Luận văn Một số vấn đề về cổ phần hoá Ngân hàng Thương mại Nhà nước ở Việt Nam

Trong cuốn Luận văn này, tôi đã cố gắng trình bầy khái quát về bản chất của cổ phần hoá, những cái được và chưa được trong tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đồng thời nêu lên những khó khăn thách thức, vướng mắc trong tiến trình cổ phần hoá Ngân hàng Thương mại Nhà nước. Cuối cùng tôi xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hoá Ngân hàng Thương mại Nhà nước ở Việt Nam trong thời gian tới.

doc75 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1291 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số vấn đề về cổ phần hoá Ngân hàng Thương mại Nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NN. Về nguyên tắc, khi bán một doanh nghiệp cũng như một tài sản, nếu doanh nghiệp đố lành mạnh về tài chính thì thị trường sẽ có mức kỳ vọng cao hơn và ngược lại. Do đó, tình trạng tài chính của các NHTMNN càng xấu thì quá trình CPH sẽ rất phức tạp. Chi phí lành mạnh hóa tài chính NHTMNN cần dược xem như một khoản đầu tư mà có mức sinh lời rất cao đối với chủ sở hữu nhà nước. Thứ tư, đó là vấn đề sắp xếp và bố trí lao động. Một trong những tồn tại của hệ thống NHTMNN là bộ máy tổ chức hoạt động cồng kềnh, kém hiệu quả. Khi thực hiệnCPH, hạn chế này sẽ được khắc phục thông qua việc tỏ chức lại bộ máy quản lý, hoạt động tinh gọn hiệu qủa. Quy nhiên quá trình này lại làm phát sinh một bộ phận lao động dôi ra. Đây là vấn đề đặc biệt quan tâm khi tiến hành CPH NHTMNN. Ngoài ra khi tiến hành quá trình CPH còn có một số vướng mắc sau: Khi thu hút vốn bằng cách phát hành cổ phiếu ra công chúng với số lượng lớn, mỗi ngân hàng cần bổ sung hàng nghìn tỷ đồng trong khi đó còn rất nhiều DNNN ở những ngành kinh doanh dịch vụ có hiệu qủa cũng phát hành cổ phiếu, cùng với việc Nhà nước mỗi năm phát hành hàng nghìn tỷ đồng trái phiếu…Tất cả nếu chỉ dựa vào phát hành cổ phiếu trong nước thì không những gây sức ép lớn đến cung cầu vốn thị trường trong nước mà còn không cho phép chuyển giao công nghệ hiện đại vào Việt Nam. Sau khi CPH làm sao tạo được môi trường kinh doanh và thị trường cho các NHCP trong khi hiện nay, thị TTCK còn hết sức mỏng và quy mô nhỏ bé. Khác với các doanh nghiệp khác, hoạt động ngân hàng có liên quan đến số đông công chúng trong xã hội. Do vậy cần phải có thời gian để tạo cho khách hàng của ngân hàng có những phản ứng phù hợp trước những biến động của giá cổ phiếu. NHCP cần phải thông qua công khai một số chỉ tiêu tài chính, bắt buộc phải đáp ứng nguyên tắc “công khai, minh bạch” để khách hàng và nhà đầu tư biết được tình trạng hoạt động của ngân hàng, đồng thời nâng cao chất lượng quản trị, hoạt động hiệu quả bền vững. 2.3.2 – Điều kiện thực hiện CPH NHTMNN. Thực hiện CPH đối với NHTM là vấn đề mới của ngành Ngân hàng, do đó sẽ có những khó khăn nhất định. Việc thực hiện CPH NHTMNN cần rút kinh nghiệm từ CPH các DNNN, không thực hiện chủ quan, nhưng cũng không được chậm chễ, do đó khi thực hiện cả từ phía Ngân hàng và phía nhà nước cần đảm bảo những điều kiện sau: Về phía ngân hàng Quy mô vốn của NH CPH phải luôn luôn đảm bảo được yêu cầu tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% trên tổng tài sản có, đây là một chuẩn mực quốc tế không thể thiếu được. Xây dựng một NH CPH có năng lực tài chính tương đối lành mạnh để có thể cạnh tranh trên thị trương quốc tế. Điều này có nghĩa là các ngân hàng phải xử lý các khoản nợ tồn đọng, đặc biệt nhà nước phải có cơ chế xử lý dứt điểm các khoản nợ theo chủ trương như nợ cho vay thanh toán công nợ, nợ khoanh...và cần phải xác định chính xác giá trị thực tế của ngân hàng được CPH, đưa ra mức giá phù hợp mà người mua và cả người bán đều có thể chấp nhận được. Minh bạch trong điều hành, quản trị và kiểm soát nội bộ các hoạt động ngân hàng. Có mạng lưới gọn nhẹ, số lượng nhân viên vừa phải, cơ cấu tổ chức và quản trị điều hành đang từng bước đổi mới theo tiêu chuẩn quốc tế. Xác định chiến lược kinh doanh ngân hàng. Các nội dung khác của tiến trình CPH mặc dù được chuẩn bị tốt đến đâunhưng nếu không xác định được mục tiêu, chiến lược phát triển kinh doanh của ngân hàng thì cũng không thể đánh giá được tầm quan trọng của ngân hàngđược CPH, cũng như không thể làm cơ sở xác định được hiện giá ròng trong tương lai của ngân hàng. Vì vậy NHTM CPH phải xây dựng được chiến lược kinh doanh mới theo thông lệ quốc tế và là một ngân hàng đa năng với các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại như thanh toán, kinh doanh ngoại tệ, đầu tư tài chính, thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, thị trường mua bán nợ...Bên cạnh đó, cũng phải đảm bảo được hoạt động kinh doanh của ngân hàng được CPH theo nguyên tắc thị trường, đáp ứng được các chuẩn mực quốc tế. Hiệu quả kinh doanh, mức độ sinh lời tương đối tốt. Về phía nhà nước: Có một khuôn khổ pháp lý rõ ràng, minh bạch, nhất quán, đồng bộ phù hợp với tình hình hoạt động của các DNNN, đặc biệt là các NHTMNN. Những văn bản pháp lý về quyền của chủ sở hữu, chủ nợ, cổ đông, hạch toán kế toán, kiểm toán, an toàn vốn…phải được xây dựng theo thông lệ quốc tế và phù hợp với Luật pháp Việt Nam. Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn trong kinh doanh tiền tệ-ngân hàng. Giải quyết nợ tồn đọng đi đôi với việc tăng cường những chế định pháp lý, kinh tế và hành chính về nghĩa vụ trả nợ của người đi vay và bảo vệ quyền thu nợ hợp pháp của người cho vay. 2.4 – Tiến trình CPH NHTMNN: 2.4.1 – Hoàn chỉnh về mặt pháp lý Các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về CPH các DNNN bao gồm: Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 về việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần . Thông tư số 76/2002/TT-BTC ngày 9/9/2002 của Bộ tài chính về hướng dẫn những vấn đề tài chính khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Thông tư số 79/2002/TT-BTC ngày 12/9/2002 của Bộ tài chính về hướng dẫn xác định giá trị doanh nghiệpkhi chuyển DNNN thành công ty cổ phần Thông tư số 80/2002/TT-BTC ngày 12/09/2002 của Bộ tài chính hướng dẫn bảo lãnh phát hành và đấu giá cổ phần ra bên ngoài của các DNNN thực hiện CPH. Chỉ thị số 11/2004/CT-TTg ngày 30/03/2004 của Thủ tướng chính phủ về việc đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới DNNN theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết trung ương 9 (khoá IX) và tổ chức triển khai việc thực hiện Luật Doanh Nghiệp. Thông tư số 40/2004/TT-BTC ngày 13/05/2004 của Bộ Tài Chính hướng dẫn kế toan khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần Thông tư số 43/2004/TT-BTC ngày 20/05/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn xử lý lỗ phát sinh từ thời điểm xác định giá trị donah nghiệp đến thời điểm DNNN chính thức chuyển thành công ty cổ phần. Các văn bản nêu trên đã tạo thành cơ sở pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Tuy nhiên NHTMNN là một tổ chức DNNN đặc biệt, do vậy khi áp dụng các văn bản trên cho việc thực hiện CPH các NHTMNN, thì gặp rất nhiều vướng mắc về mặt pháp lý: Thứ nhất: Thiếu các quy định phù hợp với việc CPH các NHTMNN. Hầu hết các văn bản nêu trên chỉ phù hợp với CPH các DNNN thông thường, mà chưa tính đến việc CPH các NHTMNN. Hệ thống văn bản pháp luật hiện hành về CPH các NHTMNN như: - Chưa có quy định cụ thể về xác định giá trị doanh nghiệp của các NHTMNN, nhất là xác định giá trị thương hiệu. Do vậy việc xác định chính xác giá trị của các NHTMNN đang là khó khăn rất lớn khi thực hiện CPH các NHTMNN . - Các quy định về xử lý các vấn đề tài chính của DNNN khi CPH chưa phù hợp với các NHTMNN, như xử lý nợ tồn đọng của các NHTMNN, xử lý các khoản phải thu, phải trả. Do vậy để thực hiện thành công việc CPH các NHTMNN, Chính phủ và các bộ, ngành liên quan cầ sửa đổi, bổ sung các văn bản hiện hành theo hướng có tính đến các đặc thù của việc CPH các NHTMNN. Thứ hai: Hình thức cổ phiếu bán ra công chúng của các NHTMNN. Trong thời gian vùa qua, khi xây dựng đề án CPH của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng có dự định sẽ phát hành cổ phiếu ưu đãi trước khi phát hành cổ phiếu phổ thông, với các đặc điểm là chủ sở hữu không có quyền tham gia quản trị, điều hành, không có quyền biểu quyết. Tuy nhiên phương án phát hành cổ phiếu ưu đãi của các NHTMNN nảy sinh một số vướng mắc sau: -Theo các quy định hiện hành của luật doanh nghiệp, công ty cổ phần phải có cổ phiếu phổ thông, do vậy khi các NHTMNN chưa có cổ phiếu phổ thông thì sẽ chưa chuyển sang hình thức công ty cổ phần và như vậy mục tiêu chuyển đổi hình thức hoạt động của NHTMNN chưa thực hiện được thông qua việc phát hành cổ phiếu ưu đãi. - Cũng theo quy định hiện hành của Luật doanh nghiệp, quyền phát hành cổ phiếu ưu đãi chỉ thuộc về công ty cổ phần. Do vậy khi chưa chuyển sang công ty cổ phần, các NHTMNN không thể phát hành cổ phiếu ưu đãi. - Theo Luật doanh nghiệp, công ty cổ phần có thể phát hành các loại cổ phiếu ưu đãi như cổ phiếu ưu đãi về biểu quyết, hoàn lại và cổ tức. Trong đó cổ phiếu ưu đãi về hoàn lại và ưu đãi về cổ tức không có quyền biểu quyết, tham dự đại hội cổ đông, đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát. Như vậy, cổ phiếu ưu đãi của ngân hàng ngoại thương dự định phát hành sẽ là cổ phiếu ưu đãi về cổ tức. Tuy nhiên cũng theo Luật Donah nghiệp, cổ phiếu ưu đãi về cổ tức sẽ nhận được mức cổ tức hàng năm cao hơn cổ phiếu phổ thông nhận dược mức cổ tức cố định hàng năm (gồm 2 phần là mức cổ tức cố định và mức cổ tức thưởng). Do vậy nếu lựa chọn hình thức phát hành cổ phiếu ưu đãi về cổ tức , thì khi xây dựng phương án phát hành cổ phiếu, các NHTMNN phải tính toán mức cổ tức hợp lý, dù hấp dẫn nhà đầu tư nhưng không quá cao so với kết quả kinh doanh của ngân hàng. Do vậy mức cổ phiếu ưu đãi nên được xây dựng thành 2 phần: phần cố định theo mức lãi suất trái phiếu dài hạn và Phần ưu đãi tuỳ theo kết qủa hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Thứ ba: Để đạt được mục đích chuyển đổi hình thức kinh doanh sang mô hình công ty cổ phầnthực sự hiệu quả hơn so với mô hình DNNN thì các văn bản hướng đãn thi hành Luật Doanh nghiệp. Luật các tổ chức tín dụng về quản lý các tổ chức và quản trị các ngân hàng thương mại cổ phần phải được chỉnh sửa phù hợp với thông lệ quốc tế tốt nhất về quản trị ngân hàng , hạn chế sự can thiệp hành chính của các cơ quan quản lý nhà nước vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong quan hệ với các ngân hàng thương mại đã CPH, Ngân hàng nhà nước cần phải xác định rõ và tách biệt hai tư cách: Một là, cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động ngân hàng; Hai là, người đại diện chủ sỏ hữu phần vốn nhà nước tại các ngân hàng này. Với tu cách là cơ quan quản lý nhà nước, Ngân hàng nhà nước có quyền cấp, thu hồi giấy phếp hoạt động, mở chi nhánh, phê chuẩn điều lệ, thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Ban kiểm soát, thanh tra, kiểm tra hoạt động ngân hàng …Với tu cách là người đại diện chủ sở hữu phần vốn nha nước, Ngân hàng nhà nước có quyền cử đại diện phần vốn nhà nước tại ngân hàng. Thông qua người đại diện này, Ngân hàng nhà nước có thể quyết định phương hướng, kế hoạch kinh doanh của ngân hàng thông qua cơ chế hoạt động của Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị của ngân hàng. 2.4.2 – Hình thức CPH Mức vốn nhà nước giữ vai trò điều phối Hiện nay có 4 hình thức CPH : Một là giữ nguên vốn nhà nước hiện có tại NHTMNN, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn; Hai là bán một phần vốn nhà nước hiện có tại ngân hàng; Ba là bán toàn bộ vốn hiện có của nhà nước tại ngân hàng ; Bốn là thực hiện các hình thức 2 hoặc 3 kết hợp với phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn từ các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và các nhân người Việt Nam trong nước. Xuất phát từ chức năng hoạt động của ngân hàng nói chung là một ngành kinh tế tổng hợp có tác động rất lớn đến nền kinh tế, là nơi thực thi các chính sách tiền tệ để thực hiện các công cụ quản lý vĩ mô của nền kinh tế, trong đó hệ thống NHTMNN giữ vai trò chủ đạo trong việc thực thi các chính sách tiền tệ. NHTMNN khi thực hiện CPH tuy hình thức chủ sở hữu có sự thay đổi nhưng vai trò chủ đạo trong việc triển khai thực hiện chính sách tiền tệ vần không thay đổi mà tiếp tục phát huy dưới hình thức mới được điều hành bởi một Hội đồng quản trị theo cơ chế quản lý phù hợp. Vì vậy nhất thiết NHTMNN khi thực hiện CPH vốn nhà nước tham gia phải nắm vai trò điều phối với tỷ lệ tối thiếu 51%. Chúng ta nên thực hiện bán một phần vốn nhà nước kết hợp với việc phát hành rộng rái cổ phiếu trên TTCK và kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài để thu hút vốn. Sau khi đánh giá, định giá lại giá trị vốn nhà nước, phải xác định mức vốn chủ sở hữu cần phải có theo hệ số CAR hiện thời và giá trị vốn nhà nước được đánh giá, định giá lạ giá trị tương ứng đạt bao nhiêu theo hệ số CAR đã đạt 51% hay chưa hay nhỏ hơn hoặc vượt qúa mức 51%. Nếu nhỏ hơn 51% thì nhà nước không nên nắm giữ cổ phần chi phối; nếu lớn hơn 51% thì xem xét tốc độ phát triển về quy mô sau khi CPH vốn điều lệ sẽ phải tăng như thế nào và mấy năm thì vốn nhà nước xuống dưới mức 51% để xác định số năm nhà nước giữ cổ phần chi phối và sau đó nếu nhà nước khong cấp tiếp vốn nữa thì nhà nước bắt đầu không cần giữ cổ phần chi phối. Về cơ sở quy định tỷ lệ tối đa 30% cho vốn cổ đông nước ngoài Vấn đề đặt ra tại sao tỷ lệ này không phải là 20%, 25%,35% hoặc 40% mà chỉ là 30%. Bởi vì căn cứ vào mức vốn hiện nay thì các NHTMNN khi thực hiện CPH thì số vốn điều lệ cũng phải 6000 tỷ, do đó tỷ lệ 30% tương ứng với mức tối thiểu 1800 tỷ (khoảng 120 triệu USD) là một con số khá lớn, nhưng không phải như quy định 30% vốn điều lệ mà các tổ chức, cá nhân nước ngoài được phép tham gia. Nhưng tuỳ thuộc vào tính chất đặc thù, loại hình hoạt động, đối tượng khách hàng phục vụ chủ yếu và sản phẩm ngân hàng cung ứng của từng NHTM mà có quy định cụ thể: VCB và BIDV mức tối đa 30%, các hệ thống NHTMNN khác tối đa 25%. Bởi vì VCB chủ yếu là hoạt động thanh toán quốc tế, thực hiện các dịch vụ thanh toán, kinh doanh ngoại tệ trên thị trường quốc tế, rất cần các yếu tố nước ngoài để mở rộng mạng lưới hoạt động ra thị trường nước ngoài; vì vậy đối với loại hình này khi CPH cần thiết phải mở rộng vốn góp của cổ đông nước ngoài nhưng ở mức khống chế 30%. Đối vơi BIDV là loại hình ngân hàng chủ yếu đầu tư vào các dự án lớn với thời gian trung gian dài, cũng rất cần những nguồn vốn lớn, cỏ thời gian trung dài hạn, cần sự hỗ trợ và kinh nghiệm thẩm định các dự án lớn; vì vậy đối với các loại hình này khi CPH cũng cấn mở rộng vốn góp của cổ đông nước ngoài nhưng ở mức khống chế 30%. Lộ trình CPH . Tiến trình CPH phải được thực hiện một cách thận trọng, sau thí điểm một hoặc hai ngân hàng phải có những tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm theo từng giai đoạn, nhất là cơ sở pháp lý cho việc thực hiện CPH sẽ có nhiều điểm mới mà khi thực hiện CPH các DNNN chưa tính đến. -Bước 1:Trước hết thực hiện bán cổ phiếu đặc biệt để tăng vốn điều lệ, tăng cường năng lực tài chính cho các NHTMNN. Trong bước này, các NHTMNN có thể tiến hành CPH một số dơn vị thành viên là các công ty trực thuộc hoặc chi nhánh của mình. -Bước 2: Thay đổi cơ cấu vốn chủ sở hữu nhưng chưa thay đổi tính chất về tổ chức và hoạt động của NHTMNN, thông qua phát hành cổ phiếu ưu đãi để tăng vốn chủ sở hữu (vốn cấp 1) -Bước 3: CPH toàn bộ NHTMNN. Sau khi đã hoàn chỉnh được đề án CPH tổng thể NHTMNN, có phương án khả thi xác định giá trị doanh nghiệp , đánh giá cụ thể những kết quả đạt được thông qua 2 bước trên, sẽ tiến hành CPH toàn bộ đối với NHTMNN. Định hướng phát triển hoạt động đối với các NHTM trong diện CPH dự hiến như sau: -Đến cuối năm 2005: Hoàn thành được việc và phát triển ngân hàng theo hướng tăng cường năng lực quản lý, phát triển hợp lý mạng lưới chi nhánh trong nước, đạt mức độ an toán vốn và hiệu quả hoạt động. Từng bước hoàn thiện và xây dựng các quy chế hoạt động theo chuản mực quốc tế. -Từ 2006 đến 2010: Chuyển biến lớn về cơ sở hạ tầng, nguồn vốn, phát triển các loại hình sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại. Phát triển mạng lưới văn phòng đại diện và chi nhánh hoạt động ở nước ngoài, hình thành một NHTM mạnh có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước quốc tế. -Từ năm 2010: Hoạt động NHTM theo chuẩn mực quốc tế kể cả về vốn, quản lý, công nghệ thông tin, đáp ứng nhu cầu về vốn và thanh toán chủ yếu của nền kinh tế, đồng thời khẳng định vai trò nhất định trên thị trường tài chính khu vực và quốc tế. 2.4.3 – Các loại cổ đông, cổ phiếu. Các loại cổ đông: NHTMNN CPH sẽ có các cổ đông là nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, dân chúng (kể cả nhân viên ngân hàng được CPH), cá nhân và tổ chức nước ngoài. Một giới hạn nào đó cho từng loại cổ đông cũng đều có mặt trái và mặt phải của nó. Nếu tính tới nhiều yếu tố (khả năng đầu tiên của công chúng, sự thích ứng dần với cách quản trị loại doanh nghiệp thay đổi hình thức sở hữu, sự mở rộng thị trường cho nhà đầu tư nước ngoài…) có thể đưa ra một số cơ cấu cổ đông có tính chất lộ trình như sau: -Giai đoạn 1 (khoảng 5 năm đầu): Nhà nước nên nắm giữ tỷ lệ vốn 51%, nhà đầu tư nước noài 20%, còn lại dân cư 29%. Cổ phiếu phát hành là cổ phiếu ưu đãi cổ tức (cổ đông không tham gia điều hành). -Giai đoạn 2 (5 năm tiếp): các tỷ lệ tương ứng là 51%, 30% và 19%. Ở 2 giai đoạn này, các NHTMNN và NHTMNN CHP đều phải tăng quy mô vốn chủ sở hữu để vượt qua thời kì mất an toàn nên tuy tỷ lệ nắm giữ của nhà nước tại ngân hàng cổ phần là 51% nhưng nhà nước vẫn cần tái cơ cấu đầu tư từ nguồn lợi tức được chia. Còn cổ đông nước ngoài dù muốn hay không cũng phải được tăng tỷ lệ do việc Việt Nam mở cửa theo lộ trình WTO. -Giai đoạn 3: lúc này các NHTMNN CPH đã giữ được vị trí chủ đạo thì nhà nước không phải giữ tỷ lệ tới 51% mà có thể thấp hơn nhưng cơ cấu nên chia đều cho 3 nhóm cổ đông. Thực ra đây cũng chưa phải là giải pháp tối ưu, vì nhà nước là một chủ sở hữu duy nhất đã nắm giữ tới 1/3 vốn điều lệ thì ít có một thể nhân hay pháp nhân nào có tỷ lệ nắm giữ cao hơn nên nhà nước vẫn giữ quyền chi phối. Một giải pháp mạnh hơn có thể tính đến ở giai đoạn này là nâng mức sở hữu cổ phần của mỗi thể nhân hay pháp nhân (không phải nhà nước) lên ngang mức cổ phần nhà nước (chẳng hạn cùng tới 10%). Như vậy một ngân hàng CPH sẽ trở thành một ngân hàng cổ phần hoàn toàn, có thể tạo ra thế mạnh thực sự, không cần tới sự chi phối của nhà nước. Với những đối tượng nắm giữ trên 5% cổ phần thì người đại diện sở hữu phải có chuyên môn, nghiệp vụ về ngân hàng, tài chính cũng bởi hoạt động ngân hàng là hoạt động nhạy cảm, ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, luôn đòi hỏi một sự am hiểu với những quyết định đúng đắn… Các loại cổ phiếu: Việc đa dạng hoá chủng loại cổ phiếu (cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu phổ thông) vừa tạo tính ổn định, vững chắc vừa tạo nên công cụ để cho các ngân hàng có thể linh hoạt trong việc huy động, kiểm soát, điều chỉnh nguồn vốn bổ sung mới phù hợp với từng giai đoạn. Nếu các ngân hàng chỉ phát hành cổ phiếu ưu đãi cổ tức thì không thể giải quyết triệt để vấn đề sở hữu trong ngân hàng , vì bản chất cổ phiếu ưu đãi cổ tức là nhận lợi tức cố định, cổ đông không tham gia mọi vấn đề trong ngân hàng, không có quyền bầu cử, biểu quyết, điều hành trong hoạt động quản lý ngân hàng. Nguồn vốn cổ phần này tuy được hạch toán vào vốn tự có của ngân hàng, nhưng về mặt lợi tức thì nó như khoản nợ lãi mà ngân hàng phải trả cố định hàng năm. Người lao động gần như không có quyền lợi thực sự trong ngân hàng sau khi CPH mặc dù họ là cổ đông. Vì vậy , đề án chỉ phát hành cổ phiếu ưu đãi của VCB khi CPH chưa phải là phương án tối ưu. Nếu như ngân hàng chỉ phát hành trái phiếu, cho dù nó là trái phiếu dài hạn hay trái phiếu đặc biệt, thì điều này chỉ giải quyết một vấn đề về vốn mà không làm thay đổi sở hữu của ngân hàng, tức là vấn đề CPH không được diễn ra thực chất Cần tính tới việc niêm yết cổ phiếu của các NHTMNN Việt Nam trên TTCK nước ngoài, chứ không chỉ đơn thuần là TTCK trong nước. Phương pháp phát hành cổ phiếu: Giai đoạn tiến hành phát hành cổ phiếu là một mắt xích rất quan trọng cho sự thành công của quá trình CPH các DNNN. Viêc phát hành cổ phiếu ra thị trường cần được chuẩn bị, tính toán chu đáo, công việc được thực hiện dựa trên một số công đoạn cơ bản sau: Lập kế hoạch, phân tích, kiểm tra, kiểm soát, điều chỉnh. Việc phát hành cổ phiếu khi CPH các DNNN có thể được tiến hành theo các phương pháp sau: Phát hành 100% số lượng (hoặc từng loại cổ phiếu) cổ phiếu một lần; chia nhỏ tỷ lệ cổ phiếu (hoặc từng loại cổ phiếu) phát hành theo nhiều lần, nhiều giai đoạn. Việc phát hành cổ phiếu phải được lên kế hoạch rất chi tiết, phù hợp với hiện trạng, chủ trương và nhu cầu về vốn của từng NHTMNN cho từng giai đoạn. Nhu cầu về lượng vốn bổ sung trong từng giai đoạn phải được lên kế hoạch và phải cân đối về số lượng cho từng loại cổ phiếu dự định phát hành, không nên phát hành quá ồ ạt, cũng không nên quá gò bó, khiên cưỡng. Điều cốt lõi là các ngân hàng có thể kiểm soát được quá trình bổ sung vốn mới và luôn sẵn sàng đưa ra các giải pháp để khắc phục, điều chỉnh, thậm chí xây dựng kế hoạch mới phù hợp với từng giai đoạn. 2.4.4 – Xác định giá trị thực tế của NHTMNN Thực tế cho thấy đây là vấn đề khó khăn cho DNNN trong quá trình thực hiện CPH và như vậy đối với NHTMNN khi thực hiện CPH cũng sẽ là vấn đề hết sức khó khăn. Giá trị thực tế của ngân hàng là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của ngân hàng tại thời điểm CPH (đã loại trừ một số tài sản không phải của ngân hàng, một số khoản nợ, khoản đầu tư theo quy định…) có tính đến khả năng sinh lời của ngân hàng mà mà người mua , người bán cổ phần đều có thể chấp nhận được. Giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại ngân hàng là giá trị thực tế của ngân hàng sau khi đã trừ các khoản nợ phải trả và số dư Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi. Chính vì vậy những căn cứ để xác định giá trị thực tế của ngân hàng bao gồm: Số liệu trong sổ sách kế toán của ngân hàng tại thời điểm CPH; số lượng và chất lượng tài sản theo kiểm kê phân loại tài sản thực tế của ngân hàng tại thời điểm CPH; Tính năng kỹ thuật của tài sản, nhu cầu sử dụng và giá thị trường tại thời điểm CPH; Giá trị quyền sử dụng đất, lợi thế kinh doanh của ngân hàng, uy tín của ngân hàng, tính chất độc quyền về sản phẩm dịch vụ, thương hiệu; KHả năng sinh lời của ngân hàng xác định trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Như vậy giá trị của ngân hàng bao gồm giá trị của các yếu tố hữu hình và vô hình. Điều quan trọng là khi CPH ngân hàng cúng ta phải đánh giá một cách chính xác giá trị các yếu tố hữu hình và phải lượng hoá được giá trị các yếu tố vô hình. Do đó cần phải xác định những yếu tố tác động toàn diện giá trị của ngân hàng. Bao gồm những yếu tố sau: KHả năng sinh lợi; Xu thế biến động của lợi nhuận; Tỷ suất lợi nhuận; Sự lành mạnh của tình hình tài chính và khả năng thanh toán; Thực trạng của tài sản hữu hình; Tài sản vô hình; Sự tăng trưởng, mở rộng hoạt động và phát triển; Trình độ và khả năng nhạy bén của cán bộ lãnh đạo và nhân viên; Mục tiêu dài hạn và chiến lược kinh doanh ngân hàng. Trong quá trình định giá NHTMNN, sẽ gặp phải một số vướng mắc sau: Một là, xử lý nợ khó đòi: Về nguyên tắc nợ khó đòi phải loại khỏi giá trị doanh nghiệp CPH. Nếu việc xác định nợ khó đòi theo các chuẩn mực quốc tế của một NHTM nào đó quá cao (chẳng hạn tới 20-30%) thì có còn hấp dẫn nhà đầu tư và liệu chủ sỏ hữu (nhà nước) có chấp nhận ? Hai là, giá trị NHTM được CPH có thế tăng thêm khi đánh giá lại tài sản cố định, trước hết là nhóm bất động sản. Giá trị còn lại (sau khi khấu hao) của các trụ sở, văn phòng, tài sản xiết nợ (nếu đã chuyển thành TSCĐ của NH) phải được tính lại theo giá thị trường chắc chắn sẽ tăng hơn vì giá trị danh nghĩa đã quá lỗi thời. Tuy vậy, liệu khung giá mới theo Luật đất đai mới đã sẵn sàng và hợp lý hay chưa để có thể định giá lại. Ba là, vốn chủ sở hữu cũ (Nhà nước) về nguyên tắc phải là vốn thực. Nhưng thực tế qua 4 đợt bổ sung vốn vừa qua, Nhà nước đã cấp loại trái phiếu đặc biệt cho các NHTMNN. Về bản chất đây chỉ là vốn danh nghĩa (vốn ghi sổ) nên chúng không thể tạo nên giá trị doanh nghiệp. Vậy nhà nước có chấp nhận loại trừ vốn này khỏi giá trị doanh nghiệp để rồi sau khi CPH, vốn không tăng mà lại giảm? Còn nếu không loại trừ thì nhà dầu tư có chấp nhận không? Bốn là, về phương pháp xác định giá trị NHTMNN: Thay vì chỉ áp dụng một phương pháp duy nhất để xác định giá trị doanh nghiệp là phương pháp tài sản như trước đây, nghi định 187 đã quy định kết hợp thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp bằng 3 phương pháp cơ bản sau: Phương pháp tài sản ròng, trong đó định giá doanh nghiệp dựa vào việc xác định giá trị tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp, với sự bổ sung các chuẩn mực trong việc xác định chất lượng tài sản, giá cả tài sản và giá cả lợi thế kinh doanh . Phương pháp chiết khấu dòng tiền căn cứ vào khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong quá khứ và trong tương lai để xác định giá trị doanh nghiệp. Phương pháp đấu giá bán doanh nghiệp và đấu giá bán cổ phần của doanh nghiệp dựa vào sự tính toán của các nhà đầu tư và quan hệ cung cầu trên thị trường để xác định giá trị đúng của doanh nghiệp. Năm là, tính giá trị quyền sử dụng đất (QSDĐ) khi định giá: QSDĐ của nhiều DNNN khi tính theo giá thị trường là rất lớn, thậm chí có khi còn lớn hơn giá trị của tất cả các tài sản khác của doanh nghiệp. Nếu không tình đến giá trị QSDĐ thì DNNN có thể bị định giá quá thấp. Vì vậy nhà nước đã có chủ trương thực hiện tính giá trị QSDĐ khi định giá DNNN để CPH. Tuy nhiên thực hiện chủ trương này trên thực tế còn rất khó khăn do thiếu những quy định cụ thể, chưa có thị trường cũng như các tổ chức định giá chuyên nghiệp. Hơn nữa hiện rất khó có cơ sở để xác định được giá trị của QSDĐ vì theo giá quy định của nhà nước thì khác quá xa so với giá thị trường, còn nếu lấy giá thị trường thì chưa có thị trường chuẩn để tham khảo. Lãnh đạo của các DNNN chuẩn bị CPH thường không đòng tình với chính sách tính giá trị QSDĐ khi định gia để CPH vì như vậy sẽ đẩy giá cổ phần của các DNNN CPH lên quá cao, làm cho họ bất lợi hơn các doanh nghiệp khácvà không hấp dẫn các nhà đầu tư tiềm năng. Các DNNN và tư nhân khác, theo Luật đất đai sửa đổi, vẫn được quyền lựa chọn hình thức giao và thuê đất nên không phải tính gá trị QSDĐ vào giá trị doanh nghiệp, do đó hấp dẫn các nhà đầu tư hơn. Như vậy vô hình chung sẽ tạo ra môi trường kinh doanh bất bình đẳng. Các doanh nghiệp CPH sẽ ở vào vị thế bất lợi hơn so với các doanh nghiệp không CPH. Một số chuyên gia kinh tế cho rằng, giải pháp cho vấn đề này là chỉ áp dụng một cơ chế duy nhất cho thuê đất cho mọi loại hình doanh nghiệp để đảm bảo một môi trương kinh doanh bình đẳng. 2.4.5 – Xử lý nợ và cơ cấu lại các khoản nợ. Hiện nay nợ đọng tại các NHTMNN chiếm tỷ lệ cao nhất so với các hệ thống NHTM khác, xuất phát từ những tồn tại cũ. Do vậy việc xử lý dứt điểm các khoản nợ này không chỉ phải nỗ lực của bản thân NHTMNN là đủ mà nó còn phụ thuộc rất nhiều vào tình hình tài chínhvà khả năng thanh toán của các doanh nghiệp, phụ thuộc vào cơ chế xử lý nợ của Chính phủ, đặc biệt là sự phối hợp đồng bộ của các ngành, các cấp trong việc hỗ trợ ngân hàng thu hồi nợ. Đây là vấn đề bức xúc của các ngân hàng hiện nay. 2.4.6 – Chính sách Trong bất cứ hình thức nào dù là hoạt động quản lý, hoạt động kinh doanh thì yếu tố con người luôn là vấn đề quan trọng nhất quyết định sự thành công hay thất bại của đơn vị. Với ý nghĩa này khi thực hiện CPH đối với ngân hàng thì phải luôn tạo điều kiện và có chế độ ưu đãi đối với người lao động. Rút kinh nghiệm từ việc CPH các DNNN vừa qua còn cào bằng về quyền lợi và chưa tạo điều kiện hỗ trợ cho họ được mua vốn cổ phần. Do đó khi CPH các NHTMNN có những quy định tạo điều kiện cho CB-CNV-người lao động theo hướng: - Số cổ phần tối đa cho mỗi năm làm việc thực tế được mua với giá ưu đãi được giảm so với mệnh giá ban đầu. - Người lao động sở hữu số cổ phần được mua theo giá ưu đãi có quyền được thừa kế và các quyền khác của cổ đông theo quy định của pháp luật và Điều lệ tổ chức, hoạt động của ngân hàng được CPH. - Người lao động nghèo trong doanh nghiệp CPH được mua chịu cổ phần theo giá ưu đãi, được hoãn trả trong 3 năm đầu và trả dần tối đa trong 7 năm tiếp theo không phải chịu lãi suất. 2.4.7 – Tài chính Toàn bộ chi phí CPH bao gồm cả chi phí định giá theo quy định hiện hành của Bộ tào chính là không được phép vượt qua 500 triệu đồng. Đây là một trở ngại đối với những doanh nghiệp lớn, ví dụ chí phí định giá cho một DNNN trị giá khoảng 500 tỷ VNĐ, theo mức cố định hiện hành (0,1%) đã hết 500 triệu VNĐ, trong khi đó để CPH, doanh nghiệp còn cần phải chi trả phí kiểm toán, phí bán đấu giá cổ phiếu, công bố thông tin đại chúng… Trước khi tiến hành định giá để CPH, DNNN phải xử lý các tồn tại về tài chính, bao gồm xác định lại các khoản nợ. Đây là một trong những khó khăn phổ biến đối với nhiều doanh nghiệp vì có nhiều khoản nợ đã quá hạn quá lâu, hồ sơ nhiều khi không được lưu giữ đầy đủ, không xác định được con nợ hoặc con nợ đã giải thể… - Trước hết đó là tính phức tạp trong thời gian xác định nợ phải thu. Do tính chất của NHTM là trung gian tài chính đi vay để cho vay nên số lượng và mức độ các khoản vay là rất lớn dẫn đến việc các NHTM phải thực hiện thanh lý các hợp đồng thuê, mượn, nhập vốn liên doanh, liên kết…hoặc thoả thuận lại với chủ sở hữu tài sản để công ty cổ phần kế thừa những hợp đồng đã ký hoặc ký lại hợp đồng và quy định “đối chiếu, xác nhận, thu hồi và xử lý các khoản nợ phải thu trước khi CPH “ như quy định hiện hành về CPH. Chính vì vậy quả trình này sẽ rất phức tạp, ảnh hưởng xấu đến tân lý khách hàng và hoạt động bình thường của ngân hàng. - Tiếp là hiện nay các khoản nợ quá hạn và nợ xấu của các NHTMNN khá lớn, trong khi đó dự phòng rủi ro không bù đắp các khoản nợ quá hạn, nợ xấu này, nên nếu các ngân hàng thực hiện quy định: “đối với các khoản nợ phải thu quá hạn khác thì doanh nghiệp có thể bán cho tổ chức kinh tế có chức năng mua bán nợ” và phần tổn thất từ việc bán nợ được dùng nguồn dự phòng để bù đắp, nếu thiếu thì phần chênh lệch được trừ vào phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Nếu vậy phần vốn nhà nước tại ngân hàng sẽ bị giảm đi khá nhiều hoặc để đảm bảo giữ phần vốn nhà nước thì chính phủ phải có cơ chế bù đắp cho ngân hàng để xử lý các khoản nợ này trước khi CPH. Đồng thời chính phủ phải xem xét lại cơ chế chính sách và tình hình nợ đọng chuyển sang cho ngân hàng được CPH kế thừa. Hiện nay con nợ lớn nhất của các NHTMNN chính là khu vực DNNN, trong đó rất nhiều doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, tình hình tài chính kém lành mạnh, thuộc diện phải giải thể hoặc phá sản nhưng không thể phá sản…nhưng chưa đến hạn phải trả và đây sẽ là gánh nặng mà ngân hàng sẽ phải kế thừa sau khi CPH. CHƯƠNG 3 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY CỔ PHẦN HOÁ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1 – Một số định hướng đẩy mạnh CPH NHTMNN ở Việt Nam: 3.1.1 – Lành mạnh hoá tài chính trước khi CPH NHTMNN. Đây là yêu cầu có tính nguyên tắc trong quá trìng CPH để đảm bảo cổ phiếu của các NHTMNN phát hành ra được công chúng đón nhận với mức giá tốt. Bì vậy Chính phủ cần có chương trình lành mạnh hoá tài chính, đồng thời hoàn thành xử lý căn bản nợ xấu của các NHTMNN trước khi tiến hành định giá và phát hành cổ phiếu. Nguồn tài chính để xử lý nợ xấu của các NHTMNN chủ yếu từ NSNN và một phần lấy từ dự phòng rủi ro nợ khó đòi, bởi vì quy mô nợ xấu của các NHTMNN lớn trong khi khả năng trích lập dự phòng rủi ro hàng năm lại nhỏ. Nợ xấu của các NHTMNN hiện nay chủ yếu liên quan tới các khoản vay thương mại, do đó cần phải tiến hành đánh giá và phân loại nợ theo mức độ rủi ro để có kế hoạch xử lý. Trong đó: - Chuyển các koản nợ xấu có tài sản bảo đảm sang Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp. - Dùng nguồn dự phòng rủi ro trích lập được để xử lý các khoản nợ xấu không có tài sản bảo đảm. - Tích cực bán tài sản bảo đảm của các khoản nợ đã chuyển sang công ty AMC của các NHTMNN, có thể chấp nhận bán với giá thấp hơn để thu hồi vốn sớm, phần chênh lệch (thiếu) so với nợ gốc sẽ được khấu trừ vào phần vốn hiện có của nhà nước tại NHTMNN - Phát hành trái phiếu chính phủ để tạo nguồn cho lành mạnh hoá tái chính của các NHTMNN. Sau CPH, các NHTMNN tự chịu trách nhiệm trong việc duy trì quy mô và tốc độ tăng trưởng tài sản và vốn tự có để bảo đảm thực hiện nghiêm túc tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%. Trong đó cần cho phép các NHTMNN tính các trái phiếu dài hạn vào vốn tự có để xác định chỉ tiêu an toàn vốn. 3.1.2 – CPH phải đi liền với việc xây dựng nền kinh tế thị trường và gắn liền với thị trường chứng khoán (TTCK): Để đạt được diều này cần giải quyết nhũng vấn đề sau: Giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhà nước và doanh nghiệp (bao hàm cả NHTM). Không đánh đồng doanh nghiệp với nhà nước. Là 2 chủ thể quan trọng trong nền kinh tế, song doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh, mục tiêu là tối đa lợi nhuận, trong khi nhà nước là cơ quan quản lý, có nhiệm vụ quy trì sự phát triển ổn định bền vững của toàn bộ nền kinh tế. Điều kiện để mỗi chủ thể này hoàn thành tốt sứ mệnh của mình trong nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào nhà nước. Một môi trường kinh doanh bình đẳng cùng với sự tôn trọng quyền tự chủ của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế là những điều mà các doanh nghiệp mong đợi từ phía nhà nước. Tạo môi trương kinh doanh thực sự mang tính thị trường. Điều này đảm bảo sự có mặt không hạn chế của các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau trrên thị trường, sự tự do tham gia các hoạt động kinh doanh không bị pháp luật ngăn cấm và điều quan trọng hơn là sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp . Mọi sự ưu đãi của nhà nước dành cho DNNN (bao gồm cả NHTMNN) chỉ tạo nên những ưu thế cạnh tranh giả tạo trên thị trường. Tình hiệu qủa của thị trường bị vô hiệu hoá bởi sự méo mó của thị trường. Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp sau khi CPH bị đối xử khác hẳn với khi còn là DNNN. Mọi sự ưu đãi mất theo CPH, trong khi chuẩn bị cho một cơ chế hoạt động mới lại chưa thật đầy đủ. Chính vì không vượt qua được thách thức này mà nhiều vị lãnh đạo DNNN đã kém hào hứng khi thực hiện CPH doanh nghiệp của mình. CPH cần đựoc gắn ngay từ đầu với thị trường. Rất nhiều khâu từ định giá chứng khoán, tổ chức phát hành lần đầu ra công chúng…đều phải công khai minh bạch. Việc bán cổ phiếu, trái phiếu ngân hàng cần được công khai rộng rãi ra công chúng và CPH phải được gắn với niêm yết trên TTCK. Tình trạng cổ phiếu khép kín, vốn đi liền với CPH DNNN lâu nay, cần sớm khắc phục. Để gắn CPH với hoạt động TTCK, khâu định giá ban đầu chứng khoán của CTCP là rất quan trọng. Định mức giá quá cao có thể làm giảm tính hấp dẫn của nhà đầu tư đối với cổ phiếu của doanh nghiệp . Nhưng một mức giá được chào bán quá thấp, không chỉ thiệt hại cho doanh nghiệp mà còn có thể gây ra cơn sốt giá chứng khoán không đáng có cho thị trường. Cả 2 khuynh hướng trên đều cần và có thể khắc phục được. Việc xác định giá phải tuân thủ theo nguyên tắc khách quan, minh bạch và chuyên nghiệp. Phần lớn các DNNN khi CPH đều có vốn nhỏ (khoảng dưới 20 tỷ đồng), nên nhà nước cho phép doanh nghiệp tự xác định giá trị mà không cần đến các tổ chức định giá. Còn các NHTMNN có số vốn lờn hơn rất nhiều (vốn của VCB khoảng 106000 tỷ đồng). Như vây việc thuê tổ chức tài chính nước ngoài định giá là hết sức cần thiết. Khi CPH được gắn chặt với TTCK, các mục tiêu CPH được thực hiện tốt, TTCK cũng có điều kiện để phát triển một cách vững chắc. Do đó, một mặt TTCK giúp quá trình CPH diễn ra nhanh hơn. Mặt khác, các CTCP được hình thành và lớn mạnh từ CPH sẽ là nguồn cung ứng hàng hoá dối dào và nuôi dưỡng sức sống cho TTCK. Khi đã trông cậy nguồn vốn ban đầu, cũng như nguồn bổ sung từ TTCK, các thông tin về hoạt động tài chính doanh nghiệp buộc phải luôn hấp dẫn minh bạch. Đây là cơ chế buộc các doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả và nền kinh tế luôn lựa chọn được những doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Như vậy để đoạn tuyệt nhanh chóng cơ chế bao cấp , sớm tạo môi trường bình đẳng cho các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh cần được coi là điều kiện đảm bảo sự thành công của CPH NHTMNN hiện nay. 3.1.3 – Luôn trung thành với mục tiêu CPH trong suốt quá trình triển khai: Đây là một vấn đề không nên xem thường. Bởi thực tế CPH DNNN đã bị xa rời. Nhìn chung mục tiêu đặt ra cho mỗi doanh nghiệp thông qua CPH cần đạt được là: - Tạo chế tổ chức và quản lý tối ưu, phát huy tính năng động sáng tạo của doanh nghiệp, gắn thành quả lao động với quyền lợi vật chất của người lao động trong doanh nghiệp. Từ đó nâng cao năng lực hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Tạo cơ chế huy động vốn từ thị trường. Từ đó nâng cao năng lực tài chính cho doanh nghiệp. Khi 2 vấn đề này đạt được, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp sẽ được nâng cao, không chỉ trên thị trường trong nước mà còn trên cả thị trường quốc tế, tạo tiền đề vững chắc để các doanh nghiệp Việt nam hội nhập khu vực và quốc tế. Tuy nhiên sau hơn 10 năm thực hiện CPH DNNN đã không đạt được những mục tiêu đã đề ra. Điều này phản ánh sự trì trệ trong nhận thức và quyết tâm đối với cải cách DNNN, nhưng cũng cho thấy các doanh nghiệp chưa tìm thấy mục tiêu hiện hữu từ quá trình CPH. Nếu 2 mục tiêu đề ra cho CPH đạt được thì không có lý do gì để các doanh nghiệp không thúc đẩy nhanh quá trình CPH, bởi vì đó là điều kiện sống còn của các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường. Tuy nhiên các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả vẫn tồn tại. Nghịch lý này là hiện thực bởi vẫn còn những ưu đãi bất hợp lý từ phía nhà nước đối với một số doanh nghiệp trong việc cấp vốn và việc chậm chạp trong việc đưa ra những giải pháp khắc phục. Như vậy phải chăng càng mở rộng CPH chúng ta càng xa rời mục tiêu ban đầu đặt ra. Rút kinh nghiệm từ quá trình CPH DNNN trong hơn 10 năm qua, ngay từ những ngày đầu tiên trong quá trình CPH các NHTMNN, việc xây dựng các đề án CPH phải luôn bám sát mục tiêu và nhiệm vụ của của quá trình CPH DNNN nói chung và CPH NHTMNN nói riêng. 3.2 – Giải pháp thúc đẩy CPH NHTMNN. 3.2.1 – Xác định giá trị doanh nghiệp và tiến hành kiểm toán quốc tế. Không nên định giá các NHTMNN thông qua Hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp do cơ quan có thẩm quyền quyết định CPH DNNN thành lập. Cho phép các NHTMNN được tiến hành kiểm toán quốc tế và các định giá trị doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế. Tốt nhất, nên thuê công ty kiểm toán quốc tế và ngân hàng đầu tư kinh nghiệm và uy tín thế giới, kinh nghiênk về CPH DNNN ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam và Trung Quốc. Trong những năm gần đây, một số NHTMNN đã xây dựng cho mình uy tín và thương hiệu trong và ngoài nước. Việc định giá thương hiệu, lợi thế kinh doanh và các tái sản trí tuệ khác của các NHTMNN như thế nào là vấn đề phức tạp, nhờ đến các chuyên gia có kinh nghiệm và trình độ trong lĩnh vực này. 3.2.2 – Tìm kiếm nhà đầu tư chiến lược. Tìm kiếm và lựa chọn những nhà đầu tư chiến lược hay cổ đông chiến lược của NHTMNN là các TCTD có tiềm lực tái chính, công nghệ, thị trường và có chiến lược kinh doanh phù hợp với NHTMNN. Ưu tiên các nhà đấu tư chiến lược là các ngân hàng nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài được phép tham gia quản trị, điều hành NHTMNN. Đây là giải pháp quan trọng góp phần bảo đảm thực hiện không chỉ mục tiêu cổ phiếu hoá NHTMNN: -Thu hút vốn đầu tư lớn từ các nhà đầu tư có tiềm lực tái chính, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. -Nâng cao trình độ công nghệ, quản trị điều hành kinh doanh. -Mở rộng thị trường. Đối với những ngân hàng mà công nghệ lạc hậu và năng lực quản trị điều hành còn yếu thì đây là giải pháp hết sức quan trọng để nhanh chóng tạo ra những thay đổi căn bản về năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên để đảm bảo không chỉ mục tiêu là thu hút vốn đầu tư thì cần phải tính đến những yếu tố pháp lý như tỷ lện nắm giữ vốn và những cam kết , ràng buộc (như cam kết chuyển giao công nghệ ngân hàng hiện đại, thời gian tối thiểu phải nắm giữ cổ phiếu, quy định về chuyển nhượng cổ phiếu) đối với nhà đầu tư chiến lược. Trên thực tế chúng ta cần tính đền động cơ của nhà đầu tư nói chung là lợi nhuận (do hoạt động của công ty đem lại và chênh lệch giá vốn thu được chuyển nhượng cổ phiếu). Nếu khoản đầu tư của nhà đầu tư chiến lược vào các NHTMNN không đem lại lợi nhuận như họ kỳ vọng thì khả năng chuyển nhượng cổ phần là có thể xảy ra. Vấn đề thứ hai là chúng ta kỳ vọng ở nhà đầu tư chiến lược chuyển giao những công nghệ quản trị ngân hàng hiện đại nhưng thực ra đây là vấn đề khó xác định. Kinh nghiệm từ các ngân hàng liên doanh cho thấy mục tiêu này không nên quá kỳ vọng. Một số NHTMNN (ví dụ VCB) hiện nay đã đạt được trình độ công nghệ tương đối hiện đại, ngang tầm với các ngân hàng trong khu vực, thì cần tính toán kỹ việc lựa chọn đối tác chiến lược khi CPH, bởi một câu hỏi đơn giản rằng các nhà đầu tư chiến lược sẽ gia tăng giá trị được bao nhiêu cho ngân hàng này. Thực tế, thay đổi văn hoá kinh doanh của một doanh nghiệp là vấn đề chiến lược lâu dài và hiện đại hoá công nghệ, quản trị ngân hàng đều thực hiện được nếu nguồn lực tài chính sẵn sàng và có đội ngũ cán bộ có năng lực. 3.2.3 – Phát hành cổ phiếu ra công bằng đấu giá cổ phiếu và gắn CPH với niêm yết chứng khoán. Thủ tướng chính phủ chỉ đạo trong chỉ thị số 11/2004/CT-TTg rằng “cần đẩy mạnh bán cổ phiếu theo phương thức bán đầu giá thông qua thị trường chứng khoán…, không CPH khép kín trong nội bộ doanh nghiệp”. Đây là một bước tiến quan trọng về thực tiễn hành động nhằm đảm bảo sự bình đẳng về quyền lợi của nhà đầu tư, giá trị doanh nghiệp sẽ được thị trường định đoạt, tránh các hiện tượng tiêu cực trong phát hành cổ phiếu. Điều này sẽ tạo điều kiện cho những doanh nghiệp muốn niêm yết ngay sau CPH. Việc bán cổ phiếu cho cán bộ công nhân viên làm việc tại các NHTMNN cũng cần được đối xử như bán cho các nhà đầu tư khác. Những tài sản hình thành từ quỹ phúc lợi và số quỹ khen thưởng, phúc lợi đến thời điểm CPH thuộc về người lao động của NHTMNN. NHTMNN có thể dung tiền từ quỹ phúc lợi, khen thưởng để mua cổ phiếu chia cho người lao động hoặc phân chia trực tiếp tiền từ quỹ phúc lợi, khen thưởng cho người lao động để tuỳ họ sử dụng. Người lao động chỉ được hưởng quyền ưu tiên mua cổ phần theo giá hình thành qua đấu giá cổ phiếu. Không áp dụng bất cứ hình thức ưu đãi về giá nào trong IPO các cổ phiếu của các NHTMNN. Chỉ giành quyền ưu tiên mua trước đối với người lao động và nhà đầu tư chiến lược theo tỷ lệ quy định. Cổ phiếu của các NHTMNN cần được niêm yết ngay sau khi CPH nhằm thúc đẩy sự phát triển của TTCK và tính minh bạch trong hoạt động của các NHTMNN, góp phần bảo vệ nhà đầu tư. Một số NHTMNN có năng lực tài chính tốt, cần tiến tới niêm yết cổ phiếu trên TTCK khu vực nhằm nâng cao uy tín và hình ảnh của ngân hàng Việt Nam trên thị trường tài chính quốc tế. 3.2.4 – Mở rộng đối tượng mua cổ phiếu của NHTMNN. CPH NHTMNN là chủ trương lớn và thu hút một khối lượng vốn lớn từ công chúng, do đó cần mở chương trình giáo dục ý thức và cuộc vận động để khuyến khích công chúng đầu tư vào các NHTMNN. Mọi tổ chức và cá nhân đều có quyền mua cổ phiếu của các NHTMNN, đông thời khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu từ vào cổ phiếu của các NHTMNN. Cho phép các nhà đầu tư chiến lược nắm giữ tới 30% tổng số cổ phần trong các NHTMNN sau CPH, đồng thời cho phép các nhà đầu tư chiến lược tham gia quản trị, điều hành ngân hàng. 3.2.5 – Tạo môi trường pháp lý cần thiết cho sự ra đời và hoạt động của các NHTNCP: Đây là vấn đề hết sức quan trọng nhằm đảm bảo quá trình chuyển các NHTMNN sang hình thức NHTMCP diễn ra trong trật tự pháp luật và không gây xáo trộn về tổ chức và hoạt động của ngân hàng. Những văn bản cần hoàn thiện để tạo khuôn khổ pháp lý cho CPH NHTMNN: Sửa đổi tiêu chí,danh mục phân loại sắp xếp DNNN và quy định về tỷ lệ vốn Nhà nước tham gia trong cơ cấu vốn phát hành lần đầu tại Quyết định 58/2002/QĐ-TTg và chỉ thị 01/2003/CT-TTg theo nguyên tắc: Nhà nước chỉ nắm giữ 100% vốn ở doanh nghiệp hoạt động trực tiếp trong các lĩnh vực an ninh, quốc phòng và những doanh nghiệp có vị trí đặc biệt trong một số ngành quan trọng của nền kinh tế như hệ thống truyền tải điện, trực thông tin, các doanh nghiệp hoạt động có tính chất đặc thù Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn do Thủ tướng chính phủ quyết định.Các doanh nghiệp còn lại đều có thể thực hiện CPH hoặc đa dạng hoá sở hữu theo tinh thần Nghị quyết TW 9-khoá IX. Sửa đổi cơ chế CPH, sắp xếp lại doanh nghiệp tại Nghị định 104/1999/NĐ-CP;Thông tư số 79/2002/TT-BTC; Nghị định 49/2002/NĐ-CP; Nghị định 64/2002/NĐ-CP theo hướng: Mở rộng đối tượng CPH theo tinh thần Nghị quyết TW 9 –khoá IX; thu hẹp đối tượng nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối theo hướng không căn cứ vào quy mô vốn mà căn cứ vào tính chất ngành nghề kinh doanh hoặc vị trí của doanh nghiệp đối với sự phát triển của vùng, lãnh thổ. Đổi mới phương thức định giá doanh nghiệp , bỏ cơ chế định giá thông qua hội đồng, thực hiện định giá thông qua các tổ chức kế toán , kiểm toán, thuê tư vấn tài chính trong nước, ngoài nước để tạo điều kiện nâng cao uy tín, tính công khai minh bạch và nâng giá trị doanh nghiệp, hạn chế tổn thất cho nhà nước khi CPH. Bổ sung giá trị hữu hình và vô hình, giá trị quyền sử dụng đất…vào giá trị doanh nghiệp để thực hiện bán cổ phần hoặc bán đấu giá doanh nghiệp. Đổi mới phương thức bán cổ phiếu doanh nghiệp CPH theo hướng: đấu giá niêm yết thông qua trung tâm giao dịch chứng khoán (kể cả lần đầu đối với các DNNN có quy mô lớn, có đủ tiêu chuẩn và điều kiện niêm yết). Đấu giá bán trực tiếp đối với những doanh nghiệp có quy mô nhỏ thông qua hội đồng đấu giá; người lao động được dành 30% số cổ phiếu bán ra để mua với giắu đãi (<=50% giá giao dịch) và bỏ quy định bắt buộc sau 3 năm mới được bán cổ phiếu ra. Ban hành Nghị định về chuyển đổi các NHTMNN thành các NHTMCP. Quy định các phương pháp định giá trị doanh nghiệp KẾT LUẬN Chủ trương tiến hành mạnh mẽ việc CPH các DNNN trong đó bao gồm doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm…là một trong những nội dung được Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 9 – khoá IX đề cập. Chỉ thị số 11/2004/CT-TTg ngày 30/3/ về đẩy mạnh, sắp xếp, đổi mới DNNN theo tinh thần nghị quyết TW 3, nghị quyết TW 9 và tổ chức triển khai thực hiện luật DNNN. Thủ tướng chính phủ đã giao ngân hàng nhà nước Việt Nam chủ trì phối hợp với Bộ tài chính và các cơ quan có liên quan xây dựng đề án CPH VCB, MHB để trình Thủ tướng chính phủ xem xét. Trong cuốn Luận văn này, tôi đã cố gắng trình bầy khái quát về bản chất của cổ phần hoá, những cái được và chưa được trong tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đồng thời nêu lên những khó khăn thách thức, vướng mắc trong tiến trình cổ phần hoá Ngân hàng Thương mại Nhà nước. Cuối cùng tôi xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hoá Ngân hàng Thương mại Nhà nước ở Việt Nam trong thời gian tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO TS. Phạm Thanh Bình – “Cổ phần hoá Ngân hàng thương mại nhà nước: Lộ trình và giải pháp”, xuất bản 8/2004. Th.S Trịnh Hữu Hạnh, Th.S Tạ Huy Đăng –“Xác định giá trị doanh nghiệp tại Việt Nam-lý luận, thực trạng và giải pháp”, tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 320-tháng 1/2005. Th.S Phạm Long –“Bàn về cổ phần hoá các Ngân hàng thương mại”, tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng số 4 (7+8/2004). Nguyễn Duy Lộ - “Bàn về xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước –VIETCOMBANK trong công cuộc cổ phần hoá”, NHNT số 138+139 (1+2/2005). PGS. TS. Trịnh Thị Hoa Mai –“Cổ phần hoá Ngân hàng thương mại Nhà nước-Sự cần thiết và những vấn đề đặt ra”, tập chuyên san của tạp chí Ngân hàng12/2004. Trần Ngọc Minh – “Cổ phần hoá Ngân hàng thương mại Nhà nước-điều kiện cần và đủ”, xuất bản 8/2004. Th.S Vũ Văn Sơn –“Một số giải pháp tài chính thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá DNNN”, tạp chí Tài Chính tháng 10/2004. Lê Thị Băng Tâm –“Cổ phần hoá đang bước vào giai đoạn tăng tốc...”, báo tài chính tháng 3/2005. Đặng Trần –“VIETCOMBANK-Thương hiệu mạnh của ngành Ngân hàng Việt Nam”, tạp chí Doanh Nghiệp và Thương Hiệu. Nguyễn Khắc Việt Trung –“Nâng cao năng lực cạnh tranh, đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập”, tạp chí ngân hàng-số 2/2005. LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CỔ PHẦN HOÁ CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC (CPH NHTMNN) 3 1.1 – Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước. 3 1.1.1 – Lợi ích đạt được từ việc CPH DNNN ở Việt Nam: 5 1.1.2– Những tồn tại trong quá trình CPH DNNN: 7 1.2 – Cổ phần hoá Ngân hàng thương mại nhà nước 8 1.2.1 – Lợi ích từ việc CPH NHTMNN: 9 1.2.1.1 – Đối với ngân hàng: 9 1.2.1.2 – Lợi ích đối với quốc gia: 11 1.2.2 – Kinh nghiệm CPH NHTMNN ở một số Quốc gia trên thế giới: 13 1.2.2.1 – Lý do Chính phủ tiến hành CPH NHTM thuộc sở hữu Nhà nước: 13 1.2.2.2 – Kết quả đạt được sau khi cổ phần hoá: 15 1.2.2.3 – Kinh nghiệm Ba Lan về CPH NHTMNN: 15 1.2.2.4 – Kinh nghiệm của Trung Quốc: 18 CHƯƠNG 2 TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM 25 2.1 – Khái quát chung về hoạt động của NHTMNN Việt Nam: 25 2.1.1 – Thực trạng hoạt động của các NHTMNN trước năm 2001: 25 2.1.2 – Cơ cấu tài chính, nhân lực, tổ chức NHTMNN giai đoạn 2001-2004 26 2.1.2.1 – Năng lực tài chính: 27 2.1.2.2 – Về nguồn nhân lực 32 2.1.2.3 – Về cơ cấu tổ chức. 33 2.1.2.4 – Kết qủa cơ cấu lại tài chính đến tháng 6/2004. 34 2.1.3 – Những bất cập về cơ cấu lại tài chính NHTMNN. 35 2.1.3.1 – Cơ chế, chính sách : 35 2.1.3.2 – Thực trạng của các DNNN: 35 2.1.3.3 – Năng lực tài chính của các NHTMNN 35 2.1.3.4 – Nguyên nhân tồn tại. 36 2.2 – Mục tiêu của CPH NHTMNN Việt Nam: 38 2.2.1 – Tăng tiềm lực tài chính: 38 2.2.2 – Tăng tính cạnh tranh, hiệu quả và giảm độc quyền 39 2.2.3 – Tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nhà nước 40 2.2.4 – Cải thiện mạnh mẽ năng lực quản trị, điều hành NHTMNN. 40 2.3 – Điều kiện để có CPH NHTMNN Việt Nam: 41 2.3.1 – Khó khăn khi tiến hành CPH: 41 2.3.2 – Điều kiện thực hiện CPH NHTMNN. 42 · Về phía ngân hàng 43 · Về phía nhà nước: 43 2.4 – Tiến trình CPH NHTMNN: 44 2.4.1 – Hoàn chỉnh về mặt pháp lý 44 2.4.2 – Hình thức CPH 47 2.4.3 – Các loại cổ đông, cổ phiếu. 50 2.4.4 – Xác định giá trị thực tế của NHTMNN 52 2.4.5 – Xử lý nợ và cơ cấu lại các khoản nợ. 55 2.4.6 – Chính sách 55 2.4.7 – Tài chính 56 CHƯƠNG 3 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY CỔ PHẦN HOÁ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 58 3.1 – Một số định hướng đẩy mạnh CPH NHTMNN ở Việt Nam: 58 3.1.1 – Lành mạnh hoá tài chính trước khi CPH NHTMNN. 58 3.1.2 – CPH phải đi liền với việc xây dựng nền kinh tế thị trường và gắn liền với thị trường chứng khoán (TTCK): 59 3.1.3 – Luôn trung thành với mục tiêu CPH trong suốt quá trình triển khai: 61 3.2 – Giải pháp thúc đẩy CPH NHTMNN. 62 3.2.1 – Xác định giá trị doanh nghiệp và tiến hành kiểm toán quốc tế. 62 3.2.2 – Tìm kiếm nhà đầu tư chiến lược. 62 3.2.3 – Phát hành cổ phiếu ra công bằng đấu giá cổ phiếu và gắn CPH với niêm yết chứng khoán. 63 3.2.4 – Mở rộng đối tượng mua cổ phiếu của NHTMNN. 64 3.2.5 – Tạo môi trường pháp lý cần thiết cho sự ra đời và hoạt động của các NHTNCP: 65 KẾT LUẬN 67 TÀI LIỆU THAM KHẢO 68

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0275.doc
Tài liệu liên quan