Chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, trong nông thôn lấy hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ thì việc đầu tư tín dụng đến hộ nông dân là một tất yếu khách quan. Hay nói đúng hơn là hộ nông dân muốn phát triển sản xuất, muốn giảm bớt đói nghèo thì phải có vốn, trong đó tín dụng ngân hàng là một kênh vốn chiếm vai trò rất quan trọng .
Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu: là trọng tâm là khâu đột phá cho sự phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta.
Từ ý nghĩa tầm quan trọng, vai trò của sự phát triển nông nghiệp ở nước ta, cho thấy giải pháp về tín dụng cho hộ sản xuất là một giải pháp cơ bản và quan trọng hàng đầu. Nó phù hợp ý mong muốn của lòng dân. Tuy nhiên chủ trương tín dụng đối với hộ nông dân là một chủ trương mới có tầm về quốc gia. Nhất định không tránh khỏi những sai xót trong quá trình thực thi trên phạm vi rộng lớn.
Bằng kinh nghiệm thực tế và tính năng động của mình, việc đầu tư cho hộ nông dân của Ngân hàng Nông nghiệp huyện Nguyên Bình trong thời gian qua đã đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng mở ra hướng mới, trong việc giải quyết cho vay vốn sản xuất nông nghiệp trên địa bàn hiện nay, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương.
Tuy vậy việc đầu tư cho hộ nông dân ở Nguyên Bình không phải là vấn đề đơn giản, vì nó phải tiến hành trong điều kiện nền kinh tế chủ yếu là tự cung, tự cấp, hạ tầng cơ sở miền núi rất yếu kém, năng suất lao động thấp, cơ cấu kinh tế chưa hợp lý. thêm vào đó là tình hình quan hệ sản xuất ở nông thôn chưa theo kịp với chuyển hướng sản xuát theo các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước.
Đời sống đại bộ phận nông dân là đang nghèo khó thiếu vốn trầm trọng, các yếu tố sản xuất ở nông thôn liên kết được với nhau. Việc đầu tư trực tiếp tới hộ nông dân của Ngân hàng Nguyên Bình là một hướng đi đúng cả về trước mắt cũng như về lâu dài và nó phù hợp với thực tế sản xuất của các dân tộc trên địa bàn hiện nay.
Sau thời gian học tập tại Học viện Ngân hàng và thực tế ở đơn vị tôi đã chọn đề tài "Cho vay kinh tế hộ sản xuất ở Ngân hàng Nông nghiệp huyện Nguyên Bình'' làm luận văn tốt nghiệp. Đề tài này khái quát những vấn đề lý luận về kinh tế hộ, cơ sở hình thành và vai trò của kinh tế hộ trong sản xuất nông nghiệp. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế trang trại. Đề tài đã phân tích về cho vay kinh tế hộ ở Ngân hàng Nguyên Bình, quan hệ giữa Ngân hàng Nông nghiệp với thành phần kinh tế hộ sản xuất trong thời gian qua và đã chỉ ra những mặt mạnh và một số tồn tại của tín dụng Ngân hàng đối với cho vay kinh tế hộ. Trên cơ sở phân tích về thực trạng quan hệ tín dụng đối với hộ để từ đó đưa ra những giải pháp kiến nghị cụ thể đối với các cấp các ngành có liên quan.
72 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1650 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số vấn đề về cho vay hộ sản xuất ở Ngân hàng Nông nghiệp huyện Nguyên Bình tỉnh Cao Bằng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện đối chiếu công khai tiền vay với khách hàng. Lập hồ sơ sử lý rủi ro theo công văn 238 của NHNo Việt Nam
Ngay sau kiểm tra đều thực hiện lập biên bản các sai phạm, công bố công khai tại buổi giao ban định kỳ trong tháng, có biện pháp chấn chỉnh ngay nên những sai phạm đều được khắc phục ngay.
Sau kiểm tra đã làm thủ tục giãn nợ cho 15 khách hàng vay vốn với số tiền 40.000 triệu đồng do xác định chu kỳ sản xuất chưa đúng.
5. Tình hình đảm bảo tín dụng :
Ngân hàng huyện luôn thực hiện phương châm: Muốn đảm bảo kinh doanh an toàn, đạt hiệu quả cao trước hết phải tuân thủ đúng nguyên tắc tín dụng, thực hiện đúng chế độ, quy trình nghiệp vụ, thể lệ của ngành Ngân hàng, pháp luật Nhà nước.
Do quán triệt tốt việc chấp hành quy trình nghiệp vụ, kỷ luật lao động nên tình hình đảm bảo tín dụng của đơn vị thực hiện tốt. Thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh là một hoạt động không lúc nào lơi lỏng tại đơn vị. Các cán bộ tín dụng cho vay đều thực hiện đầy đủ các thủ tục giấy tờ quy định có thế chấp.
Đối với các khoản cho vay qua tổ tín chấp như tổ phụ nữ đều đảm bảo các nguyên tắc trong quy định 180, và 80 của NHPVNN.
- Tổ vay vốn là cá nhân tự nguyện thành lập có cùng mục đích kinh doanh, cùng cư trú tại thôn xóm.
- Đảm bảo trình tự thành lập tổ: Thông qua danh sách tổ viên, ra quy ước hoạt động, có xác nhận cho phép hoạt động.
- Cùng cán bộ tín dụng thẩm định, lập danh sách đề nghị cho vay vốn.
- Cùng giám sát đôn đốc tổ viên sử dụng vốn đúng mục đích, trả nợ, trả lãi theo đúng thoả thuận.
* Tóm lại: Do làm tốt công tác đảm bảo tín dụng, thường xuyên đôn đốc kiểm tra sử dụng tiền vay đúng mục đích, cho vay qua tổ phụ nữ, tổ hội viên , hội nông dân đúng quy định 180 của NH nông nghiệp Việt Nam nên Ngân hàng huyện Nguyên Bình đảm bảo chất lượng tín dụng, hạn chế nợ quá hạn phát sinh, đến 30-9-2000 tỷ lệ nợ qúa hạn ở mức 3,2%.
6. Chất lượng tín dụng :
Qua khảo sát cho thấy tại Ngân hàng Nguyên Bình có chất lượng tín dụng tốt do thực hiện đúng, đủ quy trình nghiệp vụ cho vay hộ sản xuất, làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục người vay, có ý thức trả nợ Ngân hàng sòng phẳng, trả đúng hạn cả gốc và lãi. Bên cạnh đó Ngân hàng huyện còn thực hiện cung cấp thông tin về hoạt động tín dụng của đơn vị trên địa bàn với cấp uỷ, chính quyền địa phương. Qua đó phản ánh tình hình khó khăn, những vướng mắc cần tháo gỡ để cấp uỷ chính quyền giúp đỡ trong công tác cho vay, thu nợ, thu nợ khó đòi, xử lý rủi ro...
Chất lượng tín dụng hộ sản xuất của đơn vị ngày càng được nâng cao, còn được thể hiện qua xử lý nghiệp vụ như :
+ Thực hiện giãn nợ, cho vay lưu vụ đối với những hộ sản xuất có hợp đồng tín dụng xác định chu kỳ sản xuất không sát với thực tế.
+ Tiến hành xử lý rủi ro theo hướng dẫn tại công văn 238/NHNoVN đối với những hộ sản xuất gặp rủi ro bất khả kháng như thiên tai, dịch bệnh ...
Thực tế khảo sát tại địa phương huyện trong những năm qua thường hay xảy ra dịch nhiệt thán, long móng lở mồm, mưa đá làm thiệt hại cho sản xuất kinh doanh của hộ nên ảnh hưởng đến vốn Ngân hàng lớn.
Thường xuyên thực hiện trích quỹ dự phòng rủi ro tín dụng đúng, đủ theo hướng dẫn của Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam.
7. Cơ cấu dư nợ.
* Dư nợ phân theo thời gian cho vay.
Về cơ cấu dư nợ, Ngân hàng huyện chú trọng thực hiện phát triển cơ cấu cho vay trung dài hạn để phù hợp với điều kiện tự nhiên về kinh tế - xã hội và vị trí địa lý. Là một huyện miền núi vùng sâu, vùng xa, thế mạnh kinh tế chính là sản xuất nông lâm nghiệp, về chăn nuôi thích hợp với chăn nuôi bò đàn, trâu cày kéo, vốn được đầu tư thời hạn cho vay thích hợp là khai thác được tiềm năng kinh tế sẵn có của địa phương.
+ Về cơ cấu cho vay chung :
Từ chỗ dư nợ cho vay trung dài hạn chiếm 30% tổng dư nợ năm 1995. Đến năm 1998 tỷ trọng dư nợ cho vay trung dài hạn Ngân hàng huyện đã tăng lên 43,35%. Năm 1999 tỷ trọng cho vay trung dài hạn đạt 50% tổng dư nợ. Đến 30-9-2000 tỷ trọng dư nợ cho vay trung dài hạn đã đạt 54% tổng dư nợ. Theo định hướng của toàn ngành tỷ trọng dư nợ cho vay trung dài hạn là 40%, điều đó đã khẳng định hướng đi đúng của Ngân hàng huyện Nguyên Bình phù hợp với đặc điểm vật nuôi, cây trồng của miền núi phía Bắc.
+ Cơ cấu dư nợ cho vay hộ sản xuất (tính cả hộ nghèo)
Đơn vị : Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Dư nợ
Tỷ trọng cho vay hộ SX
Dư nợ
Tỷ trọng cho vay hộ SX
Dư nợ
Tỷ trọng cho vay hộ SX
1. Cho vay ngắn hạn hộ sản xuất
4.306
29%
4.970
29,4%
5.865
34,73%
Cho vay trung dài hạn hộ sản xuất
10.294
71%
11.950
70,6%
16.885
65,27%
Cộng
14.600
100%
16.920
100%
22.750
100%
Nhận xét :
Cơ cấu đầu tư vốn cho vay hộ sản xuất tại đơn vị năm 1998 tỷ trọng cho vay trung dài hạn là 71%, năm 1999 là 70,6%, đến 30/9/2000 là 65,27%, giảm 5,33% so với năm 99 do chưa thực hiện hết kế hoạch giải ngân hộ nghèo. Đánh giá chung việc đầu tư cho vay hộ sản xuất của huyện ở mức 70% là phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện vùng sâu vùng xa, phục vụ cho phát triển chăn nuôi, phát triển kinh tế vườn đồi, trang trại miền núi ...
8. Kết quả cho vay hộ sản xuất.
8.1. Thực hiện chỉ tiêu cho vay hộ sản xuất (Xem biểu trang sau)
* Nhận xét:
Chỉ tiêu về cho vay hộ sản xuất (tính cả NHPVNN) số lượt hộ vay vốn trong năm 2000 là 7.300 lượt hộ so với năm 1999 tăng 1.850 lượt hộ, tỷ lệ tăng 33,94%. So với năm 1995 tăng 4.800 lượt hộ, tỷ lệ tăng 192%. Trong đó riêng hộ nông dân năm 2000 đạt 5.690 lượt hộ tăng 1.690 lượt hộ so với năm 1999, tỷ lệ tăng 42,25%. Bình quân 1 lượt hộ sản xuất vay 5 triệu đồng năm 2000. So với năm 1999 tăng 4,3 triệu đồng, tỷ lệ tăng 614,28%. So với năm 1999 tăng 1 triệu đồng tỷ lệ tăng 25%. Riêng hộ nông dân bình quân lượt hộ vay số tiền 3 triệu tăng năm 2000. So với năm 1995 tăng 2,6 triệu đồng, tỷ lệ tăng 650%. So với năm 1999 bình quân lượt hộ sản xuất vượt 0,2 triệu đồng tỷ lệ tăng 7,14%.
Số hộ còn dư nợ cuối kỳ năm 1995 là 2.030 hộ, năm 1999 là 4.090 đến 30-9-2000 tăng tới 5.120 hộ, tỷ lệ tăng số hộ còn dư nợ cuối kỳ là 25,18% so với năm 19999.
Số tiền bình quân 1 hộ sản xuất vay đến 30-9-2000 là 3,8 triệu đồng tăng so với năm 1995 là 3 triệu đồng, tỷ lệ tăng 375% so với năm 1999 tăng 0,3 triệu đồng, tỷ lệ tăng 8,57%.
Trong đó: Riêng hộ nông dân số tiền bình quân vay năm 2000 là 3,2 triệu đồng, so với năm 1999 tăng 2,6 triệu đồng, tỷ lệ tăng 433,34% so với năm 1999 tăng 0,5 triệu đồng, tỷ lệ tăng 15,62%.
Qua phân tích số liệu ta thấy nổi lên một số vấn đề cần quan tâm đó là:
+ Số lượt hộ sản xuất vay Ngân hàng Nguyên Bình còn thấp.
+ Số tiền bình quân một hộ nông dân 3 triệu đồng là thấp so với nhu cầu vốn trong mặt bằng kinh tế xã hội hiện nay.
Qua khảo sát thực tế thực trạng đời sống nhân dân của Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo tại Nguyên Bình đã kết luận do một số nguyên nhân như sau:
Nguyên nhân dẫn đến đói nghèo phần lớn là do thiếu vốn đầu tư cho sản xuất, thiếu đất canh tác, thiếu khoa học kỹ thuật, thiếu kinh nghiệm tính toán làm ăn. Còn một số bộ phận nhỏ dân lao động do nhà đông con, thiếu lao động, do gặp rủi ro, các tệ nạn xã hội như cờ bạc, nghiện hút.Thực tế tại địa phương đã mâu thuẫn với điều kiện cho vay vốn tín dụng thương mại của Ngân hàng. Nếu vận dụng cho vay rất dễ bị mất vốn tín dụng thương mại. Cũng qua khảo sát đã cho thấy đối với vốn vay NHPVNN, khi rải ngân được tất cả các cấp chính quyền, đoàn thể xã hội phối hợp làm tốt từ khâu kiểm tra, đôn đốc thu nợ, thu lãi, thành lập được Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo tại xã nên vẫn không bị mất vốn.
Qua đó có thể kết luận do trình độ dân trí thấp địa phương còn thấp, sản xuất còn mang tính tập quán địa phương, manh mún nên nhu cầu về vốn đối với một hộ sản xuất chưa cao.
8.2. Cho vay thu nợ đối với hộ sản xuất.
Hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất trên địa bàn huyện là vô cùng to lớn, chỉ xin khái quát một số kết quả vắn tắt như sau:
Hình thức cho vay của Ngân hàng nông nghiệp trước đây là đầu tư trực tiếp dựa vào điều kiện tín chấp của Chính quyền xã. Từ năm 1992 trở lại đây hình thức cho vay trực tiếp tới hộ sản xuất được phát triển mạnh, bên cạnh đó, hình thức cho vay sinh động, sát với thực tế điều kiện ở địa phương, được cấp Uỷ chính quyền, quần chúng nhân dân đồng tình ủng hộ như cho vay tín chấp qua Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội làm vườn, Công đoàn, qua trưởng bản, trưởng thôn...
Thông qua các tổ chức này các hội viên cùng chia sẻ trách nhiệm làm tín chấp bảo trợ cho người cuả Hội được vay vốn Ngân hàng, giúp đỡ nhau cùng làm ăn để phát triển kinh tế hộ, hoàn trả cả gốc và lãi đúng kỳ hạn nợ, có tích luỹ. Đây là một hình thức tình làng nghĩa xóm giúp nhau bớt nghèo, chứ không phải ngồi chờ cứu trợ xã hội.
Kết quả cho vay thu nợ của đơn vị được thể hiện qua bảng tổng hợp sau đây: (Tính cả cho vay hộ nghèo)
* Năm 1998
Chỉ tiêu
Cho vay ngắn hạn
Cho vay trung dài hạn
Số hộ vay
Số tiền
Thu nợ
Dư nợ
Số hộ vay
Số tiền
Thu nợ
Dư nợ
Cho vay hộ SX
1.150
3.342
1.813
4.306
3.510
8.559
3.388
10.294
Trong đó:
1 -Cho vay trực tiếp tơí hộ
1.150
3.342
1.813
4.306
910
2.558
1.387
3.294
Sản xuất Nông, lâm nghiệp
920
2.674
1.813
3.445
728
2.046
1.109
2.635
2- Cho vay tín chấp (hộ nghèo)
0
0
0
0
2.600
6.001
2.001
5.00
* Năm 1999:
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Cho vay ngắn hạn
Cho vay trung dài hạn
Số hộ vay
Số tiền
Thu nợ
Dư nợ
Số hộ vay
Số tiền
Thu nợ
Dư nợ
Cho vay hộ SX
1.800
4.252
2.988
4.970
5.199
12.750
9.692
11.950
Trong đó:
1- Cho vay trực tiếp tơí hộ
1.800
4.252
2.988
4.970
1.749
4.250
3.192
4.950
Trong đó:
Sản xuất Nông, lâm nghiệp
1.440
3.401,6
2.390
3.976
1.399
3.400
2.554
3.960
2- Cho vay tín chấp (hộ nghèo)
3.450
8.500
6.500
7.000
* Năm 2000
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Cho vay ngắn hạn
Cho vay trung dài hạn
Số hộ vay
Số tiền
Thu nợ
Dư nợ
Số hộ vay
Số tiền
Thu nợ
Dư nợ
Cho vay hộ SX
2.850
6.670
5.369
5.865
7.541
18.130
14.121
16.885
Trong đó:
1 Cho vay trực tiếp tơí hộ
2.850
6.670
5.369
5.865
3.250
7.830
6.301
6.885
Sản xuất Nông, lâm nghiệp
2.280
5.336
4.295
4.692
2.600
5.508
5.040
5.508
2- Cho vay tín chấp (hộ nghèo)
4.291
10.300
7.820
10.000
Dolàm công tác cho vay trên địa bàn, Ngân hàng nông nghiệp Nguyên Bình đã được cấp Uỷ, Chính quyền địa phương đánh giá cao vai trò phục vụ phát triển kinh tế xã hội.
"Ngân hàng đã giúp cấp Uỷ Chính quyền địa phương củng cố được tổ chức đoàn thể ở các xã và thị trấn, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương, làm thay đổi bộ mặt ở nông thôn...Ngân hàng là người bạn đáng tin cậy của nhân dân, là Ngân hàng của dân".
Nhìn chung tình hình thu nợ cũng phụ thuộc một phần vào phương pháp cho vay. Kết quả thu nợ năm 2000, các hộ sản xuất trong huyện đều trả nợ gốc và lãi sòng phẳng, đúng kỳ hạn nợ. Tuy nhiên vẫn còn một số ít hộ sản xuất không dùng vốn Ngân hàng đầu tư vào sản xuất mà đem sử dụng vào việc khác, nên có phần nào ảnh hưởng đến dư nợ của Ngân hàng.
Qua số liệu ta thấy cho vay hộ sản xuất ngày càng tăng lên năm sau cao hơn năm trước. Mặc dù còn rất nhiều khó khăn song Ngân hàng huyện đã cố gắng phấn đấu, phục vụ tốt cung ứng vốn cho sản xuất phát triển. Đây cũng là số liệu đánh giá hoạt động của Ngân hàng Nguyên Bình đã thay đổi cơ cấu cho vay chủ yếu là hộ sản xuất, số hộ đến vay Ngân hàng ngày càng nhiều hơn, dư nợ năm sau cao hơn năm trước đánh giá đúng thực chất sự tồn tại và tất yếu về chiến lược trong tương lai của Ngân hàng. Do chuyển đổi cơ chế đã tạo điều kiện thuận lợi cho hộ sản xuất kinh doanh.
Bằng nhiều biện pháp đồng bộ liên tục, nhiều năm qua Ngân hàng nông nghiệp Nguyên Bình đã tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc cả về huy động vốn, sử dụng vốn. Nhờ huy động vốn tăng và tương đối ổn định nên dư nợ cũng tăng lên, đáp ứng được phần lớn nhu cầu cho vay vốn hợp lý của các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế hộ sản xuất.
Do chấp hành tốt quy trình cho vay, làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục, lại được cấp Uỷ chính quyền địa phương giúp đỡ nên việc cho vay, thu nợ của Ngân hàng Nguyên Bình đạt chất lượng cao, tỷ lệ thu lãi thường đạt tỷ lệ 95% trở lên. Điều đó cũng phản ánh cả quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, sử dụng tiền vay đúng mục đích của khách hàng vay vốn.
* Tóm lại: Trên cơ sở hệ thống quan điểm của Ngân hàng, với đặc thù miền núi Ngân hàng nông nghiệp Cao Bằng nói chung và Ngân hàng Nguyên Bình nói riêng bằng hành động thực tiễn, từng bước đưa các mặt hoạt động Ngân hàng ngày càng sâu rộng hơn vào nông nghiệp, nông thôn, góp phần giải phóng sức lao động, từng bước phá vỡ thế độc canh, tự cung, tự cấp, khơi dậy những tiềm năng kinh tế, tạo công ăn việc làm, xây dựng nền sản xuất hàng hoá nông nghiệp nông thôn, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn của Đảng ta.
9. Đánh giá mặt làm được và những tồn tại cho vay hộ sản xuất.
9.1. Những mặt được:
- Đã chuyển đổi cơ cấu nguồn vốn có lợi cho kinh donah và phục vụ của Ngân hàng huyện Nguyên Bình trước yêu cầu điều chỉnh lãi xuất của thống đốc Ngân hàng Nhà nước (biên độ lao động 0,3%. Đối với vay ngắn hạn, 0,5% đối với trung dài hạn). Đưa ra khỏi nguồn vốn huy động loại có lãi xuất cao, thay thế bằng loại lãi xuất thấp hơn và mà vẫn giữ vững tăng trưởng về vốn. Điều đó đã làm giảm giá đầu vào tạo điều kiện cơ bản cho hoạt động kinh doanh và phục vụ của Ngân hàng Nguyên Bình được giữ vững.
- Đã chuyển dịch một bước tích cực về cơ cấu đầu tư tín dụng theo hướng gia tăng tín dụng trung dài hạn, nâng cao quy mô, tỷ trọng đầu tư thích hợp với định hướng phát triển chung của ngành, thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế tại địa phương qua các dự án kinh tế, cho các chủ trang trại, chú trọng đáp ứng vốn ngày càng nhiều (qua hình thức tín chấp) cho kinh tế hộ, đặc biệt là đối với người nghèo, đáp ứng vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh trên địa bàn huyện.
- Tuy còn nhiều khó khăn trong kinh doanh nhưng vẫn kiên trì vận động hướng tới sự hoàn chỉnh và ổn định chung của ngành để đi lên toàn diện.
- Từng bước củng cố được vị trí của Ngân hàng trong nền kinh tế. Nâng cao chất lượng kinh doanh thông qua các công cụ quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh là: Lãi xuất - kế hoạch - tài chính - Kiểm soát và thi đua theo hướng dẫn của NH nông nghiệp Việt Nam và của NH nông nghiệp Cao Bằng.
- Thu hút được khách hàng vay vốn. Đảm bảo thông tin hai chiều giữa khách hàng vay vốn với Ngân hàng huyện, giữa Ngân hàng huyện với cấp Uỷ, Chính quyền địa phương, giữa Ngân hàng huyện với Ngân hàng tỉnh.
9.2. Những tồn tại:
Bên cạnh mặt được, hoạt động của Ngân hàng huyện còn bộc lộ những tồn tại sau đây:
- Là Ngân hàng kinh doanh đa năng nhưng hiện nay vẫn đang ở thế độc canh" tín dụng truyền thống, các nghiệp vụ kinh doanh khác như: Tín dụng thuê mua, dịch vụ két sắt, tư vấn về kinh doanh, bảo hành....chưa phát triển''.
- Việc đầu tư tín dụng chưa đáp ứng yêu cầu vốn ở địa phương do huyện chưa thực hiện tốt việc điều tra quy hoạch đất đai, giao đất, giao rừng, thiếu cán bộ khoa học kỹ thuật, các dịch vụ phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây con chưa phát triển.
- Việc đầu tư còn tập trung chưa đều, một số xã vùng đồng là nơi trồng lúa nước và ở 2 thị trấn do điều kiện kinh tế phát triển nên Ngân hàng tập trung vốn ở những nơi này nhiều, một số xã vùng sâu, vùng xa chưa có đường ô tô đến xã ít được quan tâm dẫn đến kinh tế địa phương phát triển không đều, có xã quá nghèo.
10. Đánh giá hiệu quả kinh tế của hộ sản xuất.
Thực hiện cho vay hộ nông dân là nội dung đổi mới thiết yếu của ngành Ngân hàng và là một phần quan trọng của công cuộc đổi mới.
10.1. Đối với sản xuất:
Tạo cho hộ nông dân nghèo thông qua phát triển kinh tế sản xuất từng bước đảm bảo cuộc sống và có tích luỹ để góp phần làm cho dân giàu nước mạnh và phù hợp với lòng dân mong muốn đúng với chủ trương đường lối Đảng Nhà nước đề ra, mục tiêu đầu tư tín dụng cho hộ sản xuất là nhằm phát triển sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm về lương thực, thực phẩm hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến tiềm năng về đất, mặt nước sức lao động; Giải quyết việc làm phần lớn cho xã hội. Thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Hạn chế được tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn tạo điều kiện cho người dân, kinh doanh tăng năng xuất từng bước thực hiện chương trình đổi mới nông thôn, xoá đói, giảm nghèo.
Hiệu quả kinh tế của hoạt động tín dụng còn được thể hiện cụ thể qua các mặt như sau :
+ Về sản xuất nông lâm nghiệp .
Lĩnh vực sản xuất nông nghiệp nông thôn có nhiều đổi mới, vốn Ngân hàng đã giúp nông dân chuyển từ thế độc canh, thuần nông, chuyển sang luân canh kết hợp gữa trồng trọt và chăn nuôi với nghề rừng, nông dân được sử dụng ruộng đất lâu dài, có chiều hướng phát triển, xuất hiện 1 số mô hình hộ kinh tế làm ăn khá giỏi, phát triển kinh tế trang trại miền núi. Có thể nói vốn ngân hàng là một nhân tố mới thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển. Sản lượng lương thực qua các năm đều tăng cao:
Năm 1995: 9.614,30 Tấn
Năm 1996: 9.750 Tấn
Năm 1997: 10.467,65 Tấn
Năm 1998: 11.093,22 Tấn
Năm 1999: 11.400 Tấn
+ Về chăn nuôi gia súc gia cầm:
Đàn gia súc, gia cầm phát triển ngày càng cao qua các năm:
Đàn trâu: Năm 1995: 9.878 con. Năm 1999: 15.250 con.
Đàn bò : Năm 1995: 9.422 con . Năm 1999 : 16.400 con
Đàn lợn : Năm 1995 : 22.500 con. Năm 1999 : 30.500 con.
Đàn gia cầm: Năm 1995: 130.000 con . Năm 1999: 180.000 con.
+ Về giao thông nông thôn: Thực hiện Nhà nước và nhân dân cùng làm bảo dưỡng và làm mới trên 50 km đường liên xã.
+ Công tác định canh định cư :
Vốn của Ngân hàng đã giúp đồng bào các dân tộc thiểu số ổn định cuộc sống thoát khỏi nạn du canh du cư theo tập quán lâu đời để lại, đổi mới từ phương thức đầu tư vốn manh mún, phân tán trước đây sang cơ chế thị trường đầu tư tập trung qua dự án phát triển sản xuất.
Qua số liệu chứng minh trên cho thấy Ngân hàng huyện Nguyên Bình tập trung vốn cho hộ nông dân ngày càng nhiều, sử dụng tổng hợp nhiều nguồn vốn như trồng rừng, vốn phát triển nông thôn, vốn chương trình 06 để thay thế cây thuốc phiện ...., vốn huy động của chính Ngân hàng.
10.2. Đối với ngành Ngân hàng.
Đa dạng hoá các hình thức cho vay, giảm bớt thủ tục cho vay rườm rà:
Doanh số cho vay hộ sản xuất ngày càng nâng cao.
Có một thị trường đầu tư ổn định, khách hàng đông dẫn tới việc điều hoà tiền tệ thanh toán có điều kiện thuận lợi.
Ngân hàng góp phần đắc lực đối với các chính sách đường lối của Đảng và Nhà nước là xoá đói, giảm nghèo. Nước ta phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Có sự quản lý của Nhà nước XHCN.
Theo tính toán hiện nay vốn vay của ngân hàng chiếm tỷ trọng từ 65-70% vốn cần thiết cho sản xuất của hộ nông dân. Vì vậy vai trò của Ngân hàng trong nền kinh tế rất quan trọng.
Đối với sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư đối với hộ sản xuất tạo điều kiện cho Ngân hàng nông nghiệp tỉnh Cao Bằng nói chung và NH Nguyên Bình nói riêng, thoát ra khỏi sự sa sút trước đây và dần dần hướng tới kinh doanh tiền tệ tín dụng có lãi. Mặc dù tổng thể lãi không đáng bao nhiêu. Nhưng cũng là điều phấn khởi tự hào đối với một huyện miền núi trong kinh doanh tín dụng.
Tóm lại : Việc mở rộng môi trường kinh doanh, tăng số hộ được vay, tăng số tiền vay của mỗi hộ của ngân hàng Nguyên Bình là dấu hiệu đánh dấu nhịp độ tăng trưởng về kinh tế xã hội, tăng trưởng kinh tế hộ cũng như tăng trưởng của Ngân hàng.
11. Những khó khăn tồn tại trong quá trình thực hiện cho vay hộ sản xuất.
So với yêu cầu thực tế sản xuất nông lâm nghiệp ở Nguyên Bình thì trong thời gian qua số hộ vay vốn vẫn chưa được vay, nhiều nhất là những vùng cao, xa xôi hẻo lánh đường đi lại khó khăn, số tiền vay đến các hộ vẫn còn ít chưa đáp ứng được nhu cầu của nhiều người nông dân cần vay vốn.
Trình độ hiểu biết của các hộ về Ngân hàng còn thấp, nên ngại tiếp cận với vốn vay Ngân hàng, một số làm ăn thua lỗ không trả nợ được, nhất là đối với những hộ nghèo, khó khăn.
- Hộ vay vốn ở Nguyên Bình chủ yếu là hộ nghèo (hộ nghèo rất thiếu vốn) nhưng lại không có kinh nghiệm làm ăn. Nếu cho loại hộ này vay với diện rộng thì khả năng rủi ro tín dụng lại rất lớn. Đó là nỗi lo, nỗi trăn trở của Ngân hàng vì Ngân hàng đi vay về để cho vay mà cũng không phải là vốn riêng của Ngân hàng.
- Hợp tác xã với chức năng làm dịch vụ cho nông dân, làm bật ra nhu cầu vốn của nông dân, là tổ chức trung gian để Ngân hàng cho hộ nông dân vay vốn, nhưng hiện tại rất kém. Đến nay còn khoảng từ 5-7 HTX (chủ yếu vùng thấp) có làm dịch vụ cho hộ nông dân, còn lại là làm cầm chừng, hoặc chỉ tồn tại trên danh nghĩa, đối với HTX này Ngân hàng không tin tưởng giao vốn để họ cung cấp cho hộ nông dân. Vì vậy đã hạn chế đến diện và số lượng vốn cho hộ nông dân vay. Càng cho hợp tác xã vay thì vốn Ngân hàng càng thêm nguy cơ đóng băng.
+ Thủ tục vay còn gây nhiều phiền hà (phải có nhiều chữ ký, dấu, mới đủ điều kiện vay) nông dân phải đi lại nhiều lần, mất thời gian tốn kém chi phí. thời gian cho vay còn gò ép, chưa phù hợp với chu kỳ sản xuất nông nghiệp.
Đặc biệt là về lãi xuất cho vay đối với hộ sản xuất nông nghiệp, cũng đang là những vấn đề cần quan tâm. Vấn đề này đang là những yếu tố cơ bản hạn chế đến việc mở rộng cho vay đối với hộ sản xuất, ảnh hưởng đến hiệu quả của sản xuất và lợi ích của người nông dân.
Vấn đề này được thể hiện ở một số điểm sau:
+ Lãi xuất cho vay hộ nông dân hiện nay nếu so với các loại lãi xuất khác trên thị trường vốn không phải là thấp.
Chính yếu tố này cũng tác động tới việc mở rộng đầu tư tín dụng vào lĩnh vực nông nghiệp nông thôn và kinh tế trang trại, tác dụng kích thích sản xuất chưa cao vấn đề đặt ra là hạ lãi suất đầu vào để có thể giảm lãi suất đầu ra, tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ với lãi suất bình quân 0,65%/tháng thì người vay có thể chấp nhận được.
+ Mô hình tài chính tín dụng nông thôn chưa được hình thành, hoạch định và hiện nay ở nông thôn đang có quá nhiều mức lãi suất khác nhau, do nguồn vốn cho vay của Nhà nước còn giao cho nhiều tổ chức quản lý và thực hiện cho vay. Chẳng hạn như nguồn vốn tài trợ quốc tế, do một số tổ chức đoàn thể thực hiện cho vay lãi xuất chỉ có dưới 1%/tháng.
Nguồn vốn giải quyết việc làm của Chính phủ 327 do Kho bạc thực hiện thì lãi suất cũng rất thấp....và nhiều nguồn vốn tài trợ khác. Điều đó đã gây ra tình trạng suy nghĩ chông chờ vào các nguồn vốn cho vay lãi suất thấp, đồng thời còn phát sinh nhiều tiêu cực làm giảm đi tính chất ưu đãi về lãi suất cho vay đối với hộ nông dân và làm cho bản chất của tín dụng Ngân hàng là "đi vay để cho vay" bị thu hẹp lại.
+ Về phía Ngân hàng đầu tư cho hộ nông dân nhận thức từ một số nhân viên còn rất yếu kém biểu hiện:
- Nhận thức cho vay hộ nông dân còn đơn giản (nhất là thời gian từ 1991, 1992, 1993 một bộ phận quá chậm đổi mới, tư tưởng bao cấp vẫn còn nặng nề, không ít nơi, ít người ngại cho hộ nông dân vay.
- Cho vay hộ nông dân là vấn đề khó, là vấn đề khoa học nhưng trình độ năng lực cán bộ nhân viên Ngân hàng nông nghiệp Nguyên Bình còn bất cập mặc dù trình độ cán bộ Ngân hàng nông nghiệp huyện, với 27% đại học và tương đương đại học, 73% trung cấp nhưng vẫn còn chưa am hiểu hết về kỹ thuật nông nghiệp, thiếu kiến thức khoa học kỹ thuật về cây, con giống...Do đó việc cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp còn nhiều lúng túng chưa đáp ứng được đòi hỏi thực tiễn của nông nghiệp nông thôn miền núi. Việc xác định mức vốn vay, định kỳ hạn nợ, tính toán hiệu quả kinh tế...còn thiếu cơ sở khoa học, thiếu thực tiễn kiểm tra sau khi cho vay chưa được thường xuyên cho nên mức độ an toàn cũng như hiệu quả chưa thật cao trong việc cho vay hộ nông dân nói chung vẫn sảy ra tình trạng không có khả năng trả nợ Ngân hàng, nợ quá hạn khó thu hồi.
+ Chỉ tiêu doanh thu thực hiện ở mức độ thấp đã ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả tài chính và đời sống cán bộ công nhân viên.
+ Nguyên nhân của những tồn tại là do:
Việc chấp hành cơ chế, thể lệ chế độ, chấp hành quy trình, kỷ luật tín dụng chưa được nghiêm và thật triệt để. Tình trạng vi phạm chế độ, thể lệ nghiệp vụ khi sảy ra chưa được Ngân hàng huyện tự giác chấn chỉnh kịp thời và xử lý kiên quyết, nhất là đối với những cán bộ vi phạm do thiếu trung thực, ý thức kém, lạm dụng vì tư lợi cá nhân.
+ Công tác kiểm tra, kiểm soát tuy có làm thường xuyên nhưng hiệu quả chưa cao. Việc tổ chức sửa sai phát hiện qua thanh tra kiểm tra còn chậm. Cán bộ giám định viên đặt tại Ngân hàng cơ sở ít phát huy tác dụng, có trường hợp bị vô hiệu hoá kiểm tra chuyên đề của các Phòng ban chức năng của Ngân hàng huyện thiếu thường xuyên và bài bản.
+ ý thức trách nhiệm của cán bộ công nhân viên chưa cao. Một số cán bộ quản lý điều hành còn bàng quan trước lợi ích chung chưa sâu sát, thiếu cụ thể. Công tác điều hành chỉ đạo còn mang nặng tư tưởng chông chờ ỷ lại, cung cách làm ăn còn những biểu hiện tuỳ tiện, gia đình chủ nghĩa.
Hiện nay huyện có 5.562 hộ nông dân, đang tiến hành sản xuất rải rác ở 18 xã đòi hỏi phải có một đội ngũ lực lượng cán bộ khoảng 60% làm tín dụng, nhưng hiện nay mới có 36,84% cán bộ làm tín dụng cho hộ nông dân vay đó là một điều chưa hợp lý trong tổ chức màng lưới, vì vậy trong thời gian qua Ngân hàng Nguyên Bình chưa bao quát được sâu rộng trong nông thôn, bạn hàng nông dân.
Vì vậy kết quả đầu tư cho hộ nông dân còn hạn hẹp cả về diện lẫn số lượng.
Việc điều hành cụ thể của Ngân hàng Nguyên Bình từng lúc, từng nơi còn thiếu năng động, thiếu sự hợp tác với các ngành, các cấp, giữa các nghiệp vụ bộ phận công tác...nên chưa tạo ra sức mạnh tổng hợp trong qúa trình thực hiện nhiệm vụ cho vay hộ nông dân.
Việc rút kinh nghiệm không thường xuyên chưa tiến hành nghiên cứu khoa học trên diện rộng và lượng vốn đầu tư còn ít, mức độ an toàn của tín dụng chưa cao, hiệu quả kinh tế - xã hội chưa nhiều.
Chương III
Những đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện
phát triển cho vay đối với hộ sản xuất
I. Định hướng về mở rộng đầu tư tín dụng đối với hộ sản xuất trong những năm tới.
Xuất phát từ thực tiễn cung cấp tín dụng cho hộ nông dân trong những năm qua của đơn vị đã đạt được những kết quả đáng kể, song còn bộc lộ nhiều vấn đề cần phải quan tâm để giúp và góp phần cho hộ nông dân xóa đói, giảm nghèo thì không phải một sớm một chiều mà thực hiện được, mà ở đây phải có một quá trình lâu dài, vận dụng Chỉ thị và Nghị quyết của Đảng và Nhà nước. Đồng thời phải có sự phối hợp với các ngành các cấp. Một mình ngành Ngân hàng hay một vài ngành khác thì không thể nào thực hiện được những mục tiêu của Đảng đề ra về nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Với nhận thức và trình độ còn hạn hẹp. Tôi xin mạnh dạn nêu lên một số vấn đề để Ngân hàng Nông nghiệp huyện Nguyên Bình cũng như cá nhân tôi góp phần nhỏ bé vào trong toàn xã hội nhất là giúp đỡ nông dân thoát khỏi đói nghèo như hiện nay ở hầu hết một số vùng của Tỉnh Cao Bằng nói chung và huyện Nguyên Bình nói riêng.
II. Những kiến nghị đề xuất:
1. Kiến nghị đối với Nhà nước.
- Đề nghị với Nhà nước có nguồn vốn ngân sách tài trợ ban đầu cho nông nghiệp, nông dân, thông qua công cụ, tín dụng, không lấy lãi Ngân hàng nông nghiệp (như vốn tái tạo rừng, vốn thuỷ lợi, vốn khai hoang, vốn cho trồng mới, vốn cho chăm sóc cây chè....) để cho Ngân hàng nông nghiệp đầu tư cho hộ nông dân với mức lãi suất thấp, phù hợp với điều kiện sản xuất, canh tác tập quán của hộ dân miền núi.
Tập trung những khoản vốn viện trợ,vốn vay nước ngoài phần thuộc dự án đầu tư trực tiếp cho nông nghiệp nông dân thông qua con đường tín dụng. Đây là nguồn vốn quan trọng vì nếu phân tán như hiện nay thì hiệu quả sử dụng các nguồn vốn này rất kém. Việc tập trung, thống nhất các nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp vào một đầu mối có tác dụng chẳng những tăng thêm năng lực, tạo vốn cho Ngân hàng nông nghiệp, mà còn làm thay đổi cơ cấu nguồn vốn, hình thành mức lãi suất cho vay hợp lý mà hộ nông dân ở miền núi có thể chấp nhận được.
Về phương diện lý luận: Ngân hàng với bản chất vốn có là tín dụng mà lịch sử hình thành phát triển ở mọi hình thái xã hội, thì nó vẫn là cơ quan tập trung, thống nhất, mạnh nhất.
Về hoạt động tín dụng được tạo lập bằng nguồn vốn ''đi vay để cho vay''. Mặt khác xét trên cơ sở thực tiễn, thì ngân hàng từ trước tới nay được Nhà nước giao nhiệm vụ hơn 50 năm qua đã đầu tư cho nông nghiệp và đã hình thành hệ thống tổ chức từ Trung ương đến các Huyện, Thị (nay đã xuống đến Xã như HTX tín dụng, Quỹ tín dụng Nhân dân) có nhiều kinh nghiệm cho vay Hộ nông nghiệp qua nhiều thập kỷ, có thể mạnh dạn khẳng định là: Ngân hàng Nông nghiệp có kinh nghiệm cho vay Hộ nông dân hơn Hệ thống Kho bạc và các tổ chức tín dụng khác .
Ngân hàng nông nghiệp đã trở thành bạn đồng hành, chung thuỷ với nông nghiệp, nông thôn và nông dân, bằng cách thông qua bằng nhiều biện pháp tín dụng Ngân hàng thích hợp, cung ứng vốn cho chi phí thời vụ dưới nhiều hình thứ khác nhau, được quần chúng nhân dân đồng tình ủng hộ. Mặt khác nếu các nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn và nông dân được tập trung vào một mối là Ngân hàng nông nghiệp thì Ngân hàng nông nghiệp có thể đáp ứng yêu cầu đòi hỏi cơ bản của sản xuất theo một chu kỳ khép kín, cho quá trình cung ứng vốn tới hộ nông dân như sau:
- Ngân hàng Nông nghiệp cho hộ nông dân vay chi phí thời vụ (ngắn hạn) sẽ bằng nguồn vốn huy động (tiết kiệm ....) nguồn vốn quản lý, vốn tự có, Ngân hàng nông nghiệp cho hộ nông dân vay trung hạn, dài hạn để xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật hạ tầng như các công trình thuỷ lợi và hoàn thiện hệ thống thuỷ nông, trạm bơm, có vốn để trồng rừng, trồng cây đặc sản như trúc, chè.... và chăn nuôi đại gia súc như bò, dê, ngựa cũng như những thực phẩm khác có giá trị hàng hoá cao như ếch, ba ba, rắn, lươn, hươu, nai.... mở rộng ngành nghề truyền thống của dân tộc....
- Đề nghị Chính phủ miễn thu thuế đối với Ngân hàng Nông nghiệp, vì nếu phải nộp thuế thì Ngân hàng Nông nghiệp không thể ưu ái riêng cho hộ nông dân được vay vốn với lãi suất thấp.
- Cho hộ nông dân ở Miền núi vay chủ yếu là hộ nông dân nghèo, vì vậy cho hộ nông dân nghèo vay mà có thể trả nợ được thì đề nghị Nhà nước có chính sách ưu đãi tài trợ cho nông dân hơn nữa.
+ Như chính sách tài trợ đầu vào, đầu ra tiêu thụ sản phẩm như chè, thuốc lá, sản phẩm từ chăn nuôi .....
+ Xây dựng chính sách giá cả có lợi cho nông dân, đảm bảo cho nông dân bù đắp được chi phí và có tích luỹ hợp lý.
+ Tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất của hộ nôn gdân như: Sự hình thành thị trường vốn ở nông thôn, nâng cao trình độ dân trí, quan tâm xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông thôn (nhất là các xã vùng cao, vùng sâu...)
Đây là những yếu tố rất quan trọng, nhưng hiện nay đang ở ngoài tầm hoạt động của Ngân hàng nông nghiệp, cần được Đảng và Nhà nước chỉ đạo.
- Để tiếp tục mở rộng cho vay hộ nông dân, bản thân một mình ngành Ngân hàng nông nghiệp vừa đảm nhiệm việc huy động vốn cho vay đối với hộ nông dân không thể đảm nhiệm hết được (do không bao quát được hết chi phí lớn....). Ngân hàng nông nghiệp cùng các xã duy trì và khuyến khích động viên hình thức cho vay tín chấp qua các tổ chức đoàn thể. Thực hiện cho vay theo Nghị quyết số 2038/NQLT/1999 ngày 9/10/1999 của TW Hội nông dân Việt Nam và NHNo Việt Nam.
-Việc cho vay hộ nông dân không đặt vấn đề lấy lợi nhuận là chính và nếu có lợi nhuận thì cũng đề nghị Nhà nước để lại cho Ngân hàng nông nghiệp để hình thành bổ xung quỹ rủi ro, vì đặc thù của sản xuất nông nghiệp cũng hay sảy ra rủi ro thường xuyên.
- Chỉ đạo các ngành chức năng khảo sát, quy hoạch xây dựng các dự án đầu tư phát triển kinh tế trong phạm vi từng vùng hoặc chung toàn Tỉnh về phát triển kinh tế cây trồng vật nuôi, mở mang ngành nghề trên cơ sở đó ngân hàng thẩm định cho vay đối với kinh tế hộ.
- Chỉ đạo cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép đăng ký kinh doanh, phải kiểm tra, giám sát kinh doanh, xác định mức vốn đăng ký phù hợp với quy mô kinh doanh của khách hàng và phải chịu trách nhiệm về tư cách pháp lý của khách hàng. Nếu khách hàng sản xuất kinh doanh không đúng ngành nghề như trong giấy phép kinh doanh thì cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy phép. Có như vậy mới buộc khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích, hạn chế rủi ro đạo đức do khách hàng gây ra....
2- Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước:
- Đối với Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách tín dụng riêng về cho vay hộ nông dân để phù hợp với đặc điểm của Nông thôn và Nông dân nhất là Nông dân miền núi, dân tộc vùng cao, đường xá đi lại khó khăn, với mục tiêu giải quyết việc làm, ổn định cuộc sống là trên hết. Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn, để tiến kịp miền xuôi... là lâu dài. Mà ở miền núi theo suy nghĩ của bản thân tôi là giải quyết cho dân đỡ đói nghèo, đời sống vật chất tinh thần được nâng lên một bước là lý tưởng, còn từ năm 2000 trở đi tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng, và có những giải pháp chính sách hữu hiệu hơn của Đảng thì đời sống của nông dân miền núi, vùng cao, vùng sâu sẽ nâng lên rõ rệt.
Chỉ đạo các hệ thống Ngân hàng mở rộng hoạt động thị trường liên ngân hàng để kịp thời điều hoá vốn giữa các Ngân hàng Thương mại trong nước. Mở rộng hình thức huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và trong các địa bàn, các tổ chức kinh tế xã hội, để có đủ nguồn vốn mở rộng doanh số cho vay hơn nữa tăng mức cho vay, cũng như số hộ được vay, nhất là ở vùng cao, vùng sâu. hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc , lãi xuất cho vay chiết khấu đối với NHNO và PTNT .
3- Kiến nghị đối với Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Việt Nam.
Những kiến thị thuộc về cơ chế chính sách tạo điều kiện cho ngân hàng cơ sở và khách hàng:
- Thủ tục hồ sơ xin vay :
Đề nghị Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Việt Nam nghiên cứu thu gọn lại. Do trình độ dân trí ở nông thôn còn thấp và tính truyền thống của nông dân là sự sòng phẳng, thì thủ tục vay vốn hiện nay vẫn còn phức tạp bởi nhiều loại giấy tờ, nội dung còn dài vì vậy cần đơn giản hơn và nên có mẫu mã riêng cho vùngáâu, vùng xa, cùng cao. Sự đơn giản là cần thiết nhưng thủ tục vẫn cần phải đảm bảo tính pháp lý.
Về thể lệ tín dụng hoặc biện pháp cho vay :
Hiện nay vừa qui định chung cho tất các đối tượng, vừa quy định cụ thể đối tượng được vay nên không phù hợp với thực tế đa dạng ở nông thôn. Nên có thể lệ tín dụng chung chỉ quy định đối tượng không được vay. Còn biện pháp cho vay cụ thể cho một số đối tượng đặc thù, một vùng đặc thù.
Về thế chấp tài sản :
- Sửa đổi những biểu hiện quy định vượt ra ngoài khả năng hợp lý kiểm tra của cán bộ tín dụng. Đồng thời xác định rõ trách nhiệm hành chính, kinh tế và pháp lý của khách hàng trong quan hệ vay trả, bảo vệ lợi tích và quyền lợi chính đáng của ngân hàng.
- Nên phân cấp đăng ký hợp đồng thế chấp tài sản cho UBND các xã là những người nắm vững nhất tình hình kinh tế, tài sản của từng gia đình do đó có thể xác nhận nhanh chóng và khi phải xử lý thì họ cùng với cơ quan pháp luật xử lý nhanh hơn. Cách làm này vừa tạo điều kiện thuận lợi cho dân, vừa có khả năng mở rộng đầu tư tín dụng và khả năng an toàn vốn cao hơn vì: UBND xã xác nhận họ có điều kiện để quản lý tài sản tốt hơn là công chứng hoặc UBND cấp Huyện. Mức vay vốn trên 20 triệu đồng thì hợp đồng thế chấp tài sản phải qua công chứng hoặc UBND cấp Huyện xác nhận. Ngày 29/3/1999 Chính phủ đã có Nghị định số 17/NĐ-CP về: ''Thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất và thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất'' và tiếp theo ngày 29/12/1999 ban hành tại Nghị định 178/NĐ-CP về "Đảm bảo tiền vay'' đề nghị cán bộ ngành hữu quan, đặc biệt là ngân hàng Nhà nước sớm ban hành các thông tư hướng dẫn cụ thể để tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại và các hộ vay vốn có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh (chỉ cần đăng ký thế chấp tài sản tại UBND xã, phường, thị trấn).
- Cần xem xét chỉnh sửa những điểm chưa hợp lý trong văn bản 806/NHNo. Về xử ký cán bộ cho vay để nợ quá hạn. Phải quy định mức vốn cho vay để quá hạn, nhưng do chủ quan của cán bộ tín dụng thì phải nghỉ đi thu nợ trong thời gian nhất định, không thu được thì phải bồi thường. Những nợ quá hạn do hành vi cố ý của khách hàng như lừa đảo, chụp dật, cố ý sử dụng sai mục đích vào các hành vi phạm pháp thì pháp luật phải xử lý khách hàng đó trước và phải có biện pháp xử lý kiên quyết để giữ nguyên kỷ cương phép nước và bảo vệ lợi ích chính đáng của ngân hàng và cán bộ ngân hàng.
- Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam cần nghiên cứu chế độ ưu đãi cho đội ngũ cán bộ tín dụng ở địa bàn nông thôn như về chế độ công tác phí thoả đáng, trang bị phương tiện làm việc hàng năm như: áo mưa đi mưa, mũ bảo hiểm xe máy.... Các chế độ ưu đãi về thu nhập để khuyến khích cán bộ tín dụng thời gian bám sát địa bàn thẩm định đầu tư vốn, phục vụ kịp thời nhu cầu vốn cho mở rộng sản xuất, kinh doanh của các hộ gia đình.
- Phải có chủ trương đào tạo cán bộ ngân hàng mà trước mắt là cán bộ tín dụng giỏi nghiệp vụ ngân hàng nhưng phải am hiểu các nghiệp vụ kinh tế chuyên ngành có như vậy cán bộ tín dụng mới đủ khả năng phát hiện hướng dẫn và thẩm định dự án kết quả. Đánh giá đúng hiệu quả kinh tế của dự án, am hiểu kỹ thuật, nắm vững các định mức kinh tế kỹ thuật thì mới giám sát khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích có hiệu quả và mới an toàn vốn vay.
4. Kiến nghị đối với UBND huyện Nguyên Bình .
4.1- Hoàn thiện việc giao đất, giao rừng trên địa bàn huyện theo nguyện vọng của nhân dân các dân tộc trong huyện. Trên cơ sở đó Nông dân yên tâm định canh định cư, Ngân hàng sẽ đầu tư cho vay hộ sản xuất để trồng rừng, cây ăn quả lâu năm, cây công nghiệp, tạo công ăn việc làm cho các đối tượng trong độ tuổi lao động.
4.2- Có chính sách ưu đãi đối với đồng bào thiểu số trước đây hạ sơn, song tan vỡ HTX nông nghiệp phải quay về du cư, du canh, hạn chế việc chặt phá rừng tràn lan, từ đó đồng bào thiểu số thấy được chính sách ưu việt của Chế độ XHCN, hạn chế cả việc di cư vào Nam. Từ đó tạo điều kiện cho NHNo huyện mở rộng màng lưới tín dụng trên toàn huyện.
4.3- Dùng Ngân sách Nhà nước đầu tư cho công tác tư vấn kỹ thuật về cây trồng vật nuôi, cơ cấu giống để tăng năng suất, hạn chế dịch bệnh, hạn chế rủi ro mất vốn của Ngân hàng, nâng cao đời sống của nhân dân.
4.4- Tuyên truyền phổ biến rộng rãi cơ cấu, thành phần đất đai trong huyện, thực hiện thâm canh tăng vụ, trồng xen màu, tạo ra môi trường đầu tư vốn cho Ngân hàng.
4.5- Làm tốt công tác dịch vụ về thuốc trừ sâu, phân bón, cây, con giống tăng năng suất cây trồng, vật nuôi từ đó tăng hiệu quả vốn vay Ngân hàng.
5- Kiến nghị đối với ngân hàng Nông nghiệp Nguyên Bình.
5.1- Tìm biện pháp khả thi tăng nguồn vốn trong địa bàn. Có chủ động được vốn thì mới có thể mở rộng được vốn vay bằng mọi biện pháp phải sử dụng tất cả các phương pháp huy động truyền thống. Phát huy mạng lưới rộng khắp các thôn xã đều có cán bộ tín dụng phụ trách địa bàn nắm bắt khả năng, vận động gửi vào ngân hàng mọi nguồn nội ngoại tệ nhàn rỗi.
- Tăng cường vận động khách hàng mở tài khoản tiền gửi như tư nhân và vận động thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng.
- Cải tiến lề lối làm việc, nâng cao ý thức phục vụ khách hàng, đây là yếu tố quan trọng nhất để thuyết phục người gửi tiền. Vì uy tín ngân hàng là an toàn, bảo toàn được vốn, thuận tiện đơn giản.
5.2- Tăng cường công tác tuyên truyền tiếp thị kể cả trực tiếp và gián tiếp, trong đó coi trọng khâu tiếp thị, tuyên truyền của cán bộ ngân hàng, Tập trung chủ yếu vào các quy trình thủ tục vay vốn, điều kiện vay vốn và các hình thức tiền gửi để khách hàng biết lựa chọn thực hiện việc đào tạo lại cán bộ cả về năng lực nghiệp vụ, kiến thức kinh tế mọi ngành để có đủ khả năng tư vấn xây dựng và thẩm định dự án đầu tư, từng bước nâng cao hiệu quả tín dụng....
5.3- Mở rộng hình thức cho vay qua tổ liên doanh đối với các món nhỏ từ 5 triệu đồng trở xuống thông qua các đoàn thể mà nòng cốt là Hội phụ nữ, Hội nông dân theo tinh thần Nghị quyết liên tịch giữa TW Hội nông dân Việt Nam với NHNo Việt Nam; Theo hướng dẫn tại Công văn số 2648/NHNo - 06 ngày 15/11/1999 của NHNo Việt Nam. Từ đó giảm lượng hồ sơ tín dụng, giảm bớt quá tải tăng thêm trách nhiệm và lực lượng kiểm tra, kiểm soát trước và sau khi cho vay.
5.4- Đa dạng hoá các loại cho vay ngoài tín dụng truyền thống có thể mở thêm các loại cho vay như vay cầm cố, cho vay tiêu dùng, cho vay trả góp, nghiên cứu mạnh dạn đầu tư các mô hình kinh tế mới có hiệu quả cao, tỷ suất hàng hoá lớn như kinh tế tiểu nông, kinh tế trang trại. Đặc biết là các trang trại nông lâm nghiệp, chăn nuôi là những tiềm năng thế mạnh của kinh tế địa phương để thu hút khách hàng, các loại cho vay này lâu nay chưa làm cần mạnh dạn mở rộng về quy mô đối tượng.
5.5- Thực hiện các biện pháp để không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng.
5.6- Tìm kiếm, phát hiện hướng dẫn khách hàng xây dựng các dự án khai thác, các thế mạnh trong địa bàn huyện nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, thực hiện thẩm định và đầu tư theo dự án.
5.7- Bố trí xắp xếp lại cơ cấu biên chế phòng tín dụng hợp lý đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cho vay ở huyện miền núi vì tỷ lệ cán bộ tín dụng hiện nay còn thấp (36%). Chủ động sáng tạo trong kinh doanh, sử dụng có hiệu quả 5 công cụ quản lý điều hành hoạt động kinh doanh là :
Lãi xuất - Kế hoạch - Tài chính - Kiểm soát và Thi đua.
Thường xuyên bảo đảm thông tin 2 chiều giữa khách hàng với ngân hàng để phục vụ tốt hơn nữa, giữa Ngân hàng với cấp Uỷ chính quyền địa phương để nắm bắt tình hình kinh tế - xã hội địa phương phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Cấp uỷ chính quyền huyện Nguyên Bình.
5.8- Vận dụng sáng tạo cơ chế khoán tài chính đến tổ và người lao động để tăng năng suất lao động, thực hiện khen thưởng kỷ luật nghiêm minh tránh hiện tượng dễ thì làm, khó thì bỏ trong công tác tín dụng.
6. Những kiến nghị đề xuất với hộ sản xuất:
- Các hộ gia đình phải có ý thức trong việc chủ động xây dựng phương án, dự án sản xuất kinh doanh trên cơ sở những khả năng, tiềm năng sẵn có của mình. Cung cấp đầyđủ đúng các thông tin về tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của mình để ngân hàng xem xét, tư vấn cho khách hàng và xác định mức vốn cho đầu tư hợp lý, phù hợp với năng lực quản lý của từng hộ.
- Phải có ý thức tích luỹ kinh nghiệm trong quá trình sản xuất kinh doanh, kinh nghiệp của những người xung quanh và tham gia các buổi tập huấn, chuyển giao công nghệ để học tập và tích luỹ những kiến thức khoa học kỹ thuật về đối tượng mà mình sắp đầu tư trước khi vay vốn ngân hàng để đầu tư. Có như vậy mới đủ khả năng quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả....
Kết luận
Chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, trong nông thôn lấy hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ thì việc đầu tư tín dụng đến hộ nông dân là một tất yếu khách quan. Hay nói đúng hơn là hộ nông dân muốn phát triển sản xuất, muốn giảm bớt đói nghèo thì phải có vốn, trong đó tín dụng ngân hàng là một kênh vốn chiếm vai trò rất quan trọng .
Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu: là trọng tâm là khâu đột phá cho sự phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta.
Từ ý nghĩa tầm quan trọng, vai trò của sự phát triển nông nghiệp ở nước ta, cho thấy giải pháp về tín dụng cho hộ sản xuất là một giải pháp cơ bản và quan trọng hàng đầu. Nó phù hợp ý mong muốn của lòng dân. Tuy nhiên chủ trương tín dụng đối với hộ nông dân là một chủ trương mới có tầm về quốc gia. Nhất định không tránh khỏi những sai xót trong quá trình thực thi trên phạm vi rộng lớn.
Bằng kinh nghiệm thực tế và tính năng động của mình, việc đầu tư cho hộ nông dân của Ngân hàng Nông nghiệp huyện Nguyên Bình trong thời gian qua đã đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng mở ra hướng mới, trong việc giải quyết cho vay vốn sản xuất nông nghiệp trên địa bàn hiện nay, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương.
Tuy vậy việc đầu tư cho hộ nông dân ở Nguyên Bình không phải là vấn đề đơn giản, vì nó phải tiến hành trong điều kiện nền kinh tế chủ yếu là tự cung, tự cấp, hạ tầng cơ sở miền núi rất yếu kém, năng suất lao động thấp, cơ cấu kinh tế chưa hợp lý... thêm vào đó là tình hình quan hệ sản xuất ở nông thôn chưa theo kịp với chuyển hướng sản xuát theo các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước.
Đời sống đại bộ phận nông dân là đang nghèo khó thiếu vốn trầm trọng, các yếu tố sản xuất ở nông thôn liên kết được với nhau. Việc đầu tư trực tiếp tới hộ nông dân của Ngân hàng Nguyên Bình là một hướng đi đúng cả về trước mắt cũng như về lâu dài và nó phù hợp với thực tế sản xuất của các dân tộc trên địa bàn hiện nay.
Sau thời gian học tập tại Học viện Ngân hàng và thực tế ở đơn vị tôi đã chọn đề tài "Cho vay kinh tế hộ sản xuất ở Ngân hàng Nông nghiệp huyện Nguyên Bình'' làm luận văn tốt nghiệp. Đề tài này khái quát những vấn đề lý luận về kinh tế hộ, cơ sở hình thành và vai trò của kinh tế hộ trong sản xuất nông nghiệp. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế trang trại. Đề tài đã phân tích về cho vay kinh tế hộ ở Ngân hàng Nguyên Bình, quan hệ giữa Ngân hàng Nông nghiệp với thành phần kinh tế hộ sản xuất trong thời gian qua và đã chỉ ra những mặt mạnh và một số tồn tại của tín dụng Ngân hàng đối với cho vay kinh tế hộ. Trên cơ sở phân tích về thực trạng quan hệ tín dụng đối với hộ để từ đó đưa ra những giải pháp kiến nghị cụ thể đối với các cấp các ngành có liên quan.
Bản thân tôi với khả năng nghiên cứu còn hạn chế nhất định cho nên bài viết này chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Vì vậy tôi mong muốn nhận được sự đóng góp của các thầy giáo, cô giáo, đồng nghiệp và bất cứ ai quan tâm đến lĩnh vực này ./.
Tài liệu tham khảo
1- Niên giám thống kê tỉnh Cao Bằng.
2- Ngân hàng Việt Nam quá trình xây dựng và phát triển.
3- Báo cáo thống kê Ngân hàng nông nghiệp huyện Nguyên Bình.
4- Báo cáo định kỳ của giám định viên tại đơn vị.
5- Báo cáo tổng kết công tác từ năm 1995-1999 của Ngân hàng nông nghiệp Nguyên Bình.
6- Báo cáo tổng kết thực hiện nhiệm vụ mục tiêu kinh tế xã hội nhiệm kỳ 1994-1999. Phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ 1999-2004 của Uỷ ban nhân dân huyện Nguyên Bình.
7- Báo cáo nhiệm kỳ 1994-1999 của Hội đồng nhân dân huyện Nguyên Bình.
8- Báo cáo quyết toán ngân sách huyện Nguyên Bình cuối năm từ 1995 đến 1999.
9- Báo cáo tổng kết thực hiện xoá đói giảm nghèo huyện Nguyên Bình các năm 1997, 1998, 1999.
10- Tạp chí Ngân hàng.
11- Báo cáo tình hình định canh định cư năm 1999 của Ban định canh định cư huyện Nguyên Bình.
12- Báo cáo tổng kết các năm từ 1995 đến 1999 Phòng nông nghiệp Nguyên Bình.
2.1 - Cho vay: Đơn vị: Triệu đồng.
Năm
Năm
Năm
Đến
So sánh đến 30-9-2000 tăng giảm
Chỉ tiêu
1995
1998
1999
so
Số tiền
Tỷ lệ
9/2000
So 1995
So 1999
So 1995
So 1999
1- Cho vay bằng vốn tín dụng thương mại
8.850
11.440
14.480
19.780
+10..930
+5.300
+123,50
+36,60
Trong đó:
+ Kinh tế quốc doanh
1.800
960
600
980
-820
+380
-45,55
+63,33
+ Kinh tế HTX
600
880
3.100
200
-400
-2.900
-66,67
-93,54
+ DN tư nhân
2.900
3.000
1.920
3.800
+850
+1.880
+28,81
+97,91
+ Cho vay khác
300
700
360
300
0
-60
0
-16,66
+ Hộ sản xuất
3.200
5.900
8.500
14.500
+11.300
+6.000
+352,12
+70,58
Trong đó: Riêng hộ nông dân
2.800
4.300
6.700
10.300
+7.500
+3.600
+267,85
+53,73
2- Cho vay NHPVNN
1.000
6.001
8.500
6.500
+5.500
-2.000
+550%
-23,52
Tổng doanh số cho vay
9.850
17.441
22.980
26.280
+16430
+3.300
166,80
+14,36
32
* 2.2 - Thu nợ . Đơn vị: Triệu đồng
Năm 2000 tăng, giảm
Chỉ tiêu
Năm 1995
Năm 1998
Năm 1999
Đến
Số tiền
Tỷ lệ
30.9.2000
So 1995
So 1999
So 1995
So 1999
1- Thu nợ vốn tín dụng Thương mại
2.480
8.740
11.480
15.980
+13.500
+4.500
5.544,3
+39,19
Trong đó: + Kinh tế Quốc doanh
500
2.360
800
830
330
+ 30
+ 66
+ 3,75
+ Kinh tế Hợp tác xã
90
380
2.600
0
- 90
-2.600
- 100
0
+ Doanh nghiệp tư nhân
600
2.300
2.420
3.400
+2.800
+1.980
+466,66
+139,43
+ Cho vay khác
200
500
480
80
-120
- 400
- 60
- 83
+ Hộ sản xuất
1.090
3.200
6.180
11.670
+10.580
+5.490
+970,64
+88,83
Trong đó riêng hộ nông dân
954
3.200
4.680
7.820
+6.866
+3.140
+ 719,7
+ 61,09
2- Thu nợ NH phục vụ NN
0
2.001
6.500
3.500
+3.500
+3.000
0
-46,15
Tổng cộng doanh số thu nợ
2.480
10.741
17.980
19.480
+17.000
+1.500
+685,48
+8,34
36
2.3 - Dư nợ : Đơn vị : Triệu đồng .
Năm 2000 tăng, giảm
Chỉ tiêu
Năm 1995
Năm 1998
Năm 1999
Đến
Số tiền
Tỷ lệ
30.9.2000
So 1995
So 1999
So 1995
So 1999
1- Dư nợ vốn tín dụng Thương mại theo thành phần kinh tế
10.500
13.200
16.200
20.000
+ 9.500
+ 3.800
+ 90,47
+ 23,45
Trong đó: Quốc doanh
2.500
1.100
900
1.050
- 1.450
+ 150
- 58
+ 16,67
Tỷ trọng
21,73%
6,05%
3,87%
3,5%
+ Hợp tác xã
900
1.400
1.900
2.100
+ 1.200
+ 200
+ 133,34
+ 10,52
Tỷ trọng
7,82%
7,69%
8,19%
7%
+ Doanh nghiệp tư nhân
1.900
2.600
3.100
3.500
+ 1.600
+ 400
+ 84,21
+ 12,90
Tỷ trọng
16,7%
14,28%
13,36%
11,66%
+ Cho vay khác
300
500
380
600
+ 300
+ 200
+ 100
+ 57,89
Tỷ trọng
3%
2,75
1,65%
2%
+ Hộ sản xuất
4.900
7.600
9.920
12.750
+ 7.850
+ 2.830
+ 160,20
+ 28,52
Tỷ trọng
42,6%
41,76%
42,76%
42,5%
Trong đó: Hộ nông dân
3.400
6.000
8.020
1.050
+ 7.100
+ 2.480
+ 208,82
+ 30,92
Tỷ trọng
29,56%
32,96%
34,57%
35%
2- Dự nợ tín dụng NHPVNN
1.000
5.000
7.000
10.000
+ 9.000
+ 3.000
+ 900
42,85
Tỷ trọng
8,69%
27,4%
30,17%
33,34%
Tổng dư nợ .
11.500
18.200
23.200
30.000
18.750
6.800
163,04
29,31
* Chỉ tiêu cho vay hộ sản xuất (có cả số liệu NHPVNN): Đơn vị: Triệu đồng
Năm 2000 tăng, giảm
Chỉ tiêu
Năm
Năm
Năm
Đến
Số tuyệt đối
Tỷ lệ %
1995
1998
1999
30.9.2000
So 1995
So 1999
So 1995
So 1998
1- Lượt hộ vay
2.500
4.300
5.450
7.300
+ 4.800
+ 1.850
+ 192%
+ 33,94%
Trong đó: Hộ nông dân
1.600
2.670
4.000
5.690
+ 4.290
+ 1.690
+ 268,12%
+ 42,25%
2- Số tiền bình quân lượt hộ vay (triệu đồng)
0,7
3,5
4
5
+ 4,3
+ 1
+ 614,28%
+ 25%
Trong đó: Hộ nông dân
0,4
2,3
2,8
3
+ 2,6
+ 0,2
+ 650 %
7,14%
3- Số hộ còn dư nợ cuối kỳ
2.030
3.400
4.090
5.120
+ 3.090
+ 1.030
+ 152,21%
+ 25,18%
4- Bình quân 1 hộ sản xuất vay (triệu đồng).
0,8
2,85
3,5
3,8
+ 3
+ 0,3
+ 375%
+ 8,57%
Trong đó: Hộ nông dân
0,6
2,4
2,7
3,2
+ 2,6
+ 0,5
+ 433,34%
+ 15,62%
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28199.doc