Luận văn Một số vấn đề về thông tin đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay – Thực trạng và giải pháp

Hiện nay và trong những năm tiếp theo, Việt nam có nhiều cơ hội nhưng cũng có những thách thức mới trong việc thực hiện mục tiêu trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Thành tựu của 20 năm đổi mới làm cho thế và lực của nước ta lớn mạnh hơn nhiều so với trước đây, tạo tiền đề cần thiết đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chúng ta đã mở rộng được các quan hệ hợp tác quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, tạo thêm nhiều thuận lợi cho công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế với nhịp độ nhanh hơn. Tuy nhiên, nước ta đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, diễn biến phức tạp: Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại; sự tác động của suy thoái kinh tế thế giới, những khó khăn trong điều tiết nền kinh tế vĩ mô, thiếu kinh nghiệm trong tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia giải quyết những vấn đề quan trọng về hòa bình, an ninh của khu vực và thế giới. Trong khi đó, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ, tìm cách lũng đoạn về kinh tế, gây mất ổn định về chính trị, hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong bối cảnh như vậy, để đưa đất nước ta phát triên nhanh, ổn định, bền vững phải biết tranh thủ và tận dụng thời cơ; coi trọng hơn nữa việc giới thiệu quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt Nam. Tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi, sự hợp tác, giúp đỡ của các nước trên thế giới, đòi hỏi tăng cường và đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin đối ngoại nói chung, công tác thông tin đối ngoại phục vụ kinh tế nói riêng, xây dưng chiến lược thực hiện phù hợp với tình hình trong thời kỳ mới.

doc82 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1894 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số vấn đề về thông tin đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay – Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơ bị thu hẹp thị phần và quy mô phát triển ngay trên thị trường trong nước trong điều kiện không còn được bảo hộ của Nhà nước như trước đây. Giờ đây, các doanh nghiệp phải tuân thủ nghiêm ngặt luật lệ kinh doanh quốc tế, sẽ dễ bị thua thiệt trong kinh doanh và hợp đồng thương mại, thường xuyên đối mặt với các vụ kiện tụng trong hoạt động thương mại quốc tế… Để phục vụ cho yêu cầu đổi mới và nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, công tác thông tin đối ngoại phục vụ cho phát triển kinh tế tham gia tập trung vào một số vần để chính như sau: Một là, nâng cao năng lực quản lý điều hành, trình độ tổ chức quản trị kinh doanh của các doanh nghiệp, đào tạo đội ngũ quản trị doanh nghiệp chuyên nghiệp có trình độ cao đáp ứng đòi hỏi của cơ chế thị trường cạnh tranh toàn cầu. Thực tế năng lực quản lý điều hành hiện nay cho thấy, các doanh nghiệp của tư nhân phát triển đến một quy mô nhất định là lúng túng, thậm chí đổ vỡ, còn các doanh nghiệp nhà nước thì lúng túng trong tìm tòi mô hình tổ chức mới thích hợp hơn và còn chịu sự can thiệp mang tính hành chính của nhiều cơ quan quản lý các cấp, làm giảm tính năng động, sáng tạo của doanh nghiệp. Hai là, các doanh nghiệp cần có chiến lược nghiên cứu khoa học – công nghệ, phát triển sản phẩm mới, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam hiện đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới 2 – 3 thế hệ; 76% máy móc, dây chuyền công nghệ nhập thuộc thế hệ 1950 – 1960; 75% thiết bị đã hết khấu hao; 50% là thiết bị tân trang. Sự lạc hậu về công nghệ và kỹ thuật tạo ra chất lượng sản phẩm thấp, không ổn định và giá thành cao, khiến cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc lựa chọn mặt hàng kinh doanh và cạnh tranh bằng giá. Các doanh nghiệp phải quan tâm nhiều hơn đến việc xây dựng chiến lược sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường, tạo ra những sản phẩm đặc thù, có kiểu dáng, hơn nữa cần chú trọng đến việc đăng ký bảo hộ bản quyền nhãn hiệu, mẫu mã hàng hóa và phải tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ của các nhà sản xuất khác, nhất là nhà sản xuất nước ngoài. Đây là lĩnh vực mà doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều bỡ ngỡ, bị người nước ngoài lợi dụng, là những bài học đắt giá cho các doanh nghiệp Việt Nam. Ba là, đẩy mạnh hoạt động quảng bá và xúc tiến thương mại, nghiên cứu thị trường. Hiện tại, có rất ít doanh nghiệp xây dựng được chương trình quảng bá và xúc tiến thương mại để giới thiệu sản phẩm cho khách hàng, do thiếu chuyên gia về quảng cáo, nên chất lượng quảng cáo rất thấp. Có tới 50% doanh nghiệp không quảng cáo vì lí do chi phí quảng cáo quá lớn, 25% doanh nghiệp không tiến hành quảng cáo do quy mô doanh nghiệp nhỏ nên chưa có nhu cầu quảng cáo. Bên cạnh đó, phải coi trọng đào tạo đội ngũ công nhân đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh, lao động có năng xuất cao có tác phong công nghiệp hiện đại, hiện nay nguồn lực lao động là một lợi thế của doanh nghiệp Việt Nam về khía cạnh chi phí thấp, trình độ học vấn tương đối cao, cần cù và khéo tay. Tuy nhiên, trong thực tế lao động Việt Nam có năng suất chỉ ở mức trung bình và thấp (chỉ bằng khoảng 60%) so với năng suất trung bình của các nước trong khu vực, chưa có tác phong công nghiệp hiện đại, chi phí lao động của Việt Nam cao hơn nhiều so với Inđônêxia, Thái Lan, Malaysia, Singapore. Bốn là, các doanh nghiệp Việt Nam cần nghiên cứu, tìm hiểu sâu hơn về luật lệ kinh doanh quốc tế, về thị trường để hạn chế rủi ro, thua thiệt trong quan hệ kinh doanh với đối tác nước ngoài và các vụ kiện tranh chấp thương mại quốc tế. Để vượt qua thách thức này, ngoài sự tự nỗ lực vươn lên của bản thân doanh nghiệp thì rất cần sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng của Nhà nước cũng như của tổ chức hiệp hội doanh nghiệp thông qua việc cung cấp thông tin, bồi dưỡng kiến thức về luật pháp quốc tế, phát triển các dịch vụ tư vấn hỗ trợ… Năm là, theo số liệu của Tổng cục Thông kế, tính đến năm 2004, cả nước có 72.012 doanh nghiệp thực tế hoạt động với tổng số vốn là 1.724.558 tỷ đồng. Trong số đó, DNNN chiếm 59,1% tổng số vốn của doanh nghiệp cả nước (1.018.615 tỷ đồng), doanh nghiệp dân doanh chiếm 19,55% (337.155 tỷ đồng), doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 21,44% (368.788 tỷ đồng). Bởi vậy, nếu quy đổi và so sánh với các doanh nghiệp nước ngoài thì các doanh nghiệp Việt Nam còn rất nhỏ bé, cần liên kết chặt chẽ với nhau thông qua những hợp đồng, xác lập quan hệ thương mại ổn định, tạo nên những hệ thống phân phối ổn định và rộng khắp, tạo điều kiện để sản phẩm hàng hóa Việt Nam lưu thông thông suốt. Mặt khác, phải cùng nhau xây dựng các hiệp hội ngành hàng để có tiếng nói chung trong bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp, cũng như góp phần tư vấn cho Chính phủ trong việc xây dựng cơ chế, chính sách trong nước và chiến lược, sách lược đàm phán quốc tế về thương mại. Các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp cần có các hoạt động tư vấn, cung cấp thông tin thị trường cho doanh nghiệp thành viên của mình, cũng như mọi đối tượng khác có yêu cầu. 2.2. Nguyên nhân, kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra cho công tác thông tin đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế: 2.2.1. Nguyên nhân những tồn tại trong hoạt động thông tin đối ngoại phục vụ kinh tế: Nguyên nhân thành tựu: Được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Đảng, Nhà nước (Chỉ thị số 11 - CT/TW ngày 13 - 6 - 1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII, Thông báo số 188 - TB/TW ngày 29 - 12 - 1998 của Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII về đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại; Chỉ thị số 10/2000/CT - TTg ngày 26 - 4 - 2000 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại...), công tác thông tin đối ngoại trong hoạt động kinh tế đối ngoại của các ngành, các cấp, các địa phương đã có nhiều chuyển biến tích cực. Thứ nhất, lực lượng thông tin đối ngoại đông đảo. Hầu hết các ngành, các cấp ở Trung ương và địa phương cũng đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại trong các hoạt động kinh tế đối ngoại. Điều này trước hết xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của hội nhập và phát triển kinh tế. Trong tiến trình đàm phán gia nhập AFTA, APEC, WTO... hay các hiệp định thương mại song phương và đa phương, các hoạt động tuyên truyền, vận động ngoại giao được phối hợp triển khai theo nhiều hình thức khác nhau, từ các chuyến thăm cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước cho đến các chuyến thăm và làm việc của các đoàn cán bộ các Bộ ngành hữu quan, cử đoàn đàm phán kết hợp vận động ngoại giao ở các nước đối tác. Các báo cáo thường niên cho các tổ chức kinh tế - thương mại như WB, ADB, IMF... cũng là dịp để chúng ta tuyên truyền, quảng bá những thành tựu của Việt Nam. Không chỉ có Bộ Văn hóa - Thông tin, Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Thương mại, Ủy ban Quốc gia về Hội nhập kinh tế quốc tế, Tổng cục Du lịch..., ngay trong ngành ngoại giao, với chủ trương "ngoại giao phục vụ kinh tế"... Thứ hai, xác định đúng đối tượng và nội dung của thông tin đối ngoại. Quán triệt Chỉ thị số 11 - CT/TW ngày 13 - 6 - 1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII, Thông báo số 188 - TB/TW ngày 29 - 12 - 1998 của Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII về đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại; Chỉ thị số 10/2000/CT - TTg ngày 26 - 4 - 2000 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại..., các lực lượng làm công tác thông tin đối ngoại đã tập trung vào đối tượng và nội dung của công tác này trong hoạt động kinh tế đối ngoại như sau: Đối tượng: Các tổ chức quốc tế; Các quốc gia có quan hệ kinh tế với Việt Nam; Các hiệp hội (trong lĩnh vực kinh tế); Các doanh nghiệp (nước ngoài); Người tiêu dùng các sản phẩm xuất khẩu, kể cả sản phẩm du lịch; Các cơ sở đào tạo, nghiên cứu về kinh tế; Các tổ chức có chức năng cung cấp thông tin; Nội dung: - Đường lối, chính sách và thành tựu đổi mới toàn diện của Việt Nam, những chủ trương quan trọng của ta nhằm giải quyết một số vấn đề lớn hoặc đáng chú ý về kinh tế, chính trị, xã hội...; - Chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng, Nhà nước; - Những khả năng to lớn của Việt Nam trong quan hệ hợp tác với các nước, tổ chức kinh tế quốc tế; - Đất nước, con người, lịch sử và nền văn hóa lâu đời, hết sức phong phú của Việt Nam. Thứ ba, phương thức thông tin đối ngoại được đa dạng hóa. Sự phát triển của khoa học - công nghệ, kinh tế - xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị có thể thực hiện công tác thông tin đối ngoại theo nhiều phương thức khác nhau. Cho tới nay, nhiều tỉnh, thành, ngành đã xây dựng trang web trên Internet, đưa thông tin kinh tế đến đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước. Đã có nhiều bộ sách, đĩa CD, VCD được xuất bản ra các thứ tiếng, giới thiệu về đường lối, chính sách, kinh tế - xã hội, văn hóa, đất nước, con người Việt Nam. Chúng ta đã gửi thông điệp ra thế giới rằng Việt Nam không chỉ sẵn sàng là bạn mà còn là đối tác tin cậy với các nước. Thông điệp này thay thế một cách tích cực những khẩu hiệu mà chúng ta đã xây dựng trước đây. Nếu như trong thời kỳ bị thực dân, đế quốc xâm lược, tuyên bố của chúng ta là: "Việt Nam là một nước độc lập"; và ở giai đoạn xây dựng đất nước cũng như thời kỳ đầu hội nhập thế giới, chúng ta luôn khẳng định: "sẵn sàng là bạn"; thì trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, Việt Nam không chỉ sẵn sàng là bạn mà còn là đối tác tin cậy với các nước. Điều đó tạo điều kiện quan trọng để chúng ta hội nhập thế giới nói chung và trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại nói riêng. Thông tin đối ngoại trong lĩnh vực xúc tiến thương mại - đầu tư cũng được chú trọng. Nhiều địa phương, ngành đã chủ động tiếp xúc, quan hệ với các đại diện ngoại giao nước ngoài, các doanh nghiệp và tổ chức quốc tế tại Việt Nam cũng như thiết lập quan hệ hợp tác hữu nghị với các địa phương của nước ngoài, đồng thời tham gia các hội chợ, hội nghị quốc tế về kinh tế, thương mại, qua đó tranh thủ giới thiệu các nội dung thông tin đối ngoại. Có địa phương như Đồng Nai đã thành lập Showroom, trưng bày sản phẩm của những doanh nghiệp đang hoạt động trong các khu công nghiệp, cung cấp những thông tin kinh tế cho các nhà đầu tư nước ngoài có nhu cầu, tạo kênh giới thiệu, xúc tiến thu hút đầu tư. Ngoài ra, Showroom còn in tập giới thiệu đầu tư bằng tiếng Việt, Anh, cung cấp bản tin, danh bạ, tờ bướm cho các nhà đầu tư nước ngoài có nhu cầu tìm hiểu về doanh nghiệp trong khu công nghiệp. Có những địa phương mời đoàn doanh nghiệp nước ngoài trực tiếp đến tham quan, tìm hiểu thực tế tại địa phương mình. Sử dụng nhiều phương thức thông tin đối ngoại trong hoạt động kinh tế đối ngoại cũng được các ngành kinh tế quan tâm. Một ví dụ điển hình là xúc tiến du lịch. Chỉ tính riêng giai đoạn 2002 - 2005, ngành du lịch đã phối hợp với các bộ, ngành khác tổ chức hàng trăm buổi giới thiệu du lịch Việt Nam, tuần Việt Nam, tham gia các hội chợ du lịch lớn tại các thị trường nguồn khách quan trọng như Đức, Thụy Điển, Anh, Pháp, Mỹ, Xingapo, Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ, Ôxtrâylia, Tây Ban Nha, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Campuchia, Thụy Sĩ..., cũng như tham gia nhiều hội nghị, diễn đàn quốc tế về du lịch. Những hoạt động này đã thu hút sự chú ý tham gia của hàng ngàn người dân, các cơ quan thông tin đại chúng nước ngoài, các hãng lữ hành, khách du lịch... Bên cạnh đó, Tổng cục Du lịch đã tổ chức nhiều lễ hội, festival du lịch, một số đã trở thành truyền thống, thành điểm hẹn thường kỳ đối với khách quốc tế, đồng thời cũng là dịp quảng bá về Việt Nam. Bên cạnh đó, ngành du lịch còn đón tiếp hàng trăm đoàn FAMTRIP cho các khách, hãng lữ hành, hãng truyền hình từ các thị trường nguồn tiềm năng như Nhật, Pháp, Hồng Kông, Nga, Thụy Điển, Tây Ban Nha, Mỹ... vào Việt Nam để khảo sát, viết bài về đất nước, văn hóa, con người Việt Nam. Nói chung, những quan điểm, chủ trương đúng đắn của Đảng, những chính sách cụ thể thiết thực của Nhà nước trong lĩnh vực đối ngoại cùng với sự định hướng, chỉ đạo sát sao về thông tin đối ngoại được nêu trong Chỉ thị 11 đã giúp cho việc triển khai thực hiện được thuận lợi, có hiệu quả.Thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới đất nước đã tạo ra thế và lực mới cho Việt Nam trong quá trình hội nhập, phát triển, là cơ sở rất quan trọng trong quá trình quảng báo hình ảnh đất nước.Sự cố gắng, sáng tạo của các lực lượng làm công tác thông tin đối ngoại từ trung ương đến địa phương. Nguyên nhân hạn chế: Mặc dù có sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Đảng, Nhà nước, song công tác thông tin đối ngoại trong hoạt động kinh tế đối ngoại những năm qua còn bộc lộ nhiều tồn tại, yếu kém, thể hiện ở một số mặt sau: Thứ nhất, nhận thức về vai trò, vị trí của thông tin đối ngoại trong hoạt động kinh tế đối ngoại chưa đầy đủ. Mặc dù ý thức được thông tin đối ngoại có vai trò quan trọng trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, nhưng nhận thức được nó quan trọng đến đâu và thực hiện nó như thế nào là một vấn đề khác. Nhiều đơn vị, địa phương vẫn chưa có chiến lược để quảng bá hình ảnh của mình trong thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế; các thông tin đưa ra còn nghèo nàn; chi tiêu cho xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư, du lịch, văn hóa còn ít và chưa thật hiệu quả. Nhiều địa phương chưa chủ động thông tin thường xuyên cho các đối tác nước ngoài đang làm ăn trên địa bàn, chưa giải tỏa kịp thời các thắc mắc của họ về cơ chế, chính sách. Một số đồng chí lãnh đạo các cấp còn ngần ngại tiếp xúc, tránh né, đùn đẩy việc trả lời thắc mắc của các doanh nghiệp và trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài. Công tác kiểm tra, đánh giá hiệu quả hoạt động gần đây mới được bắt đầu. Cơ chế dự trù và xác định nguồn kinh phí, quản lý các nguồn lực dành cho thông tin đối ngoại, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ, đặt hàng xuất bản sản phẩm thông tin đối ngoại... phục vụ kinh tế đối ngoại đều là những vấn đề còn vướng mắc. Trong khối doanh nghiệp, hiện nay chỉ có một số ít doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài làm công tác thông tin đối ngoại. Phần lớn các doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân chưa nhận thức được mối quan hệ biện chứng giữa thương hiệu doanh nghiệp với vị thế của đất nước trong con mắt cộng đồng quốc tế. Thực tiễn và lý luận đều cho thấy, khi vị thế của quốc gia được nâng cao thì vô hình chung đã tạo dựng thêm uy tín cho doanh nghiệp của quốc gia đó. Ngược lại, doanh nghiệp làm ăn tốt sẽ góp phần thu hút sự quan tâm của các đối tác thương mại - đầu tư nước ngoài vào quốc gia mình. Thứ hai, nội dung thông tin chưa sắc bén, chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu đa dạng của các đối tượng của thông tin đối ngoại Thông tin chung về Việt Nam có rất nhiều trên các loại hình sách, báo, nhất là mạng Internet nhưng còn dàn trải, trùng lặp, đơn điệu, thiếu chiều sâu; khi đối tác nước ngoài cần nghiên cứu, đầu tư, buôn bán, du lịch thì còn thiếu những thông tin cần thiết. Việc xuất bản các cuốn sách giới thiệu về thế và lực của địa phương vừa qua được đẩy mạnh, song có tỉnh làm sách thì dày nhưng vô bổ. Vẫn còn rơi rớt những tin, bài chưa phân tích đúng các chính sách kinh tế - xã hội, lộ bí mật thông tin, chưa sát đúng với tư tưởng chỉ đạo trên một số vấn đề quan hệ đối ngoại của ta. Việc đưa lại tin của các hãng, các báo chí nước ngoài đôi khi còn chưa thẩm định kỹ. Nội dung thông tin đối ngoại trong hoạt động kinh tế đối ngoại chưa thật đáp ứng nhu cầu đa dạng của những nhóm đối tượng khác nhau như các nhà du lịch, đầu tư, phóng viên báo chí nước ngoài ở Việt Nam và bà con Việt kiều ở nước ngoài... Thứ ba, phương thức thông tin chưa được khai thác có hiệu quả, đặc biệt là ở các địa bàn ngoài nước Việc chuyển tải sách, báo, tờ rơi... ra bên ngoài tuy có cố gắng nhưng còn chậm đến tay người đọc, làm giảm tính "nóng" của tin tức, đồng thời nội dung chưa thật phù hợp với các đối tượng đa dạng. Để khắc phục nhược điểm trên, chúng ta đã từng bước sử dụng Internet. Tuy nhiên, nhìn chung, phương thức này chưa có chuyển biến lớn về tổ chức cơ sở dữ liệu, nội dung và hình thức các trang thông tin và báo điện tử chưa đáp ứng được nhu cầu và lôi cuốn bạn đọc nước ngoài. Có những trang web của địa phương, ngành được xây dựng rồi để đấy, không được duy trì cập nhật thường xuyên, gây phản cảm cho người truy cập. Các phóng viên, doanh nhân, nghệ sĩ, nhà nghiên cứu, nhà Việt Nam học nước ngoài và đặc biệt là người Việt Nam ở nước ngoài đã được xác định là kênh truyền dẫn, là lực lượng thông tin đối ngoại rất có hiệu quả, nhưng tổ chức khai thác còn yếu, chưa có chiến lược. Thứ tư, chính sách đầu tư và quản lý còn vướng mắc Đầu tư cho nguồn nhân lực là khâu rất yếu. Các địa phương, cơ quan, đơn vị chưa quan tâm đúng mức đào tạo, bồi dưỡng để cử những người có năng lực toàn diện tổ chức điều hành thông tin nói chung và thông tin đối ngoại trong hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng. Khả năng vận động đối tác nước ngoài, cập nhật thông tin cần thiết vào trang web của đơn vị, làm cho sách báo đối ngoại hấp dẫn lên...là những vấn đề còn phải cố gắng nhiều. Nói tóm lại, việc cụ thể hóa một số quan điểm, giải pháp về thông tin đối ngoại đã nêu trong Chỉ thị 11 chưa được quán triệt đầy đủ, kịp thời tới cán bộ, đảng viên và nhân dân; sự phối hợp giữa các cơ quan, lực lượng chủ lực làm công tác thông tin đối ngoại nhiều khi chưa tốt, tính chủ động chưa cao. Sự chống phá của các thế lực thù địch ngày càng phức tạp, tinh vi hơn, trong khi đó công tác thông tin, dự báo của ta còn hạn chế.Đất nước đã có những bước phát triển, lớn mạnh, nhưng đến nay Việt Nam vẫn chưa ra khỏi tình trạng nước nghèo, việc dành nguồn lực cho thông tin đối ngoại đã thiếu lại dàn trải. Đánh giá chung: Sau 15 năm thực hiện Chỉ thị 11, công tác thông tin đối ngoại đã có bước phát triển mạnh mẽ cả về nội dung, hình thức, đối tượng, địa bàn hoạt động, nhờ đó đóng góp quan trọng vào sự ổn định và phát triển của đất nước trên các lĩnh vực. Nhờ có đường lối đối ngoại đúng đắn, rộng mở, sự định hướng thông tin đối ngoại kịp thời đã đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng bị bao vây, cô lập, hạn chế có hiệu quả nhiều âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ chủ quyền, biên giới quốc gia, đẩy mạnh hơn nữa quá trình hội nhập, mở cửa của đất nước bên ngoài. Trên cơ sở đó, tạo điều kiện tăng cường trao đổi thông tin, văn hóa nước ngoài, cải thiện đáng kể hình ảnh của đất nước ở những vùng, địa bàn, đối tượng trọng điểm. Kết quả nổi bật và đáng khích lệ trong hoạt động thông tin đối ngoại còn là sự phát triển mạnh mẽ thu hút đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh các hoạt động du lịch, dịch vụ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, ổn định…Tuy nhiên, so với các yêu cầu, tiềm năng và thành tựu của đất nước sau 20 năm đổi mới, công tác thông tin đối ngoại vẫn chưa phát huy hết thế mạnh của Việt Nam trong bối cảnh mới, chưa tận dụng hết sức mạnh của dân tộc và môi trường quốc tế thuận lợi phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trước yêu cầu mới… 2.2.2. Kinh nghiệm trong công tác thông tin đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế: Từ những thành công và hạn chế của công tác thông tin đối ngoại sau 15 năm thực hiện Chỉ thị 11, có thể nêu lên một số bài học chủ yếu như sau: Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với công tác thông tin đối ngoại. Quá trình mở cửa, hội nhập ngày càng đi vào chiều sâu thì định hướng, chỉ đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động đối ngoại nói chung và công tác thông tin đối ngoại nói riêng càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Đảng và Nhà nước là cơ sở quan trọng để đề ra các chủ trương, giải pháp đúng đắn, có hiệu quả đối với công tác thông tin đối ngoại trong từng thời kỳ. Hai là, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị; kết hợp sức mạnh trong nước và quốc tế trong hoạt động thông tin đối ngoại. Bên cạnh các lực lượng chuyên trách, cần phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, tận dụng môi trường, sức mạnh trong nước và quốc tế để đẩy mạnh và nâng cao hiêu quả thông tin đối ngoại phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ba là, đa dạng hóa nội dung, hình thức, xử lý tốt mối quan hệ giữa điểm và diện, đối tượng và đối tác, giữa thông tin đối nội và thông tin đối ngoại, giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân trong hoạt động thông tin đối ngoại. Bốn là, tận dụng và phát huy thế mạnh của các thành tựu khoa học công nghệ trong hoạt động thông tin đối ngoại, quan tâm đầu tư thích đáng cho các lực lượng làm công tác thông tin đối ngoại. 2.2.3 Những vấn đề đặt ra cho công tác thông tin đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế: Sau nhiều năm tăng trưởng cao, kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn khó khăn. Trong nước, Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang nỗ lực vượt qua những khó khăn trước mắt do những tác động không thuận của kinh tế thế giới và thiên tai liên tiếp, tập trung ổn định kinh tế vĩ mô; đồng thời, đón bắt những thời cơ và thành quả của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo đảm phát triển bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Ðất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới với những yêu cầu cao hơn, trước những cơ hội và thách thức đan xen trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hơn và trong bối cảnh một thế giới biến động nhanh và phức tạp. Quán triệt nhiệm vụ phát triển đất nước, công tác thông tin đối ngoại đã góp phần đẩy mạnh các hoạt động kinh tế với bên ngoài, đưa đất nước hội nhập ngày càng sâu rộng, hiệu quả vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Hợp tác kinh tế đã trở thành một trong những nội dung chính trong các chương trình đối ngoại của lãnh đạo Ðảng, Nhà nước, Chính phủ và QH. Sau khi trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh hơn nữa và đạt được những kết quả cụ thể trong vận động các nước công nhận quy chế thị trường, thúc đẩy và tham gia tạo dựng các khuôn khổ hợp tác kinh tế song phương và đa phương mới, phù hợp lợi ích của ta. Đồng thời, điều đó cũng đặt ra nhiều vấn đề cho công tác này trong thời gian tới: Một là, công tác thông tin đối ngoại phục vụ kinh tế rất cần có những biện pháp cụ thể, thiết thực, hiệu quả, và có trọng tâm, trọng điểm để đưa quan hệ song phương của ta với các đối tác, nhất là các đối tác hàng đầu tiếp tục đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, tăng hàm lượng phát triển; hướng mạnh nội dung các chương trình hợp tác với các đối tác vào việc phục vụ tốt nhất sự phát triển của đất nước, qua đó tạo sự đan xen lợi ích nhiều hơn và xây dựng vị thế tốt nhất để phát huy lợi thế so sánh của nước ta trong hợp tác quốc tế. Cùng với các quan hệ song phương, tiếp tục củng cố và nâng cao vai trò của Việt Nam ở các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế; phát huy vị trí Ủy viên không thường trực Hội Ðồng Bảo An Liên Hợp Quốc và vai trò tích cực của ta trong hợp tác ASEAN; chủ động tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu và khu vực cũng như cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, ổn định, hợp tác bình đẳng giữa các quốc gia. Hai là, triển khai công tác thông tin đối ngoại phục vụ kinh tế thực hiện tốt vai trò đột phá - mở đường, tham mưu, đồng hành và đôn đốc, cùng các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta; tăng cường công tác nghiên cứu, thông tin, dự báo, nhất là cung cấp thông tin kịp thời cho doanh nghiệp khi muốn tham gia đầu tư và xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài để xác nhận đối tác được an toàn và được tiếp cận chính xác về thị trường một cách hiệu quả, giữ được uy tín trong kinh doanh khi hàng hoá VN ra nước ngoài, tích cực đóng góp cho định hướng chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng và phát triển kinh tế nói chung, trong đó có chính sách quản lý kinh tế vĩ mô. Ba là, công cuộc xây dựng đất nước tiếp tục cần đến sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, chúng ta thật sự cần nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của những quốc gia đã đi tiên phong. Chúng ta sẽ không tìm được những đối tác cần thiết nếu không biết quảng bá tiềm năng, quảng bá đường lối cởi mở, sẵn sàng làm bạn với các nước của Việt Nam cũng như chủ trương, chính sách mang tính chiến lược về kinh tế của Việt Nam. Do đó, công tác thông tin đối ngoại phục vụ kinh tế chính là một trong những cách hiệu quả nhất để quảng bá, giới thiệu về hình ảnh Việt Nam cùng những tiềm năng về kinh tế của đất nước. Bốn là, triển khai hiệu quả các biện pháp cụ thể nhằm khắc phục những khó khăn trước mắt đưa nền kinh tế nước ta tiếp tục phát triển vững chắc kết hợp với việc thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ... Đặc biệt, triển khai Chỉ thị của Ban Bí thư về tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới, cần đổi mới và sáng tạo về hình thức, sắc bén và phong phú về nội dung, đa dạng và linh hoạt về cách thể hiện. Tạo bước phát triển mạnh mẽ phục vụ hiệu quả cho việc phát triển kinh tế, góp phần tạo nền tảng tinh thần, gắn kết bền vững các mối quan hệ quốc tế của đất nước và là nhịp cầu hữu nghị đưa Việt Nam ra thế giới; đồng thời chắt lọc, tiếp thu tinh hoa của thế giới. Năm là, công tác thông tin đối ngoại cần gắn liền với việc quy hoạch, đào tạo cán bộ nhằm tạo ra một đội ngũ cán bộ đáp ứng được những yêu cầu đặt ra cho công tác đối ngoại trong thời kỳ mới. Một lực lượng cán bộ đối ngoại mạnh về chuyên môn, trang bị cho mình cả kiến thức nền tảng về kinh tế, vững vàng về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức, sẵn sàng đương đầu với thách thức... là yếu tố then chốt, quyết định thành công của công tác thông tin đối ngoại Việt Nam. Cuối cùng, công tác thông tin đối ngoại phục vụ kinh tế cần chú trọng hơn nữa công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài, đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của dân tộc, gắn bó với đất nước về văn hóa, lịch sử, huyết thống... Thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, công tác thông tin đối ngoại đã tích cực vận động kiều bào xây dựng cộng đồng đoàn kết, hòa nhập và tôn trọng pháp luật sở tại; đồng thời hướng về cội nguồn, đóng góp cho sự nghiệp phát triển đất nước với nhiều hình thức đa dạng như đầu tư về nước, kiều hối (mỗi năm 4 tỉ - 5 tỉ USD), làm cầu nối trong quan hệ với sở tại và đóng góp chất xám để phát triển các mặt khoa học, công nghệ và quản lý tại Việt Nam. CHƯƠNG III PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CHO HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI PHỤC VỤ KINH TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1. Bối cảnh mới, thời cơ và thách thức: Hiện nay, nước ta đang đứng trước bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có những chuyển biến mau lẹ, phức tạp, khó lường. Việt Nam hội nhập sâu rộng, thông tin đối ngoại có nhiều cơ hội nhưng cũng gặp phải những khó khăn, thách thức gay gắt. Sau hơn 20 năm đổi mới, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên rất nhiều, tạo nên thế và lực mới. Việt Nam có vai trò ngày càng tăng ở khu vực và trên thế giới, vị thế tiếp tục nâng cao, đặc biệt với vai trò là Ủy viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc, thành viên của WTO…Mục tiêu nhanh chóng đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 càng đòi hỏi việc giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước ra bên ngoài tốt hơn, đặc biệt là việc giới thiệu tiềm năng, đất nước con người, văn hóa Việt Nam, môi trường chính trị, xã hội ổn định, là một yêu cầu lớn. Trong khi xu hướng hòa bình, hợp tác và hữu nghị vẫn là xu hướng chính trong quan hệ giữa các nước thì những nhân tố bất ổn định, nguy cơ xung đột về sắc tộc, dân tộc, sự chống phá của các thế lực thù địch đang tăng lên. Cộng đồng hơn 3 triệu người Việt Nam ở nước ngoài, đại đa số luôn hướng về đất nước và có khả năng đóng góp nhiều mặt, nhưng vẫn có bộ phận không nhỏ chưa có thông tin đầy đủ về đất nước, thậm chí còn có những nhìn nhận mặc cảm, sai lệch về đất nước. Nhìn tổng quát, thông tin đối ngoại một mặc có điều kiện phát triển, môi trường thông tin và đối tượng thông tin được mở rộng; mặt khác tính phức tạp cũng nhiều hơn. Sự phát triển của công nghệ thông tin đang điễn ra ở quy mô toàn cầu tạo cơ hội tốt để Việt Nam nhanh chóng tiếp cận với công nghệ mới, các kỹ năng, các phương tiện thông tin, kỹ thuật truyền thông hiện đại, những kinh nghiệm tổ chức hoạt động, những cơ sở lý luận mới để từ đó hỗ trợ quá trình đổi mới và phát triển của thông tin nước ta nói chung và thông tin đối ngoại nói riêng. Đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện. Hợp tác và giao lưu văn hóa giữa nước ta với các nước được đẩy mạnh. Đó chính là những tiền đề khích lệ văn hóa nội sinh phát triển, đồng thời có điều kiện thuận lợi tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, tạo ra cơ hội tốt để giới thiệu với bạn bè khắp năm châu những vẻ đẹp độc đáo của nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Toàn cầu hóa trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ, tạo ra những tác động sâu sắc về nhiều mặt cho sự phát triển của mỗi nước. Nền kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi và phát triển cho các quốc gia, dân tộc. Nhưng toàn cầu hóa kinh tế cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Biến đổi khí hậu, bệnh dịch, ô nhiễm môi trường, cạnh tranh kinh tế, thương mại, giành giật tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ… giữa các nước ngày càng gay gắt tác động trực tiếp đến sự ổn định chính trị và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia, khu vực, toàn cầu. Những tác động đó càng lớn và phức tạp hơn ở những nước có nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam. Trong hoàn cảnh đó, yêu cầu của thông tin đối ngoại là phải tham gia tích cực và hiệu quả tuyên truyền đường lối đổi mới, hội nhập, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ rộng mở của nước ta; đấu tranh không khoan nhượng với những âm mưu vu cáo, xuyên tạc của các thế lực thù địch, bôi nhọ chế độ ta. Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề, đòi hỏi sự đầu tư thích đáng cả về nguồn lực vật chất lẫn con người, đặc biệt đòi hỏi sự đột phá về tư duy và cách thể hiện. Giao lưu quốc tế giữa các quốc gia hiện nay là quá trình vừa là hợp tác, vừa đấu tranh, trong đó ngoài đấu tranh về lợi ích kinh thế thì đấu tranh về tư tưởng, quan điểm và văn hóa ngày càng nổi lên, thậm chí có lúc gay gắt. Với những lợi thế vượt trội trong một số lĩnh vực, nhiều nước trong quan hệ quốc tế đang tìm cách áp đặt quan điểm, tư tưởng, văn hóa và lối sống của mình cho những nước khác. Trong điều kiện đó, thông tin đối ngoại của ta đứng trước thách thức là làm sao phải xử lý thỏa đáng mối quan hệ giữa nhu cầu mở rộng, phát triển quan hệ đối ngoại với việc bảo vệ lợi ích quốc gia, nền văn hóa dân tộc. 3.2. Phương hướng cơ bản - Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của thông tin đối ngoại nhằm tiếp tục góp phần làm cho thế giới hiểu rõ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành tựu đổi mới của đất nước, qua đó góp phần đấu tranh chống quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch, cơ hội. - Thông tin đối ngoại góp phần giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội, tăng cường sức mạnh quốc phòng- an ninh, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. - Công tác thông tin đối ngoại phải phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo trong hành động, tập trung mọi nỗ lực và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, nâng cao hiệu quả, góp phần tích cực nhất vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng nòng cốt là các binh chủng trực tiếp làm nhiệm vụ thông tin đối ngoại; phải xác định đây là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên cả trước mắt và lâu dài của tất cả các cơ quan, các đơn vị, doanh nghiệp, các bộ, ban, ngành, các địa phương và trung ương. 3.3. Nhiệm vụ cụ thể Một là, tiếp tục bám sát các nhiệm vụ chính trị trong các nghị quyết, các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước để cụ thể hóa bằng các chủ đề thông tin đối ngoại thiết thực, hiệu quả. Tăng cường giới thiệu thành tựu công cuộc đổi mới, quảng báo hình ảnh về đất nước, con người, văn hóa Việt Nam đến nhiều nước trên thế giới. Tăng thời lượng phát thanh, truyền hình, báo điện tử ra các nước, các khu vực, đưa được nhiều thông tin và sản phẩm văn hóa có nội dung tốt đến với đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế. Hai là, cùng với hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước, và nhân dân, thông tin đối ngoại tập trung sức tuyên truyền, quảng bá, tọa môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, xã hội, thúc đẩy các hoạt động đầu tư, du lịch, tìm kiếm thị trường, xây dựng hình ảnh, thương hiệu quốc gia, tạo môi trường tốt để nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền vững. Ba là, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực thù địch tuyên truyền những quan điểm sai trái, phản động xung quanh các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo và các vấn đề nhạy cảm khác, nhằm tác động xấu đến tư tưởng và tâm trạng xã hội, ảnh hưởng đến sự ổn định của đất nước, làm phương hại đến an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Bốn là, tiếp tục củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác thông tin đối ngoại, nhất là bộ phận thường trực, nghiên cứu sắp xếp lại các cơ quan báo, đài, đặc biệt là đề xuất biện pháp chỉ đạo nội dung thông tin, cơ chế quản lý đối với hệ thống báo điện tử, các trang thông tin điện tử (Website, Weblog). Năm là, tăng cường lực lượng thông tin đối ngoại, kiện toàn các cơ quan chuyên trách về tuyên truyền đối ngoại của các bộ, ban ngành, địa phương và của các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Bố trí hợp lý đội ngũ phóng viên thường trú ở nước ngoài và tăng cường tùy viên văn hóa cho các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Sáu là, chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác thông tin đối ngoại; tăng cường cơ sở vật chất, đảm bảo trang thiết bị cần thiết cho các hoạt động thông tin đối ngoại. . Các giải pháp chủ yếu: Từ những thành công, hạn chế của công tác thông tin đối ngoại trong 15 năm qua và yêu cầu đặt ra cho sự phát triển đất nước trong giai đoạn mới, công tác thông tin đối ngoại cần tập trung sớm một số giải pháp đột phá là: đây mạnh công tác ngoại giao phục vụ kinh tế, tăng cường vận động xúc tiến đầu tư nước ngoài, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; xây dựng tổ chức bộ máy phục vụ công tác đối ngoại theo hướng chính quy, chuyên nghiệp, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác đối ngoại: Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác đối ngoại, nâng cao nhận thức về công tác đối ngoại trong thời kỳ mới nhằm đảm bảo việc thực hiện tốt đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, tư duy đối ngoại của các cấp, các ngành, đoàn thể, các cơ quan, đơn vị và nhân dân về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của công tác đối ngoại trong bối cảnh hội nhập quốc tế đang ngày càng phát triển rộng khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới. Nhất là, sớm ban hành chỉ thị mới và xây dựng chiến lược về công tác thông tin đối ngoại: Chỉ thị mới về công tác thông tin đối ngoại trực tiếp chỉ đạo hoạt động của lĩnh vực này sau 15 năm thực hiện Chỉ thị 11, đưa ra những định hướng phù hợp hơn về đối tượng, nội dung, địa bàn. Cần sớm có kế hoạch xây dựng Chiến lược thông tin đối ngoại trong tình hình mới, đó là chiến lược tổng thể và chiến lược cho từng đối tượng theo các kế hoạch từ ngắn hạn, trung hạn đến dài hạn; quy định cụ thể để tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, nhất là của cấp ủy đảng các cấp; sự quản lý của Nhà nước đối với công tác thông tin đối ngoại. Thứ hai, đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại phục vụ kinh tế, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, đẩy mạnh tuyên truyền về chương trình hội nhập kinh tế quốc tế, chuẩn bị tốt lộ trình thực hiện các cam kết AFTA, WTO và các thỏa thuận song phương của Việt Nam với các nước. Làm tốt công tác vận động xúc tiền đầu tư, mở rộng và tìm kiếm thị trường, thu hút nguồn lực về vốn, công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến, hiện đại. Nhạy bén nắm bắt, tranh thủ tận dụng những làn song đầy tư mới và những cơ hội mới để tích cực tuyên truyền, quảng bá, thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, từ các tập đoàn đa quốc gia vào xây dựng hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kinh tế, xây dựng các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu du lịch, dịch vụ; đồng thời chú trọng thu hút viện trợ phi chính phủ nước ngoài và nguồn lực từ người Việt Nam ở nước ngoài; chương trình hợp tác “hai hành lang một vành đai kinh tế” nhằm cụ thể hóa và thực hiện hiệu quả các nội dung đã được ký kết giữa Chính phủ hai nước Việt Nam và Trung Quốc; vận động thu hút nguồn vốn dầu tư từ dầu mỏ từ Trung Đông đối với một số lĩnh vực cơ sở hạ tầng quan trọng và phát triển quan hệ thương mại với các nước trong khu vực này… Thứ ba, hoàn thiện cơ chế phối hợp để phát huy có hiệu quả hoạt động của các lực lượng, các loại hình tham gia, từng bước nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động của thông tin đối ngoại. - Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại cần chú trọng xây dựng cơ chế phối hợp khoa học, hiệu quả, chặt chẽ, thường xuyên giữa các cơ quan thông tin đối ngoại nhằm sử dụng tốt nhất sức mạnh của từng cơ quan, nhất là cơ quan báo chí, phát huy mạnh mẽ vai trò của bộ phận thường trực, nhóm giúp việc, đảm bảo cơ chế cung cấp thông tin để kịp thời xử lý các vấn đề nảy sinh một cách kịp thời, nhất là các vấn đề nhạy cảm, phức tạp. Tăng cường và phát huy có hiệu quả sự phối hợp các hoạt động đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. - Từng bước nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động thông tin đối ngoại, đảm bảo cơ chế, chính sách và sự phối hợp có hiệu quả của các ngành, các bộ có liên quan như ngoại giao, kinh tế, tài chính, thương mại, văn hóa, du lịch, thể thao…Bố trí cán bộ hoạt động chuyên trách trong lĩnh vực thông tin đối ngoại để tập trung tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, xây dựng chương trình hành động thống nhất, đồng bộ và chủ động về thông tin đối ngoại. Thứ tư, củng cố và mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị với các tổ chức quốc tế trên thế giới, thông qua đó là những giải pháp nhằm giới thiệu, nâng cao vai trò và vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Đó là, việc tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực về y tế, giáo dục, khoa học công nghệ, văn hóa, thể thao du lịch, quy hoạch và phát triển đô thị, nông nghiệp, đào tạo nghề, bảo vệ môi trường,.. Đẩy mạnh công tác xúc tiến, mở rộng thị trường xuất khẩu lao động; rà soát và xây dựng các thỏa thuận hợp tác song phương với các nước đã ký các thỏa thuận hợp tác hữu nghị nhằm củng cố, duy trì và phát triển quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, du lịch, y tế, văn hóa. Quan tâm giúp đỡ đối với các nước có quan hệ kết nghĩa, truyền thống cà còn gặp khó khăn như Lào, Campuchia. Mở rộng và phát triển quan hệ với các nước: Canada, Đức, Mỹ, Nhật Bản. Thứ năm, đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại và văn hóa đối ngoại, nhằm quảng bá, xây dựng và giới thiệu hình ảnh của Việt Nam, nâng cao vị thế, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng chương trình tổng thể về thông tin tuyên truyền đối ngoại. Mời tư vấn nước ngoài để giúp tư vấn để công tác tuyên truyền quảng bá đạt hiệu quả cao nhu kinh nghiệm một số nước đã làm. Trong công tac thông tin tuyên truyền, cần tổ chức biên soạn, dịch, in ấn và phát hành các tài liệu, phim ảnh, tờ rơi, đĩa DVD về Việt Nam bằng tiếng Anh, Nhật Bản, Hàn, Trung Quốc, Pháp, Đức nhằm giới thiệu về mọi lĩnh vực của Việt Nam, như là một đất nước cởi mở, năng động, địa điểm đầu tư lý tưởng, các điều kiện, cơ hội thuận lợi cho các nhà đầu tư cũng như các tiềm năng, lợi thế của đất nước. Mạnh dạn đăng cai tổ chức những sự kiện, hội nghị quốc tế để tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, quảng bá, học tập kinh nghiệm phát triển Việt Nam vững chắc. Chú trọng giao lưu văn hóa, nghệ thuật, thể thao với các nước; tham gia các sự kiện quốc tế (Lễ hội biển Brest tại Pháp năm 2008, các hoạt động kết nghĩa, hợp tác hữu nghị…). Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và có chế tài xử lý sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ văn hóa không lành mạnh. Bảo đảm thực thi pháp luật sở hữu trí tuệ, tọa môi trường thuận lợi cho sáng tạo các sản phẩm văn hóa, tinh thần. Phối hợp với các Bộ, ngành Trung ương liên quan để kịp thời nắm bắt tình hình diễn biến chính trị, kinh tế - văn hóa – xã hội của các nước, nhằm được cung cấp thông tin, và định hướng nội dung thông tin, quảng bá tốt cho đất nước, các tổ chức đoàn kết, hòa bình và hữu nghị, kinh tế đối ngoại… Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thông tin đại chúng (đài phát thanh, đài truyền hình, báo chí…) để kịp thời thông tin, tuyên truyền về công tác thông tin đối ngoại, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, tiềm năng, lợi thế,… để thu hút đầu tư, sự giúp đỡ, hợp tác hữu nghị với các nước. Thứ sáu, sử dụng hiệu quả các thành tựu khoa học công nghệ, đặc biệt là INTERNET. Ứng dụng công nghệ hiện đại trong thông tin: xây dựng website, weblog và các forum trên INTERNET làm nơi cung cấp thông tin, trao đổi thông tin và diễn đàn trên mạng với các cấp ủy ngoài nước (với những quy định và phương thức bảo mật phù hợp). Lập đường dây nóng thong qua hệ thống ADSL với các cấp ủy ngoài nước, trước mắt là với các địa bàn có cán bộ chuyên trách. Để khai thác một cách hữu hiệu mạng thông tin toàn cầu Internet vào mục đích phục vụ thông tin đối ngoại, cần có cơ chế hỗ trợ để đưa càng nhiều ấn phẩm thông tin đối ngoại lên mạng Internet. Đây cũng là biện pháp kinh tế nhất để đưa được nhiều thông tin về Việt Nam ra nước ngoài thay vì gửi các ấn phẩm thông tin đối ngoại ra nước ngoài qua đường bưu điện rất tốn kém. Thứ bảy, đẩy mạnh việc đổi mới, đa dạng hóa nội dung, các loại hình tham gia công tác thông tin đối ngoại phù hợp với địa bàn và yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ. - Tiếp tục đa dạng hóa nội dung thông tin đối ngoại trong điều kiện mới, đặc biệt tận dụng vai trò, vị thế của đất nước ngày càng nâng cao trên trường quốc tế để giới thiệu và quảng bá hình ảnh Việt Nam. Khuyến khích các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế, loại hình văn hóa xây dựng hình ảnh, thương hiệu, từ đó tiến tới xây dựng thương hiệu quốc gia. - Mở rộng và tăng cường các loại hình thông tin đối ngoại cả trong và ngoài nước, đặc biệt là hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí trong và ngoài nước. Tiếp tục tổ chức các đoàn khảo sát thông tin đối ngoại tới các địa bàn có đồng bào kiều ta sinh sống, những nước có quan hệ đối tác chiến lược về ngoại giao, kinh tế Việt Nam một cách kịp thời và hiệu quả. Mở rộng thành phần, địa bàn khảo sát trong nước với sự tham gia của các địa phương kết hợp trao đổi kinh nghiệm về công tác thông tin đối ngoại. Thứ tám, chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, từng bước xây dựng cơ chế, chính sách đối với cán bộ làm công tác thông tin đối ngoại. - Tăng cường chi phí đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ công tác thông tin đối ngoại, thạo về nghiệp vụ, giởi về ngoại ngữ, đặc biệt chú trọng bồi dưỡng về chính trị, về công nghệ thông tin, nghiệp vụ báo chí đối ngoại cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên đối ngoại. Có chính sách khuyến khích đội ngũ cộng tác viên. - Nghiên cứu xây dựng cơ chế chính sách đặc thù, góp phần khuyến khích, thu hút cán bộ, chuyên gia giỏi tham gia hoạt động thông tin đối ngoại. Thứ chín, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất. Quan điểm đầu tư thích đáng về tài chính, cơ sở vật chất- kỹ thuật cho các cơ quan làm công tác thông tin đối ngoại, trong đó tập trung đầu tư từng bước các phương tiện thông tin hiện đại cho các đơn vị, lực lượng chủ lực. Đầu tư và sắp xếp hợp lý các cơ quan thường trú, các Trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài. Cuối cùng, mở rộng và nâng cao vai trò, hiệu quả của công tác ngoại giao nhân dân, công tác về người Việt Nam ở nước ngoài đối với các hoạt động của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị và Hội Liên lạc Việt kiều, thông qua việc đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền về đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; chủ trương tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực…, nhằm tăng cường vận động thu hút viện trợ phi chính phủ nước ngoài, và đóng góp của bà con Việt kiều trong việc đầu tư xây dựng, phát triển đất nước. KẾT LUẬN Hiện nay và trong những năm tiếp theo, Việt nam có nhiều cơ hội nhưng cũng có những thách thức mới trong việc thực hiện mục tiêu trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Thành tựu của 20 năm đổi mới làm cho thế và lực của nước ta lớn mạnh hơn nhiều so với trước đây, tạo tiền đề cần thiết đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chúng ta đã mở rộng được các quan hệ hợp tác quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, tạo thêm nhiều thuận lợi cho công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế với nhịp độ nhanh hơn. Tuy nhiên, nước ta đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, diễn biến phức tạp: Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại; sự tác động của suy thoái kinh tế thế giới, những khó khăn trong điều tiết nền kinh tế vĩ mô, thiếu kinh nghiệm trong tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia giải quyết những vấn đề quan trọng về hòa bình, an ninh của khu vực và thế giới. Trong khi đó, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ, tìm cách lũng đoạn về kinh tế, gây mất ổn định về chính trị, hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong bối cảnh như vậy, để đưa đất nước ta phát triên nhanh, ổn định, bền vững phải biết tranh thủ và tận dụng thời cơ; coi trọng hơn nữa việc giới thiệu quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt Nam. Tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi, sự hợp tác, giúp đỡ của các nước trên thế giới, đòi hỏi tăng cường và đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin đối ngoại nói chung, công tác thông tin đối ngoại phục vụ kinh tế nói riêng, xây dưng chiến lược thực hiện phù hợp với tình hình trong thời kỳ mới. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại (2004), Kỷ yếu Hội nghị công tác thông tin đối ngoại toàn quốc tháng 3/2004, Hà Nội. Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại, Tạp chí Thông tin đối ngoại, các số từ tháng 1/2006 đến nay. Ban Tuyên giáo Trung ương (2006), Báo cáo Tổng quan kết quả nghiên cứu đề án “Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới”. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Báo cáo Tổng kết công tác tuyên truyền đối ngoại của báo chí nước ta trong thời gian qua, số 6-BC/BTGTW, 5/6/2007. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Báo cáo về chuyến khảo sát công tác thông tin đối ngoại tại thành phố Hà Nội. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Báo cáo về chuyến khảo sát công tác thông tin đối ngoại tại thành phố Hồ Chí Minh. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Báo cáo về chuyến khảo sát công tác thông tin đối ngoại tại thành phố Đà Nẵng. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Báo cáo về chuyến khảo sát công tác thông tin đối ngoại tại tỉnh Tây Ninh. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Báo cáo về chuyến khảo sát công tác thông tin đối ngoại tại hai địa phương Hải Phòng và Lạng Sơn. Ban Tuyên giáo Trung ương (z2008), Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị 11 – CT/TW của Ban Bí thư khóa VII về đổi mới và tăng cường công tác tuyên truyền đối ngoại, số 97-BC/BTGTW, 8/5/2008. Ban Tuyên giáo Trung ương (2008), Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại trong thời kỳ mới, 21/8/2008. Bộ Ngoại giao Việt Nam (2000), Báo cáo về công tác TTĐN (từ sau thông báo số 188/TB-TW ngày 29/12/1998 của thường vụ Bộ Chính trị), 28/6/2000. Bộ Ngoại giao Việt Nam (2007), Đề án “Nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại giai đoạn 2007-2010 và định hướng đến 2020”, 11/9/2007. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Chỉ thị về đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại, số 11 - CT/TW ngày 13/6/1992. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Thông báo ý kiến của Thường vụ Bộ Chính trị về công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới, số 188 – TB/TW ngày 29/12/1998. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Quyết định của Ban Bí thư về việc thành lập Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại, Quy chế phối hợp chỉ đạo hoạt động thông tin đối ngoại ban hành cùng Quyết định 16 của Ban Bí thư, số 16 ngày 26/12/2001 Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, số 36 – NG/TW ngày 26/3/2004. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Lê Thanh Bình (2005), Báo chí truyền thông và kinh tế, văn hóa – xã hội, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 22. Nguyễn Phú Bình (2000), “Thông tin đối ngoại cần chú ý đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài”, Thông tấn – Nội san nghiệp vụ TTXVN (8), Hà Nội. Trần Quang Nhiếp (2002), Định hướng hoạt động và quản lý báo chí trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tạ Ngọc Tấn (2004), Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Thủ tướng Chính phủ (2000), Chỉ thị của Thủ tướng chính phủ về tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại, số 10/2000/CT - TTg, ngày 24/6/2000. Tổng cục du lịch (2007), Báo cáo tình hình công tác thông tin đối ngoại thực hiện Chỉ thị 11 – CT/TW của Ban Bí thư khóa VII. Sở Ngoại vụ TP. Hồ Chí Minh (2008), Báo cáo Thông tin đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Ủy ban Quốc gia (2007), Báo cáo công tác thông tin đối ngoại về Hợp tác kinh tế quốc tế. Các trang thông tin điện tử Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam www.dangcongsan.org.vn Báo điện tử Vietnamnet www.vietnamnet.vn Báo Thế giới và Việt Nam www.tgvn.com.vn Bộ Ngoại giao Việt Nam www.mofa.gov.vn Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam www.cinet.gov.vn Bộ Thông tin và Truyền thông www.mic.gov.vn Đài Tiếng nói Việt Nam www.vov.vn Đài Truyền hình Việt Nam www.vtv.vn Tạp chí Cộng sản www.tapchicongsan.org.vn Tạp chí Quê hương www.quehuong.org.vn MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVKT080.doc
Tài liệu liên quan