Luận văn Một số kiến nghị xây dựng và hoàn thiện pháp luật về cổ phần hóa công ty nhà nước gắn với phát triển thị trường chứng khoán

CHƯƠNG I 3 CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CPH CÔNG TY NHÀ NƯỚC VÀ 3 PHÁP LUẬT VỀ CỔ PHẦN HÓA CÔNG TY NHÀ NƯỚC 3 I. Khái quát chung về cổ phần hóa công ty Nhà nước 3 1. Khái niệm về CPH CTNN 3 2. Mục tiêu và yêu cầu đối với hoạt động CPH CTNN trong giai đoạn hiện nay 5 3. Mối quan hệ giữa CPH công ty nhà nước và TTCK 7 3.1. Chứng khoán - thị trường chứng khoán và những tác động đến tiến trình CPH 7 3.2. Những tác động của tiến trình CPH CTNN đối với TTCK 10 II. Pháp luật về cổ phần hóa Công ty nhà nước 13 1. Khái niệm pháp luật về CPH CTNN 13 2. Những yêu cầu đối với pháp luật về CPH CTNN trong giai đoạn hiện nay 14 3. Sự hình thành và phát triển pháp luật về CPH CTNN 16 CHƯƠNG II 22 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CỔ PHẦN HÓA 22 CÔNG TY NHÀ NƯỚC VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG TỚI 22 THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 22 I. Thực trạng pháp luật về cổ phần hóa Công ty Nhà nước 22 1. Quy định về đối tượng CPH và điều kiện CPH 22 2. Quy định về hình thức, và thủ tục CPH CTNN 24 2.1. Hình thức CPH CTNN 24 2.2. Thủ tục CPH CTNN 25 3. Quy định về đối tượng và điều kiện mua cổ phần 26 4. Quy định về cổ phần - Cổ phiếu - Cổ đông sáng lập, Quyền - Nghĩa vụ của cổ đông 28 4.1. Quy định về cổ phần - Cổ phiếu - Cổ đông sáng lập 28 4.2. Quyền và nghĩa vụ của cổ đông 28 5. Quy định về xử lý tài chính khi CPH 30 5. Quy định về xác định giá trị doanh nghiệp 32 5.1. Về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp 32 5.2. Về tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp 34 6. Quy định về bán cổ phần lần đầu 36 6.1. Về đối tượng, cơ cấu, giá bán cổ phần lần đầu 36 6.2. Về phương thức tổ chức đấu giá cổ phần lần đầu 38 6.3. Về trình tự tổ chức bán đấu giá 39 7. Chính sách của Nhà Nước đối với người lao động và đối với CTNN sau CPH 41 7.1. Chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp CPH 41 7.2. Những ưu đãi đối với Người lao động 41 II. Những tác động của pháp luật về cổ phần hóa Công ty Nhà nước tới thị trường chứng khoán 43 1. Giai đoạn trước khi Nghị định 187/2004/NĐ-CP được ban hành 44 2. Giai đoạn từ khi ban hành Nghị định 187/2004/NĐ-CP đến nay 49 CHƯƠNG III 55 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CỔ PHẦN HÓA CÔNG TY NHÀ NƯỚC GẮN VỚI PHÁT TRIỂN 55 THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 55 I. Căn cứ đề xuất đề nghị 55 1. Căn cứ vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước 55 2. Căn cứ vào thực trạng quá trình CPH CTNN và từ hoạt động của TTCK 57 II. Một số kiến nghị giải pháp cụ thể 59 KẾT LUẬN 65 DANH MỤC TÀI LIỆU TRÍCH DẪN TRONG KHÓA LUẬN 67

doc69 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2032 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số kiến nghị xây dựng và hoàn thiện pháp luật về cổ phần hóa công ty nhà nước gắn với phát triển thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
việc,… Nghị định 187/2004/NĐ-CP cũng có những sửa đổi bổ sung phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới. Đầu tiên đới với ưu đãi khi mua cổ phần, Nghị định 64/2002/NĐ-CP quy định người lao động được mua tối đa 10 cổ phần cho mỗi năm làm việc, trị giá mỗi cổ phần 100.000 đồng và được giảm 30% so với mệnh giá ban đầu (khoản 1 điều 27). Nghị định 187/2004/NĐ-CP tại khoản 1 điều 37 quy định: “người lao động có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp tại thời điểm quyết định CPH được mua tối đa 100 cổ phần cho mỗi năm thực tế làm việc tại khu vực nhà nước với giá giảm 40% so với giá bình quân bán cho nhà đầu tư khác”. Như vậy số mệnh giá cổ phần mà người lao động đựơc mua ưu đãi có giảm (từ 100.000đồng/cổ phần xuống còn 10.000đồng/cổ phần), nhưng số cổ phần mà họ được mua ưu đãi tính theo năm làm việc lại tăng lên (từ 10 cổ phần/năm lên 100 cổ phần/năm) và như vậy tổng giá trị cổ phần mà người lao động được mua theo giá ưu đãi không có sự thay đổi so với Nghị định 64/2002/NĐ-CP. Về giá mua cổ phần: theo khoản 2 Điều 7 Nghị định 187/2004/NĐ-CP, người lao động có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp tại thời điểm quyết định CPH giảm 40% so với giá đấu giá bình quân bán cho nhà đầu tư khác, quy định này đã kích thích tạo điều kiện cho người lao động tham gia mua cổ phần. Một điểm đáng lưu ý trong Nghị định 187/2004/NĐ-CP đó là vấn đề chuyển nhượng cổ phần. Ở điểm 2.1 mục VII Thông tư 126/2004/TT-BTC và khoản 2 điều 39 Nghị định 187/2004/NĐ-CP quy định người lao động mua cổ phần ưu đãi được tự do chuyển nhượng cổ phần, không bị hạn chế về thời gian nắm giữ, trừ cổ đông sáng lập thực hiện theo điều lệ công ty. Trong khi đó Nghị định 64/2002/NĐ-CP, người lao động sở hữu cổ phần được mua theo giá ưu đãi, cổ phiếu của loại cổ phần này là cổ phiếu có ghi tên và chỉ được chuyển nhượng sau 3 năm kể từ khi mua, trường hợp đặc biệt cần chuyển nhượng số cổ phần này trước thời hạn trên thì phải được Hội đồng quản trị công ty chấp thuận. Điều này gây tâm lý lo lắng băn khoăn cho người lao động khi mua cổ phiếu, không thể thu hồi vốn nếu doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, hay nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì việc chuyển nhượng cũng khó khăn. II. Những tác động của pháp luật về cổ phần hóa Công ty Nhà nước tới thị trường chứng khoán Chứng khoán và TTCK là những biểu hiện ở mức độ cao của nền KTTT ở mỗi Quốc gia. Chúng ta đã biết ở các nước trên thế giới sự hình thành của TTCK là do nhu cầu khách quan và tự nhiên, từ sự xuất hiện của các công ty đối vốn với đặc trưng vốn được chia thành nhiều phần, có thể chuyển nhượng và nhu cầu tập trung vốn trở nên cấp bách. Ở Việt Nam, sự hình thành phát triển của TTCK có những nét đặc thù riêng: ra đời không xuất phát từ nhu cầu của tự nhiên trong việc huy động vốn của các công ty mà hình thành trên cơ sở quy định và sự can thiệp của Nhà nước. Cũng chính vì vậy tiến trình CPH CTNN ở Việt Nam không chỉ tạo tiền đề cho sự ra đời của TTCK mà quan trọng hơn là nhân tố tạo điều kiện cho TTCK tồn tại và phát triển, đặc biệt khi các CTCP được thành lập theo Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp không nhiều thì rõ ràng sự phát triển của TTCK phần lớn phụ thuộc và tiến trình CPH. Theo TS.Nguyễn Minh Đức (TTCK trong nền kinh tế chuyển đổi) đã nhấn mạnh “CPH DNNN là một trong những giải pháp giữ vai trò quyết định đối với việc phát triển TTCK Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” [10]. Quy định đầu tiên CPH được đưa ra từ 1990 với Quyết định 143/HĐBT ngày 10 tháng 5 năm 1990, đến nay Đảng và Chính phủ liên tục ban hành nhiều văn bản pháp quy điều chỉnh vấn đề này như Nghị định 28/1996/NĐ-CP, Nghị định số 44/1998/NĐ-CP, Nghị định 64/2002/NĐ-CP,… Với mục tiêu dần đi điến hoàn thiện, thúc đẩy quá trình CPH diễn ra nhanh chóng và hiệu quả. Các văn bản này bước đầu đã thu được nhiều kết quả khả quan với số lượng các CTNN CPH tăng nhanh. Tuy nhiên vẫn tồn tại một thực tế đó là quá trình CPH diễn ra nội bộ, khép kín, chưa thực sự phát huy hết ý nghĩa trong cải cách doanh nghiệp. Năm 2000, TTCK ra đời đã đặt ra yêu cầu rất lớn là gắn CPH với TTCK, nhưng trên thực tế chúng ta vẫn chưa thực hiện được. Trong tình hình đó thực hiện Nghị quyết Trung ương Đảng IX, ngày 16 tháng 11 năm 2004 Nghị định 187/2004/QĐ-CP về chuyển CTNN thành công ty cổ phần được thông qua với nhiều điểm mới về mọi mặt: từ việc mở rộng đối tượng thay đổi phương thức bán cổ phần, dành ưu đãi cho nhà đầu tư chiến lược, cải cách trong xác định giá trị doanh nghiệp. Nghị định 187/2004/NĐ-CP đã có một thay đổi căn bản đánh dấu một bước ngoặt trong chính sách pháp luật đồng thời tác động mạnh đến quá trình CPH và sự phát triển TTCK. Từ khi Nghị định 187/2004/NĐ-CP ra đời quá trình CPH có nhiều biến chuyển rất tích cực, đẩy mạnh cả về “chất” và “lượng”, đi vào “chiều sâu”, hơn thế còn tạo nền tảng cơ sở gắn CPH với TTCK. Với mục đích nghiên cứu những tác động của chính sách pháp luật về CPH CTNN tới TTCK theo quan điểm cá nhân, chúng ta nên xem xét, nghiên cứu những chuyển biến của TTCK trong hai giai đoạn: - Trước khi Nghị định 187 ra đời, tức là từ tháng 11/2004, quá trình CPH được điều chỉnh bởi Nghị định 144/1998/NĐ-CP và Nghị định 64/2002/NĐ-CP. - Từ khi Nghị định 187/2004/NĐ-CP được ban hành. Xem xét quá trình CPH trong hai giai đoạn này đồng nghĩa với việc xem xét hoạt động của TTCK dưới tác động của các văn bản pháp lý về CPH khác nhau. 1. Giai đoạn trước khi Nghị định 187/2004/NĐ-CP được ban hành Ngày 28 tháng 6 năm 2000, TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu phiên giao dịch thí điểm cổ phần của CTCP Điện lạnh Sài Gòn và CTCP Vật liệu viễn thông. Với việc thành lập TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh TTCK Việt Nam chính thức được công nhận. Nếu đem so với quá trình CPH CTNN (bắt đầu từ năm 1990) thì sự hình thành TTCK được đánh giá là “muộn”, phải gánh nhiệm vụ quan trọng trở thành một kênh huy động vốn lớn, nâng tính thanh khoản cho các loại chứng khoán đặc biệt là cổ phiếu của CTNN CPH, đẩy nhanh quá trình CPH. Trong giai đoạn đầu hình thành, hoạt động còn trong quá trình thử nghiệm thì quá trình CPH CTNN có vai trò rất lớn trong việc tạo nguồn “hàng” cho TTCK (tính đến thời điểm năm 2001 cả nước có gần 800 DNNN CPH). Ngay sau khi được thành lập, đến cuối năm 2002, giao dịch trên TTCK đã diễn ra rất sôi động, kinh doanh chứng khoán đã trở thành một phong trào mới, cao trào của nó đạt đến đỉnh điểm vào năm 2001, trong thời gian này giá trị giao dịch đạt 5 đến 10 tỷ VN đồng/phiên, trong đó giao dịch cổ phiếu chiếm 90%. Tuy nhiên trên TTCK sơ cấp (chào bán cổ phiếu lần đầu) tình hình trái ngược, từ giữa năm 2000 đến giữa năm 2002 trên TTCK luôn khan hiếm hàng hoá, hầu hết các nhà đầu tư không mua được cổ phiếu trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp đều phải mua lại cổ phiếu trên thị trường thứ cấp và thậm chí họ còn bị rơi vào “vòng xoáy” của phong trao “đầu cơ”. Năm 2002 TTCK có thêm hàng, thêm phiên nhưng giao dịch vẫn nhỏ giọt, tính cả năm 2002 chỉ có 10 loại cổ phiếu được niêm yết [10]. Vậy tại sao lại có hiện tượng này khi mà cũng trong thời gian từ 2000 đến 2002, quá trình CPH diễn ra rất nhanh. Tính trong cả nước đã tiến hành CPH được 523 doanh nghiệp, đưa tổng số doanh nghiệp được CPH lên 907 đơn vị, riêng năm 2002 có 427 doanh nghiệp được sắp xếp lại trong đó có 164 DNNN được CPH [4]. Có nhiều nguyên nhân nhưng một trong những nguyên nhân chính là ở chính sách pháp luật CPH CTNN chưa gắn kết được CPH CTNN với TTCK. Văn bản có hiệu lực ở thời điểm này là Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 2/8/1998 về chuyển DNNN thành CTCP. Với nhiều quy định được đánh giá là tiến bộ lúc đó như: quy định hình thức CPH, các vấn đề liên quan đến xác định giá trị tài sản của DNNN CPH, chính sách khuyến khích đối với doanh nghiệp CPH rõ ràng cụ thể hơn, có sự quan tâm đến quyền lợi của người lao động, đặc biệt chú ý đến người lao động nghèo,…đã khiến chủ chương CPH trở nên hấp dẫn hơn đối với doanh nghiệp, cũng như đối với người lao động và các tầng lớp khác trong xã hội, góp phần đẩy nhanh tốc độ CPH DNNN. Tuy nhiên Nghị định 44/1998/NĐ-CP cũng bộc lộ sự “lạc hậu” trong tình hình mới, nhất là từ khi TTCK đi vào hoạt động. Cụ thể trong quy định về đối tượng mua cổ phần, tuy không còn hạn chế về chủ thể tham gia mua cổ phần của DNNN như ở Quyết định 143/HĐBT (chỉ bao gồm cá nhân và công nhân viên chức của DNNN CPH và DNNN khác) nhưng lại có những quy đinh rất khắt khe về vấn đề hạn chế số lượng cổ phần bán và về điều kiện mua: hạn chế mức 10% (đối với pháp nhân) và 5% (đối với cá nhân) trong các công ty mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt; hạn chế ở mức 20% (đối với pháp nhân) và 10% (đối với cá nhân) trong các công ty mà Nhà nước có cổ phần. Hay về vấn đề xử lý nợ, Nghị định 44/1998/NĐ-CP chưa có quy định cụ thể. Việc xác định giá trị thực tế doanh nghiệp căn cứ theo số liệu sổ sách, kế toán của doanh nghiệp được cổ phần được cơ quan kiểm toán xác nhận,… mang tính chủ quan, khép kín.Với những quy định như vậy Nghị định 44/1998/NĐ-CP đã trở thành một rào cản lớn gắn CPH với TTCK. Phù hợp với hoàn cảnh mới, tạo thêm động lực mới cho tiến trình CPH, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 về việc chuyển DNNN thành CTCP. Với 36 điều, Nghị định 64/2002/NĐ-CP đã quy định những vấn đề cụ thể hơn về CPH, giải quyết những vướng mắc trong quá trình CPH mà các văn bản trước đây không giải quyết được như: vấn đề liên quan đến định giá tài sản DNNN, việc xử lý nợ của DNNN trước khi CPH, vấn đề phát hành cổ phiếu, quy định chi tiết cụ thể về những ưu đãi đối với doanh nghiệp, người lao động khi CPH,… Với những điểm mới Nghị định 64/2002/NĐ-CP, quá trình CPH đã có bước phát triển vượt bậc, đặc biệt về số lượng các công ty CPH. Năm 2002, nửa năm áp dụng theo Nghị định 64/2002/NĐ-CP có 427 DNNN được sắp xếp lại (bằng 48% so với kế hoạch) trong đó có 164 DNNN được CPH, năm 2003 có 766 doanh nghiệp được sắp xếp lại trong đó có 425 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp được CPH, đến năm 2004 số lượng doanh nghiệp được CPH đạt mức kỷ lục 700 doanh nghiệp [4]. Với kết quả như vậy, đã tạo ra nguồn hàng phong phú cho TTCK, hoạt động của TTCK trở nên sôi động hơn. Tiếp tục thực hiện Nghị định 64/2002/NĐ-CP và Thông tư số 80/2002/TT-BTC ngày 12/9/2002 của Bộ Tài Chính, hướng dẫn những thủ tục và phương pháp cổ phần ra bên ngoài của các DNNN thực hiện CPH theo hình thức đấu giá hoặc bảo lãnh phát hành. Việc đấu giá bộ phận cổ phiếu bán cho các cổ đông bên ngoài đã được thực hiện ở nhiều doanh nghiệp. Trong đó đáng chú ý là việc đấu giá cổ phiếu của các doanh nghiệp thực hiện CPH trên TTCK (tại các công ty chứng khoán) đã bắt đầu được áp dụng: ngày 9/10/2003 Công ty Cổ phần Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HSC) đã tổ chức đấu giá cổ phiếu của Công ty Vinabico-Kotobuki. Kế tiếp, ngày 18/10/2003 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã tổ chức đáu giá cổ phiếu của Tổng công ty sữa Việt Nam (Vinamilk): có 164 tổ chức và cá nhân đăng ký mua cổ phiếu của Vinamilk. Trong đó, 17 tổ chức và 15 cá nhân ngoài doanh nghiệp mua được 720.000 cổ phần với giá từ 135.000 đồng đến 181.000 đồng/cổ phần - trong khi đó giá khởi điểm chỉ có 102.000 đồng/cổ phần. Chênh lệch của tổng giá trị cổ phiếu bán ra so với mệnh giá đạt hơn 40 tỷ đồng [11]. Có thể nói Nghị định 64/2002/NĐ-CP đã có nhiều điểm mới, tiến bộ song những quy định này mới chỉ chú trọng tới việc thúc đẩy tạo điều kiện cho hoạt động CPH CTNN, còn việc gắn kết CPH với TTCK chưa được quan tâm thích đáng, một số quy định còn bộc lộ nhiều hạn chế. Quy định về đối tượng CPH còn hẹp cả về phạm vi và chất lượng, chỉ bao gồm các CTNN hoạt động trong ngành nghề thông thường và CPH “không phụ thuộc vào thực trạng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp” dẫn đến trong số các CTNN được CPH các công ty lớn chưa nhiều. Năm 2002 số doanh nghiệp có quy mô nhỏ được CPH chiếm 60%, đến năm 2004 vẫn còn chiếm tới 40% tổng số doanh nghiệp được CPH, việc CPH các tổng công ty mới chỉ dừng lại ở việc thí điểm, tiến độ triển khai còn rất chậm. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc tạo hàng cho TTCK, đặc biệt thiếu những hàng hoá có chất lượng cao định hướng cho thị trường. Theo Vụ trưởng - Trưởng đại diện Uỷ ban Nhà nước tại Thành phố Hồ Chí Minh, ông Vũ Nguyên Hoài đánh giá hoạt động của TTCK năm 2004: “Tốc độ tăng chậm và phát triển gặp nhiều khó khăn”. Đồng thời ông cũng lý giải nguyên nhân là do “TTCK Việt Nam hiện nay quá nhỏ bé, mà giá và chỉ số chứng khoán luôn biến động. Các CTNN chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên chưa có sức hút mạnh mẽ đối với nhà đầu tư, hàng hoá cho thị trường thưa thớt, chất lượng kém” [11]. Về điều kiện mua cổ phần: Nghị định 64/2002/NĐ-CP chỉ chú trọng tới các nhà đầu tư liên quan tới việc sản xuất và cung cấp nguyên liệu cho các doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và các nhà đầu tư nước ngoài mà chưa chú ý đến các nhà đầu tư chiến lược. Vì vậy, khi thực hiện CPH theo Nghị định 64/2002/NĐ-CP đã có không ít các trường hợp doanh nghiệp không thu hút được nhà đầu tư, không bán được cổ phần. Về vấn đề xử lý tài chính - xác định giá trị doanh nghiệp khi CPH, đây là quy định thể hiện nhiều vấn đề bất cập nhất của Nghị định 64/2002/NĐ-CP, chưa tạo được mối quan hệ với TTCK. Tính công khai minh bạch, điều kiện quan trọng tham gia niêm yết trên TTCK chưa được đảm bảo. Nghị định 64/2002/NĐ-CP quy định việc xác định giá trị doanh nghiệp thông qua Hội đồng định giá, không tránh khỏi bị ảnh hưởng tính chủ quan của cơ quan quản lý, chưa kể Hội đồng định giá thiếu tính chuyên nghiệp làm ảnh hưởng đến thời gian và kết quả định giá. Về vấn đề bán cổ phần lần đầu: các quy định tại Nghị định 64/2002/NĐ-CP còn tạo nhiều kẽ hở để các doanh nghiệp thực hiện CPH nội bộ, khép kín, ảnh hưởng tới việc niêm yết trên TTCK do không đủ tiêu chuẩn về tỷ lệ cổ phần bán ra ngoài. Nghị định 64/2002/NĐ-CP quy định “dành tối thiểu 30% số cổ phần còn lại (nếu có) để bán cho các đối tượng ngoài doanh nghiệp”, dẫn đến tình trạng doanh nghiệp có xu hướng chỉ dành một tỷ lệ cổ phiếu tối thiểu để bán ra ngoài. Trên thực tế, việc CPH khép kín trong nội bộ doanh nghiệp vẫn đang diễn ra phổ biến ở các doanh nghiệp CPH, khoảng 38% vốn vẫn do Nhà nước nắm giữ, tỷ lệ bán ra ngoài nhiều nhất cũng không quá 30%, điều này đã hạn chế việc thu hút nhà đầu tư có tiềm năng về vốn và công nghệ thông tin [12]. Có thể nói từ khi TTCK đi vào hoạt động, pháp luật CPH CTNN cũng như quá trình CPH CTNN đã có những tác động nhất định, nhưng nhìn chung những quy định trong PL vẫn thiếu những nhân tố để CPH gắn với TTCK. 2. Giai đoạn từ khi ban hành Nghị định 187/2004/NĐ-CP đến nay Thực hiện Nghị quyết Hội nghị trung ương lần thứ 9 khóa IX: “đẩy nhanh tiến độ CPH và mở rộng diện các DNNN cần CPH kể cả một số tổng công ty và doanh nghiệp kinh doanh trong các ngành như: điện lực, luyện kim, ngân hàng, bảo hiểm…”, Nghị quyết Hội nghị trung ương Đảng lần thứ X đẩy mạnh diện các CPH DNNN kể cả các tổng công ty, Chính phủ và cơ quan có liên quan đã ban hành rất nhiều văn bản pháp lý để điều chỉnh vấn đề CPH CTNN: Như Quyết định 84/2004/QĐ-TTg về thí điểm CPH một số CTNN. Quyết định 103/2003/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược phát triển TTCK đến năm 2010 (trong đó nhấn mạnh giải pháp gắn tiến trình CPH CTNN với phát triển TTCK), Quyết định 155/2004/QĐ-TTg về ban hành tiêu chí danh mục phân loại CTNN và công ty thành viên hoạch toán độc lập của CTNN. Đặc biệt ngày 16/11/2004 Chính Phủ ban hành Nghị định 187/2004/NĐ-CP về chuyển CTNN thành CTCP. Có thể nói Nghị định 187/2004/NĐ-CP với những điểm mới, cơ bản về nhiều mặt đã tạo nên một bước ngoặt lớn trong cách thức CPH, Nghị định 187/2004/NĐ-CP được giới quản lý coi như một cuộc cách mạng quan trọng, “cú huých” tạo ra một bước đột phá cho CPH bởi đã tăng cường tính công khai minh bạch, gắn CPH với TTCK. Thứ nhất: Với những quy định về về việc mở rộng đối tượng CPH, mở rộng khái niệm nhà đầu tư chiến lược, tăng thêm nhiều ưu đãi cho nhà đầu tư đã tạo ra nguồn hàng phong phú, ổn định cho TTCK. Việc đưa vào CPH cả doanh nghiệp trong những ngành lĩnh vực quan trọng như: ngân hàng, bảo hiểm, điện,… là những khối doanh nghiệp có quy mô lớn, có vai trò tầm ảnh hưởng nhất định đối với sự phát triển ổn định của nền kinh tế, khi các đối tượng này tham gia TTCK sẽ góp phần nâng cao cả về quy mô cũng như tính ổn định của TTCK. Thực hiện vấn đề này, trong năm 2005 Thủ tướng Chính phủ đã có quy định về việc chỉ đạo thí điểm CPH ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, tiếp đó Vietcombank - ngân hàng lớn nhất, có tầm hoạt động kinh doanh rộng nhất từ trước đến nay được CPH toàn bộ doanh nghiệp, hay trong lĩnh vực bảo hiểm, Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) cũng sẽ được tiến hành CPH. Thứ hai: Những quy định mới trong Nghị định 187/2004/NĐ-CP về phương thức bán đấu giá cổ phần lần đầu, quy định địa điểm bán cổ phần với lượng cổ phần bán ra trên 10 tỷ thực hiện tại TTCK,… đã tạo nguồn hàng phong phú cho TTCK sơ cấp và tại thị trường tập trung, nhất là khi TTGDCK Hà Nội vừa khai trương theo Quyết định 245/2005/QĐ-UBND. Việc CPH CTNN sẽ gắn kết chặt chẽ hơn với TTCK, bảo đảm tốt hơn quyền lợi của các nhà đầu tư, hạn chế được những tổn thất cho Nhà nước, giúp Nhà nước thu hồi tối đa phần vốn đã đầu tư vào các doanh nghiệp, thực tế nhiều trường hợp vượt dự kiến. Ví dụ như trong phiên đấu giá ngày 17/2/2005 tại TTCK Thành phố Hồ Chí Minh cổ phần của Vinamilk được đánh giá cao nhất là 2.220.000 đ, một mức giá khiến cho những người lạc quan nhất cũng phải bất ngờ, gấp 10 lần so với giá khởi điểm, thu dược 572 tỷ đồng, giúp Nhà nước thu 381 tỷ thay vì dự kiến ban đầu 187 tỷ đồng. Trong số 1.827.000 cổ phần được bán đấu giá công khai đã thuộc về 19 nhà đầu tư trong đó có 7 nhà đầu tư chiến lược [11]. Hay tại TTGD Hà Nội ngay sau khi khai trương ngày 8/3/2005 đã thành công với phiên đấu giá cổ phần Nhà máy thiết bị bưu điện với 151.800 cồ phần, tổng số tiêu thụ được gần 25 tỷ đồng, hơn 10 tỷ so với tiền dự kiến ban đầu với nhiều nhà đầu tư Việt Nam mua được cổ phần [13]. Tháng 7/2006 trên TTCK tập trung lượng hàng hóa tăng ngoạn mục với giá trị gần 4000 tỷ đồng. Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng này xuất phát từ việc tham gia của một vài công ty có vốn lớn, như trong số gần 10 cổ phiếu lên sàn chỉ riêng giá trị của Sacombank đã lên đến 1.899 tỷ đồng chiếm gần 50% tổng giá trị cổ phần niêm yết [14], điều này càng nhấn mạnh thêm vai trò của các công ty lớn khi tham gia TTCK. Thứ ba: Những sửa đổi bổ sung Nghị định 187/2004/NĐ-CP trong vấn đề xử lý tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp, với 2 phương pháp chính là phương pháp tài sản và phương pháp dòng tiền chiết khấu, xóa bỏ việc xác định giá trị doanh nghiệp theo Hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp, thay vào đó việc xác định giá trị doanh nghiệp phải do các tổ chức tài chính chuyên nghiệp thực hiện, đã làm cho quá trình này trở nên minh bạch hơn, nâng cao tính chuyên nghiệp, đẩy nhanh tiến độ CPH, tạo điều kiện bước đầu để CTNN CPH thực hiện việc bán cổ phần, niêm yết cổ phiếu trên TTCK. Năm 2005 là năm đầu tiên có 64 doanh nghiệp đấu giá cổ phần thành công qua các TTGDCK, với tổng vốn điều lệ là 12.057.451 tỷ đồng, trong đó có 56/64 doanh nghiệp cổ phiếu đạt mức giá đấu bình quân cao hơn giá khởi điểm, 9 doanh nghiệp thực hiện việc đăng ký phát hành chứng khoán lần đầu tiên ra công chúng trên cơ sở công khai thông tin theo quy định pháp luật về chứng khoán [5]. Cuối cùng, các quy định mới bổ sung Nghị định 187/2004/NĐ-CP so với Nghị định 64/2002/NĐ-CP về đối tượng mua cổ phần, chính sách đối với người lao động, doanh nghiệp, cổ phần, cổ phiếu, vấn đề công bố thông tin, …đều có những điểm tích cực tác động gắn quá trình CPH với TTCK. Nói tóm lại, Nghị định 187/2004/NĐ-CP từ khi ban hành có hiệu lực với những điểm mới nhằm gắn CPH với TTCK đã có tác động mạnh đến TTCK. Năm 2005 tuy là năm đầu tiên triển khai thực hiện theo Nghị định 187/2004/NĐ-CP song số lượng CTNN tiến hành CPH được khá lớn (tính đến hết tháng 12/2005), số CTNN sắp xếp được gần 800 doanh nghiệp, trong đó có 630 doanh nghiệp CPH [4]. Tuy số lượng DNNN đã CPH trong năm 2005 không phải là cao nhất từ trước đến nay song điều đáng chú ý là có sự giảm mạnh các CTNN nhỏ, thua lỗ. Đã có CTNN có quy mô vừa và lớn, hoạt động trong những ngành lĩnh vực quan trọng, then chốt được CPH như: Công ty Dung Khoan và Dịch vụ dầu khí, nhà máy nhiệt điện Phả Lại, thủy điện Vĩnh Sơn - Sông Hinh, thủy điện Thác Bà,… Theo ông Hồ Xuân Hùng, Phó Trưởng ban chỉ đạo đổi mới và phát triển DNNN nhận định “Năm 2005 có những chuyển biến lớn trong công tác tạo hàng cho TTCK” và nguyên nhân chủ yếu là “tác động to lớn Nghị định 187/2004/NĐ-CP thay đổi phương thức CPH, chấm dứt tình trạng CPH khép kín…” [5]. Ngoài Nghị định 187/2004/NĐ-CP, năm 2005 còn đánh dấu nhiều thay đổi tích cực của pháp luật về CPH. Ngày 14/06/2005, Chính phủ ban hành Quyết định 528/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt danh sách các công ty CPH thực hiện bán đấu giá cổ phần, niêm yết, đăng ký giao dịch tại TTGDCK. Nhà nước thông qua cổ phần chi phối tại các doanh nghiệp sẽ quyết định tiến hành niêm yết hoặc không niêm yết. Đây là điều mà thị trường trông đợi từ lâu. Tiếp đó cuối năm 2005, Thủ tướng Chính phủ công bố Quyết định số 238/2005/QĐ-TTg về việc tăng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại các Công ty niêm yết cổ phiếu trên thị trường từ 30% lên 49%. Có thể nói đây là một trong những chính sách tích cực của Chính phủ trên con đường hội nhập, đồng thời giúp gia tăng sự đóng góp của nhà đầu tư nước ngoài cho nền kinh tế đất nước. Quy định này đã làm tăng tính thanh khoản cho các cổ phiếu và tạo điều kiện cho các đợt phát hành mới, kích cầu cho TTCK, hình thành xu hướng tăng trưởng mới. Ts Trần Thu Hà, Chủ tịch uỷ ban chứng khoán Nhà nước cũng nhận định: “TTCK đã có một bước phát triển khá vững chắc trong năm 2005, tạo ra cơ hội cho năm 2006 và những năm tiếp theo” [5]. Tiếp tục đà phát triển đó năm 2006, TTCK có những bước tăng trưởng liên tục. Theo Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, đến 31/12/2006 đã có 193 công ty niêm yết, đăng lý giao dịch tại các TTGDCK, tổng giá trị vốn hoá thị trường cổ phiếu đạt 221.156 tỷ đồng, chiếm 22,7% GDP 2006, tăng gần 20 lần so với cuối năm 2005 [15]. Sự phát triển nhanh quy mô thị trường cổ phiếu là do tăng nhanh tổng khối lượng cổ phiếu lưu hành (khoảng 8 lần), tăng số lượng, quy mô công ty niêm yết (từ 41 công ty cuối năm 2005 lên 193 công ty), và đặc biệt là do sự gia tăng giá cổ phiếu, nhất là với các doanh nghiệp trong ngành ngân hàng, điện lực, hàng hải, công nghệ thông tin mới tham gia thị trường. Đẩy nhanh hơn nữa quá trình CPH, trong Quyết định 1729/QĐ-TTg ngày 29/12/2006 phê duyệt danh sách các tập đoàn, tổng công ty nhà nước thực hiện CPH trong giai đoạn 2007-2010 đã đưa ra mục tiêu từ năm 2007 đến 2010 sẽ CPH 71 tập đoàn và tổng công ty trong đó năm 2007 sẽ CPH 20 tập đoàn, tổng công ty, năm 2008 có 26, năm 2009 có 19 và cuối cùng năm 2010 hoàn thành chỉ tiêu với việc CPH 6 tập đoàn và tổng công ty [4]. Nếu hoàn thành được kế hoạch này sẽ tạo ra một nguồn hàng rất lớn cho TTCK, vừa có tác dụng dẫn dắt thị trường. Theo dự báo của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, quy mô thị trường sẽ tăng nhanh trong 4 năm tới, với dự báo giá thị trường cổ phiếu có khả năng đạt từ 30% - 40% năm 2010 (khoảng 30-40 tỷ USD, gấp 2-3 lần quy mô hiện nay, trong đó năm 2007 sẽ đạt gần 30% GDP [15]. Như vậy, thực tế đã cho thấy pháp luật về CPH CTNN đã có những tác động rất lớn đến hoạt động của TTCK. Sau khi Nghị định 187/2004/NĐ-CP được thông qua, sự gắn kết của quá trình CPH với TTCK đã được đẩy mạnh, TTCK sôi động hơn rất nhiều đặc biệt là thị trường sơ cấp. Nhưng bên cạnh những thành tựu đó, không thể tránh khỏi những vấn đề còn tồn tại, nổi cộm và mang tính thời sự nhất hiện nay là: “CPH nhiều - niêm yết được bao nhiêu?” và quá trình CPH diễn ra còn chậm, không đạt kế hoạch, các CTNN CPH quy mô vốn chủ yếu vừa và nhỏ, số lượng cổ phần Nhà nước nắm giữ lớn, chưa tạo được tính ổn định cho TTCK. Tính đến năm cuối năm 2006 cả nước đã CPH được hơn 3000 DNNN nhưng trong đó có khoảng 30% doanh nghiệp Nhà nước giữ cổ phần chi phối. Trong các doanh nghiệp này hầu hết các quy chế trong nội bộ doanh nghiệp vẫn đang nặng theo kiểu DNNN, các sinh hoạt Đảng, đoàn thể, quần chúng không có gì thay đổi, hoạt động của công ty chưa có thay đổi nhiều về chất, đối với các công ty này chúng ta mới đạt mục tiêu là đa dạng hoá sở hữu doanh nghiệp, còn các mục tiêu khác mới đạt được phần nhỏ. Ngày 14/6/2005 Thủ Tướng Chính Phủ ban hành Quyết định 528/2005/QĐ-TTg về phê duyệt danh sách các công ty CPH thực hiện bán đấu giá cổ phần, niêm yết, đăng ký giao dịch tại TTGDCK Việt Nam trong đó chỉ rõ: 17 CTCP là doanh nghiệp độc lập thuộc Bộ, ngành, 112 CTCP thuộc các tổng công ty nhà nước và 49 công ty thuộc địa phương là đối tượng niêm yết, đăng ký giao dịch tại TTGDCK. Tuy nhiên cho đến giữa năm 2006, sau hơn 1 năm Quyết định 528/2005/QĐ-TTg được ban hành mới có một vài CTCP thực hiện việc niêm yết, đăng ký giao dịch. Số lượng CTNN CPH tính đến thời điểm giữa năm 2006 là khoảng 3.200 công ty nhưng số lượng các công ty niêm yết trên TTCK tính đến tháng 7/2006 là trên dưới 40 công ty trong đó có một số công ty không phải là CTNN, như vậy mới chỉ có 1% trong tổng số CTNN CPH thực hiện niêm yết trên TTCK. Vậy nguyên nhân tại sao lại có hiện tượng này? Bên cạnh nguyên nhân chủ quan từ phía doanh nghiệp không muốn niêm yết, không muốn đổi mới, không muốn công khai minh bạch hóa thông tin, một yếu tố quan trọng là chính sách pháp luật chưa thực dự khuyến khích doanh nghiệp CPH niêm yết. Nghị định 187/2004/NĐ-CP về chuyển CTNN thành CTCP mới nhằm chống CPH khép kín trong nội bộ doanh nghiệp CPH, công khai hoá việc bán cổ phần trong các DNNN CPH, còn cơ chế gắn CPH với niêm yết trên TTCK mới chỉ dừng ở khâu đưa CTNN đến bán cổ phần lần đầu ở TTCK, còn sau đó CTNN CPH có đưa cổ phần lên niêm yết hay không thì chưa có cơ chế ràng buộc. Bản thân cơ chế khuyến khích CTNN CPH lên niêm yết trên sàn GDCK hiện nay chưa thực sự đủ hấp dẫn các CTNN CPH. Tuy vẫn còn những hạn chế nhưng nhìn chung Nghị định 187/2004/NĐ-CP đã khẳng định được vai trò quan trọng của mình, thể hiện sự thay đổi lớn đánh dấu bước quan trọng trong đường lối chính sách của Đảng, Chính phủ. Hứa hẹn sự phát triển vượt bậc của TTCK và quá trình CPH CTNN trong thời gian tới. CHƯƠNG III MỘT SỐ KIẾN NGHỊ XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CỔ PHẦN HÓA CÔNG TY NHÀ NƯỚC GẮN VỚI PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN I. Căn cứ đề xuất đề nghị 1. Căn cứ vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước Cổ phần hóa và tư nhân hoá đã xuất hiện ở nhiều nước trên giới ngay từ những năm 70 của thế kỷ XX. Còn ở Việt Nam, trước thực trạng nhiều DNNN hoạt động ngày càng kém hiệu quả, việc cải cách thành phần kinh tế này cũng được đặt ra từ rất sớm. Ngay từ Hội nghị trung ương 3 khoá VI về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đảng đã nêu ra vấn đề: “nếu không đủ điều kiện để củng cố và không cần thiết duy trì hình thức quốc doanh thì chuyển sang hình thức khác”. Tiếp đó tại Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành trung ương khoá VII (11/1991), Đảng chủ trương: “chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành CTCP và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp”. Như vậy chủ trương về cải cách DNNN đã được thể hiện rõ ràng hơn, với giải pháp quan trọng và hiệu quả nhất là CPH CTNN, Đảng và Nhà nước khẳng định CPH ở Việt Nam không phải là tư nhân hoá, mà CPH các CTNN là biện pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn về vốn của DNNN, nâng cao hiệu quả kinh doanh, đáp ứng yêu cầu của cơ chế thị trường, tăng cường quản lý dân chủ. Sau một thời gian vừa thực hiện vừa rút kinh nghiệm tại Hội nghị trung ương III khoá IX về sắp xếp, đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động DNNN, Đảng ta xác định mục tiêu chỉ đạo trong thời gian tới là phải: “kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để DNNN có cơ cấu hợp lý tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt,… Đẩy mạnh CPH những DNNN mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn xem đó là khâu quan trọng tạo chuyển biến cơ bản” [16]. Bước sang năm 2004, khi kinh tế Việt Nam tiếp tục có nhiều chuyển biến mạnh mẽ đặc biệt TTCK Việt Nam đã ra đời và phát triển được 3 năm, đặt ra yêu cầu mới là gắn CPH với TTCK. Hội nghị trung ương 9 khóa IX quyết định “tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển nâng cao khu vực kinh tế Nhà nước, trọng tâm là CPH mạnh mẽ hơn nữa” [17]. Về chỉ đạo, Trung ương đã quyết định: “đẩy nhanh tiến độ CPH và mở rộng diện các CTNN cần CPH, kể cả một số công ty và doanh nghiệp lớn trong các ngành như: điện lực, luyện kim, cơ khí, hoá chất,… Giá trị tài sản CTNN thực hiện CPH, trong đó có giá trị quyền sử dụng, về nguyên tắc do thị trường quyết định. Việc mua bán cổ phiếu phải công khai trên thị trường, khắc phục CPH khép kín trong nội bộ công ty” [17]. Quan điểm của Đảng thể hiện trong Hội nghị trung ương 9 đã đánh dấu một sự thay đổi lớn, tạo tiền đề cho quá trình CPH phát triển, nâng cao hiệu quả do việc mở rộng đối tượng CPH cả về quy mô và lĩnh vực. Chủ trương đúng đắn này tiếp tục được phát triển trong Đại hội Đảng lần thứ X. Đảng khẳng định: “nhất quán đẩy nhanh, đẩy mạnh việc CPH các DNNN, nhất quán mở rộng diện DNNN CPH, đặc biệt không dừng lại ở một số Tổng công ty và doanh nghiệp lớn” trong một số ngành mà mở rộng ra toànbộ DNNN, bao gồm tất cả các Tổng công ty” [18]. Như vậy là, nếu như trước đây, CPH các Tổng công ty, các doanh nghiệp lớn trong các ngành đặc thù mới được coi là thí điểm thì nay đã thành chủ trương và là khâu đột phá trong cơ cấu lại, đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu qủa khu vực DNNN trong giai đoạn tới. Thể chế hóa những quan điểm của Đảng vào thực tế, Chính phủ và các cơ quan có liên quan đã ban hành rất nhiều văn bản pháp lý điều chỉnh vấn đề CPH CTNN như: Quyết định 84/2004/QĐ-TTg về thí điểm CPH một số tổng công ty nhà nước; Quyết định 103/2003/QĐ-TTg về phê duyệt chiến lược phát triển TTCK đến năm 2010 (trong đó nhấn mạnh giải pháp gắn tiến trình CPH CTNN với phát triển TTCK); Quyết định 155/2004/QĐ-TTg về ban hành tiêu chí danh mục phân loại công ty nhà nước và công ty thành viên hạch toán độc lập của tổng công ty nhà nước; Nghị định 187/2004/NĐ-CP về chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần; Quyết định 528/2005/QĐ-TTG về phê duyệt danh sách các công ty CPH thực hiện bán đấu giá cổ phần, niêm yết, đăng ký giao dịch tại các Công ty giao dịch chứng khoán. Tóm lại, từ khi quá trình CPH DNNN được thực hiện thí điểm đến nay, những quan điểm chỉ đạo, quy định của Nhà nước, Chính phủ ngày càng được xây dựng hoàn thiện hơn, tạo điều kiện cho quá trình CPH phát triển đúng hướng, phù hợp với KTTT. 2. Căn cứ vào thực trạng quá trình CPH CTNN và từ hoạt động của TTCK Chúng ta dã biết quá trình CPH các CTNN và hoạt động của TTCK có mối quan hệ mật thiết với nhau. Quá trình CPH sẽ tạo cơ sở cho sự hình thành và phát triển của TTCK và ngược lại, TTCK sẽ góp phần đẩy nhanh tốc độ cũng như nâng cao hiệu quả của quá trình CPH. Nếu tận dụng được mối quan hệ hai chiều này sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc phát triển của cả quá trình CPH và TTCK. Nhưng chúng ta đã thực sự làm được điều này hay chưa? Về quá trình CPH các CTNN, sau hơn 15 năm triển khai thực tế đã chứng minh hoạt động CPH đã trở thành một giải pháp quan trọng, chủ yếu để cơ cấu lại, đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Theo báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp tính đến hết năm 2006 chúng ta đã CPH được hơn 3000 DNNN. Riêng trong 2 năm 2005-2006 đã CPH được hơn 1000 doanh nghiệp. Mục tiêu đề ra cho năm 2007 sẽ tiếp tục tiến hành CPH 600 doanh nghiệp [4]. Theo thống kê có hơn 90% các CTNN sau khi chuyển đổi hình thức sở hữu làm ăn có lãi. Các CTNN được CPH không chỉ tăng về lượng mà về quy mô cũng có những thay đổi đáng chú ý đặc biệt từ năm 2004 đến nay, rất nhiều doanh nghiệp lớn, tổng công ty được CPH trong đó có cả các ngành như ngân hàng, bưu điện,… Tuy nhiên quá trình CPH cũng bộc lộ một số tồn tại, tiến độ CPH diễn ra còn chậm, việc thực hiện CPH luôn thấp hơn chỉ tiêu. Nhà nước vẫn còn nắm tỷ lệ vốn quá cao trong tổng vốn điều lệ của các công ty đã CPH. Các công ty có quy mô vốn điều lệ lớn không nhiều. Đặc biệt quá trình CPH vẫn chưa khắc phục được hoàn toàn tình trạng khép kín nội bộ, chưa thực sự gắn với TTCK, một số công ty sau CPH vẫn nằm trong tình trạng “bình mới, rượu cũ”. Về TTCK, sau gần 7 năm hoạt động đã đạt được những kết quả đáng kể, đạt tốc độ phát triển nhanh chóng, trở thành một kênh huy động vốn hiệu quả thu hút ngày càng nhiều các Công ty chứng khoán, nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia. Đặc biệt với cơ chế minh bạch, công khai, giá cổ phần được xác định theo thị trường, TTCK đã tạo ra nhiều giá trị gia tăng trong bán cổ phần Nhà nước tại các doanh nghiệp CPH. Tuy nhiên hoạt động của thị trường cũng bộc lộ nhiều tồn tại, quy mô còn nhỏ bé. Hoạt động của thị trường chưa thực sự sôi động, không ổn định do việc phát hành chứng khoán với chủng loại đơn điệu và tập trung chủ yếu vào các loại cổ phiếu của các doanh nghiệp CPH, trái phiếu Chính phủ. Đa phần các công ty niêm yết trên TTCK là các công ty nhỏ. Quy mô nhỏ bé của TTCK sơ cấp làm hạn chế sự phát triển của TTCK thứ cấp, có thời điểm xảy ra tình trạng đầu cơ” gây khan hiếm hàng hoá. Trên thị trường số lượng các công ty tham gia chưa nhiều, tiềm lực còn non yếu, trình độ nghiệp vụ còn chưa mang tính chuyên nghiệp. Chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ trên thị trường không cao, tính minh bạch và hiệu quả hoạt động còn hạn chế,… Những tồn tại nói trên của TTCK có nhiều nguyên nhân, nhưng quan trọng nhất chính là do những tồn tại từ quá trình CPH. Số lượng các công ty CPH tăng nhanh nhưng các công ty thực hiện niêm yết lại hạn chế, quy mô nhỏ khiến cho lượng hàng hoá cung cấp cho thị trường còn quá ít. Rõ ràng hoạt động của TTCK chưa tương xứng với vai trò và tầm quan trọng, chưa thực sự thúc đẩy được quá trình CPH CTNN. Không những thế sự vắng bóng, yếu kém của TTCK Việt Nam trong một số giai đoạn là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cản trở quá trình CPH. Trước thực trạng những hạn chế trong quá trình CPH và trong hoạt động của TTCK mà một phần nguyên nhân chính từ việc thiếu sự gắn kết giữa hai quá trình này, một yêu cầu cấp bách được đặt ra, không chỉ là đẩy nhanh quá trình CPH mà hơn thế phải gắn CPH với TTCK, phát triển TTCK cả về quy mô và chất lượng, tạo ra một kênh huy động vốn thực sự hiệu quả cho đầu tư phát triển. II. Một số kiến nghị giải pháp cụ thể Pháp luật về CPH các DNNN (nay là CTCP) trong thời gian gần đây mặc dù đã có những bước tiến dài, ngày càng bám sát thực tế, nâng cao hiệu quả thực hiện, nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều vấn đề bất cập, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình CPH CTNN và sự phát triển TTCK. Trước thực trạng đó việc đưa ra những giải pháp mới nhằm tháo gỡ, khắc phục khó khăn, hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành, đồng thời thực hiện hiệu quả các quy định đó trên thực tế là rất cần thiết. Chỉ có như vậy mới tạo được sự gắn bó phát triển đồng nhất của TTCK và quá trình CPH CTNN. Điều mà ở Việt Nam chúng ta đang thực hiện nhưng chưa thực sự thành công. Trước hết đối với quy định liên quan trực tiếp đến chủ thể sẽ tham gia tạo hàng cho TTCK, đó là đối tượng trong diện thực hiện CPH. Đây là quy định được đánh giá là có nhiều thay đổi tiến bộ nhất, Nghị định 187/2004/NĐ-CP đã mở rộng đối tượng cổ phần bao gồm cả các công ty lớn, tổng công ty, các ngành “nhạy cảm” như ngân hàng, tài chính. Tiếp đó Quyết định 528/2005/QĐ-TTg ngày 14/06/2005 đưa ra danh sách các CTCP thực hiện bán đấu giá cổ phần, niêm yết, đăng ký giao dịch tại TTGDCK. Những quy định này đã có ý nghĩa rất lớn đối với TTCK, trong việc tạo hàng cho thị trường sơ cấp (chào bán cổ phiếu lần đầu), thị trường tập trung niêm yết tên sàn giao dịch và trong cả việc định hướng cho sự phát triển của thị trường. Nhưng đáng chú ý ở đây là việc thực hiện trên thực tế. Trực trạng quá trình CPH trong thời gian qua cho thấy kết quả luôn thấp hơn chỉ tiêu đề ra, đặc biệt có trường hợp doanh nghiệp thực hiện CPH chỉ để hoàn thành nhiệm vụ được giao, khắc phục vấn đề bất cập này trong thời gian tới Nhà nước cần nghiên cứu ban hành các cơ chế chính sách mang tính ràng buộc với những tiêu chí cụ thể rõ ràng đối với các chủ thể thuộc diện CPH, đặc biệt các công ty đủ khả năng niêm yết trên TTCK, thay vì đưa ra một danh sách manh tính kế hoạch, định hướng như hiện hành. Kiến nghị nên tiếp tục lựa chọn niêm yết nhiều cổ phần có độ hấp dẫn cao như Viêtcombank, vừa có tác dụng dẫn dắt thị trường, vừa đáp ứng được yêu cầu nội tại của doanh nghiệp. Thứ hai: Tháo gỡ những vướng mắc trong vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp, cần tập trung vào một số giải pháp sau. Quy định cụ thể tiêu chuẩn của của một tổ chức được chọn để thực hiện việc định giá doanh nghiệp, vì việc lựa chọn tổ chức định giá phù hợp, có năng lực sẽ giúp xác định giá trị doanh nghiệp đạt chuẩn mực, nhưng thực tế hiện nay việc chọn và chỉ định tổ chức vẫn chủ yếu dựa vào định tính, chưa dựa trên những tiêu chuẩn cụ thể. Về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp, Nghị định 187/2004/NĐ-CP quy định hai phương pháp là: phương pháp tài sản và phương pháp dòng tiền chiết khấu khá cụ thể và rõ ràng, nhưng áp dụng phương pháp nào cho từng chủ thể vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Về hiệu quả của hai phương pháp này, có ý kiến cho rằng phương pháp tài sản là phù hợp nhưng có quan điểm lại cho rằng phương pháp này chưa thể hiện được giá trị thực tế tiềm năng, còn khi áp dụng phương pháp dòng tiền chiết khấu sẽ giải quyết được hầu hết những vướng mắc trong xác định lợi thế thương mại và tiềm năng của công ty. Để dung hoà hai quan điểm trên, đề xuất phương án áp dụng đồng thời cả hai phương pháp để thể hiện được một khoảng dao động về giá sàn - giá trần của công ty, giúp nhà đầu tư có cách nhìn khách quan hơn về công ty trước khi quyết định đầu tư. Đối với việc xác định hình thức thuê đất hay giao đất: nên phân chia các loại đất theo vị trí và địa thế: đối với các doanh nghiệp có vị trí đất thuận lợi như đô thị, những trung tâm công nghiệp nên tiến hành giao đất, còn đối với các doanh nghiệp có địa thế đất kém thuận lợi hơn mới để cho doanh nghiệp tự lựa chọn. Hơn nữa cần bổ sung quy định hướng dẫn xác định giá trị thương hiệu của doanh nghiệp và giá trị tài sản vô hình ở một số ngành nghề đặc thù. Mặc dù Nghị định 64/2002/NĐ-CP, Nghị định 187/2004/NĐ-CP đã đề cập đến giá trị thương hiệu của doanh nghiệp nhưng các nội dung đó chưa thực sự rõ ràng và đặc biệt chưa xác định được giá trị yếu tố con người trong doanh nghiệp. Giá trị con người có ý nghĩa rất quan trọng ảnh hưởng đến giá trị thực tế của doanh nghiệp khi CPH. Ví dụ như đối với những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, tư vấn thì chất xám, năng lực, kinh nghiệm làm việc của đội ngũ nhân viên là tài sản chủ yếu của doanh nghiệp đó. Trên thực tế đây là một vấn đề rất phức tạp và việc đưa vấn đề vào luật sẽ không dễ dàng, bởi giá trị con người không những là giá trị vô hình rất khó xác định mà còn mang tính không ổn định. Ngoài ra pháp luật cũng cần có chính sách hợp lý hơn khi xác định giá trị công nợ của doanh nghiệp, một vấn đề vướng mắc nhất trong xác định giá trị doanh nghiệp. Do nhiều khoản công nợ phải thu đã trở thành công nợ khó đòi, không thể chuyển thành tài sản của doanh nghiệp, cũng chưa đủ điều kiện loại khỏi doanh nghiệp. Kiến nghị có thể áp dụnh giải pháp tạm thời là Nhà nước khoanh nợ giao cho CTCP quản lý hộ Nhà nước trong một thời gian nhất định. Thứ ba: đối với các vướng mắc trong vấn đề bán cổ phần lần đầu: Về cơ cấu bán cổ phần lần đầu, để đảm bảo cho doanh nghiệp đáp ứng đủ các điều kiện tham gia niêm yết ngay sau khi CPH nên quy định rõ ràng dành một tỷ lệ nhất định cổ phần cho nhà đầu tư nhỏ lẻ, nhằm nâng cao tính đại chúng của doanh nghiệp CPH; về phương pháp tổ chức bán đấu giá cổ phần lần đầu, nên kết hợp vừa bán theo phương thức đấu thầu, vừa bán theo phương thức đấu giá. Việc bán theo phương thức đấu thầu là nhằm không phải để lựa chọn người mua có giá tốt nhất mà chủ yếu để có thể lựa chọn được các đối tác có thị trường, có đầu ra, kinh nghiệm quản lý, công nghệ, tức là các nhà đầu tư chiến lược với các doanh nghiệp. Sau khi đã thu hút được một số nhà đầu tư chiến lược mua cổ phần thông qua hình thức đấu thầu, doanh nghiệp có thể tiếp tục sử dụng phương thức bán đấu giá trực tiếp để thu hút thêm cá nhân, đẩy nhanh tốc độ bán cổ phần, việc áp dụng song song hai phương thức này rất thích hợp với những doanh nghiệp có quy mô lớn: ngoài ra cũng cần quy định cụ thể biện pháp xử lý đối với các trường hợp nhà đầu tư trúng thầu nhưng không thanh toán phần tiền còn lại và chấp nhận bỏ cọc, đơn cử như trong phiên đấu giá cổ phần của Bảo hiểm Dầu khí (PVI) và cuối năm 2006 vừa qua, một số nhà đầu tư trúng thầu PVI đã không đến nộp tiền mua, chấp nhận bỏ cọc vì đã đặt giá quá cao [19]. Thứ tư: Mặc dù Nghị định 187/2004/NĐ-CP đã sửa đổi bổ sung quy định về trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc công bố thông tin về bán cổ phần, song những quy định này vẫn mang tính hình thức của việc công bố thông tin hơn là đi vào “nội dung”, đưa ra cơ sở để nhà đầu tư có thể cân nhắc việc tham gia góp vốn. Cần có quy định cụ thể chi tiết về những nội dung mà doanh nghiệp phải công bố. Tại Thông tư số 80/2003/TT-BTC có hướng dẫn: “thông tin chủ yếu về việc bán đấu giá cổ phần phải được niêm yết và thông báo công khai bao gồm: tên, địa chỉ của doanh nghiệp CPH, số lượng cổ phần bán đấu giá, các thông tin kinh tế tài chính chủ yếu của doanh nghiệp trước khi CPH và kế hoạch sản xuất kinh doanh 3 năm; thời gian địa điểm tổ chức bán đấu giá…”, những nội dung này chưa đủ cho nhà đầu tư, cái họ cần là những thông tin chi tiết về tình hình tài chính doanh nghiệp, tài sản doanh nghiệp trước khi CPH, phương án kinh doanh trong tương lai, những thông tin tác động trực tiếp giúp các nhà đầu tư đánh giá được thực trạng cũng như tiềm năng của doanh nghiệp, mặt khác cũng nhằm để nâng cao hơn nữa tính minh bạch của tiến trình CPH, gắn CPH với niêm yết trên TTCK. Pháp luật cần quy định những doanh nghiệp thực hiện CPH thông qua chào bán cổ phiếu ra công chúng phải thực hiện công khai thông tin tương tự như các loại hình doanh nghiệp khác. Sau khi CPH và trở thành công ty đại chúng, doanh nghiệp có nghĩa vụ thường xuyên công bố thông tin và thực hiện các nguyên tắc quản trị công ty theo quy định của Luật Chứng khoán. Đối với các doanh nghiệp có đủ tiêu chuẩn về vốn và lợi nhuận để niêm yết và đăng ký giao dịch trên TTCK, cơ quan có thẩm quyền cần quy định việc tham gia niêm yết, đăng ký giao dịch ngay trong quyết định CPH và xác định phương thức bán cổ phần thích hợp để đảm bảo tính đại chúng theo quy định về điều kiện niêm yết, đăng ký giao dịch. Thứ năm: cần đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn thời gian CPH. Pháp luật hiện hành quy định đối với những doanh nghiệp CPH có tổng giá trị tài sản theo sổ kế toán từ 30 tỷ đồng trở lên thì việc xác định giá trị doanh nghiệp CPH thực hiện thông qua tổ chức có chức năng định giá, nhưng thực tế hiện nay tâm lý doanh nghiệp không muốn mất tiền thuê tư vấn định giá (chiếm khoảng 20% chi phí CPH) và cũng có không ít các doanh nghiệp sẵn sàng thuê tư vấn để hợp lý hoá các khoản chi. Vấn đề này cần sớm được phòng ngừa ngay từ đầu bằng những quy định chặt chẽ hơn, có như vậy mới phát huy được tác dụng của tổ chức định giá. Đối với những doanh nghiệp có tổng giá trị tài sản theo sổ kế toán dưới 30 tỷ đồng thì không nhất thiết phải thuê tổ chức định giá. Quy định như vậy chưa thực sự rõ ràng, kiến nghị cần bổ sung thêm những trường hợp cụ thể để tạo tính linh hoạt cho doanh nghiệp trong xác định giá trị doanh nghiệp. Ví dụ như đối với những doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng nên để cho doanh nghiệp bán đấu giá theo giá trị kiểm kê trên sổ sách kế toán hoặc nên để cho doanh nghiệp tự xác định giá không cần phải có sự phê duyệt, bởi thực tế những doanh nghiệp nhỏ như vậy thì giá trị doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào giá trị quyền sử dụng đất, tài sản vật kiến trúc không có giá trị nhiều do vậy không nên dành quá nhiều thời gian cho việc định giá. Đối với những doanh nghiệp có giá trị tài sản trên 5 tỷ đồng, nên cho phép doanh nghiệp được thuê thư vấn thẩm định và ước lượng giá trị doanh nghiệp trên cơ sở sự tự định giá của doanh nghiệp ngay từ đầu để giảm chi phí định giá. Cuối cùng để đảm bảo thực hiện có hiệu quả những quy định của pháp luật CPH trên thực tế, cần nâng cao nhận thức về CPH, khẩn trương đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ trương đường nối của Đảng, Nhà nước, đặc biệt Nghị quyết trung ương Đảng IX, X, và có biện pháp hợp lý tập huấn, phổ biến sâu rộng Nghị định 187/2004/NĐ-CP. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, tăng cường tuyên truyền ý nghĩa chủ trương CPH, nhằm củng cố niềm tin cho người lao động, cũng như các nhà quản lý doanh nghiệp vào con đường CPH. Hướng dẫn quy trình nghiệp vụ CPH, đồng thời giới thiệu kinh nghiệm của các điển hình tiên tiến về công tác CPH. Có thể mạnh dạn thực hiện một số biện pháp hành chính như: đối với CTNN thuộc diện CPH mà lãnh đạo cố tình trì hoãn không thực hiện thì kiên quyết thay thế, cách chức giám đốc công ty hoặc cho giải thể công ty. Biện pháp này tương đối “mạnh tay” sọng lại khá hiệu quả. Đây là cách mà Nam Định, Thành phố Hồ Chí Minh một số địa phương đã làm, cần được nhân rộng ra tất cả các ngành, các địa phương nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về tốc độ CPH. Tổ chức rộng rãi các hình thức hội thảo khoa học để đẩy mạnh tuyên truyền chủ trương của Đảng và Nhà nước về CPH CTNN. Phổ biến thông tin qua kết quả hoạt động nổi trội của các CTCP để tuyên truyền cho đông đảo người lao động trong CTNN hiểu rõ được lợi ích chung, đặc biệt là lợi ích riêng của người lao động trong CTCP. CPH CTNN ở Việt Nam một vấn đề mới, phức tạp và nhạy cảm. Đây là việc không thể chần chừ, chậm chạp, càng để lâu gánh nặng càng lớn. Trên đây là một số giải pháp cơ bản khóa luận đưa ra trong phạm vi nghiên cứu của mình nhằm tháo gỡ những tồn tại trong pháp luật hiện hành cũng như những biện pháp nhằm thực thi hiệu quả nhữg quy định đó. Mong rằng trong thời gian tới những tồn tại này sẽ sớm được khắc phục triệt để, gắn với TTCK và phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế. KẾT LUẬN Sau hơn 15 năm thực hiện, đến nay tiến trình CPH đã đi được một chặng đường dài. Nhìn lại những kết quả thực tế đã làm được, chúng ta có thể khẳng định: CPH DNNN ở Việt Nam thực sự là một giải pháp đúng đắn, tối ưu nhất trong cải cách DNNN. Tuy vẫn tồn tại một số hạn chế nhưng CPH đã góp phần rất lớn vào việc thay đổi diện mạo của nền kinh tế đất nước, thông qua CPH năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được cải thiện, người lao động bước đầu phát huy được vai trò tự chủ của mình trong sản xuất, đặc biệt với những thay đổi căn bản từ chính sách pháp luật, hoạt động CPH CTNN trong thời gian qua cũng đã bước đầu có sự gắn kết với TTCK nói riêng và thị trường vốn nói chung, góp phần vào việc hoàn thiện các yếu tố thị trường ở Việt Nam. Ngày 7/11/2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) cùng với nhiều thuận lợi, tiến trình CPH CTNN ở nước ta cũng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới. Gia nhập WTO sẽ làm tăng uy tín và vị thế của kinh tế Việt Nam, dễ dàng tiếp cận với thị trường Thế giới, thúc đẩy cải cách thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả của các cơ quan, tổ chức kinh tế. Nhưng với với trình độ chuyên môn, trình độ quản lý còn hạn chế, quản trị doanh nghiệp chưa thực sự phù hợp với chuẩn mực quốc tế và yêu cầu hội nhập, hơn nữa hệ thống pháp luật chưa thực sự hoàn thiện, quá trình CPH CTNN và các CTNN CPH đang bước vào một giai đoạn mới, nhiều khó khăn nhưng nếu thích ứng kịp sẽ hứa hẹn một bước phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới. Với mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu những chủ trương của Đảng và Nhà nước về vấn đề CPH CTNN dưới góc độ pháp lý và đưa ra những ý kiến chủ quan nhằm đẩy nhanh tiến trình CPH, gắn CPH với TTCK, tác giả đã thực hiện đề tài pháp luật về CPH CTNN và tác động tới TTCK. Với khoá luận này, tác giả đã làm sáng tỏ những vấn đề sa u. Làm rõ những vấn đề liên quan đến tiến trình CPH CTNN, mối quan hệ giữa CPH CTNN với TTCK Đánh giá toàn diện về pháp luật CPH, những điểm tích cực, tiến bộ, đồng thời cả hạn chế, tồn tại cần khắc phục của tiến trình này. Phân tích những tác động của pháp luật về CPH CTNN tới sự phát triển của TTCK Cuối cùng khoá luận đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện những quy định của pháp luật về CPH CTNN gắn với sự phát triển của TTCK. Đề tài là một nội dung phức tạp và nhạy cảm, có liên quan đến nhiều vấn đề, chế định của pháp luật. Những nghiên cứu trong khoá luận mới chỉ bước đầu, với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào việc làm sáng tỏ, hoàn thiện các quy định của pháp luật về CPH, tác giả mong được sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn./. DANH MỤC TÀI LIỆU TRÍCH DẪN TRONG KHÓA LUẬN [1]. “Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước những vấn đề lý luận và thực tiễn”, PGS-Ts Lê Hồng Hạnh, Nxb chính trị quốc gia 2004. [2]. Tạp chí chứng khoán số 6 tháng 6 năm 2006. [3]. Thuật ngữ thông dụng về chứng khoán và thị trường chứng khoán, NXB chính trị quốc gia, Bùi Nguyên Hoàn, GS Raymond L.Chian. [4]. Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp. [5]. Tạp chí Chứng khoán số 1+2 tháng 1+2 năm 2006 [6]. Tạp chí Chứng khoán số 11 tháng 11 năm 2006. [7]. Tạp chí Chứng khoán số 12 tháng 12 năm 2005 [8]. (28/12/2004), thời gian tối thiểu để CPH là 10 tháng. [9]. Tạp chí Chứng khoán số 7 năm 2005 [10]. “Thị trường chứng khoán trong nền kinh tế chuyển đổi”, TS.Nguyễn Minh Đức, Nxb [11]. [12]. (6/12/2005), ăn gian khi CPH [13]. [14]. Tạp chí Chứng khoán số 7 tháng 7 năm 2006 [15]. Báo Công lý số 5 (392) ngày 15/01/2007, phát triển nhưng thiếu ổn định. [16]. Văn kiện Nghị quyết hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Khóa IX, CTQG, H2004. [17]. Văn kiện Nghị quyết hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương Khóa IX, CTQG, H2004. [18]. Văn kiện hội nghị Ban chấp hành Trung ương khoá X. [19]. Bản tin chứng khoán, cảnh báo hiện tượng bỏ cọc trong các phiên đấu giá. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLDOCS (104).DOC