuế - Chính sách thuế phải góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Thực hiện cải cách thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, minh bạch, trung lập, không phân biệt các thành phần kinh tế. Chính sách thuế cần được điều chỉnh cho hợp lý nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường tích tụ vốn và đầu tư thay đổi công nghệ, hiện đại hóa sản xuất, hạ thấp giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ, bồi dưỡng nguồn thu, tăng thu cho ngân sách Nhà nước. - Hệ thống thuế đơn giản, minh bạch với chi phí hành chính thấp được áp dụng và đảm bảo tính công bằng. 3.3.1.1 Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) - Thuế TNDN là thuế tính trên thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp là tổ chức hoạt động sản xuất, khinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập chịu thuế theo quy định của Luật hiện hành. Theo Luật thuế TNDN mới số 14/2008/QH12 đã được Quốc hội thông qua ngày 03/06/2008 hiệu lực từ 01/01/2009 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế hiện hành như : chuyển các đối tượng là cá nhân và hộ gia đình sang nộp thuế Thu nhập cá nhân, bổ sung một số khoản thu nhập được miễn thuế, căn cứ tính thuế, các khoản chi phí hợp lý và đặc biệt là mức thuế suất thuế TNDN sẽ là 25% (Luật hiện hành là 28%). Đây cũng là một tin mừng cho các doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, so với kỳ vọng thì mức thuế suất này sẽ được điều chỉnh xuống mức thấp hơn 25%. Bên cạnh đó, ưu đãi thuế TNDN theo Luật mới chỉ còn 2 mức là 10% và 20% (Luật hiện hành là 3 mức 10, 15, 20%). Chính sách ưu đãi thuế (như nâng mức ưu đãi thuế, thời gian ưu 81 đãi dài) đối với các hoạt động đầu tư vào các khu vực kinh tế khó khăn, vùng nông thôn sẽ khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đầu tư nhằm cải thiện kinh tế nơi đó, góp phần ổn định kinh tế - xã hội, rút ngắn chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn. Đây là một trong những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội rất quan trọng. Chính sách thuế TNDN là rất quan trọng đối với doanh nghiệp vì nó tác động trực tiếp đến thu nhập còn lại của doanh nghiệp. Nếu thuế suất thuế TNDN cao sẽ làm cho doanh nghiệp kê khai sai lệch nguồn thu của mình nhằm giảm thiểu số thuế phải nộp. Việc giảm thuế suất có thể tác động giảm nguồn thu. Tuy nhiên, khi giảm thuế sẽ có nhiều doanh nghiệp sẳn sàng nộp thuế hơn, tình trạng thất thu sẽ giảm và đây sẽ là xu hướng tích cực giúp tăng nguồn thu ngân sách. Chính sách ưu đãi thuế hợp lý sẽ bảo đảm nguồn thu được duy trì hoặc cao hơn. Việc cắt giảm thuế sẽ làm giảm thu nhưng tạo điều kiện để doanh nghiệp thêm tiềm lực, bổ sung thêm vốn đầu tư sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh để tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, từ đó số đóng góp nhiều hơn vào ngân sách. 3.3.1.2 Thuế giá trị gia tăng (GTGT) - Thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Theo Luật thuế GTGT mới số 13/2008/QH12 đã được Quốc hội thông qua ngày 03/06/2008 hiệu lực từ 01/01/2009 đã có một số điều chỉnh đáng kể về chính sách thuế áp dụng cho các doanh nghiệp. Về đối tượng không chịu thuế bao gồm 25 nhóm (Luật thuế hiện hành là 28 nhóm hàng hóa, dịch vụ). Về mức thuế suất thì vẫn giữ nguyên ba mức thuế suất là 0%, 5% và 10%, và điều chỉnh tăng thêm 82 2 mục vào đối tượng chịu thuế suất 0%, đối tượng chịu thuế suất 5% còn 15 nhóm (Luật thuế hiện hành là 21 nhóm). Nhìn chung Luật thuế mới làm tăng khoản thu thuế cho Ngân sách Nhà nước. Theo dự thảo đề xuất là nên áp dụng 1 hay 2 mức thuế suất nhưng đã không được thông qua. Với chính sách đánh thuế cao trên tất cả các hàng hóa, dịch vụ sẽ hạn chế động lực tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà doanh nghiệp đang có kế hoạch bắt tay vào kinh doanh. Số lượng doanh nghiệp càng nhiều, giá trị gia tăng được tạo ra cho đất nước càng lớn, do đó giảm 1% thuế có thể tăng thu thêm nhiều lần cho Ngân sách nhà nước là một vấn đề đáng để xem xét. Vấn đề đưa thuế suất về một hoặc hai mức thuế suất hợp lý sẽ góp phần làm đơn giản hóa quá trình áp dụng vào thực tế khi áp thuế suất cho từng loại hàng hóa và khuyến khích các doanh nghiệp tích cực tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh tạo ra giá trị gia tăng. Một mức thuế suất hợp lý được áp dụng sẽ làm giảm các khó khăn trong quá trình áp dụng và thực thi chính sách thuế. 3.3.2 Giải pháp về phát triển thị trường tạo môi trường thuận lợi cho DNNVV phát triển Một môi trường kinh tế vi mô thuận lợi (còn được xem là một môi trường kinh doanh thuận lợi) cho DNNVV cần bao gồm các thành phần sau : - Thị trường hàng hóa, lao động và vốn có tính cạnh tranh cao, có tác dụng giảm chi phí sản xuất xuống các mức tối thiểu - Nhiều doanh nghiệp mới ra đời với nhiều sáng tạo công nghệ và kết hợp kỹ thuật tiên tiến, có tác dụng tăng năng suất lao động nhờ việc tái phân bổ nguồn lực từ các ngành kém cạnh tranh sang các ngành có tính cạnh tranh cao hơn, ứng dụng các phương pháp sản xuất hàng hóa và cung cấp dịch vụ hiệu quả hơn 83 - Quan hệ tương tác giữa Chính phủ, khu vực doanh nghiệp và khối dân sự được tổ chức hiệu quả, có tác dụng thiết lập các thể chế và chính sách phụ vụ cho việc điều tiết, hỗ trợ và thúc đẩy thị trường hàng hóa, lao động, vốn, các nỗ lực sáng tạo,… Các thể chế và chính sách điều tiết, hỗ trợ và thúc đẩy thị trường chính là các nhân tố quyết định tính chất của môi trường kinh tế vi mô. Xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi là một nhiệm vụ mang tính dài hạn. Trên thực tế, môi trường đầu tư của các doanh nghiệp chưa đồng đều đặc biệt ở khu vực Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Bằng Sông Cửu Long. Một trong những nguyên nhân đó là do khả năng tiếp cận thông tin, quy trình giải quyết các thủ tục hành chính còn rườm rà, các thông tin về quy hoạch chưa phổ biến đến các doanh nghiệp để doanh nghiệp có cơ hội tham gia đầu tư,…Do đó, một số giải pháp đưa ra như sau : - Cải thiện khuôn khổ pháp lý và thể chế, cắt giảm thủ tục hành chính, đơn giản hóa các quy định về thủ tục hành chính như đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế và cấp giấy phép khắc dấu cho doanh nghiệp, đầu tư cơ sở hạ tầng, cải thiện điều kiện lao động. Các yêu cầu trong quy trình đăng ký kinh doanh được giảm thiểu, với mục đích duy nhất là đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng và người lao động thay vì việc tạo ra nguồn thu nhập không chính đáng cho các cơ quan chức năng địa phương hoặc trung ương. - Thúc đẩy hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp và các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp. Tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp tạo nên một sức mạnh tổng hợp, tăng sức hấp dẫn đầu tư đối với các doanh nghiệp. - Cải thiện nguồn cung cấp và khả năng tiếp cận các kênh thông tin. Đẩy mạnh các hoạt động thông tin, quảng bá cho các doanh nghiệp để thu hút đầu tư. 84 - Quy hoạch các cụm công nghiệp giúp giải quyết vấn đề về mặt bằng sản xuất cho DNNVV đồng thời giúp các DNNVV liên kết với nhau nâng cao năng lực cạnh tranh. - Mỗi ngành, địa phương cần chủ động xây dựng chiến lược phát triển phù hợp với điều kiện đặc thù của địa phương. 3.3.3 Các giải pháp khác - Phát triển thị trường chứng khoán và tạo điều kiện cho các DNNVV tham gia vào thị trường. + Nới lỏng điều kiện tham gia thị trường đối với các DNNVV (Theo Nghị định Chính phủ số 14/2007/NĐ-CP ngày 19/01/2007 thì điều kiện niêm yết cổ phiếu là công ty cổ phần có vốn điều lệ từ 10 tỷ đồng trở lên, với điều kiện này thì các DNNVV không thể tham gia vào thị trường chứng khoán chính thức). + Giảm chi phí giao dịch. + Nhà nước cũng nên có chính sách khuyến khích các công ty thành lập mới dưới dạng công ty cổ phần vì có như vậy các doanh nghiệp này mới có đủ điều kiện phát hành chứng khoán để huy động vốn. - Khuyến khích hoạt động hợp tác liên doanh liên kết với các đối tác có vốn đầu tư nước ngoài để thu hút nguồn vốn và cải thiện trình độ quản lý và khoa học công nghệ * Thị trường tài chính hoạt động tốt có tác động trực tiếp đến việc xây dựng năng lực thương mại và đầu tư cho DNNVV. Trước hết, thị trường này sẽ cung cấp tài chính cho các DNNVV đang triển khai các chiến lược kinh doanh tích cực và các chương trình nâng cấp hoạt động doanh nghiệp. Các dịch vụ tài chính phục vụ xây dựng năng lực thương mại và đầu tư gồm : khoản vay trung hạn và dài hạn 85 cho việc nâng cấp công nghệ, quản lý, phát triển thị trường và sản phẩm; khoản vay ngắn hạn, thư tín dụng, bảo lãnh tỷ giá quy đổi ngoại tệ và vay vốn, các nghiệp vụ cấp vốn khác cho thương mại phục vụ xuất khẩu. Các dịch vụ tài chính phụ trợ như cho thuê, bảo hiểm cũng rất quan trọng trong việc giúp doanh nghiệp đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn cho hoạt động. Đồng thời, khu vực tài chính lành mạnh có tác dụng đảm bảo cho các nhà đầu tư tư nhân, các nhà đầu tư nước ngoài, yên tâm khi đầu tư vào một nền kinh tế bất kỳ. Do đó, việc cải thiện các quy định pháp luật nhằm xây dựng các thể chế tài chính và thị trường tài chính vững mạnh rất quan trọng đối với quá trình hỗ trợ doanh nghiệp tham gia đầu tư và thương mại. Các lợi ích kinh tế thặng dư do khu vực tài chính lành mạnh mang lại sẽ đóng góp cho việc duy trì ổn định kinh tế, đảm bảo giao dịch tài chính, huy động tiết kiệm trong và ngoài nước cho hoạt động đầu tư, và nâng cao hiệu quả của việc phân bổ nguồn vốn. Khả năng tiếp cận tập trung đối với các dịch vụ hỗ trợ tài chính của DNNVV với lãi suất cạnh tranh có thể được thúc đẩy thông qua các chương trình bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, cơ chế thực hiện hợp đồng phụ, các khoản vay đặc biệt cho xuất khẩu. Ngoài ra, các công cụ tài chính rủi ro như thế chấp hoặc tương tự thế chấp (các quỹ đầu tư mạo hiểm) cũng góp phần đẩy mạnh đầu tư và sáng tạo. * Bên cạnh đó, một yếu tố không kém phần quan trọng đó là để góp phần cho các chính sách hỗ trợ thực thi có hiệu quả các DNNVV phải tự mình phát triển thông qua việc nâng cao năng lực, trình độ quản lý của các giám đốc và các cán bộ quản lý doanh nghiệp, bồi dưỡng khả năng kinh doanh quốc tế và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế cho phù hợp với nền kinh tế mở hiện nay nếu không doanh nghiệp sẽ là người tự loại thải mình ra khỏi sân chơi quốc tế. Tiến hành xây dựng, hoàn thiện hệ thống sổ sách kế toán, hệ thống kế toán quản trị, thực 86 hiện chế độ báo cáo tài chính rõ ràng, minh bạch. Bản thân các doanh nghiệp phải tự tính toán để cứu mình, tồn tại qua thời kỳ khó khăn. Có thể thực hiện bằng nhiều cách như: tiết kiệm chi phí, mở hướng kinh doanh mới, huy động sức mạnh tổng hợp để kinh doanh,…Mặt khác, cần tăng cường hỗ trợ lẫn nhau, có thể bằng nhiều mối liên kết như cùng ngành nghề, cùng hiệp hội, trên địa bàn và kể cả mở rộng ra ngoài hiệp hội và địa bàn hoạt động. 87 Kết luận chương 3 : Những giải pháp hợp lý và phù hợp là hết sức quan trọng và cần thiết cho sự phát triển của DNNVV hiện nay. Sự định hướng cùng với sự hỗ trợ từ phía các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước là không thể thiếu. Kiến nghị về những nghiên cứu tiếp theo: Thay đổi tư duy về vai trò, vị trí của khu vực kinh tế ngoài Nhà nước có quy mô vừa và nhỏ. Cần nhận thức đây là khu vực kinh tế quan trọng, đóng góp lớn cho sự tăng trưởng kinh tế, đưa nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Đây là khu vực kinh tế năng động, trẻ, lực lượng đông, đang phát triển nhanh, dể thay đổi, phù hợp với môi trường kinh doanh mới. Sự hình thành, tồn tại và phát triển của các DNNVV và vai trò của nó đối với nền kinh tế không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong hiện tại mà nó là một sự tồn tại và phát triển song hành với sự phát triển của nền kinh tế. Do đó, việc nghiên cứu về DNNVV và hoàn thiện các giải pháp hỗ trợ, thúc đẩy các doanh nghiệp này phát triển sẽ rất có ý nghĩa góp phần làm cho khu vực kinh tế này ngày càng phát triển và đóng góp nhiều hơn cho quá trình phát triển của nền kinh tế đất nước. 88 KẾT LUẬN Nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc gia nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế như WTO đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tự nâng cao khả năng cạnh tranh, khả năng kinh doanh của mình để tồn tại và các DNNVV cũng không nằm ngoài xu thế đó. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới ở nước ta ngày càng gia tăng sau khi Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư 2005 được ban hành. Trong đó, số lượng DNNVV chiếm đại đa số. Với qui mô nhỏ, nguồn vốn hạn chế, các DNNVV Việt Nam rất cần có sự hỗ trợ từ các chính sách của Nhà nước. Bên cạnh đó, sự định hướng của Nhà nước để các doanh nghiệp này phát triển theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước cũng rất cần thiết. Các DNNVV với khả năng tài chính yếu kém, đội ngũ quản lý kinh doanh chưa có chuyên môn, chưa chuyên nghiệp, nguồn nhân lực chưa đáp ứng được cho quá trình hội nhập quốc tế, khoa học kỹ thuật và công nghệ lạc hậu,…rất cần có sự hỗ trợ từ các chính sách hỗ trợ phát triển của Nhà nước như hỗ trợ cho các doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận với các nguồn tài trợ tài chính như thông qua các kênh tín dụng ngân hàng, cho thuê tài chính, các quỹ đầu tư,…và các Hiệp hội doanh nghiệp để giúp các doanh nghiệp tiếp cận được với nguồn thông tin thị trường kịp thời để điều hành và quản lý sản xuất cho phù hợp, đồng thời giúp các doanh nghiệp chia sẽ thông tin, trao đổi kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau. Cùng với các chính sách hỗ trợ từ Nhà nước, đội ngũ quản lý doanh nghiệp cần tham gia các khóa đào tạo về năng lực kinh doanh, kiến thức chuyên môn, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin,…để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình. 89 Tóm lại, để giúp các DNNVV Việt Nam tiếp tục tồn tại và phát triển bền vững, các giải pháp tài chính được đưa ra ở trên cùng với khả năng tự nâng cao năng lực kinh doanh của mình các DNNVV Việt Nam sẽ vững bước tiếp trên con đường phát triển của mình và góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo Minh, “Cần cơ chế đặc thù phát triển DNNVV”, Sài gòn giải phóng, Internet. 2. Đặng Vỹ, “Doanh nghiệp nhỏ vẫn có thể huy động được vốn từ nhiều nguồn”, VietNamNet. 3. Đoàn Đình Hoàng (2006), “Doanh nghiệp nhỏ và vừa – Lối đi ngay dưới chân mình”. 4. Đoàn Hạnh (2007), “Tìm vốn qua cho thuê tài chính”, Thời báo kinh tế Sài gòn. 5. Kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa 5 năm (2006-2010) của Thủ tướng Chính phủ, ngày 23 tháng 10 năm 2006. 6. Lê Thanh Hà (2006), “ Nghiên cứu một số giải pháp nhằm phát triển tài trợ vốn dưới hình thức cho thuê tài chính đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn TP.HCM”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Đại học Kinh tế Tp.HCM. 7. Lê Văn Tư, Thân Thị Thu Thủy (2006), Thị trường chứng khoán, NXB Tài chính. 8. Linh Lan, “ Giải pháp tài chính linh hoạt cho các DNNVV”, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Internet. 9. Phước Hà (2008), “Ứng cứu vốn cho DNVVN”, Vietnam Net. 10. MESG, APEC VIET NAM 2006, Đề cương “Nâng cao năng lực hôi nhập thị trường cho doanh nghiệp siêu nhỏ”’. 11. Nam Nguyên (2008), “Hàng loạt doanh nghiệp vừa và nhỏ trong cơn thoi thóp”, Vietnam Net. 12. Nam Phương (2008), “BIDV hỗ trợ tín dụng cho DNNVV”, Diễn đàn doanh nghiệp. 91 13. Nhóm sinh viên lớp MBA5 Đại học Mở Tp.HCM, “Huy động vốn cho doanh nghiệp mới thành lập và doanh nghiệp nhỏ từ quỹ đầu tư mạo hiểm”. 14. Nghị định của Chính phủ số 16/2001/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính, ngày 02 tháng 05 năm 2001. 15. Nghị định của Chính phủ số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, ngày 23 tháng 11 năm 2001. 16. Nghị định của Chính phủ số 95/2008/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP, ngày 21 tháng 08 năm 2008. 17. Nguyễn Đăng Dờn (2005), Tín dụng ngân hàng, NXB Thống kê. 18. Nguyễn Văn Lịch (2008), “Xí nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế Ấn Độ”, 19. Phan Thị Thanh Giang (2007), “Giải pháp nâng cao khả năng huy động nguồn vốn kinh doanh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế Tp.HCM. 20. SMEWG, APEC VIET NAM 2006, Đề cương “Tăng cường năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thương mại và đầu tư”. Tạp chí Cộng sản, Internet, tháng 04/2008. 21. Tạp chí kế toán (2006), “Định chế tài chính cho sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân”, Tạp chí Phát triển kinh tế. 22. Thúy Hải (2008), “Doanh nghiệp nhỏ và vừa : Lớn nhưng chưa mạnh !”, Sài gòn giải phóng, Internet. 23. Trang web Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (ASMED Business Portal) . 24. Trang web Tổng cục thống kê www.gso.gov.vn. 25. Một số các văn bản pháp luật có liên quan trên trang web Cơ sở dữ liệu Luật Việt Nam www.luatvietnam.com.vn. 92 PHỤ LỤC 93 Phụ lục 01 : Các công ty cho thuê tài chính hiện nay: STT Tên Công ty Số và ngày cấp Giấy phép Số và ngày cấp GP ngoại hối Vốn điều lệ Trụ sở chính Số ĐT, số Fax Số lượng CN và SGD 1 Cty CTTC ANZ- VTRAC (100% vốn nước ngoài) ( ANZ/V- TRAC Leasing Company) 14/GP- CTCTTC ngày 19/11/1999 433/QĐ- NHNN ngày 8/5/2003 5 Triệu USD 14 Lê Thái Tổ, Hà Nội 08.8232788 08.8232789 2 Cty CTTC I - NH Nông nghiệp & PTNT ( Agribank No1. Leasing Company) 06/GP- CTCTTC ngày 27/08/1998 250/QĐ- NHNN ngày 22/01/2007 200 tỷ VNĐ Số 4 Phạm Ngọc Thạch, Đống Đa, Hà nội 04.5745425 04.5745431 2 3 Cty CTTC II - NH Nông nghiệp & PTNT ( Agribank No2. Leasing Company) 07/GP- CTCTTC ngày 27/08/1998 04/GP- NHNN ngày 12/3/2003 350 tỷ VNĐ 422 Trần Hưng Đạo, P2, Quận5, TPHCM 04.9285796 04.8287329 6 4 Cty CTTC II NH Đầu tư và Phát triển VN (BIDV Leasing Company II) 11/GP- NHNN ngày 17/12/2004 150 tỷ VNĐ Lầu 6 Cao ốc 146Nguyễn Công Trứ, Q1, TP Hồ Chí Minh 08.8217992 08.8218878 1 5 Cty CTTC Kexim (KVLC) (100% vốn nước ngoài) ( Kexim Vietnam Leasing Company) 02/GP- CTCTTC ngày 20/11/1996 763/QĐ- NHNN ngày 14/7/2003 13 Triệu USD Tầng 9 Diamond Plaza, 34 Lê duẩn, QI, TPHCM 08.9144494 08.8211472 6 Cty CTTC NH Công thương VN (Leasing Company - Industrial and Commercial Bank of Vietnam) 04/GP- CTCTTC ngày 20/03/1998 300 tỷ VNĐ 18 Phan Đình Phùng, Ba Đình, Hà Nội 04.7331985 04.7342949 7 Cty CTTC NH Ngoại thương VN ( VCB Financial Leasing Company) 05/GP- CTCTTC ngày 25/05/1998 06/GP- NHNN ngày 8/4/2003 200 tỷ VNĐ Tầng 3, Nhà 10b Tràng Tiền, Hoàn Kiếm, Hà Nội 04.9289289 04.9289150 1 94 8 Cty CTTC NH Sài Gòn Thương Tín ( Sacombank Leasing Company) 04/GP- NHNN ngày 12/04/2006 200 tỷ VNĐ 87A, 89/3, 89/5 Hàm Nghi, Phường Nguyễn Bình Thạnh, Q1, TPHCM 08.9106650 08.9106640 9 Cty CTTC NH Đầu tư và Phát triển VN (BIDV Leasing Company I) 08/GP- CTCTTC ngày 27/10/1998 13/GP- NHNN ngày 22/5/2003 200 tỷ VNĐ 191 Bà Triệu, Q. Hai Bà Trưng, Hà Nội 04.2200599 04.2200600 10 Cty TNHH CTTC Quốc tế Chailease ( Chailease International Leasing Company Limited) 09/GP- NHNN ngày 09/10/2006 quy định trong giấy phép 10 triệu USD P2801-04, Saigon Trade Centre, 37 Tôn Đức Thắng, Q1, TPHCM 11 Cty TNHH cho thuê tài chính Quốc tế VN (Vietnam International Leasing Company) 117/GP- NHNN ngày 24/04/2008 quy định trong giấy phép 5 Triệu USD Sài gòn Tower, 29 Lê Duẩn, Q1,TPHCM 08.8257000 08.8230854 12 Cty TNHH một thành viên CTTC Công nghiệp tàu thủy ( VINASHIN Financial Leasing Company Limited) 79/GP- NHNN ngày 19/03/2008 100 tỷ VNĐ Tầng1&2 Tòa nhà 34T, Khu đô thị Trung Hòa- Nhân Chính, Cầu Giấy, Hà Nội 13 Cty TNHH một thành viên CTTC Ngân hàng Á Châu ( ACB Leasing Company) 06/GP- NHNN ngày 22/05/2007 100 tỷ VNĐ 45 Võ Thị Sáu, phường Đa Kao, Q.1, TPHCM Nguồn : Website Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 95 Phụ lục 02 : Kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhật Bản Hình thức tổ chức doanh nghiệp của Nhật Bản ra đời cách đây hơn 100 năm với hai loại hình chính: (1) Hình thức tổ chức kiểu “cái ô”, công ty mẹ được phân thành hệ thống các công ty con có quan hệ với công ty mẹ theo hình cái ô; mỗi công ty con chịu trách nhiệm sản xuất một số bộ phận phụ tùng chuyển về công ty mẹ lắp ráp hoàn chỉnh sản phẩm (2) Hình thức tổ chức “mắt xích”, tập đoàn sản xuất bao gồm nhiều công ty được liên kết với nhau theo kiểu mắt xích. Cả hai hình thức tổ chức doanh nghiệp nêu trên đều phù hợp với loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), do vậy loại hình doanh nghiệp này ở Nhật Bản đã phát triển từ rất sớm. Trong lịch sử phát triển 50 năm, khu vực DNNVV đã khẳng định vai trò của mình trong đời sống kinh tế – xã hội Nhật Bản, góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế – xã hội của nước này. 1. Định nghĩa về DNNVV của Nhật Bản Do tầm quan trọng của các DNNVV trong nền kinh tế, Nhật Bản đã sớm đưa ra định nghĩa chính thức xác định DNNVV trong từng lĩnh vực kinh doanh, là cơ sở quan trọng để các cơ quan chức năng xác định đối tượng hỗ trợ, tập trung chính sách cũng như định hướng phát triển doanh nghiệp khu vực này. Theo Luật cơ bản về DNNVV của Nhật Bản ban hành năm 1963, DNNVV của Nhật Bản được xác định dựa trên các tiêu chí sau đây: Do nhu cầu mở rộng định nghĩa về DNNVV, Luật cơ bản về DNNVV đã được sửa đổi ban hành ngày 3/12/1999 với nội dung thay đổi chủ yếu là tăng giới hạn vốn tối đa cho các DNNVV trong từng lĩnh vực. Mục đích của sự thay đổi này là làm tăng số lượng doanh nghiệp có đủ điều kiện được hưởng các biện pháp hỗ 96 trợ DNNVV. Theo Luật mới, các tiêu chí xác định DNNVV được thể hiện như sau: 2. Thực trạng phát triển của các DNNVV Nhật Bản và vai trò của chúng trong nền kinh tế Trong lịch sử hơn 50 năm, các DNNVV của Nhật Bản đã không ngừng phát triển, thể hiện tính năng động và sáng tạo ngay cả trong những thời kỳ nền kinh tế đất nước phải đối mặt với những khó khăn chồng chất. Ngày nay, với một lực lượng hết sức hùng hậu, các DNNVV tiếp tục thể hiện vai trò then chốt của mình trong đời sống kinh tế – xã hội Nhật Bản. 2.1. Quá trình phát triển của khu vực DNNVV Nhật Bản Xuyên suốt tiến trình phát triển, các DNNVV Nhật Bản không ngừng tăng nhanh về số lượng, đặc biệt là trong các thời kỳ phồn thịnh của nền kinh tế. Ngay từ đầu những năm 1950, thực hiện dân chủ hoá kinh tế sau chiến tranh, các tài phiệt Nhật Bản bị giải thể, các doanh nghiệp lớn đứng phía sau bị thoái hoá. Trong thời gian này, các DNNVV đã cố gắng đáp ứng nhu cầu của dân chúng, xuất khẩu hàng hoá để thu ngoại tệ, nhờ đó đã có những đóng góp lớn vào việc phục hồi kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh. Vào cuối những năm 1950, Chính phủ tập trung vào phát triển công nghiệp hoá học và công nghiệp nặng, tạo điều kiện phát triển cho các doanh nghiệp lớn, do vậy DNNVV có lúc bị lãng quên. Tuy nhiên bước sang thập kỷ 1960, nhờ có tiến bộ kỹ thuật, cơ cấu công nghiệp thay đổi, các DNNVV bắt đầu nhận khoán gia công, lắp ráp sản phẩm cho các doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực chế tác, do vậy số lượng DNNVV bắt đầu tăng lên nhanh chóng. Đặc biệt, Luật cơ bản về DNNVV được ban hành năm 1963 đã xác định các tiêu chí của DNNVV cũng như mục tiêu chính sách phát triển kinh doanh nhỏ, do vậy đã khẳng định tầm 97 quan trọng và có các biện pháp phát triển khu vực doanh nghiệp này, góp phần làm tăng đáng kể số lượng DNNVV. Số lượng DNNVV thuộc lĩnh vực thương mại và dịch vụ cũng tăng lên nhanh chóng, hình thành các mạng lưới cung cấp hàng hoá (bán buôn và bán lẻ) và dịch vụ phạm vi trên cả nước và tham gia xuất khẩu. Trong khoảng thời gian cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980, nền kinh tế Nhật Bản bắt đầu chuyển ưu tiên sang sản xuất các sản phẩm có kỹ thuật cao như ôtô, tivi, đồng hồ điện tử, máy ảnh, máy vi tính, máy điều khiển kỹ thuật số, rô bốt công nghiệp… Những sản phẩm này phần lớn thuộc dạng lắp ráp và gia công, nên các công đoạn gia công đều do các DNNVV đảm nhận, các doanh nghiệp lớn chỉ thực hiện hoạt động lắp ráp sau cùng. Vị trí của các DNNVV được nâng cao do chúng có thể sản xuất theo từng đơn hàng số lượng sản phẩm ít nhưng đa dạng và phong phú về mẫu mã và chủng loại, được đánh giá cao trên thị trường thế giới. Trong những năm gần đây, cùng với những thay đổi đáng kể về môi trường kinh tế quốc tế, nền kinh tế Nhật Bản nói chung, khu vực doanh nghiệp của nước này nói riêng gặp phải không ít khó khăn, thách thức. Tuy nhiên, môi trường mới cũng tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều DNNVV mới phát triển, đặc biệt là những doanh nghiệp tham gia các hoạt động kinh doanh vốn rủi ro, các hoạt động kinh doanh mang tính chất đổi mới, những doanh nghiệp có tính linh hoạt và tính đa dạng cao. Do vậy, các DNNVV vẫn giữ vai trò then chốt trong nền kinh tế Nhật Bản và được chờ đợi trở thành một nguồn gốc của sự năng động góp phần đáng kể cho quá trình hồi phục nền kinh tế nước này trong tương lai. 2.2. Tầm quan trọng của các DNNVV trong nền kinh tế Nhật Bản 98 Những số liệu và phân tích mang tính chất so sánh giữa các DNNVV với các doanh nghiệp lớn của Nhật Bản dưới đây sẽ cho thấy tầm quan trọng của khu vực DNNVV trong nền kinh tế. - Số lượng DNNVV. Như đã nêu trên, số lượng các DNNVV của Nhật Bản tăng lên nhanh chóng trong các thời kỳ hưng thịnh của nền kinh tế. Mặc dù trong những năm gần đây, tốc đột ăng có giảm đi, song số DNNVV vẫn tăng lên do sự mở rộng các tiêu chí xác định DNNVV theo Luật cơ bản năm 1999 (Quy định mới của Luật đã làm tăng thêm khoảng 20.000 DNNVV). Tính đến năm 1998, Nhật Bản có trên 5 triệu DNNVV (trong đó có khoảng 4,48 triệu doanh nghiệp nhỏ), chiếm tới 99,7% số doanh nghiệp của cả nước. Số doanh nghiệp này thực hiện kinh doanh ở hầu như tất cả các lĩnh vực kinh tế, tập trung lớn nhất ở lĩnh vực bán lẻ, dịch vụ và chế tác. - Số lao động làm việc trong các DNNVV. Do số lượng hùng hậu và tính đa dạng về lĩnh vực kinh doanh của các DNNVV Nhật Bản, chúng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tạo việc làm, thu hút lao động. Trong những giai đoạn khó khăn của nền kinh tế Nhật Bản, các doanh nghiệp lớn liên tục sa thải lao động, khu vực DNNVV chính là một nguồn quan trọng thu hút số lao động bị sa thải đó. Theo số liệu của một cuộc điều tra về việc làm, có khoảng 70% số lao động dời chỗ làm cũ có việc làm mới tại các DNNVV. Hiện nay, khu vực DNNVV tạo việc làm thường xuyên cho 40 triệu lao động, chiếm hơn 70% số lao động làm việc trong khu vực doanh nghiệp của cả nước. Số lao động cũng tập trung lớn tại các lĩnh vực dịch vụ, bán lẻ và chế tác. - Doanh thu của các DNNVV: Khu vực DNNVV tạo ra hơn 40% doanh thu của khu vực doanh nghiệp. Trong đó lĩnh vực buôn bán tạo ra doanh thu cao nhất (khoảng 43% tổng doanh thu của khu vực DNNVV), song so với các doanh 99 nghiệp lớn, các DNNVV thuộc lĩnh vực bán lẻ có tầm quan trọng cao hơn (tạo ra gần 56% doanh thu của các lĩnh vực bán lẻ). - Giá trị gia tăng được tạo ra bởi các DNNVV: Từ năm 1988, khu vực DNNVV luôn tạo ra gần 60% giá trị gia tăng của khu vực doanh nghiệp. Con số này thể hiện tầm quan trọng của các DNNVV trong sự đóng góp vào GDP của Nhật Bản. 3. Một số chính sách phát triển DNNVV chủ yếu của Nhật Bản Trong từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế đất nước, Chính phủ Nhật Bản đã ban hành nhiều chính sách nhằm phát triển khu vực DNNVV. Những thay đổi về chính sách nhằm đặt khu vực DNNVV vào vị trí phù hợp nhất và khẳng định tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế. Ngay trong những năm sau Chiến tranh Thế giới thứ II, Chính phủ Nhật Bản đã tiến hành cải thiện các công cụ cơ bản về các chính sách đối với DNNVV. Trong thời kỳ tăng trưởng nhanh của nền kinh tế (1955-1973), Chính phủ tập trung vào việc hệ thống hoá và hiện đại hoá các chính sách phát triển DNNVV. Thời kỳ tăng trưởng ổn định (1974-1984), các chính sách phát triển DNNVV tập trung vào tăng cường tri thức và tăng cường các nguồn lực quản lý vô hình cho DNNVV. Thời kỳ chuyển đổi (từ năm 1985 đến nay), các chính sách tập trung vào việc thay đổi cơ cấu và tích tụ công nghiệp, hỗ trợ thành lập doanh nghiệp mới và các hoạt động kinh doanh mới. Xét một cách tổng quát, các chính sách phát triển DNNVV của Nhật Bản tập trung vào các mục tiêu chủ yếu sau đây: Thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của các DNNVV; tăng cường lợi ích kinh tế và xã hội của các nhà doanh nghiệp và người lao động tại DNNVV; khắc phục những bất lợi mà các DNNVV gặp phải; và hỗ trợ tính tự lực của các DNNVV. Dưới đây là các nội dung chủ yếu của các chính sách đó: 100 - Cải cách pháp lý Trong những năm qua, hàng loạt các luật về DNNVV đã được ban hành nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hành động của khu vực doanh nghiệp này. Đặc biệt trong những năm gần đây, việc cải cách môi trường pháp lý được coi là một ưu tiên hàng đầu của Nhà nước Nhật Bản. Luật cơ bản về DNNVV mới được ban hành năm 1999 hỗ trợ cho việc cải cách cơ cấu để tăng tính thích nghi của DNNVV với những thay đổi của môi trường kinh tế – xã hội, tạo thuận lợi cho việc tái cơ cấu công ty. Các Luật tạo thuận lợi cho thành lập doanh nghiệp mới và Luật hỗ trợ DNNVV đổi mới trong kinh doanh khuyến khích mạnh mẽ việc thành lập các doanh nghiệp mới, tăng nguồn cung ứng vốn rủi ro, trợ giúp về công nghệ và đổi mới. Luật xúc tiến các hệ thống phân phối có hiệu quả ở DNNVV hỗ trợ cho việc tăng cường sức cạnh tranh trong lĩnh vực bán lẻ thông qua công nghệ thông tin và xúc tiến các khu vực bán hàng. Một Hệ thống cứu tế hỗ tương cũng đã được thiết lập nhằm hạn chế sự phá sản của DNNVV… - Hỗ trợ về vốn Các biện pháp hỗ trợ vốn được sắp đặt bởi ba thể chế tài chính thuộc Chính phủ: Công ty Đầu tư kinh doanh nhỏ, Ngân hàng Hợp tác Trung ương về Thương mại và Công nghiệp và Công ty Đầu tư an toàn quốc gia. Hỗ trợ có thể dưới dạng các khoản cho vay thông thường với lãi suất cơ bản hoặc các khoản vay đặc biệt với những ưu đãi theo các mục tiêu chính sách. + Theo Hệ thống hỗ trợ tăng cường cơ sở quan lý các DNNVV ở từng khu vực, các khoản vay được thực hiện tuỳ theo điều kiện của khu vực thông qua một quỹ được góp chung bởi chính quyền trung ương và các chính quyền địa phương và được ký quỹ ở một thế chế tài chính tư nhân. 101 + Kế hoạch cho vay nhằm cải tiến quản lý của các doanh nghiệp nhỏ (kế hoạch cho vay Marukei) được áp dụng với các doanh nghiệp nhỏ không đòi hỏi phải có thế chấp hoặc bảo lãnh. + Hệ thống bảo lãnh tín dụng nhận bảo lãnh cho các DNNVV vay vốn tại các thể chế tài chính tư nhân. Còn Hiệp hội bảo lãnh tín dụng có chức năng mở rộng các khoản tín dụng bổ sung và bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV. Hệ thống bảo lãnh đặc biệt, đã hoạt động từ năm 1998, có chức năng như một mạng lưới an toàn, nhằm giảm nhẹ những rối loạn về tín dụng và góp phần làm giảm các vụ phá sản của DNNVV. + Công ty TNHH Tư vấn và Đầu tư DNNVV (SBIC), thành lập năm 1963, đã thực hiện nhiều kế hoạch và chương trình đầu tư hỗ trợ DNNVV nhằm góp vốn cổ phần, đặc biệt đối với các doanh nghiệp mới thành lập, đầu tư cho các công ty R&D và các công ty đã trưởng thành. + Hỗ trợ về công nghệ và đổi mới Các DNNVV có thể được hưởng các chính sách hỗ trợ cho hoạt động R&D hoặc tiến hành các hoạt động kinh doanh mới dựa trên công nghệ. Các khoản trợ cấp, bảo lãnh vốn vay và đầu tư trực tiếp cho DNNVV được tiến hành theo các quy định của Luật xúc tiến các hoạt động sáng tạo của DNNVV. Các DNNVV thực hiện các hoạt động kinh doanh mang tính chất đổi mới muốn tăng vốn bằng cách phát hành thêm cổ phần hoặc trái phiếu công ty được hỗ trợ bởi các quỹ rủi ro thuộc các địa phương. Còn Hệ thống nghiên cứu đổi mới kinh doanh nhỏ Nhật Bản (SBỈ) cung cấp tài chính cho DNNVV có hoạt động kinh doanh mang tính chất đổi mới trong các giai đoạn đầu thiết kế sản phẩm hoặc các quy trình sản xuất mới. Để tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua áp dụng công nghệ thông tin, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực truyền bá thông tin và 102 ứng dụng các phần mềm tin học được hỗ trợ bởi chính quyền các địa phương, bao gồm các dịch vụ tư vấn và dịch vụ phát triển doanh nghiệp kiểu mẫu. - Hỗ trợ về quản lý Hoạt động tư vấn quản lý kinh doanh được thực hiện thông qua Hệ thống đánh giá DNNVV. Mỗi quận, huyện và chính quyền của 12 thành phố lớn đánh giá các điều kiện quản lý của DNNVV, đưa ra những khuyến nghị cụ thể và cung cấp các hướng dẫn. Viện Quản lý kinh doanh nhỏ và Công nghệ thực hiện các chương trình đào tạo cho các nhà quản lý, các chuyên gia kỹ thuật của DNNVV và đội ngũ nhân sự của các quận, huyện. Việc tăng cường tiếp cận của DNNVV là một ưu tiên của Chính phủ. Sách trắng về DNNVV được xuất bản hàng năm chứa đựng nhiều thông tin về khu vực doanh nghiệp này dựa trên các cuộc điều tra về thực trạng trong lĩnh vực thương mại và công nghiệp. - Xúc tiến xuất khẩu Chính phủ Nhật Bản cung cấp những hướng dẫn và dịch vụ thông tin cho DNNVV nhằm tạo thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh ở nước ngoài. Chương trình môi giới tư vấn và kinh doanh tạo cơ hội cho các DNNVV của Nhật Bản cũng như của nước ngoài có thể đăng ký trực tiếp vào cơ sở dữ liệu trên mạng Internet và quảng cáo các loại liên kết kinh doanh hoặc liên minh chiến lược mà các doanh nghiệp đang tìm kiếm. 4. Một số vấn đề hiện nay các DNNVV đang gặp phải, triển vọng và các giải pháp phát triển DNNVV trong thời gian tới. Từ đầu năm 1990 đến nay, nền kinh tế Nhật Bản lâm vào suy thoái và luôn ở trong tình trạng khó khăn. Đặc biệt, gần đây với sự tiến triển nhanh chóng của quá trình toàn cầu hoá kinh tế, sự xuất hiện và phát triển của kinh tế tri thức đã 103 dẫn đến nhiều thay đổi tác động đến sự phát triển của khu vực DNNVV Nhật Bản. Các DNNVV đã gặp không ít khó khăn, đồng thời cũng gặp những cơ hội mới. Đặc biệt, những ưu tiên về chính sách phát triển kinh tế của Nhật Bản bắt đầu tập trung mạnh vào khu vực doanh nghiệp này, điều mà trước đây không có, do vậy các DNNVV sẽ có những điều kiện mới, thuận lợi hơn để phát triển. 4.1. Những khó khăn hiện nay các DNNVV Nhật Bản đang gặp phải Như đã nêu trên, nền kinh tế Nhật Bản suy thoái và các xu hướng tiến triển kinh tế mới đã gây các áp lực đối với sự phát triển của DNNVV. Trong số những nhân tố gây ảnh hưởng mạnh mẽ, sự thay đổi về môi trường và điều kiện kinh doanh được coi là những nhân tố gây khó khăn lớn nhất. 4.2. Những triển vọng phát triển của các DNNVV Nhật Bản Cho dù hiện tại đang gặp phải những khó khăn, song nền kinh tế Nhật Bản có nhiều khả năng vượt qua nhờ đẩy mạnh cải cách cơ cấu và tạo ra các ngành kinh doanh mới. Trong quá trình này, người ta chờ đợi các DNNVV sẽ trở thành nguồn gốc của sự nặng động cho nền kinh tế, đóng vai trò then chốt trong việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ, tạo các cơ hội làm việc hấp dẫn, khởi nguồn cho sự phát triển của cạnh tranh trên thị trường và góp phần vào sự phát triển của các nền kinh tế – xã hội khu vực. Mặc dù tỷ lệ thành lập DNNVV mới trong những năm gần đây giảm sút, song với những ưu tiên chính sách mới đây dành cho khu vực doanh nghiệp này, hy vọng trong những năm tới, số doanh nghiệp mới thành lập mỗi năm sẽ đạt khoảng 240.000 doanh nghiệp thay vì 140.000 doanh nghiệp như hiện nay. Và trong vòng 5 năm tới, dự kiến các DNNVV sẽ tạo thêm khoảng một triệu việc làm. Các doanh nghiệp mới sẽ được thành lập dưới các hình thức đa dạng, phong 104 phú, chẳng hạn như doanh nghiệp tự tuyển dụng, cổ phần hoá doanh nghiệp kinh doanh rủi ro, công ty con được thành lập bởi công ty mẹ… Khu vực kinh doanh nhỏ của Nhật Bản tiếp tục thay đổi, đa dạng hoá mạnh mẽ về năng suất, tiền lượng, khả năng sinh lợi, tiềm năng tăng trưởng và khả năng đổi mới. Các doanh nghiệp tham gia những hoạt động kinh doanh mang tính chất đổi mới theo nghĩa rộng – R&D, phát triển các sản phẩm và dịch vụ mới, thay đổi cấu trúc công ty sẽ thích hợp với môi trường kinh doanh mới. Điều đó có nghĩa là tương lai sẽ ưu ái đối với các doanh nghiệp biết khai thác những cơ hội kinh doanh được sản sinh ra bởi kinh tế mới, kinh tế tri thức. 4.3. Các giải pháp phát triển DNNVV của Nhật Bản trong thời gian tới Để tương lai phát triển của DNNVV Nhật Bản trở thành hiện thực, Chính phủ Nhật Bản đã và đang phải thực hiện một sự phối hợp đồng bộ các chính sách nhằm hỗ trợ cho các nội dung sau đây: - Hỗ trợ cho việc thành lập mới doanh nghiệp và đào tạo việc làm. Chính phủ phải hỗ trợ cho các chương trình phối hợp các hoạt động nhằm thiết lập quan hệ giữa DNNVV với các doanh nghiệp khác, các tổ chức nghiên cứu, các chuyên gia và các nguồn lực quản lý từ bên ngoài khác; tổ chức trên toàn quốc các khoá đào tạo và hướng dẫn cho những ai có ý định thành lập doanh nghiệp và phổ biến những thông tin về việc làm. Chính phủ cũng phải hợp tác với các cơ quan chức năng nhằm tăng cường các cơ hội hỗ trợ về mặt tài chính cho các DNNVV kinh doanh rủi ro bằng cách dành cho các khoản trợ cấp R&D hoặc các khoản trợ cấp được chỉ định riêng… - Các biện pháp hạn chế khó khăn về mặt tín dụng. Các thể chế tài chính của Chính phủ phải tăng cường cung cấp vốn đầu tư cho DNNVV; hệ thống bảo 105 hiểm tín dụng thuộc Công ty bảo hiểm tín dụng kinh doanh nhỏ và Hiệp hội bảo lãnh tín dụng cũng cần phải được tăng cường. - Củng cố kết cấu hạ tầng cho các ngành công nghiệp “tạo khuôn”, Chính phủ phải thiết lập và tăng cường các chương trình đào tạo và hướng dẫn nghề nghiệp ở nhiều lĩnh vực, xuất bản các sách hướng dẫn kỹ thuật, cung cấp dịch vụ tư vấn, thu hút và phát triển nguồn nhân lực nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của các ngành công nghiệp “tạo khuôn”, chẳng hạn như ngành chế tác khuôn ren, khuôn đúc, vị gia công… - Các biện pháp khuyến khích khả năng phát triển về khu vực, chẳng hạn như các DNNVV kinh doanh bán lẻ tại trung tâm các thành phố. Chính phủ phải mở rộng hệ thống hỗ trợ cho các kế hoạch tái sinh cơ bản DNNVV của các thành phố, hỗ trợ cho các chương trình kế hoạch quản lý DNNVV của các thị xã, thị trấn… - Hỗ trợ cho đổi mới kinh doanh tại các DNNVV và giúp chúng thích nghi với những thay đổi về môi trường kinh doanh. Luật xúc tiến hiện đại hoá DNNVV và Luật tạm thời về các biện pháp làm một số DNNVV thích nghi với sự thay đổi cơ cấu nền kinh tế phải được hợp nhất. Luật hỗ trợ đổi mới kinh doanh của DNNVV phải được ban hành. Và các biện pháp hỗ trợ khác nhằm khuyến khích đổi mới kinh doanh tại các DNNVV cũng cần phải được tăng cường, chẳng hạn như hệ thống cho vay với lãi suất thấp, miễn giảm thuế, các ngoại lệ đặc biệt về bảo hiểm tín dụng, các khoản trợ cấp…/./ Nguồn: T/c Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Nam Á, 2003 106 Phụ lục 03 : Kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Hàn Quốc Quá trình tăng trưởng các tập đoàn công nghiệp, tổ hợp công nông tại Hàn Quốc khởi đầu từ những Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN), tuy nhiên sự thành công và thất bại DNVVN cũng rất đa dạng khi không có định hướng và hỗ trợ của Chính phủ. Bộ DNVVN hình thành, đã thực hiện những công việc này. Những chiến lược phù hợp đã được vạch ra cho DN theo từng giai đoạn phát triển của Quốc gia, gắn với sự đa dạng hóa của kinh doanh toàn cầu. Những định hướng nuôi dưỡng và phát triển DNVVN gần đây cho thấy DN của Hàn Quốc đã thực sự đóng góp hữu hiệu trong sự gia tăng GDP trong nước và hơn thế nữa các DN này ngày càng chuyển mình nhanh hơn để xâm nhập và thâm nhập thị trường thế giới. Hiện trạng các DNVVN ở Hàn Quốc Hàn Quốc hiện có gần 3 triệu DNVVN, chiếm 99,8% các DN đang hoạt động, sử dụng gần 1 triệu lao động, chiếm 86%tổng số lao động cả nước, mỗi năm cung cấp 270 ngàn việc làm mới. Theo thống kê của Bộ DNVVN, mỗi năm tại Hàn Quốc có gần 50.000 DNVVN được tạo lập, trong đó khoảng 80% DN ngừng hoạt động, tỷ lệ sống DNVVN sau 10 năm là 13% (so với VN, có khoảng 14.113 DN tạo lập mới mỗi năm, tỷ lệ tử vong chưa rõ, nhưng chắc là cao hơn!). Số liệu thống kê cho thấy DNVVN thể hiện đúng bản chất của tên gọi, đa dạng, chiếm lĩnh nhiều lĩnh vực trong xã hội, bùng nổ trong một giai đoạn ngắn theo nhu cầu thị trường, dễ bị thất bại khi không còn thích nghi với môi trường mới và không có những định hướng chiến lược lâu dài để trường tồn và phát triển. Những bài học kinh nghiệm của Hàn Quốc 107 Quá trình định hướng và hỗ trợ của Bộ DNVVN trải qua nhiều giai đoạn với chiến lược và giải pháp khác nhau. Có thể rút ra một số bài học bổ ích cho định hướng phát triển của DNVVN Việt Nam. 1. Xây dựng tầm nhìn và mục tiêu chiến lược cho DNVVN trong nước: để thực hiện định hướng này, Bộ DNVVN đã đưa ra tầm nhìn “Phát triển DNVVN theo mô hình đổi mới hướng tới sản lượng 30.000 USD”. Tầm nhìn được triển khai thành mục tiêu chiến lược, đổi mới trong sản xuất và áp dụng công nghệ tiên tiến đạt giá trị sản lượng bình quân 30.000 USD/năm. Từ 2007, tạo mọi điều kiện để xây dựng được 14.000 DNVVN đạt mức sản lượng 30.000 USD/năm, nâng số DNVVN lên 30.000 DN đạt mức chuẩn. 2. Thực hiện chiến lược tăng cường hỗ trợ phù hợp với đặc tính của từng giai đoạn tăng trưởng. Chính sách này tập trung vào 3 giai đoạn của vòng đời DN: Khởi nghiệp - Nuôi dưỡng thúc đẩy tăng trưởng - Tăng trưởng, toàn cầu hóa. (i) Linh hoạt hóa khởi nghiệp: bằng các chính sách như tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, cải thiện cơ chế quản lý, đơn giản hóa thủ tục rút ngắn thời gian thành lập, hỗ trợ vốn khởi nghiệp, mặt bằng và thuế (ưu tiên cho các DN mạo hiểm). Song song với thực hiện đồng bộ các chính sách, Chính phủ đã định hướng lĩnh vực ưu tiên phát triển là các ngành công nghiệp chế tạo, hình thành loại hình “thung lũng Silicon Hàn Quốc” cho DNVVN, hỗ trợ 50% chi phí trang thiết bị và giảm thuế doanh thu, sử dụng tài sản, đất… để tạo cơ sở ban đầu làm nền tảng cho các DNVVN thoát khỏi tình trạng yểu mệnh; (ii) Nuôi dưỡng và thúc đẩy tăng trưởng: tập trung vào chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ, thương mại hóa sản phẩm công nghệ mới, nghiên cứu và phát triển (R&D) và nhận chuyển giao kết quả R&D từ các chương trình của Chính phủ để đổi mới công nghệ. Cũng như các nước khác, điểm yếu nhất của các 108 DNVVN là trang bị kỹ thuật yếu kém cả về trình độ lẫn qui mô, vì các chương trình R&D thường tập trung vào các tập đoàn kinh tế lớn; chính sách đổi mới công nghệ giúp các DNVVN có kinh phí hỗ trợ từ Nhà nước để nghiên cứu đổi mới công nghệ phù hợp với ngành và phạm vi hoạt động, đồng thời có thể tiếp nhận và ứng dụng nhanh những thành tựu của nghiên cứu mới vào hoạt động hiện hữu. Chính sách thương mại hóa sản phẩm gắn liền với chủ trương thực hiện các hợp đồng mua sản phẩm của Chính phủ và các tập đoàn công nghiệp lớn, trong đó có phần hỗ trợ bảo lãnh tín dụng và thiết kế mẫu mã thích nghi với thị trường. (iii) Tăng trưởng - toàn cầu hóa là nhóm giải pháp nhằm ổn định nguồn nhân lực, củng cố điều kiện làm việc và xây dựng năng lực cạnh tranh toàn cầu. Để ổn định nguồn nhân lực cho DNVVN, gắn tương lai DNVVN với tương lai đại học và nền kinh tế, Chính phủ đã có chủ trương thay đổi nhận thức của giới lao động về hoạt động và hướng phát triển của DNVVN, bằng các giải pháp vô cùng hữu hiệu như: ưu tiên cho sinh viên các trường đại học thực tập tại DNVVN (có cộng thêm điểm), bổ sung vào chương trình đào tạo các môn học về DNVVN; các mô hình DVNNV thành công, CEO (Chief Executive Officer) thành công từ các DNVVN cũng được đưa vào chương trình đào tạo như những điển cứu (case study), ngoài ra còn khuyến khích DNVVN tăng cường thu nhận chuyên gia nước ngoài. Theo đánh giá của Bộ DNVVN, những giải pháp này đã thay đổi nhận thức từ khi người lao động còn là sinh viên (91,5% sinh viên đã chuyển nhận thức tiêu cực về DNVVN sang tích cực), hiện nay số lao động tốt nghiệp đại học làm việc tại các DNVVN tăng lên đáng kể (chiếm 37%), gần 70 ngàn lao động có trình độ cao là người nước ngoài đang đóng góp tích cực cho việc tăng trưởng DNVVN. 109 Năm 2006 kim ngạch xuất khẩu của Hàn Quốc đạt 284 tỷ USD, trong đó DNVVN đóng góp 92,1 tỷ USD (chiếm 32,4%), tăng gấp 5 lần so với 10 năm trước. Với mục tiêu DNVVN chiếm 40% kim ngạch xuất khẩu trong các năm tới, Bộ DNVVN bổ sung những giải pháp như tăng cường mua các sản phẩm kỹ thuật, hỗ trợ Marketing ra nước ngoài theo những mô hình phù hợp với thị trường mục tiêu, hỗ trợ hệ thống BSO (Business Support Organization) phát huy tổng lực hướng tới quốc gia và nhóm thị trường có nhu cầu, cải tiến chế độ bảo lãnh tín dụng, bảo hiểm xuất khẩu. 3. Thực hiện nhóm chính sách cân bằng tăng trưởng cho DNVVN và các tập đoàn: Qua các năm thực hiện hỗ trợ nuôi dưỡng, phát triển DNVVN, vẫn còn những cách biệt về trình độ công nghiệp hóa, sử dụng tài nguyên, liên kết kinh doanh giữa DNVVN và các tập đoàn. Chính phủ đã có chủ trương nâng cao trình độ phát triển của DNVVN, thông qua việc hình thành ủy ban hợp tác sản xuất thương mại của các DN mà chủ tịch là người đại diện văn phòng Chính phủ. Ủy ban này phối hợp với các tổ chức hỗ trợ thương mại xem xét, cải tổ chính sách phát triển kinh tế, tăng cường cơ chế hợp tác giữa DNVVN và các tập đoàn kinh tế lớn, thúc đẩy DNVVN có điều kiện chuyển đổi phát triển và gia nhập tập đoàn, tăng cường hỗ trợ để tăng số lượng và chất lượng của những DNVVN gia nhập, giải quyết mối quan hệ lợi ích có lợi cho cả 2 phía và có lợi cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế. (theo Vietinbank) 110

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfMot so giai phap tai chinh ho tro cho su phat trien cua cac .pdf
Tài liệu liên quan