Luận văn Một số giải pháp tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn Việt Nam hiện nay

Nguồn lao động là nguồn lực vô cùng quý báu của mọi quốc gia. Một đất nước trở thành một nước phát triển khi có nguồn nhân lực dồi dào, chất lượng cao bởi nguồn nhân lực là lợi thế cạnh tranh lớn. Thước đo đánh giá mỗi người lao động chính là việc làm của họ. Lao động, việc làm là quyền cơ bản của mỗi người. Muốn khẳng định được mình trước xã hội, họ phải làm việc hay nói khác phải tự tạo việc làm cho bản thân. Nguồn lao động Việt Nam nói chung và nguồn lao động nông thôn nói riêng, với quy mô lớn, tốc độ tăng nhanh song chất lượng còn thấp đã gây ra sức ép về việc làm. Vì vậy, giải quyết việc làm trong đó có tạo việc làm cho người lao động nông thôn là mục tiêu của toàn Đảng, toàn dân đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. Tạo việc làm cho người lao động nông thôn tránh được tình trạng thiếu việc làm, phát huy được lợi thế, tiềm năng của đất nước, giảm bớt tệ nạn xã hội là một trong những tiêu chí đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, là chính sách xã hội cơ bản góp phần đảm bảo nâng cao đời sống cho người dân, ổn định và phát triển xã hội.

doc70 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1476 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp tạo việc làm cho người lao động ở nông thôn Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g. Đặc biệt lao động được giải quyết khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng nhanh. Đồng thời Nhà nước cũng ban hành chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài, mở rộng sản xuất, thành lập các khu chế suất, khu công nghiệp vừa có tính chiến lược trong phát triển sản xuất công nghiệp vừa tạo công ăn việc làm cho lao động đặc biệt lao động nông thôn. Một trong những chính sách quan trọng trong chiến lược giải quyết việc làm là có sự ra đời của quỹ quốc gia giải quyết việc làm. Hàng năm, quỹ này đã vay tạo việc làm cho từ 25-35 vạn lao động, góp phần giải quyết việc làm cho 20-25% số lao động được bố trí việc làm mỗi năm. Các chính sách quan tâm của Đảng và Nhà nước nói trên đã làm thay đổi cơ bản cục diện về việc làm, đưa sự việc việc làm vào một thời kỳ mới, thời kỳ vận động và phát triển chịu sự tác động của quy luật khách quan, đó là quy luật cung cầu trong thị trường lao động. 4.2 Nhân tố giáo dục và đào tạo. Lao động nông thôn chiếm hơn 3/4 lao động của cả nước. Tuy vậy, nguồn nhân lực nông thôn chưa tốt nghiệp cấp I,II vẫn còn nhiều (44,35% trong đó nông thôn chiếm 54,2%) . Không những trình độ văn hoá mà còn cả trình độ chuyên môn cũng vậy. Biểu 12: Chất lượng nguồn nhân lực nông thôn năm 2000. Vùng Biết chữ Tốt nghiệp cấp I Tốt nghiệp cấp II, cấp III Cao đẳng, đại học Lao động chưa qua đào tạo Lao động đã qua đào tạo Cả nước 96% 76,85% 55,65% 21,6% 80,7% 19,3% Thành thị 97% 82,2% 65,5% 33,2% 70,7% 29,3% Nông thôn 95% 71,5% 45,8% 10% 90,7% 9,3% Nguồn: Tạp chí Lao động xã hội (số 12/ 2001). Trong mấy năm gần đây, nhờ có sự quan tâm của Đảng và Nhà nước mà sự nghiệp giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới cả về quy mô, chất lượng, hình thức đào tạo và cơ sở vật chất. Quy mô học sinh tiếp tục tăng ở tất cả các bậc học, ngành học. Mạng lưới trường phổ thông đã được sắp xếp tương đối ổn định. Cả nước có trên 21.000 trường tiểu học và trung học cơ sở đến năm 2001 cả nước đã hoàn thành mục tiêu xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; bắt đầu phổ cập trung học cơ sở ở một số thành phố, tỉnh đồng bằng. Riêng các tỉnh như Tây Bắc là vùng có trình độ học vấn của dân số hoạt động thường xuyên năm 2001 thấp nhất cả nước: tỷ lệ chưa biết chữ chiếm tới 23,5%, tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông trung học chỉ có 8,8%. Nhờ có sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và bản thân những người dân nên không chỉ trình độ nhận thức mà trình độ chuyên môn kỹ thuật của người dân cũng được nâng lên. Mặc dù trình độ học vấn của lực lượng lao động nói chung tương đối nhưng trình độ chuyên môn kỹ thuật vẫn còn thấp: tính chung cả nước, số người có trình độ sơ cấp hoặc có chứng chỉ nghề trở lên chỉ chiếm 13,05% tổng lực lượng lao động. Trong đó, trình độ chuyên môn kỹ thuật giữa thành thị và nông thôn có sự khác biệt lớn: ở khu vực thành thị là 39,96% gấp gần 4 lần so với nông thôn (10,11%). Trình độ chuyên môn kỹ thuật có ảnh hưởng lớn tới sự chuyển dịch cơ cấu, đó là một trong những yếu tố ảnh hưởng tới tạo việc làm bởi trong quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn có sử dụng phần lớn lao động phục vụ cho phát triển công nghiệp và dịch vụ. 3.3 Nhân tố dân số Nhân tố dân số ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô tạo việc làm. Năm 1996 lao động xã hội là 35.886 nghìn người (lao động nông thôn là 29.028 nghìn người), nhà nước ta chỉ cần tạo việc làm cho 1 triệu lao động nhưng đến năm 2001, nguồn lao động xã hội tăng lên 39.489 nghìn người (lao động nông thôn 30.307 nghìn người) khiến cho quy mô tạo việc làm cũng tăng lên 1,4 triệu chỗ làm việc mới. Nguồn lao động xã hội tăng cho ta một nguồn lực rất dồi dào. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là cơ hội để nước ta thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn song chất lượng nguồn nhân lực của nước ta chưa đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, trình độ chuyên môn do vậy đòi hỏi về việc làm vẫn đang là vấn đề bức xúc. Dân số tăng nhanh đã làm cho nguồn di dân nông thôn ra thành thị tăng lên. Gần đây Đảng và Nhà nước đã có những chính sách về việc làm và tạo việc làm để giảm bớt tình trạng này song có nhiều yếu tố tác động như hệ thống giáo dục đào tạo, hệ thống thông tin mới được phát triển nên nhận thức của người dân có chuyển biến nhưng vấn mang tính phong kiến. Vì vậy, nhận thức về lao động, việc làm chưa đồng bộ giữa các ngành, các cấp, địa phương nhất là trong việc bố trí chiến lược, kế hoạch và đầu tư tạo việc làm. Để giảm bớt sức ép về việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, để tạo việc làm một cách có hiệu quả cần khắc phục hiện tượng dân số tăng nhanh mỗi địa phương cần thực hiện tốt các chương trình kế hoạch hóa gia đình, truyền đạt kiến thức cần thiết cho các cặp vợ chồng đặc biệt là người phụ nữ để họ thấy được những mặt lợi của việc thực hiện kế hoạch hoá. 4. Phân tích các chính sách tạo việc làm. Trong những năm qua, vấn đề giải quyết việc làm đã được Nhà nước hết sức quan tâm, đã triển khai nhiều biện pháp, chính sách như khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước về nông thôn, phát triển nông nghiệp, nâng cấp và xây dựng mới cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội, tăng cường công tác đào tạo và giới thiệu việc làm, mở rộng khả năng hợp tác lao động quốc tế, hình thành Quỹ quốc gia giải quyết vl, triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia như Chương trình 327, 733, định canh định cư, hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn... Chính sách tạo việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản, là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Trên mỗi địa bàn xã, huyện, thị còn nhiều người sống trong cảnh nghèo đói do không có việc làm. Nhận thức rõ điều đó, trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương chính sách nhằm tạo việc làm cho người lao động. Đó là các chương trình việc làm quốc gia được triển khai đồng bộ trên 3 hướng: phát triển kinh tế, tạo mở nhiều chỗ làm việc; đẩy mạnh xuất khẩu lao động và chuyên gia; hỗ trợ trực tiếp giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao động. Để giải quyết việc làm cho người lao động, vấn đề quan trọng nhất là Nhà nước phải tạo ra các điều kiện và môi trường thuận lợi để người lao động tự tạo việc làm trong cơ chế thị trường thông qua những chính sách vĩ mô. Đó là các chính sách liên quan đến các yếu tố cơ bản nhất của việc làm như giải quyết vấn đề vốn, đối tượng lao động, kỹ thuật và công nghệ… Chính sách tạo vốn. Mười năm qua, Nhà nước ta đã đề ra và triển khai thực hiện nhiều chính sách, chủ trương tạo ra môi trường ngày càng thuận lợi hơn để cung ứng vốn, tạo việc làm, phát triển sản xuất, thu hút lao động và tăng thu nhập ở nông thôn. Năm 1998 hệ thống ngân hàng đã có những cải cách cơ bản là chuyển từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống hai cấp và ban hành chính sách về hệ thống ngân hàng tư nhân, góp phần tạo lập môi trường tín dụng đa dạng cho nền kinh tế. Hiện nay bên cạnh hệ thống ngân hàng quốc doanh có hệ thống ngân hàng tư nhân, ngân hàng thương mại cổ phần và quỹ tín dụng nhân dân. Hiện nay có 4 ngân hàng Thương mại quốc doanh và 32 ngân hàng Thương mại cổ phần hoạt động phục vụ phát triển nông thôn. Các ngân hàng Thương mại cổ phần chưa có hoạt động rộng rãi trên thị trường tín dụng nông thôn. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn là ngân hàng có chức năng cung cấp tín dụng cho khu vực nông thôn, được thành lập từ năm 1990, với 30 ngàn cán bộ nhân viên và 500 chi nhánh. Đến nay, ngân hàng đã có 2.600 cơ sở ở các địa phương với tổng vốn 26.000 tỷ đồng, trong đó 90% là vốn huy động. Đối tượng cho vay là những người nghèo có sức lao động nhưng thiếu vốn sản xuất. Mục tiêu vay vốn là mua sắm vật tư, công cụ sản xuất, phát triển ngành nghề, dịch vụ, buôn bán nhỏ nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập, không đòi hỏi thế chấp mà là tín chấp của các tổ chức đoàn thể xã hội. Thời hạn vay dao động từ 1-3 năm, lãi suất 14,4% năm. Trong 3 năm 1996-1998 ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đã cho 3.663.000 lượt hộ đang có dư nợ với số dư bình quân là 1,4 triệu đồng/hộ, trong đó, nợ trung hạn chiếm 65%. Cho vay để trồng trọt và chăn nuôi là chủ yếu (chiếm khoảng 85%) cho vay các hoạt động khác chủ chiếm 15%. ở nông thôn, thu nhập của người lao động rất thấp. Thời gian rảnh rỗi nhiều, họ muốn làm những công việc phụ như phát triển ngành nghề thủ công truyền thống cũng không có vốn. Vậy việc tạo điều kiện cho họ vay vốn là mục đích tạo việc làm cho bản thân họ. Để tạo được nhiều chỗ làm việc đặc biệt là chỗ làm việc mới thì các ngân hàng địa phương phải làm tốt công tác cho vay giúp người lao động có vốn để tự tạo việc làm cho bản thân. 4.2 Chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp hàng hoá và đa dạng hoá sản phẩm. Tác dụng của các chính sách như chính sách phát triển kinh tế hộ, phát triển nông, lâm, ngư trại... đã tạo ra nhịp độ tăng trưởng sản xuất nông nghiệp hàng hoá ổn định và tạo thêm được nhiều việc làm trên cơ sở phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ, gồm cả thuần nông, hộ kiêm nghề. Phần lớn các hộ kiêm nghề đã năng động tự huy động vốn, đầu tư vào các lĩnh vực chế biến nông lâm, thuỷ sản như bún, xay sát, buôn bán nhỏ và dịch vụ liên quan đến sản xuất nông nghiệp với mục đích tự tạo việc làm và thu nhập cho các thành viên trong gia đình. Một bộ phận hộ nông nghiệp có diện tích lớn đã đầu tư phát triển kinh tế nông, lâm, ngư dưới hình thức trang trại có thuê thêm lao động thường xuyên và thời vụ với số lượng từ 2-5 lao động thường xuyên và 10 đến hàng chục vạn lao động thời vụ. Thực tế cho thấy quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp hàng hoá đã tạo thêm việc làm cho người lao động nông nghiệp. Ví dụ Huyện Gia Lâm, Hà Nội đã tạo điều kiện để hộ nông dân tự tạo việc làm bằng cách cung cấp giống, cho phép thuê sử dụng đất công thời hạn lâu dài để phát triển trang trại. Kết quả là tỷ lệ sử dụng thời gian lao động đạt mức khá cao, trên 80% quỹ thời gian lao động tại chỗ đã được sử dụng và số lượng lao động di chuyển đi nơi khác không nhiều mà ngược lại Gia Lâm còn thu hút thêm lao động từ các địa phương khác đến làm việc. Thuỷ sản là một ngành gồm nhiều khâu sản xuất kinh doanh khác nhau, từ khai thác hải sản, đánh bắt, nuôi trồng, chế biến và thương mại thủy sản. Phát triển ngành thuỷ sản đem lại nhiều cơ hội để phát triển các ngành khác, tạo thêm việc làm và thu nhập cho lao động xã hội. Hiện nay cả nước có 301.952 hộ thuỷ sản gồm 1.557 nghìn khẩu và 756.300 lao động, chiếm 27% tổng lực lượng lao động nông, lâm, thuỷ sản, tăng thêm 5,5% so với 1990(21,5%). Ngoài lao động trực tiếp, khoảng 1 triệu lao động gián tiếp tham gia vào các ngành dịch vụ, chế biến và thương mại chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp, 200.000 lao động dệt, vá lưới và bao bì, 100.000 lao động đóng sửa tàu thuyền và khoảng 50.000 lao động cơ khí. 4.3 Chính sách thuế sử dụng đất đai. Đối với nước ta, đất đai là đối tượng cơ bản nhất của quá trình sản xuất và phát triển việc làm, đặc biệt là ở nông thôn. Theo luật đất đai, đất đai là sở hữu của toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Người nông dân được Nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài, được chuyển nhượng quyền sử dụng ruộng đất để tập trung ruộng đất vào các hộ gia đình có khả năng sản xuất nông nghiệp hàng hoá. Đó là những chính sách rất cơ bản trong lĩnh vực ruộng đất góp phần to lớn giải quyết tiềm năng lao động, tạo mở việc làm. Năm 2000, đất được sử dụng trong cả nước là 32.924,1 nghìn ha (đất đã giao và cho thuê là 23.840,5 nghìn ha) trong đó đất nông nghiệp đã giao và cho thuê là 9.345,4 nghìn ha chiếm 39,2% đất đã giao và cho thuê của cả nước; đất lâm nghiệp có rừng đã giao và cho thuê là 41,13%. Trên thực tế được giao và cho thuê hết tuy nhiên việc sử dụng đất chưa hiệu quả lắm, đất lâm nghiệp có rừng chưa được giao còn 1.769,7 nghìn ha. Hiện nay cả nước có 589,4 nghìn ha đất bằng chưa được sử dụng trong khi nhà nước mới giao và cho thuê 196,5 nghìn ha (nguồn số liệu Niên giám Thống kê năm 2000). Để tạo điều kiện cho người lao động có điều kiện sử dụng đất một cách có hiệu quả, tích cực tham gia sản xuất, tự tạo việc làm cho bản thân mình Nhà nước đã có chính sách về thuế sử dụng đất đai. Năm 2000 đến nay, Nhà nước có chủ trương mở rộng diện xét miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp thông qua các chính sách miễn giảm cụ thể cho các hộ sản xuất nông nghiệp ở các vùng lũ lụt, vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, đồng bào miền núi, các hộ chính sách xã hội, hộ đói nghèo, hộ sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên làm cho số thuế được xét miễn giảm của hộ nộp thuế tăng lên. Trong 6 năm qua, Nhà nước đã cho mở rộng diện giảm thuế làm cho thực tế mức động viên hàng năm giảm xuống khoảng 3% so với thực tế. Điều đó đã tạo điều kiện cho nông dân tăng khả năng tích lũy cho phát triển sản xuất và cải thiện đời sống. Ngoài những chính sách trên còn có một số chính sách khác như: chính sách khuyến khích phát triển kinh tế hộ để giải quyết việc làm, chính sách di dân xây dựng vùng kinh tế mới, chính sách khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống, chính sách khuyến khích tự do di chuyển lao động và hành nghề theo pháp luật. Nhờ những chính sách trên không chỉ giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động mà còn phát triển nền kinh tế đất nước nói chung và nông nghiệp nông thôn nói chung. Phần III: Giải pháp tạo việc làm cho người lao động nông thôn trong giai đoạn hiện nay I.Mục tiêu, phương hướng và nhiệm vụ giai đoạn (2001-2005). 1. Dự báo nguồn nhân lực lao động nông thôn (2000 - 2010) Với sự gia tăng dân số nói chung và nguồn lao động nông thôn nói riêng trong những năm tới cần có những dự báo về nguồn nhân lực để thấy được nhu cầu cần việc làm từ đó đề ra phương hướng mục tiêu cụ thể. Bảng13 : Dự báo dân số nông thôn Nhóm tuổi 2000 2005 2010 0-4 1.387,1 1.597,2 1.699,7 5-9 1.718,6 1.507,0 1.656,4 10-14 1.779,9 1.830,2 1.634,5 15-19 1.916,2 2010,0 2.056,3 20-24 1.853,4 2.193,2 2.287,9 25-29 1.773,9 2.014,7 2.358,0 30-34 1.615,9 1.879,3 2.120,2 35-39 1.541,7 1.695,2 1.958,5 40-44 1.353,8 1.602,8 1.754,3 45-49 934,6 1.390,5 1.638,9 50-54 628,3 951,9 1.407,5 55-59 489,1 633,2 953,6 60-64 403,9 481,9 622,4 65-69 365,9 385,4 458,0 70-74 269,9 325,3 348,6 75-79 168,0 220,4 260,4 80+ 154.8 191,7 236,0 Tổng 18.354,8 20.910,1 23.451,4 Nguồn: Báo cáo dự báo Dân số Việt Nam 2000-2010 của Bộ Lao động-Thương binh và xã hội 2. Mục tiêu đề ra Kế hoạch 5 năm (2001-2005) đã được Quốc hội khoá X kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25/12/01. Kế hoạch 5 năm 2001-2005 có vị trí rất quan trọng trong việc tạo tiền đề vững chắc để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 và xây dựng nước ta căn bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Vì vậy, mục tiêu đề ra: Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức mạnh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm, cơ bản xoá đói giảm nghèo, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định kinh tế chính trị và trật tự an ninh xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Riêng đối với nông nghiệp, nông thôn: Trong những năm tới vẫn coi công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một trọng điểm quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, cần tăng cường sự lãnh đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học; quy hoạch sử dụng đất hợp lý; đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu được trên đơn vị diện tích; đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá; giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hoá. Đầu tư nhiều hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn. Phát triển công nghiệp, dịch vụ, các ngành nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề; chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nông dân và dân cư ở nông thôn. Giá trị gia tăng nông nghiệp (kể cả thuỷ sản, lâm nghiệp) tăng bình quân hàng năm 4,0-4,5%. Đến năm 2010, tổng sản lượng lương thực có hạt đạt khoảng 40 triệu tấn. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP khoảng 16-17% (năm 2005 là 20-21%); tỷ trọng ngành chăn nuôi trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng lên khoảng 25%; thuỷ sản đạt sản lượng 3,0-3,5 triệu tấn (trong đó khoảng 1/3 là sản phẩm nuôi, trồng). Bảo vệ 10 triệu ha rừng tự nhiên, hoàn thành chương trình trồng 5 triệu ha rừng, nâng độ che phủ của rừng lên 43%. Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản đạt 9-10 tỷ USD, trong đó thuỷ sản khoảng 3,5 tỷ USD. Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn khoảng 50%. Với nước ta, lực lượng lao động là chủ yếu nhưng còn nhiều bất cập: số lượng lao động nông thôn tăng, thời gian nông nhàn nhiều, số việc làm được tạo ra chưa đáp ứng nhu cầu việc làm cho người dân lao động. Do vậy cần có mục tiêu cụ thể cho vấn đề việc làm và tạo việc làm. Năm 2002 sẽ giải quyết việc làm cho 1,4 triệu lao động tương đương với năm 2001, trong đó sẽ có 330.000 lao động được hỗ trợ thông qua quỹ quốc gia, hỗ trợ phát triển. Đồng thời khu vực nông nghiệp nông thôn sẽ tiếp tục thu hút khoảng 700.000-750.000 lao động. Công nghiệp xây dựng thu hút 180.000-200.000 lao động. Thương mại dịch vụ từ 320.000-350.000 lao động. Mục đích từng bước rút dần lao động trong nông nghiệp sang phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ trong nông nghiệp. Phấn đấu đến năm 2005, tạo việc làm và ổn định việc làm cho khoảng 7,5 triệu lao động ( bình quân trên 1,5 triệu lao động /năm) và đến năm 2010 đưa tỷ lệ thành thị xuống dưới 5%, quỹ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn lên khoảng 80-85%, nâng tỷ lệ người lao động được đào tạo nghề lên khoảng 40%.Đến năm 2010 về cơ bản không còn hộ nghèo. 2.1 Phương hướng và nhiệm vụ Đại hội IX đề ra chiến lược phát triển các vùng là: phát huy vai trò của các vùng kinh tế trọng điểm có mức tăng trưởng cao, tích luỹ lớn; đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy thế mạnh của từng vùng, liên kết với vùng trọng điểm tạo mức tăng khá. Cụ thể: 2.1.1Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ. Phát huy thế mạnh về đất và rừng, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tăng diện tích cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc gắn với chế biến. Phát triển mạnh kinh tế trang trại ... phát triển các vùng cây công nghiệp tập trung tạo ra khối lượng hàng hoá lớn như chè, cây ăn quả, phát triển các vùng cây đặc sản, rừng nguyên liệu giấy, trụ mỏ, ... thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, định canh, định cư kết hợp với phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, phát triển công nghiệp chế biến lâm sản... 2.1.2. Vùng đồng bằng sông Hồng và vùng trọng điểm Bắc Bộ Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, quy hoạch vùng lúa cao sản, hình thành các vùng lúa xuất khẩu ở tỉnh Hải Dương, Hà Tây và các tỉnh khác ở Nam đồng bằng sông Hồng. Tiếp tục phát triển thế mạnh các vụ đông, phát triển cây thực phẩm và chăn nuôi gắn với công nghiệp chế biến nhiều trình độ công nghệ; hình thành các vùng chuyên canh sản xuất rau, thịt, trái cây, hoa… phục vụ cho đô thị, du lịch và xuất khẩu; khai thác và sử dụng hợp lý dải ven biển, phát triển nghề nuôi trồng và đánh bắt thuỷ, hải sản. 2.1.3. Duyên hải Nam Trung Bộ và vùng trọng điểm miền Trung. Lựa chọn tập đoàn giống để thâm canh cây lúa nước ở vùng đồng bằng ven biển. Đẩy mạnh chăn nuôi, phát triển chăn nuôi các con đặc sản như hươu, dê để tạo nên sản phẩm hàng hoá. Phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ, hải sản, công nghiệp đánh bắt và chế biến hải sản. Tái tạo vốn rừng, trồng cây phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Phát triển các loại cây công nghiệp ngắn ngày như lạc, mía, dâu tằm, thuốc lá, cói, … và các cây công nghiệp dài ngày như hồ tiêu, cà phê, cao su, điều ở những vùng phù hợp với sinh thái phát triển cây trồng. Trồng rừng chắn gió, chắn cát ven biển, hình thành các vành đai xanh quanh thành phố, thị xã, khu công nghiệp. 2.1.4. Vùng Tây Nguyên Với ưu thế về đất đai, cần phát triển với tốc độ nhanh theo hướng thâm canh cây công nghiệp xuất khẩu (cà phê, chè, cao su, điều, hồ tiêu,...) và các loại cây công nghiệp khác như bông, dâu tằm, cây dược liệu, cây ăn quả, rừng nguyên liệu giấy, và các loại cây đặc sản khác... gắn việc trồng rừng mới, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả với việc khôi phục và bảo vệ, chăm sóc rừng giữ vững môi trường sinh thái và tăng nhanh độ che phủ của rừng. Mở rộng diện tích và thâm canh cây ngô, phát triển các loại cây công nghiệp ngắn ngày, hạn chế tiến tới chấm dứt việc phá rừng làm nương rẫy. Phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, phát triển kinh tế trang trại. Phát huy lợi thế trong vùng, tập trung phát triển công nghiệp chế biến cà phê, cao su, mía đường, công nghiệp thực phẩm, đặc biệt lựa chọn, trang bị một số dây chuyền công nghệ hiện đại để chế biến tinh các loại sản phẩm cây công nghiệp, lâm sản, các sản phẩm chăn nuôi... 2.1.5. Vùng miền Đông Nam Bộ và trọng điểm phía Nam Phát huy thế mạnh đất đai để phát triển mạnh cây công nghiệp ( cao su, cà phê, điều, mía đường...), cây ăn quả, cây nguyên liệu giấy. Củng cố các điểm dân cư tập trung lớn về cà phê và cao su, tạo điều kiện thu hút thêm lao động từ đồng bằng sông Cửu Long.Phát triển khai thác nuôi trồng, chế biến và các dịch vụ nghề cá. 2.1.6. Vùng đồng bằng sông Cửu Long Phát huy lợi thế của vùng sản xuất lương thực, rau quả, chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuỷ, hải sản hàng hoá lớn nhất của cả nước, tăng nhanh diện tích gieo trồng, năng suất và chất lượng sản phẩm đi đôi với phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản xuất khẩu và các dịch vụ... tập trung phát triển cây lúa, coi trọng thâm canh, nghiên cứu, chuyển đổi mùa vụ một số loại cây trồng để phòng tránh hạn hán, lũ lụt. Hình thành các vùng chuyên canh lúa và một số cây công nghiệp ngắn ngày có năng suất, chất lượng cao. Tập trung khai thác vùng tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười, Tây sông Hậu và bán đảo cà mau... phát triển mạnh ngành khai thác và nuôi trồng thuỷ sản có giá trị xuất khẩu cao, đặc biệt là tôm, cua và các loại hải sản khác để có thể đóng góp 50% giá trị xuất khẩu thuỷ, hải sản của cả nước... khai thác lợi thế về vị trí địa lý để phát triển nhanh các loại hình du lịch miệt vườn, sinh thái, ... II. Một số giải pháp tạo việc làm. Trước thực trạng dân số không ngừng tăng, diện tích đất canh tác dần bị thu hẹp đã làm cho tình trạng thừa lao động, thiếu việc làm ngày càng gia tăng đặc biệt ở nông thôn. Nguồn lao động tập trung chủ yếu ở nông thôn (chiếm 76,6% dân số cả nước), vì vậy giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn là một trong những chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước. Để sử dụng nguồn lực lao động nông thôn một cách có hiệu quả tránh lãng phí nguồn lực đó và tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước cần có những giải pháp nhất định tạo điều kiện để con người có việc làm. Tạo việc làm cho người lao động không những giảm lao động dư thừa và thời gian nhàn rỗi mà còn tạo thu nhập cho người dân góp phần phát triển kinh tế xã hội là điều kiện để nâng cao mức sống của dân cư và người lao động đồng thời ổn định, an ninh chính trị xã hội. Để tạo được nhiều chỗ làm việc cho người lao động cần có những giải pháp trong giai đoạn tới. Cụ thể: 1.Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với giải quyết việc làm. 1.1 Phát triển nông nghiệp theo chiều sâu. Dân số nông thôn nước ta chiếm phần lớn trong đó thu nhập của dân cư nông thôn vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp và lâm nghiệp. Hiện nay, nông nghiệp nước ta còn nhiều tiềm năng cần khai thác (đất trống, đồi trọc còn 1 triệu ha, mặt nước ao hồ còn 1,4 triệu ha...), rất cần đến nguồn lực con người. Để tránh lãng phí nguồn lực lao động và khai thác tiềm năng trong nông nghiệp làm giảm sức ép về việc làm, tăng thời gian sử dụng thời gian lao động nông thôn cần chú ý: + Đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất cây trồng trên quỹ đất hiện có. Thâm canh là con đường đúng đắn, là phương thức canh tác tiên tiến trong sản xuất nông nghiệp nhằm mục đích tăng sản phẩm trên một đơn vị diện tích canh tác. Đối với các nước tiên tiến, quá trình thâm canh đồng thời là quá trình giải phóng lao động nông nghiệp còn ở nước ta quá trình thâm canh lại là quá trình thu hút lao động. Thực tế cho thấy đầu tư lao động sống cho thâm canh lúa ở nước ta vẫn đang có hiệu quả. Với cơ chế khoán sản phẩm, người lao động thực hiện phương châm “lấy công làm lãi” đã đầu tư lao động sống nhiều hơn để làm đất kỹ, gieo mạ tốt, cấy đúng kỹ thuật, đảm bảo mật độ, đúng thời vụ, làm cỏ nhiều lần, tưới tiêu tốt, bón phân tốt theo nhu cầu sinh trưởng của cây lúa đã góp phần tăng đáng kể năng suất và sản lượng. Đặc biệt đối với các hộ nghèo, vùng nghèo do vốn ít, các khâu khác trong quy trình kỹ thuật không được thực hiện chặt chẽ, nên khả năng tăng năng suất lúa còn rất lớn. Nếu thực hiện tốt các khâu trên có thể tăng năng suất lúa gấp 1,5-2 lần. Như vậy, việc đầu tư lao động sống cho sản xuất nông nghiệp để tăng khối lượng sản phẩm, tạo ra địa tô chênh lệch vẫn đang còn khả năng thực hiện ở một số vùng. Việc cải tạo đồng ruộng, làm cỏ nhiều lần, bón phân đúng kỹ thuật… vẫn cần tăng thêm lao động sống. Đó là biện pháp để tăng thêm việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống của nông dân. Xu hướng này tuy ngược với quy luật phổ biến của các nước trong quá trình đưa nông nghiệp đi lên sản xuất lớn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng lại phù hợp với nền nông nghiệp, nông thôn nước ta. Vì vậy, ở những vùng nông thôn còn có khả năng thâm canh tăng năng suất lao động mà lao động dư thừa còn lớn, ngành nghề chậm phát triển, thì xu hướng tăng chi phí lao động sống là hướng đi có hiệu quả cần được nghiên cứu và vận dụng. + Mở rộng diện tích gieo trồng: là một trong những hướng quan trọng để tạo thêm việc làm, tăng thêm thu nhập cho lao động nông nghiệp. Tuy nhiên mỗi vùng có điều kiện tự nhiên và tập quán canh tác theo thời kỳ nhất định, do vậy mỗi địa phương trong các vùng nông thôn cần từng bước bố trí lại cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Những cánh đồng, lô đất có khả năng tăng vụ cần bố trí lại theo mùa vụ thích hợp. Đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ hướng tăng vụ chủ yếu là mở rộng diện tích vụ đông với các cây trồng chính là màu lương thực (ngô đông, khoai lang đông, khoai tây đông), rau đậu các loại, kể cả nông sản xuất khẩu. Những vùng trung du, miền núi có thể mở rộng diện tích gieo trồng bằng tăng vụ trên đất một vụ chủ yếu là vụ đông. Vùng duyên hải miền Trung có điều kiện mở rộng diện tích gieo trồng bằng tăng vụ lúa thứ ba. Vì vậy cần khuyến khích các hộ nông dân tiếp tục mở rộng diện tích lúa vụ thứ ba để khai thác khả năng tiềm tàng của đất, khí hậu và tận dụng lao động dôi dư ở nông thôn. Về lâu dài, mở rộng diện tích gieo trồng bằng cách tăng vụ để có thêm việc làm, sản phẩm và tăng độ che phủ mặt đất, định canh, thâm canh, tổ chức một nền sản xuất nông nghiệp ổn định, từng bước giảm đói nghèo vẫn là hướng quan trọng ở nước ta. ở những vùng còn đất trống đồi trọc cần khai thác sử dụng đưa vào sản xuất nông, lâm nghiệp. Thực tế cho thấy đất trống đồi núi trọc ở nước ta còn tương đối lớn, nếu được đầu tư, khai thác, cải tạo, đưa vào sử dụng trồng các loại cây như cao su, cà phê, cây ăn quả... có thể giải quyết công ăn, việc làm cho hàng triệu lao động nông nghiệp nông thôn. Ngoài phần đất có khả năng sử dụng cho nông nghiệp nêu trên, phần đất trống núi trọc còn lại cần được xem xét để trồng rừng và phục hồi rừng. Tuy nhiên để mở rộng diện tích đất canh tác bằng đất trống, đồi núi trọc cần được điều tra chi tiết và xây dựng các dự án đầu tư có tính khả thi cho từng vùng, chọn điểm đầu tư và hình thức đầu tư thích hợp. Về đối tượng và hình thức nên quan tâm đến hộ gia đình và tiểu chủ nông nghiệp, dưới hình thức cho vay lãi suất thấp và đầu tư trực tiếp. Tất nhiên việc mở rộng này quy mô lớn nên phải huy động vốn dưới hình thức góp vốn liên doanh. Đồng thời mở rộng hình thức đầu tư cho cơ sở quốc doanh từ đó phối hợp vốn với cá thể sản xuất và mở rộng hình thức gọi vốn nước ngoài, vốn xây dựng vùng kinh tế mới của Nhà nước. Thu nhập của người nông dân rất thấp do đó để mở rộng diện tích gieo trồng cần có chính sách hỗ trợ vốn sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm; đầu tư thuỷ lợi bảo đảm nguồn nước tưới tiêu; các chính sách thích hợp về thuế nông nghiệp và phân phối sản phẩm đặc biệt là các khoản cho tăng vụ. Những chính sách của Nhà nước cho họ niềm tin vào quá trình sản xuất mà họ phải đầu tư sức lao động, thời gian và nguồn vốn của bản thân họ +Phát triển chăn nuôi và kinh tế vườn: do khả năng đầu tư của hộ nông dân co hạn, diện tích lúa vụ ba không thể tăng nên vô hạn. Do vậy phát triển chăn nuôi và kinh tế vườn là biện pháp quan trọng để tăng thu nhập và tăng thêm việc làm cho nông dân. +Về phát triển chăn nuôi cần tuỳ vào thế mạnh của mỗi vùng sinh thái để lựa chọn chăn nuôi các loại gia súc gia cầm hợp lý. Các vùng miền núi, trung du thì chăn nuôi bò, dê,... Đối với các vùng ven biển thì chăn nuôi lợn, gia cầm, nuôi trồng thuỷ sản. Nhiều vùng quê có sông hồ nên tận dụng diện tích mặt nước để nuôi tôm, cua, ốc, cá nước ngọt... Nhờ vậy, ở các vùng này ngoài việc sử dụng lao động dư thừa, đã tận dụng lao động nông nhàn, lao động phụ góp phần tăng thêm đáng kể sản phẩm cho gia đình, cho xã hội và góp phần ngăn ngừa các tệ nạn xã hội. Phát triển kinh tế vườn bao gồm VAC (Vườn- Ao- Chuồng ) và VACR (Vườn- Ao- Chuồng- Rừng). Thế mạnh của hình thức này là việc tổ chức lao động sản xuất rất tiện lợi về thời gian, không gian, về lao động và nghỉ ngơi. Bởi lẽ, kinh tế VAC một ngành kinh tế kỹ thuật gắn liền với kinh tế gia đình và mọi người trong gia đình đều có thể tham gia, do đó có khả năng giải quyết việc làm tại chỗ cho người lao động trong và ngoài độ tuổi lao động ở nông thôn; kinh tế VAC với huy động lực lượng lao động ở nông thôn. Mặt khác, kỹ thuật VAC không theo mùa vụ, không có thời kỳ nông nhàn nên có thể lao động quanh năm với tất cả mọi lứa tuổi. Vì vậy, xét trên cả tầm vi mô và vĩ mô, phát triển kinh tế vùng có cách bố trí, sắp xếp và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Như vậy, phát triển kinh tế VAC ở các hộ gia đình trước mắt và sau này đang là một trong những hướng chính sách để sử dụng hợp lý nguồn lao động ở nông thôn. Những hộ gia đình làm VAC càng giỏi quy mô càng lớn thì giải quyết việc làm cho lao động càng nhiều hơn. + Khai thác tiềm năng đa dạng ở các vùng nông thôn ven biển để sử dụng hợp lý nguồn lao động tại chỗ. Tài nguyên biển nước ta rất phong phú và đa dạng với hơn 2000 loài cá, 300 loài tôm, hơn 1500 loài nhuyễn thể, với nhiều khoáng sản quý như dầu khí, muối ăn và kim loại hiếm khác. Trong những năm qua, do ảnh hưởng của công cuộc đổi mới, tốc độ phát triển kinh tế có cao hơn song tiềm năng của vùng này vẫn chưa được khai thác và sử dụng hợp lý. Những loại đặc sản: ngọc trai, yến sào, bào ngư, tôm cua... mới chỉ khai thác được một phần. Đặc biệt nguồn lao động ở các vùng này còn lãng phí rất lớn, nhiều người còn thiếu việc làm. Để tận dụng nguồn lao động ở nông thôn kết hợp khai thác tiềm năng đa dạng nơi đây Nhà nước cần quan tâm: đầu tư thêm lao động cho nghề đánh bắt; nuôi trồng hải sản, tích cực khai hoang lấn biển; liên doanh, liên kết đầu tư khai thác hải sản và du lịch; đảm bảo ổn định và từng bước mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá; giải quyết tốt nguồn vốn sản xuất cho nông dân; đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến ngư để khuyến khích mọi người áp dụng kỹ thuật canh tác tiến bộ và các bộ phận khác về giống, về môi trường thuỷ hải sản... 1.2 Chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiệu quả. Theo kết quả dự báo dân số đến năm 2010 dân số nước ta khoảng trên 88 triệu người, trong đó dân số nông thôn là 60 triệu người (chiếm khoảng 68%). Giai đoạn 2001-2010 số người bước vào tuổi lao động tiếp tục tăng ở mức cao, bình quân trên 1,6-1,7 triệu người mỗi năm do vậy việc làm trở thành áp lực lớn trong phạm vi toàn quốc. Nhu cầu lao động nông nghiệp sẽ ngày càng giảm do diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp; do yêu cầu của ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa cơ giới hoá vào sản xuất nông nghiệp để tăng năng suất, tăng sản phẩm hàng hoá và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp nên đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp không những giải quyết vấn đề việc làm trước mắt mà còn thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoánông nghiệp nông thôn nói riêng và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung. Để tạo việc làm theo hướng chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn cần tiến hành các giải pháp sau: + Đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành nghề nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Trước hết, cần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong lĩnh vực nông- lâm- ngư nghiệp theo hướng đa canh, đa dạng hoá vật nuôi cây trồng. Hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn, trên cơ sở điện khí hóa, cơ giới hoá nông nghiệp, nông thôn; đưa nhanh tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Cần quy hoạch các vùng chuyên canh, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi cho phù hợp với lợi thế của từng địa phương, từng vùng. Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn với phương châm đưa công nghiệp gắn với các vùng nguyên liệu, với thị trường nông thôn, tạo sự liên kết gắn bó giữa công nghiệp với nông nghiệp và thu hút lao động dư thừa trong nông thôn. Trước mắt cần tập trung phát triển ngành công nghiệp chế biến sử dụng nguyên liệu tại chỗ như mía đường, cà phê, chè, rau quả, chế biến gỗ và lâm sản; các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như sản xuất vật liệu xây dựng, thủ công mỹ nghệ, cơ điện nông thôn, dệt may ... khôi phục các làng nghề truyền thống, phát triển các làng nghề mới. Phát triển các ngành dịch vụ. + Nâng cao chất lượng lao động nông thôn. Đối với lao động trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp cần mở rộng và đa dạng hoá các loại hình đào tạo ngắn hạn, kết hợp đào tạo với khuyến nông khuyến lâm, xây dựng mạng lưới đào tạo với từng xã nhằm gắn đào tạo với sử dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng lao động nông nghiệp. Đối với những lao động không có nhu cầu sử dụng trong nông nghiệp cần phải được đào tạo để tăng cơ hội có việc làm trong các lĩnh vực phi nông nghiệp tại địa bàn nông thôn. Theo hướng này cần sớm tiến hành quy hoạch mạng lưới các cơ sở dạy nghề trên địa bàn nông thôn. Đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo phù hợp với đối tượng được đào tạo. Phát triển các hình thức đào tạo di động. Tăng nguồn lực đầu tư phát triển đào tạo nghề cho nông thôn. Mở rộng cơ hội để lao động nông thôn tham gia vào chương trình xuất khẩu lao động. + Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hoá các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, nông thôn. Đây là hình thức tạo việc làm và xã hội hoá giải quyết việc làm dựa trên các quan hệ kinh tế thị trường, nhằm khai thác tốt hơn tiềm năng của các vùng, hướng đi tới phát triển kinh tế hàng hoá ở nông thôn. Hiện nay trên địa bàn nông thôn đồng thời tồn tại các loại hình kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế hộ gia đình. Trong những năm gần đây, trong khi khả năng tạo việc làm và duy trì việc làm của kinh tế tập thể, kinh tế quốc doanh ngày càng giảm thì kinh tế hộ gia đình và kinh tế tư nhân tỏ ra có nhiều ưu việt trong tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. + Tăng cường nguồn lực cho phát triển kinh tế và tạo việc làm cho người lao động nông thôn. Trong những năm qua nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn chưa tương xứng với đóng góp của lĩnh vực này cho nền kinh tế quốc dân và khả năng tạo việc làm. Nông nghiệp sử dụng hơn 3/4 lực lượng lao động, tạo ra hơn 1/4 tổng sản phẩm nhưng lại chỉ nhận được hơn 10% trong tổng đầu tư của Nhà nước. Việc đầu tư cho ngành nghề và dịch vụ nông nghiệp, nông thôn đặcbiệt là các doanh nghiệp với quy mô vừa và nhỏ chưa được quan tâm đúng mức cả về chủ trương và giải pháp nên chưa tạo được những tiền đề vật chất cần thiết cho sự chuyển dịch cơ cấu. Để thúc đẩy nông nghiệp và nông thôn phát triển trong thời gian tới cần có sự thay đổi trong cơ cấu đầu tư của Nhà nước, thay đổi môi trường và điều kiện để thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư phát triển ngành nghề trên địa bàn nông thôn. 2. Thực hiện tốt chính sách phát triển nguồn nhân lực. Trong các yếu tố của sự phát triển nhanh, bền vững của nền kinh tế thì nguồn lực con người là yếu tố cơ bản nhất. Nguồn nhân lực vừa là người sáng tạo vừa là người sử dụng các phương tiện phân phối công nghệ để đạt lợi ích kinh tế cao nhất. Nguồn nhân lực cần được sử dụng có hiệu quả, đồng thời phải được đãi ngộ thoả đáng. Do vậy, chính sách phát triển nguồn nhân lực có tầm quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước. 2.1 Chính sách đầu tư cho đào tạo nhân lực. Trước thực trạng nguồn lao động nông thôn dồi dào nhưng chất lượng kém đã hạn chế rất lớn đến việc làm và sự phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Tuy nhiên, người dân nông thôn có thu nhập thấp vì vậy để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần có sự quan tâm đúng mức của Nhà nước. Có thể nói đầu tư cho giáo dục đào tạo là đầu tư trực tiếp, cơ bản và lâu dài cho sự phồn thịnh của đất nước và là hướng đầu tư có lợi nhât. So với các hoạt động khác, các cơ sở đào tạo nhân lực (các trường lớp công lập, bán công, dân lập) đều được Nhà nước ưu đãi hơn thể hiện qua những chính sách tài trợ nhà trường, hỗ trợ giáo viên về vật chất và tinh thần. 2.2 Chính sách giải quyết việc làm cho người lao động. Từ chỗ coi giải quyết việc làm là trách nhiệm hoàn toàn phụ thuộc nông nghiệp và chỉ khi làm việc trong cơ quan Nhà nước mới coi là có việc làm đã chuyển sang nhận thức mới, người lao động đã chủ động tìm việc làm cho mình, cùng với sự chủ động của mọi người dân Nhà nước cũng rất quan tâm đến vấn đề giải quyết việc làm trên cơ sở phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, huy động các đoàn thể, các tổ chức xã hội cùng tham gia vào các chương trình giải quyết việc làm. Mỗi năm Chính phủ đã chi hàng trăm tỷ đồng và hàng ngàn tỷ đồng của người dân đóng góp để thực hiện chương trình này(chương trình 135,227…). Dưới sự chỉ đạo của ban quản lý chương trình quốc gia xúc tiến việc làm, đến hết năm 2000 đã có 145 trung tâm Dịch vụ việc làm trên phạm vi cả nước được thành lập nhằm đào tạo nghề, giới thiệu việc làm và thực hiện các chương trình hỗ trợ việc làm cho người lao động. Để thực hiện tốt chính sách giải quyết việc làm cho người lao động cần làm tốt công tác vận động người lao động tích cực tham gia vào chương trình của cán bộ địa phương; giảm bớt khâu trung gian tránh hiện tượng thất thoát vốn đồng thời có bộ phận giám sát các công trình thi công xây dựng cơ sở hạ tầng ở các xã, huyện. 2.3 Chính sách sử dụng nguồn nhân lực. Sử dụng nguồn nhân lực cần đảm bảo nguyên tắc sử dụng đầy đủ, khai thác tối đa tiềm năng sức lao động, đãi ngộ thoả đáng theo giá trị lao động được sáng tạo ra đồng thời tạo điều kiện có chính sách đúng để phát huy cao tính tự do sáng tạo của con người, nhất là lao động chất xám. Bởi nguồn lực con người chỉ có thể phát huy tác dụng khi được quan tâm đầy đủ, đúng mức, được lao động trong một môi trường xã hội lành mạnh, dân chủ và công bằng. Khi đó họ sẽ làm việc hết mình biến nhiệm vụ thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành động lực của bản thân, góp phần đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp hiện đại phồn vinh. 3. Thực hiện có hiệu quả chương trình quốc gia về việc làm. + Các “Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm đến năm 2005” nhằm tạo mở việc làm mới, duy trì, đảm bảo việc làm cho người lao động có yêu cầu làm việc. Mục tiêu phấn đấu mỗi năm thu hút 1,3-1,4 triệu lao động có chỗ làm việc; giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống 5%, nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 80% vào năm 2005. Để đạt được mục tiêu này trong 5 năm (2001-2005) phải tạo mở được 7 triệu chỗ làm việc mới và đào tạo lại nghề cho 5,5 triệu người nâng tỷ lệ qua đào tạo trong lực lượng lao động lên 30%. Theo chương trình này, các cơ quan thẩm quyền sẽ tổ chức xây dựng, bổ sung các chính sách về việc làm như: chế độ xây dựng và kiểm soát chỉ tiêu tạo việc làm mới; chính sách dịch vụ việc làm; chính sách cho vay vốn tạo việc làm; chính sách bảo hiểm thất nghiệp... nhằm bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều tìm được cơ hội có việc làm góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp ở nước ta hiện nay. + Chương trình xoá đói giảm nghèo với việc làm: Chương trình huy động nguồn vốn khá lớn (năm 1999 khoảng trên 700 tỷ đồng; năm 2000 trên 1200 tỷ đồng). Với mục tiêu về việc làm phấn đấu giải quyết việc làm cho 1,4-1,5 triệu lao động; giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị xuống 5-6%; nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 80% vào năm 2005. + Các hoạt động hỗ trợ trực tiếp của chương trình sẽ tổ chức dạy nghề gắn với việc làm cho 1 triệu người, cho vay vốn hỗ trợ giải quyết việc làm cho 1,5-2,0 triệu người thông quy Quỹ quốc gia Hỗ trợ việc làm.Tổ chức cho người thất nghiệp, người thiếu việc làm đăng ký tìm việc làm tại các trung tâm dịch vụ việc làm. Những chương trình giải quyết về việc làm có ý nghĩa đặc biệt với diện đầu tư rộng và quy mô nhiệm vụ ngày càng lớn, chính vì vậy để thực hiện tốt các chương trình này trong thời gian tới cần có sự nỗ lực chung của các cấp, các ngành, các địa phương. Chính phủ, Quốc hội cần phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hơn nữa. Có như vậy mới phát huy được hiệu quả của chương trình và đi nhanh vào cuộc sống tạo ra sự hồ hởi, tin tưởng của đồng bào các dân tộc vào đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. 4. Xuất khẩu lao động. Đưa người lao động, chuyên gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài (gọi tắt là xuất khẩu lao động ) là một chủ trương có tính chiến lược quan trọng của Đảng và Nhà nước. Xuất khẩu lao động là cơ hội để có thêm việc làm, thu nhập cao (trung bình 300 USD/ người /tháng) cho người lao động trong đó có một bộ phận là lao động nông thôn. Song coi xuất khẩu lao động là một giải pháp thiét thực tạo việc làm cho người lao động cần phải khắc phục những hạn chế trong công tác tổ chức quản lý lao động, công tác nghiên cứu thị trường ... để giải pháp tạo việc làm có hiệu quả cao. + Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn lao động cho xuất khẩu: Mục đích của công tác này trang bị cho người học vững vàng các kiến thức về chuyên môn, hiểu biết về quan hệ chủ thợ trong nền kinh tế thị trường dồng thời nâng cao trình độ văn hoá, sức khoẻ ý thức tổ chức tổ chức kỷ luật và một số vấn đề khác. Từ đó đảm bảo chất lượng lực lượng lao động xuất khẩu. + Sắp xếp lại doanh nghiệp và làm tốt công tác tuyển chọn: Xuất khẩu lao động khác với xuất khẩu hàng hoá. Việc xuất khẩu lao động cần thông qua các doanh nghiệp có đủ điều kiện cần thiết và được phép xuất khẩu. Để đảm bảo chất lượng lao động xuất khẩu cần làm tốt công tác tuyển chọn: Thanh tra, kiểm tra và công khai công bố các thông tin cần thiết để người đi xuất khẩu lao động hiểu rõ quyền lợi trách nhiệm và yêu cầu. Sau đó đào tạo bồi dưỡng để đáp ứng những yêu cầu đó. Quy trình tuyển chọn cần chặt chẽ; nghiêm minh vừa tránh được tiêu cực, vừa chọn được người có đủ điều kiện cần thiết về chuyên môn tay nghề, sức khoẻ, ngoại ngữ. + Tích cực khai thác thị trường mới, giữ vững thị trường đã có: Để làm tốt việc này cần có sự đầu tư thích đáng về thời gian và tiền vốn nhằm thu thập thông tin về số lượng, chất lượng và cơ cấu lao động các nước yêu cầu ... tránh rủi ro của thị trường mới khai thác và nâng cao hiệu quả của thị trường cũ. + Tăng cường công tác quản lý ở nước ngoài. Khi số lao động ở nước ngoài tăng lên, tăng cường quản lý đối với số lao động này là việc rất quan trọng. Việc quản lý này nhằm khắc phục những rủi ro ở nước nhận lao động; kịp thời giải quyết các tranh chấp giữa người lao động và chủ doanh nghiệp; khắc phục mối quan hệ không tốt giữa lao động Việt Nam với dân địa phương đặc biệt hạn chế hiện tượng phá vỡ hợp đồng. Các doanh nghiệp và cơ quan chức năng cần nghiên cứu lựa chọn hình thức quản lý cho từng trường hợp cụ thể (từng nước, từng địa bàn). + Cải tiến công tác tài chính và thông tin về xuất khẩu lao động: Cơ chế tài chính thích hợp trong xuất khẩu lao động nhằm tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích mọi người đi xuất khẩu lao động. Giúp đỡ người lao động nhất là đối với lao động thuộc diện chính sách, lao động ở nông thôn có hoàn cảnh nghèo khó trong việc vay tiền để đặt cọc và tiền đóng góp có liên quan đến xuất khẩu lao động. Đồng thời làm tốt công tác thông tin tuyên truyền trong nhân dân để người lao động biết được các doanh nghiệp được phép xuất khẩu lao động tránh bị lừa và hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro thường gặp. Xuất khẩu lao động là một giải pháp tạo việc làm cho người lao động, là chiến lược của Đảng và Nhà nước vì vậy không những Nhà nước tạo điều kiện cho người lao động đi xuất khẩu lao động mà bản thân người lao động cũng phải nỗ lực để duy trì việc làm, đem lại thu nhập cho bản thân và cho đất nước. Với những người nông dân ở nông thôn, họ chỉ có thể tự tạo việc làm với số vốn so với thu nhập thành thị có thể nói là rất nhỏ. Do vậy, các giải pháp tạo việc làm thường tập trung vào phía Nhà nước. Để tạo được nhiều chỗ làm việc cho lao động nông thôn Nhà nước phải có các chương trình, dự án tạo việc làm với quy mô lớn. Để các dự án được tiến hành có hiệu quả Nhà nước cần có các chính sách cụ thể về vốn, về thuế;các chính sách chuyển giao công nghệ và nguồn lực;chính sách khuyến nông;chính sách ưu đãi; chính sách về tiêu thụ sản phẩm ... tạo điều kiện cho người lao động tích cực hưởng ứng. Ngoài những giải pháp nêu trên, việc tiếp tục thực hiện các biện pháp sinh đẻ có kế hoạch nhằm hạn chế sức ép về dân số và lao động tăng thêm mỗi năm, giảm nhanh tốc độ tăng tự nhiên dân số vẫn là phương hướng cơ bản và lâu dài để giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống dân cư nói chung và khu vực nông thôn nói riêng. 5. Hoạt động gián tiếp và trực tiếp tạo việc làm. Ngoài các giải pháp nêu trên mỗi địa phương cần quan tâm thoả đáng đến các vấn đề sau: + Việc đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội cho nông thôn đặc biệt là thuỷ lợi, giao thông, điện nước sinh hoạt, thông tin liên lạc trường học và trạm xá tạo điều kiện thuỷ lợi cho người lao động nông thôn trong việc phát triển sản xuất hàng hoá. + Tăng cường hoạt động dịch vụ việc làm đặc biệt là dịch vụ tư vấn lựa chọn học nghề, hình thức và nơi học; tư vấn pháp luật liên quan đến việc làm; cung cấp thông tin về thị trường lao động. + Đầu tư đào tạo nghề cho người lao động dưới hình thức dài hạn, ngắn hạn, chính quy, đào tạo bên cạnh xí nghiệp, đào tạo kèm cặp trong sản xuất, đào tạo tại các trung tâm dạy nghề của các huyện, các ngành sản xuất kinh doanh, đào tạo theo hợp đồng, theo địa chỉ , các cơ sở, các lớp đào tạo nghề tư nhân, đào tạo nghề thông qua hợp tác quốc tế. + Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền. Thường xuyên đưa ra các chương trình giáo dục đào tạo; phổ biến cho người dân về thực hiện khuyến nông, lâm, ngư nghiệp; những bí quyết để làm tốt công tác việc nhà nông, các mô hình kinh tế hộ, kinh tế trang trại thông qua đài phát thanh, truyền hình, báo chí. Kết luận Nguồn lao động là nguồn lực vô cùng quý báu của mọi quốc gia. Một đất nước trở thành một nước phát triển khi có nguồn nhân lực dồi dào, chất lượng cao bởi nguồn nhân lực là lợi thế cạnh tranh lớn. Thước đo đánh giá mỗi người lao động chính là việc làm của họ. Lao động, việc làm là quyền cơ bản của mỗi người. Muốn khẳng định được mình trước xã hội, họ phải làm việc hay nói khác phải tự tạo việc làm cho bản thân. Nguồn lao động Việt Nam nói chung và nguồn lao động nông thôn nói riêng, với quy mô lớn, tốc độ tăng nhanh song chất lượng còn thấp đã gây ra sức ép về việc làm. Vì vậy, giải quyết việc làm trong đó có tạo việc làm cho người lao động nông thôn là mục tiêu của toàn Đảng, toàn dân đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. Tạo việc làm cho người lao động nông thôn tránh được tình trạng thiếu việc làm, phát huy được lợi thế, tiềm năng của đất nước, giảm bớt tệ nạn xã hội là một trong những tiêu chí đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, là chính sách xã hội cơ bản góp phần đảm bảo nâng cao đời sống cho người dân, ổn định và phát triển xã hội. Tài liệu tham khảo Sách: 1.Giáo trình kinh tế lao động trường Đại học Kinh tế quốc dân- chủ biên PGS.PTS nhà giáo ưu tú Phạm Đức Thành và PTS. Mai Quốc Chánh 2.Bộ luật lao động của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam NXB Chính trị quốc gia 3.Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất của I.M. Keynes NXB Giáo dục 1995 4.Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam của Nguyễn Hữu Dung và Trần Hữu Trung NXB Chính trị quốc gia 1997 5.Thực trạng lao động việc làm ở Việt Nam 1997,1998,1999,2000,2001 NXB Thống kê 6. Số liệu Điều tra Lao động – Thương binh và xã hội ở Việt Nam năm 1996-2000 NXB Lao động xã hội 7. Dự báo Dân số Việt Nam 1999-2024 của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội NXB Thống kê năm 2000 Tạp chí: Kinh tế phát triển: số 39/2000, số 50/2001, số 48/2001 Thông tin tài chính: số 10/2001 Kinh tế Việt Nam và Thế giới: số 161/2001 Con số và sự kiện: số 12/2000, số 3/2000, số 3/2001, số 9/2001, số 4/2002 Lý luận chính trị số 1/2002 Kinh tế và dự báo: số 12/1999, số 3/2002 Nghiên cứu lý luận: số 7/1999 Nghiên cứu kinh tế: số 12/2000 Nông thôn mới: số 38/1999, số 48/2000 Thời báo Kinh tế Việt Nam năm 2000-2001 và 2001-2002 Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docN0072.doc
Tài liệu liên quan