Nghi thức nhà nước là một bộ phận quan trọng để xây dựng và hoàn thiện "nghi lễ giao tiếp" của mỗi dân tộc, cộng đồng và nhóm người cũng như "thông lệ quốc tế" trong giao tiếp của cộng đồng nhân loại. Trong bối cảnh hội nhập với nền kinh tế thế giới, nghi lễ giao tiếp, trong đó có nghi thức nhà nước, càng trở nên quan trọng.
Những biểu tượng quốc gia là một bộ phận quan trọng cấu thành nên hệ thống các thủ tục nhằm thực hiện quyền lực nhà nước (thủ tục lập pháp, hành pháp và tố tụng tư pháp), đồng thời là một bộ phận hình thức mang tính hỗ trợ quan trọng của chính những thủ tục đó. Bất kỳ một tổ chức, đơn vị nào cũng phải hiểu và nắm được những nghi lễ này để hành xử cho đúng, cho tốt và có hiệu quả.
35 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2013 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số vấn đề về thực hiện nghi thức nhà nước tại trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kim nhũ, hoặc có thể dùng không tô mầu.
2) Quốc huy được treo ở chính của cơ quan, về phía trên, chỗ trông rõ nhất tại các cơ quan sau đây:
a- Nhà họp của Chính phủ
b- Nhà họp của Quốc hội khi họp
c- Trụ sở Uỷ ban nhân dân tỉnh, huyện, xã, thành phố và thị xã
d- Bộ ngoại giao, các đại sứ quán và lãnh sự quán Việt Nam tại nước ngoài.
3) Quốc huy có thể treo ở lễ đài các ngày lễ lớn: 1-5 và 2-9 do Chính phủ Trung ương hoặc các cấp chính quyền địa phương tổ chức.
4) Rước Quốc huy: trong các cuộc mít tinh, biểu tình, tổ chức ngày 1-5 và 2-9.
5) Quốc huy được in hoặc đóng dấu nổi trên các thư, giấy tờ sau:
a- Bằng, huân chương, bằng khen của Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ.
b- Các văn bản ngoại giao như quốc thư, uỷ nhiệm thư, thư giới thiệu của Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
c- Hộ chiếu.
d- Công hàm, thiếp mời, phong bì của Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
đ- Các thư từ, thiếp mời, phong bì cuả Chủ tịch Quốc hội trong việc giao thiệp với các cơ quan nước ngoài.
e- Công văn, thiếp mời, phong bì của các đại sứ quán và lãnh sự quán ở nước ngoài.
Quốc huy cũng còn có thể được in trên tiền, một số loại tem tài chính v.v... và còn được khắc trên con dấu của một số cơ quan nhà nước nhất định như: Chủ tịch nước, Văn phòng Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội, Hội đồng Dân tộc của Quốc hội v.v...
c) Quốc kỳ: là cờ tượng trưng cho một Quốc gia, cũng chính là Cờ Tổ quốc. Đồng thời đó cũng là biểu trưng một cách rõ ràng quyền lực của nhân dân ta, chủ quyền của mình đối với lãnh thổ, cương vực đã được phân định.
Theo quy định của pháp luật, việc sử dụng Quốc kỳ cần đảm bảo những yêu cầu sau:
1) Quốc kỳ hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ thắm, giữa có ngôi sao vàng năm cánh mầu vàng tươi với các cánh sao làm theo đường thẳng, trung tâm của sao đặt đúng trung tâm của cờ.
2) Quốc kỳ được treo trong các phòng họp của các cấp chính quyền và các đoàn thể khi họp những buổi long trọng, chỉ treo ngoài nhà những ngày lễ tết.
3) Các cơ quan nhà nước, các trường học (kể cả học viện), các đơn vị vũ trang, các cửa khẩu biên giới, các cảng quốc tế phải có cột cờ và treo Quốc kỳ trước công sở, hoặc nơi trang trọng trước cửa cơ quan.
4) Các đơn vị vũ trang, các trường phổ thông, trường dạy nghề và trung học chuyên nghiệp, các học viện, các trường đại học tổ chức chào cờ và hát Quốc ca một cách trang nghiêm vào sáng thứ hai hàng tuần, trước buổi học đầu tiên (không dùng băng ghi âm và hệ thống phóng thanh thay cho việc hát Quốc ca).
5) Quốc kỳ của nước ta treo với Quốc kỳ các nước khác trong những trường hợp sau:
a- Khi kỷ niệm Quốc khánh một nước bạn hay một nước ngoài.
b- Khi tiếp đón đoàn đại biểu Chính phủ của một nước.
6) Khi treo Quốc kỳ không để ngược ngôi sao. Treo Quốc kỳ ta với quốc kỳ nước khác: đứng đằng trước nhìn vào thì cờ của ta ở bên tay phải, cờ nước ngoài ở bên tay trái, các cờ phải làm đúng kiểu mẫu bằng nhau và treo đều nhau.
7) Khi có quốc tang thì đính vào phía trên Quốc kỳ một dải vải đen, dài bằng chiều dài Quốc kỳ, rộng bằng một phần mười chiều rộng Quốc kỳ.
8) Hình nền đỏ sao vàng được in trên các bằng huân chương, bằng khen, giấy khen của các cấp chính quyền.
9) Quốc kỳ được cắm vào xe ô tô của các đại sứ và lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài. Khi đón, đưa các đại biểu Chính phủ nước ngoài thì cắm Quốc kỳ của ta và Quốc kỳ nước ngoài vào xe ô tô dùng cho các đại biểu ấy.
d) Quốc ca: Là bài hát được thừa nhận là chính thức của một Quốc gia.
Theo quy định tại Điều 143 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam:"Quốc ca nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhạc và lời của bài "Tiến quân ca"".
Việc sử dụng Quốc ca theo các quy định tại Điều lệ số 975/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 21-07-1956, theo Thông báo của Chính phủ số 31-TB ngày 15-02-1993, với nội dung chính sau:
1) Quốc ca có thể hát bằng lời hoặc cử nhạc khi:
a- Làm lễ chào cờ
b- Khai mạc và bế mạc những buổi họp long trọng do chính quyền hoặc đoàn thể tổ chức.
c- Hàng ngày khi bắt đầu buổi phát thanh thứ nhất và khi kết thúc buổi phát thanh cuối cùng của Đài Tiếng nói Việt Nam.
2) Khi cử Quốc ca, mọi người phải bỏ mũ, đứng nghiêm.
3) Cử Quốc ca của ta và quốc ca nước ngoài: cử quốc ca nước ngoài trước, Quốc ca ta sau.
4) Không dùng băng ghi âm và hệ thống phóng thanh thay cho việc hát Quốc ca khi chào cờ đựơc tổ chức vào sáng thứ hai hàng tuần, trước buổi học đầu tiên tại các đơn vị vũ trang, trường phổ thông, trường dạy nghề và trung học chuyên nghiệp, các học viện, các trường đại học. Lễ chào cờ tại các buổi lễ lớn của Nhà nước hoặc các buổi đón tiếp mang tính nghi thức nhà nước, những buổi lễ kỷ niệm của ngành, địa phương có thể sử dụng băng ghi âm hoặc quân nhạc thay cho hát Quốc ca.
1.4. Thể thức văn bản quản lý nhà nước
Văn bản quản lý nhà nước là những quyết định và thông tin quản lý thành văn (được văn bản hoá) do các cơ quan quản lý nhà nước ban hành theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục, hình thức nhất định và được nhà nước đảm bảo thi hành bằng những biện pháp khác nhau nhằm điều chỉnh các mối quan hệ quản lý nội bộ nhà nước hoặc giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức và công dân.
Thể thức văn bản là những yếu tố hình thức và nội dung của chúng đã được thể chế hoá.
Về tổng thể, văn bản có bố cục các yếu tố, thể thức sau:
1) Quốc hiệu
Tại Công văn số 1053/VP ngày 12-08-1976, Thường vụ Hội đồng Chính phủ quy định việc sử dụng tiêu đề chỉ quốc hiệu của văn bản quản lý nhà nước như sau:
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
Quốc hiệu được trình bày ở trên đầu trang giấy có giá trị xác nhận tính pháp lý của văn bản.
2) Tên cơ quan ban hành văn bản: được đặt ở góc trái tờ đầu văn bản, đối với những cơ quan thẩm quyền chung thì không cần đề tên cơ quan chủ quản ở trên. Trong trường hợp có đề tên cơ quan chủ quản của cơ quan ban hành văn bản thì chỉ đề tên cơ quan cấp trên trực tiếp bằng chữ thường ở dòng trên, còn tên cơ quan ban hành viết bằng chữ in hoa ở dòng dưới.
3) Số và ký hiệu: được ghi bên dưới tên cơ quan ban hành văn bản.
Số văn bản được viết bằng chữ số arập, được đánh từ số 01 và bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 đến 31 tháng 12 mỗi năm, các số dưới 10 phải viết thêm số 0 ở đằng trước.
Ký hiệu là chữ viết tắt tên loại văn bản và tên cơ quan ban hành văn bản.
- Số và ký hiệu của văn bản quy phạm pháp luật có cơ cấu như sau:
Số ... / năm ban hành / viết tắt tên loại văn bản - viết tắt tên cơ quan ban hành.
- Số và ký hiệu của văn bản cá biệt:
Số... / viết tắt tên loại văn bản - viết tất tên cơ quan ban hành (- viết tắt tên đơn vị soạn thảo)
- Số và ký hiệu của văn bản hành chính thông thường:
+ Văn bản có tên loại:
Số…/ viết tắt tên loại văn bản - viết tắt tên cơ quan ban hành (- viết tắt tên đơn vị soạn thảo)
+ Văn bản không có tên loại (công văn):
Số... / viết tắt tên cơ quan ban hành - viết tắt tên đơn vị soạn thảo.
4) Địa danh, ngày tháng: được ghi bên dưới tiêu ngữ.
Địa danh của văn bản được ghi từ tên địa điểm đặt trụ sở cơ quan ban hành (tên thành phố, tỉnh, huyện, xã)
Ví dụ: Hà Nội, ngày ... tháng... năm ...
Ngày tháng là ngày tháng văn bản được ký ban hành, do người ký điền vào.
5) Tên loại văn bản:
Trừ công văn, tất cả các văn bản đều có tên loại (như: Nghị định, Quyết định, Thông báo...). Tên loại văn bản được trình bày ở giữa trang giấy bên dưới yếu tố địa danh, ngày tháng.
6) Trích yếu văn bản: là một câu ngắn gọn thể hiện tổng quát, chính xác nội dung chủ yếu của văn bản. Yếu tố này được ghi phía dưới tên loại văn bản, bằng chữ in thường (có thể in chữ đậm). Đối với công văn, trích yếu được ghi bên dưới số và ký hiệu (không in đậm), ví dụ:
bộ tư pháp
Số 2475/BTP-PC
Về công tác thẩm
định văn bản
7) Căn cứ ban hành văn bản:
Đây là yếu tố thường có đối với văn bản đưa ra quyết định quản lý, chỉ nêu những căn cứ trực tiếp liên quan đến nội dung của văn bản. Đó là những căn cứ pháp lý, căn cứ thẩm quyền, lý do ban hành.
8) Nội dung điều chỉnh:
Nội dung của văn bản phải được trình bày ngắn gọn, đủ ý, đảm bảo các yêu cầu về nội dung, cũng như các yêu cầu khác của kỹ thuật soạn thảo văn bản. Ngoài ra, nội dung của văn bản phải được viết bằng một ngôn ngữ chuẩn mực, phù hợp với văn phong pháp luật hành chính.
9) Điều khoản thi hành:
Thông thường, các văn bản đưa ra quyết định quản lý đều có những điều khoản cuối cùng hay còn gọi là điều khoản thi hành.
10) Thẩm quyền ký:
Thẩm quyền ký bao gồm: Hình thức đề ký, chức vụ, chữ ký, và họ tên đầy đủ của người có thẩm quyền ký.
Hình thức đề ký có thể là: T.M (thay mặt), K.T (ký thay), T.L (thừa lệnh), T.U.Q (thừa uỷ quyền), Q. (quyền).
Yếu tố này được trình bày ở dưới cùng bên phải vùng trình bày của văn bản.
11) Con dấu hợp pháp:
Dấu của cơ quan ban hành văn bản được đóng ngay ngắn, rõ ràng trùm lên một phần ba (1/3 ) đến một phần tư (1/4) về bên trái chữ ký. Dấu được đóng bằng mầu đỏ tươi, mầu quốc kỳ. Không đóng dấu không chỉ. Dấu phải đúng với tên cơ quan ban hành văn bản.
12) Nơi nhận: Tên các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có trách nhiệm thi hành công việc nói đến trong văn bản.
Nơi nhận ghi ngang hàng phần chữ ký, ở góc trái; cần được ghi rõ ràng, đúng đối tượng, ngắn gọn và hợp lý.
13) Dấu độ mật hoặc/ mức độ khẩn:
Những văn bản mật hoặc khẩn được đóng dấu chỉ mức độ mật (“Mật”, “Tối mật”, “Tuyệt mật”), hoặc/ và dấu chỉ mức độ khẩn (“Khẩn”, “Thượng khẩn”, “Hoả tốc”, “Hoả tốc hẹn giờ” ). Việc đóng dấu này do người ký văn bản quy định. Văn thư đóng dấu này bằng mực dấu đỏ vào khoảng trống dưới số và ký hiệu theo đúng quy định của pháp luật.
14) Tên viết tắt người đánh máy và số lượng bản đánh máy hoặc sao chụp: yếu tố này được trình bày tại lề góc phải trang nhất ngang yếu tố địa danh, ngày tháng.
15) Các yếu tố chỉ dẫn phạm vi phổ biến, dự thảo và tài liệu hội nghị, như: “thu hồi”, “xem tại chỗ ", “xem xong xin trả lại”, “lưu hành nội bộ” v.v...
1.5. Công tác lễ tân, tổ chức hội họp, tiếp đãi khách
“Lễ tân” là một nội dung của “Nghi thức nhà nước”. Lễ tân nhà nước là tổng hợp các nghi thức, thủ tục trong việc đón, tiễn, giao tiếp với khách nhằm giải quyết những công việc có liên quan đến quan hệ nội bộ nhà nước, giữa các nhà nước, cũng như giữa nhà nước và công dân. Như vậy, về cơ bản, lễ tân được hiểu là tổng hợp những quy định, nghi thức, thủ tục được các nhà nước tuân thủ thực hiện trong giao tiếp quốc tế.
Tổ chức tiếp khách là một trong những hoạt động quan trọng, một công tác cơ bản của các cơ quan công quyền, các đoàn thể, các tổ chức khác nhau. Công tác này được thực hiện không chỉ nhằm để giao tiếp xã hội thuần thuý, đảm bảo hoạt động thông suốt đối với các hệ quả của quá trình quản lý, mà còn tạo cho các nhà quản lý có điều kiện xem xét, đánh giá hiệu quả công việc từ phía bên ngoài.
Việc tiếp khách đến giao dịch cần được tiến hành đảm bảo các yêu cầu nhất định. Trước tiên, cần được bố trí phòng thường trực cơ quan để khách ngồi đợi trước khi vào làm việc. Tại đây cần treo bảng nội quy tiếp khách có nội dung ngắn gọn để khách biết cần phải làm gì khi có việc đến giao dịch. Nhân viên trực có trách nhiệm niềm nở chào và hỏi khách đến gặp ai, đã có hẹn trước chưa v.v.... Sau đó nhân viên trực nhanh chóng thông báo chính xác về sự hiện diện của khách để người có trách nhiệm ra tận phòng thường trực đón và hướng dẫn khách về phòng làm việc của mình.
- Để làm việc đón khách vào, lãnh đạo cơ quan có thể thân hành hoặc thông qua người thư ký. Lúc này, người thư ký có vai trò hết sức quan trọng, bởi lẽ đó là nhân vật đại diện đầu tiên của cơ quan, đơn vị đối với khách, tạo nên ấn tượng đầu tiên cho khách và nếu đó là ấn tượng tốt thì công việc có thể được nói là” đầu xuôi đuôi lọt”. Thêm nữa, người thư ký còn là người trực tiếp giải quyết những yêu cầu của một số khá lớn khách đến giao dịch với lãnh đạo cơ quan, tổ chức. Người thư ký có trách nhiệm đón khách một cách niềm nở, thân thiện, tin tưởng, bình tĩnh, không bao giờ hoảng sợ, trả lời khách một cách có ý thức, rõ ràng, lễ độ. Nếu đang bận nói chuyện qua điện thoại hoặc một việc gì khác không thể dừng, thì người thư ký vẫn phải chào hỏi khách để khách biết là sẽ được tiếp ngay sau khi người thư ký đó xong việc. Việc từ chối đón tiếp một người khách nào đó phải được thực hiện một cách hết sức thận trọng, lịch sự. Người thư ký cũng có trách nhiệm chào khách lúc khách làm việc với lãnh đạo xong ra về.
Khi đón tiếp khách nước ngoài lại càng phải chú trọng đến việc thực hiện sao cho khách có ấn tượng ban đầu về sự nồng hậu, thân thiện của sự đón tiếp.
Việc đón tiếp các đoàn khách có khác nhau về mặt nghi lễ tuỳ theo tính chất của mỗi đoàn. Công tác này đã được quy định tại Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng số 186/HĐBT ngày 2-6-1992 ban hành “ Quy định một số nghi lễ nhà nước và tiếp khách nước ngoài” và các văn bản khác có liên quan.
Bố trí chỗ ngồi cho khách là công việc tiếp theo không kém phần quan trọng trong công tác lễ tân, nó ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung và hiệu quả của hoạt động được tổ chức.
Bố trí chỗ ngồi phải thích hợp theo thứ bậc của từng người. Tuỳ theo tính chất, nội dung của từng loại hoạt động mà có cách bố trí sao cho thích hợp. Sắp xếp cho những người tham gia hội nghị, hội thảo, họp bàn, hội đàm v.v... phải theo những nguyên tắc nhất định, đó là:
1) Nguyên tắc ngôi thứ: ngôi thứ và cấp bậc được dựa trên các nguồn khác nhau như từ danh sách các ngôi thứ chính thức do nhà nước và tổ chức định chế công bố, từ tập quán ngoại giao ngày càng được hoàn thiện theo năm tháng trong quan hệ quốc tế, từ sự tôn kính đối với một số thành viên trong xã hội hay phép tắc xã giao giữa các thành viên của cộng đồng.
2) Nguyên tắc ”đoàn khách tự định đoạt”: chỗ ngồi của khách nước ngoài cùng một nước do chính quyền nước đó xác định; đoàn khách tự chỉ định người đứng đầu và thứ bậc của mỗi người.
3) Nguyên tắc bình đẳng giữa các nước: cần xác định những tiêu chuẩn khách quan để xác lập ngôi thứ các nguyên thủ quốc gia với nhau và giữa các phái đoàn với nhau, ví dụ như: sắp xếp theo thâm niên chức vụ, xếp chỗ theo thứ tự vần chữ cái tên của nước có đại diện hoặc rút thăm.
4) Nguyên tắc ngôi thứ không uỷ quyền: một người khi đại diện một người khác thì không thể được đối xử như người mình đại diện. Trừ trường hợp liên quan đến nguyên thủ quốc gia. Để có những vinh dự như nhau, người thay thế phải cùng cấp. Một người thay thế có thứ bậc thấp hơn không nhất thiết phải được mời phát biểu hoặc lên bục danh dự.
5) Nguyên tắc ”nhường chỗ”: chủ một buổi lễ tiếp một nhân vật cấp bậc cao hơn sẽ lịch sự nhường chỗ quan trọng nhất (vị trí số 1: vị trí trung tâm, sau đó vị trí đối diện hoặc bên tay phải là vị trí số 2) cho khách.
6) Nguyên tắc tuổi tác và thâm niên: người nhiều tuổi xếp trên người ít tuổi, người cùng chức vụ có thâm niên lâu hơn được xếp trước, người tiền nhiệm xếp sau người đương nhiệm.
7) Nguyên tắc ưu tiên phụ nữ: khách nữ có cùng cấp bậc được ưu tiên xếp trước khách nam.
8) Nguyên tắc "người được mời": các cặp vợ chồng được xếp chỗ theo cấp bậc người giữ cương vị được mời.
9) Nguyên tắc "dân sự trước tôn giáo": các chức sắc tôn giáo xếp sau các chức sắc dân sự tại các buổi lễ thông thường.
10) Nguyên tắc người có công: ưu tiên những người có huân, huy chương, được những giải đặc biệt, có uy tín trong các lĩnh vực nghệ thuật, khoa học v.v....
11) Nguyên tắc bên phải trước bên trái sau: người quan trọng nhất ở bên phải chủ nhân rồi người quan trọng thứ hai ở bên trái và cứ thế xen kẽ tiếp theo.
12) Nguyên tắc "đối diện tương đồng": Chủ nhân ngồi đối diện với với khách chính, sau đó theo quy tắc phải trái và xen kẽ sẽ xếp các vị chủ, khách khác. Chủ - khách có thể ngồi theo kiểu “ Chủ toạ kiểu Pháp”, hoặc “ Chủ toạ kiểu Anh”. “Chủ toạ kiểu Pháp” là kiểu sơ đồ bàn, theo đó chủ và khách ngồi chính giữa bàn, đối diện nhau. Các vị trí tiếp theo theo nguyên tắc "phải trước trái sau". Còn "chủ toạ kiểu Anh" là kiểu sơ đồ bàn, theo đó chủ và khách chính ngồi ở hai đầu bàn, đối diện nhau. Các vị trí tiếp theo vẫn theo nguyên tắc "phải trước trái sau".
1.6. Kỹ năng giao tiếp (cử chỉ, lời ăn, tiếng nói, trang phục...)
Có thể thấy, trong giao tiếp, con người luôn luôn thể hiện một lực hấp dẫn nào đó để thực hiện ý đồ giao tiếp của mình và cái hấp dẫn đó phần nào tiềm ẩn trong năng lực ứng xử và khả năng khai thác năng lực đó ở mỗi cá nhân. Sự hấp dẫn đó được truyền đạt tới đối tượng giao tiếp thông qua trang phục, những cái bắt tay, giọng nói, vóc dáng, hoạt động nội tâm được biểu hiện bởi những yếu tố ngôn ngữ điệu bộ đó.
1) Trang phục
Trang phục của công chức nhà nước khi đón tiếp, làm việc với khách nước ngoài và trong giờ làm việc phải chỉnh tề, lịch sự, sao cho thể hiện được tính văn minh, tôn trọng khách và sự tôn trọng mình của mỗi cá nhân công chức.
Theo Thông báo của Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng số 11/TB ngày 12/9/1992 qui định y phục của công chức nhà nước trong giờ làm việc ở công sở như sau:
a- Đối với nam:
- Mùa nóng mặc bộ comlê màu nhạt, vải mỏng hoặc không mặc áo vét (chỉ mặc áo sơ mi dài tay hoặc ngắn tay bỏ trong quần, có thắt cra-vat hoặc không thắt cra-vat)
- Mùa lạnh mặc bộ comlê màu sẫm, vải dày, có thắt cra-vat, đi giày hoặc dép có quai hậu.
b- Đối với nữ:
- Mùa nóng mặc áo dài truyền thống.
- Mùa lạnh mặc bộ comlê nữ màu sẫm, vải dày hoặc áo dài có khoác măng tô với thân dài hơn áo, ngoài mặc áo khoác ấm tuỳ điều kiện, đi giày hoặc dép có quai hậu.
2) Dáng điệu, cử chỉ, vẻ mặt là một phương tiện quan trọng, mang tính phi ngôn ngữ. Đối với cán bộ công chức về căn bản phải có điệu bộ chững chạc, khoan thai, đi đứng thẳng người, ngay ngắn, đàng hoàng.
3) Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất và cũng là thành tựu vĩ đại nhất của nền văn minh nhân loại. Tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện, mục tiêu của giao tiếp mà lời nói có những nghi thức khác nhau.
Lời nói công vụ phải đảm bảo tính chính xác, tuân thủ những chuẩn mực sử dụng từ ngữ, tức là sử dụng những từ ngữ văn học, mà không sử dụng những từ ngữ địa phương, tiếng lóng v.v... Cách thức xưng hô trong lời nói công vụ tuy yêu cầu đảm bảo tính khách quan, trang trọng, song cũng tuỳ hoàn cảnh để chọn cách xưng hô cho phù hợp với nghi thức lời nói tiếng Việt nói chung. Trong những trường hợp nhất định có thể dùng những từ xưng hô thông dụng như ông, bà, bác, anh, chị,... song không dùng từ như tao, mày, chú,...
Lời nói công vụ còn có thể đựơc truyền đi qua điện thoại - thiết bị dùng để nói chuyện với nhau ở khoảng cách xa. Khi nói chuyện qua điện thoại cần đảm bảo một số quy ước xã giao sau:
a- Lời nói nhẹ nhàng, nhã nhặn, lịch sự, diễn đạt ngắn gọn, mạch lạc.
b- Khi gọi đi phải tự giới thiệu ngay tên, địa chỉ và nêu rõ đối tượng cần được tiếp xúc nói chuyện; gặp được đối tượng cần nói chuyện cần có lời chào xã giao và bắt đầu vào thẳng nội dung cần trao đổi; kết thúc trao đổi cần nói lời chào hoặc lời cảm ơn cần thiết.
c- Khi tiếp thoại cần xác định người đàm thoại, địa chỉ của người đó, nếu đúng là đối tượng mình cần trao đổi thì cần đi thẳng vào nội dung cuộc gọi, nếu không thì tìm cách chuyển đạt tiếp hoặc đề nghị có nhắn gì không.
2. Vai trò việc thực hiện nghi thức nhà nước trong hệ thống giáo dục công dân
2.1. Những nội dung của nghi thức nhà nước trong trường học
Con người là nhân tố quyết định trong sự phát triển xã hội. Để có một xã hội văn minh, giàu mạnh và phát triển bền vững thì con người trong xã hội ấy phải là những người có tri thức, có phẩm chất và sức khoẻ tốt, nghĩa là họ phải được đào tạo một cách toàn diện. Chính vì vậy, để thúc đẩy sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước, để hoà nhập với sự phát triển chung của nền kinh tế toàn cầu, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng công tác giáo dục, coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu”.
Theo Điều 2 Luật Giáo dục 1998, mục tiêu giáo dục là đào tạo con người phát triển toàn diện, có đạo đức, có tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng nhu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Và cũng theo Điều 4 Luật Giáo dục1998, thì nội dung giáo dục phải đảm bảo tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện đại, có tính hệ thống, coi trọng giáo dục tư tưởng và ý thức công dân, bảo tồn và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Như vậy, công tác giáo dục trong trường học không chỉ đơn thuần là truyền đạt, trau dồi cho học sinh, sinh viên những kiến thức, hiểu biết về khoa học, văn học, toán học, lịch sử... mà còn giáo dục cả về đạo đức, về tư tưởng, về hành vi và cách ứng xử đối với môi trường xung quanh. Sao cho những kiến thức họ học được ở trường phải được vận dụng vào cuộc sống, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận phải gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Người học sinh phải hiểu biết một cách đúng đắn về những “lễ nghi” cần thiết, đó là cách ứng xử với những người xung quanh, với thầy cô, bạn bè, gia đình, họ hàng... và cả những ‘lễ nghi” của một người công dân đối với Tổ quốc, đó là ý thức tôn trọng và niềm tự hào đối với các biểu tượng quốc gia, thể hiện tinh thần yêu nước, ý thức được trách nhiệm của mình đối với nền độc lập dân tộc
Ngay từ những ngày đầu ngồi trên ghế nhà trường, học sinh đã phải tuân thủ một nghi thức trường học là: đọc 5 điều Bác Hồ dạy trước buổi học, với nội dung:
Yêu tổ quốc, yêu đồng bào
Học tập tốt, lao động tốt
Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt
Giữ gìn vệ sinh thật tốt
Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm
Nghi thức Nhà nước trong trường học, do đó, bao gồm những nội dung sau:
- Giáo dục cho học sinh, sinh viên cách thức quan niệm đúng đắn, có ý thức tôn trọng và có niềm tự hào với các biểu tượng quốc gia.
- Trang trí trường học văn minh, khoa học.
- Giao tiếp ngôn ngữ.
- Giao tiếp phi ngôn ngữ.
2.2. ý thức tôn trọng và sử dụng đúng các biểu tượng quốc gia
Biểu tượng quốc gia là những hình tượng tượng trưng cho một nước, đó là Quốc kỳ, Quốc ca, Quốc huy, Quốc hiệu..., nó biểu tượng một cách rõ ràng quyền lực của nhân dân ta, chủ quyền của mình đối với lãnh thổ, cương vực đã được phân định.
Việc giáo dục cho học sinh, sinh viên có thái độ nghiêm túc, tôn trọng và sử dụng đúng các biểu tượng quốc gia rất quan trọng, khi nhận thức đúng đắn về nó sẽ tránh được những sai phạm không đáng có.
Theo Dussault, "Bản thân lá cờ không chỉ là đối tượng giao tiếp, vì chúng hàm chứa ý nghĩa, mà việc sử dụng cờ còn là một ngôn ngữ cần phải biết để hiểu cho đúng; khi dùng đúng, ta đảm bảo truyền tải đúng ý định của mình. Việc cắm cờ sai chí ít cũng bị coi là không hiểu biết, còn tệ hại nhất sẽ bị coi như một sự miệt thị hoặc thậm chí thù địch. Trong bối cảnh quan hệ căng thẳng, người ta sẽ thật sự suy diễn khiếm khuyết như là biểu hiện của một sự cố ý. Một "trận đấu về cắm cờ" dễ xảy ra những sơ ý như vậy. Chính vì thế, để tránh việc sử dụng cờ do vô ý gây ra ngạc nhiên hoặc hiềm khích mà người ta đã có những quy định lễ tân hướng dẫn việc sử dụng cờ".
Theo quy định, các trường học phải tổ chức chào cờ và hát quốc ca vào buổi sáng thứ hai hàng tuần trước giờ học đầu tiên.
Tại các buổi lễ như khai giảng, bế giảng cần tổ chức chào cờ nghiêm túc theo đúng quy định của Nhà nước.
Biểu tượng quốc gia, đặc biệt Quốc kỳ, Quốc ca còn khẳng định vị trí của đất nước ta trên trường quốc tế trong các cuộc thi đấu thế giới hay khu vực. Ví dụ như: trong những đợt thi quốc tế về Toán học, Vật lý hay Thể thao, khi những thí sinh của ta đoạt giải, họ mới chỉ thấy sự vui mừng cho bản thân, nhưng khi đứng trên bục danh dự để chào cờ và cử nhạc Quốc ca trước lúc chính thức nhận huy chương thì họ mới tỏ rõ niềm xúc động, niềm tự hào dân tộc, và thể hiện hết được danh dự của bản thân khi mang lại chiến thắng vẻ vang cho tổ quốc.
2.3. Trang trí trường học
Trường học là một tổ chức đào tạo-giáo dục, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chức năng đào tạo-giáo dục cần phải có một môi trường tốt. Môi trường đó trước tiên phải sạch sẽ, gọn gàng, thoáng mát. Biển hiệu tên trường, nội quy trường hay những câu khẩu hiệu phải được đặt ở những nơi vừa tầm mắt người đọc, phù hợp với quang cảnh chung của trường, các phòng, ban, lớp học phải được bố trí khoa học, đảm bảo an toàn, chống hoả hoạn, có cường độ ánh sáng thích hợp, thông gió, có nhiệt độ thích hợp, tránh tiếng ồn, sao cho hiệu quả công việc, giảng dạy đạt được cao nhất.
Quyết định số 1221/2000/QĐ-BYT của Bộ trưởng Bộ y tế về việc ban hành Quy định về vệ sinh trường học , có nội dung như sau :
-Trường học xây dựng ở nơi cao ráo, sạch sẽ, sáng sủa, yên tĩnh; xa những nơi phát sinh ra các hơi khí độc hại, khói bụi , tiếng ồn; xa các bến xe, bến tầu, kho xăng dầu, bãi rác, chợ ...; xa các trục đường giao thông lớn, xa sông, suối và thác ghềnh hiểm trở.
-Hướng của trường (hướng cửa sổ chiếu sáng chính của các phòng học) là hướng Nam hoặc Đông Nam.
-Diện tích khu trường phải đủ rộng để làm chỗ học, sân chơi, bãi tập và trồng cây xanh.
-Phòng học được thông gió một cách tự nhiên, đảm bảo mát mẻ về mùa hè, ấm áp về mùa đông, hoặc có hệ thống thông gió nhân tạo như quạt trần, quạt thông gió treo cao trên mức nguồn sáng... để đảm bảo tỷ lệ khí CO2 trong phòng không quá 0,1%.
- Phòng học phải được chiếu sáng tự nhiên đầy đủ, cửa sổ phải có cửa chớp , cửa kính để che nắng và cản mưa, gió lạnh thổi vào .
- Phòng học phải được yên tĩnh. Tiếng ồn trong phòng học không được quá 50 đềxiben (dB)
Quan trọng hơn, trường phải có sân, cột cờ để thực hiện nghi thức chào cờ và hát quốc ca vào sáng thứ 2 hàng tuần, trước buổi học đầu tiên. Các trường phổ thông có một đội trống với bộ đồng phục riêng để phục vụ cho buổi chào cờ đó.
2.4. Giao tiếp phi ngôn ngữ
Giao tiếp là hoạt động trao đổi và sử dụng thông tin hai chiều để nhận biết và tác động lẫn nhau trong quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp giữa con người với nhau để đạt được mục đích nhất định. Hoạt động này có thể được thực hiện bằng các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, mà trong đó theo các nhà nghiên cứu thì vai trò cơ bản (dùng cho khoảng 60-70% hoạt động giao tiếp) thuộc về các phương tiện phi ngôn ngữ.
Trong trường học, các mối quan hệ diễn ra chủ yếu là quan hệ giữa thầy với trò, hoạt động giao tiếp trong quan hệ ấy mang tính chính thức hơn, quy củ hơn so với những môi trường khác; ngôn ngữ, hành vi ứng xử của thầy với trò và của trò với thầy đòi hỏi phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định. Giao tiếp phi ngôn ngữ thường biểu hiện ở hành vi ứng xử, cử chỉ, thái độ, trang phục của thầy giáo cũng như của học sinh.
1) Về hành vi ứng xử, thái độ, cử chỉ:
Có thể thấy, ở các nước phương Tây người ta không chú trọng nhiều đến những nghi lễ giao tiếp trong mối quan hệ thầy và trò, quan niệm của họ đơn giản hơn, dễ dàng, thoải mái hơn các nước phương Đông. Ví dụ, khi thầy giáo vào lớp, học sinh có thể không phải đứng lên chào thầy; hoặc trong giờ giảng, thầy giáo không nhất thiết phải đứng trên bục giảng, mà có thể ngồi xuống ghế cùng với học sinh, thậm chí ngồi lên bàn học sinh để giảng bài; và học sinh cũng không nhất thiết phải ngồi ghế mà có thể đứng-ngồi hay ra-vào tuỳ thích.
Tuy nhiên, hành vi ứng xử trong mối quan hệ thầy trò ở nước ta không được thoải mái như vậy, mà phải tuân theo những phép tắc nhất định . Nước ta là nước á Đông, chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo nên rất coi trọng lễ nghĩa: "Tiên học lễ , hậu học văn", đó là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Vì vậy, học sinh đối với thầy giáo phải lễ phép, có tôn ti trật tự, có thái độ tôn sư trọng đạo, biết ơn thầy cô và phải thực hiện những nghi thức trong lớp học như :
- Khi thầy giáo vào lớp để bắt đầu buổi học, học sinh phải đứng lên chào thầy với thái độ trang nghiêm, không nói cười hay quay ngang quay dọc lúc đứng chào.
- Trong giờ học, học sinh phải trật tự, chăm chú lắng nghe thầy giáo giảng bài, không nói chuyện riêng, gây ồn ào, bởi lẽ, nếu ngược lại tức là học sinh có thái độ không tôn trọng thầy, dễ gây phân tán, mất tập trung giảng dạy cho thầy giáo, làm cho bài giảng không đạt hiệu quả cao. Ngoài ra, học sinh phải tuân theo sự chỉ huy của thầy giáo, khi muốn phát biểu phải xin phép thầy, có thể nói: "Thưa thầy, em xin phép có ý kiến ạ", thầy giáo đồng ý thì mới được phát biểu; hoặc muốn ra ngoài cũng phải xin phép thầy, không được ra vào tuỳ tiện.
- Khi hết giờ, học sinh phải đứng lên chào thầy một cách trang nghiêm trước khi ra về. Nếu gặp thầy giáo ngoài đường, học sinh cũng phải lễ phép chào thầy, tôn trọng thầy như trong lớp học.
Bắt tay cũng là một cử chỉ giao tiếp dùng tay nắm lấy tay người khác để chào hay để tỏ tình thân thiện. Tuy nhiên, khi gặp thầy cô giáo, học sinh không được bắt tay thầy trước, mà chỉ chào thầy; khi thầy đưa tay ra trước thì học sinh mới được phép bắt tay.
Ngược lại, giáo viên cũng cần có thái độ tôn trọng và thân mật với học sinh, tránh tình trạng đặt khoảng cách quá xa giữa thầy với trò, gây cho học sinh khó tiếp cận với thầy để trao đổi bài học khi có khó khăn, khúc mắc. Thầy giáo cần tỏ thái độ tâm huyết, nhiệt tình với học sinh, tất cả vì sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ, "tất cả vì học sinh thân yêu".
2) Về trang phục:
Trang phục cũng là một phương tiện phi ngôn ngữ của hoạt động giao tiếp. Một bộ quần áo sạch sẽ, là ủi thẳng nếp, giản dị, phù hợp với người mặc thể hiện sự tự trọng ,thái độ nghiêm túc, lịch sự trong giao tiếp, sẽ gây ấn tượng tốt, dễ gần, sự thân thiện ngay khi mới tiếp xúc lần đầu. Bởi lẽ, trước tiên mọi người nhìn thấy rồi sau đó mới nghe thấy chúng ta, cách ăn mặc biểu hiện cách xử sự lịch thiệp của ta, mà không cần chúng ta phát ngôn, hơn thế, cơ hội phát ngôn không phải là dễ, và nếu có được cơ hội đó thì không phải ai cũng quan tâm lắng nghe. Chính vì vậy, mỗi người cần ý thức đúng đắn về trang phục, ăn mặc sao cho thích hợp với mình và với hoàn cảnh giao tiếp. Đặc biệt là trong trường học, vấn đề về trang phục cần phải được quan tâm lưu ý và phải được chuẩn hoá.
Đối với học sinh, trang phục phải giản dị, gọn gàng, chỉnh tề, không được tuỳ tiện, luộm thuộm, thiếu nghiêm túc, không mặc những trang phục hở hang, quá loè loẹt hay lập dị. Nhiều trường phổ thông nước ta đã có đồng phục riêng cho học sinh, tuy nhiên cũng nên có cũng nên có huy hiệu riêng của trường để cán bộ, giáo viên, học sinh đeo khi đến trường dạy và học. ở các nước khác, học sinh, sinh viên có lễ phục để mặc riêng trong ngày lễ, biểu hiện sự trang nghiêm hơn trong những ngày lễ đó, nước ta cũng nên áp dụng hình thức lễ phục này. Hiện nay các trường đại học của ta có bộ lễ phục riêng mặc trong buổi lễ nhận bằng tốt nghiệp đại học, tuy nhiên, bộ lễ phục này chưa được gọn gàng, có phần lai căng, nên chăng cách tân một chút để gọn gàng, tiện lợi và phù hợp với truyền thống dân tộc hơn .
Đồ trang sức là một yếu tố quan trọng để tôn vinh vẻ đẹp của con người. Tuy nhiên, đồ trang sức quá đắt tiền và lộng lẫy không phù hợp với học sinh, sinh viên và giảng viên, dễ gây phân cấp xã hội trong lớp học và bị tách biệt khỏi môi trường lóp học chung . "Ăn mặc thích hợp là biết cách cư xử, và vì vậy phải tính đến tập quán của từng môi trường xã hội, hoặc nghề nghiệp, phải tính đến cương vị và tuổi tác của từng cá nhân cũng như hoàn cảnh cụ thể. Nếu xa rời những chuẩn mực trong phục trang, ta có nguy cơ khiến người khác nghĩ rằng ta đã mắc một sai lầm, như vậy còn có thể tha thứ được, hoặc có thể ta đã thiếu suy xét , một điều khó tha thứ hơn, và nguy hại hơn là khiến người khác nghĩ rằng ta chỉ trích phong cách của người đối thoại vì ta tỏ ra khác biệt với họ "(Dusault L. Sđd. tr. 199).
2.5. Giao tiếp ngôn ngữ
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất và cũng là thành tựu vĩ đại nhất của nền văn minh nhân loại .Tuỳ những yếu tố hoàn cảnh, điều kiện, mục tiêu và các tính chất khác nhau của giao tiếp mà mỗi môi trường giao tiếp khác nhau lời nói có những nghi thức khác nhau tương ứng. Trong môi trưòng giáo dục, ngôn ngữ phải được dùng chính xác, chuẩn mực; hoạt động giao tiếp trong môi trường này được thể hiện trên 3 bình diện :
1) Giao tiếp giữa thầy với trò và giữa trò với thầy:
a- Giao tiếp giữa thầy với trò :
Thầy giáo là người trực tiếp truyền tải cho học sinh kiến thức cũng như hiểu biết của mình, vì vậy, ngôn ngữ trong giảng dạy và giao tiếp với học sinh cần chính xác, ngắn gọn, dễ hiểu; sao cho học sinh nắm bắt ngay được ý định mình muốn truyền đạt mà không hiểu sai lệch nội dung. Khi đối thoại với học sinh, thầy giáo có thể xưng Tôi, Thầy và gọi Bạn, Em; và dùng lời nói thân thiện, niềm nở, tạo sự thoải mái tự nhiên cho học sinh.
b- Giao tiếp giữa trò với thầy:
Ngày nay, trong bối cảnh nền kinh tế mở cửa, đất nước ta đang dần dần hội nhập với nền kinh tế thế giới, và do đó cũng tiếp thu nhiều điều mới mẻ của nhân loại. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức được rằng, việc tiếp thu ấy cần có sự chắt lọc, chỉ tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, và phải đảm bảo bảo tồn và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hoá dân tộc."Tôn sư trọng đạo " là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta từ ngàn đời nay. Không vì tính tự do của nền kinh tế thị trường mà chúng ta có quan niệm thoải mái hơn, lỏng lẻo hơn trong việc sử dụng lời nói, ngôn ngữ của học sinh đối với thầy giáo; mà hơn bao giờ hết, khi càng phát triển hiện đại, tiên tiến bao nhiêu chúng ta càng phải giữ gìn, phát huy nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc ấy bấy nhiêu, để khẳng định sức mạnh của ta trên trường quốc tế không chỉ về kinh tế mà còn cả về văn hoá. Chính vì vậy, học sinh nói với thầy giáo phải nhẹ nhàng, lễ phép, có thưa gửi, bày tỏ sự tôn kính với thầy, không được nói trống không.
c- Giao tiếp giữa trò với trò:
Quan hệ giữa học sinh với học sinh là quan hệ đồng trang lứa, quan hệ bạn bè, nên việc sử dụng ngôn ngữ có thể thoải mái hơn. Tuy nhiên, thoải mái không phải là nói gì cũng được, mà phải có mức độ, phải giữ được mức lịch sự cần thiết, đặc biệt không được chửi thề hay những từ ngữ không có văn hoá. Trong đối thoại có thể xưng Tôi, Tớ, và gọi Bạn, Cậu.
2) Giao tiếp giữa học trò đối với xã hội nói chung:
Ngoài giao tiếp ở trường học với thầy cô giáo và bạn bè, học sinh còn giao tiếp với những mối quan hệ khác, đó là những giao tiếp hàng ngày với hàng xóm, bố mẹ, họ hàng, người thân và xã hội nói chung. Việc dùng lời nói, ngôn ngữ chuẩn mực không chỉ được quy định riêng trong trường học mà nó còn phải được áp dụng cả khi giao tiếp ngoài xã hội. Bởi lẽ, cách ứng xử, nói năng ngoài xã hội sẽ thể hiện mặt bằng chung, trình độ dân trí chung của công dân, đặc biệt là của học sinh, sinh viên. Trong giao tiếp xã hội nói chung, học sinh càng không được thoải mái như trong giao tiếp với bạn bè, mà càng phải lễ phép, có thưa gửi đối với người trên tuổi; dùng lời nói chính xác, thông dụng, không dùng từ lóng, kể cả những từ ngữ "mốt", gây khó hiểu hoặc hiểu nhầm cho đối tượng nghe.
2.6. Những nghi thức đoàn thể
Đoàn thể là bộ phận không thể thiếu trong các tổ chức, đơn vị, đặc biệt là trong trường học. Bên cạnh nhiệm vụ học tập, học sinh, sinh viên còn tham gia các hoạt động, các phong trào do đoàn thể tổ chức để nâng cao vai trò, trách nhiệm của mình trứơc tập thể và được rèn luyện về phẩm chất, đạo đức nâng cao nhận thức của mình. Các tổ chức đoàn thể đó là tổ chức Đảng, Đoàn, Đội; nhưng đối với các trường học, đặc biệt là đối với trường đại học sinh viên chủ yếu tham gia công tác Đoàn. Chính vì vậy, sinh viên phải biết được những nghi thức hoạt động trong tổ chức Đoàn.
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là một tổ chức chính trị xã hội của thanh niên Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến, tự nguyện phấn đấu vì sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, công bằng và văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Theo Điều lệ và hướng dẫn thực hiện Điều lệ Đoàn, Nghi thức tổ chức lễ kết nạp Đoàn viên được thực hiện như sau:
A- Địa điểm, thời gian, trang trí:
a) Địa điểm: Lễ kết nạp đoàn viên được tổ chức trang nghiêm, có thể tổ chức ở phòng họp, phòng truyền thống hoặc ở những nơi có di tích lịch sử văn hoá, trong một cuộc sinh hoạt, hoạt động tập thể của chi đoàn.
b) Thời gian: Cần chọn thời điểm thích hợp, thuận lợi và có ý nghĩa gắn với các ngày lễ lớn hay các hoạt động của chi đoàn.
c) Trang trí: Không cầu kỳ nhưng nhất thiết phải có cờ Tổ quốc, cờ Đoàn hay huy hiệu Đoàn, và ảnh hay tượng Bác Hồ, có dòng chữ: "Lễ kết nạp đoàn viên mới". Nên có lọ hoa để tạo không khí vui tươi đẹp mắt.
Cách trang trí tuỳ vào không gian và điều kiện cụ thể về địa điểm, nhưng phải đảm bảo cờ Đoàn hoặc huy hiệu Đoàn không cao hơn cờ Tổ quốc, tượng hoặc ảnh Bác không đặt cao hơn cờ Tổ quốc và cờ Đoàn. Nếu kết nạp ngoài trời thì dùng hình thức cờ có cán, có người đứng cầm cờ giống như nghi thức đội.
B - Chương trình, nội dung:
- Chào cờ, hát Quốc ca, và bài ca chính thức của Đoàn, tuyên bố lý do, giới thiệu các đại biểu.
- Bí thư chi Đoàn hoặc đại diện Ban chấp hành chi đoàn báo cáo quá trình phấn đấu, đọc nghị quyết chuẩn y kết nạp của Đoàn cấp trên, trao quyết định, gắn huy hiệu và trao thẻ đoàn viên mới.
- Đoàn viên mới đọc lời hứa: “ Được vinh dự trở thành đoàn viên TNCS Hồ Chí Minh, trước cờ Tổ quốc, cờ Đoàn, trước chân dung của Bác Hồ vĩ đại, trước toàn thể các đồng chí, tôi xin hứa:
Luôn luôn phấn đấu vì mục tiêu lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nghiêm chỉnh thực hiện Điều lệ Đoàn, tích cực rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu đoàn viên Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Giúp đỡ mọi người, luôn luôn xứng đáng là người bạn tin cậy của thanh niên Việt Nam."
( Trường hợp kết nạp nhiều người thì cử một người đại diện đọc lời hứa, sau đó mọi người cùng hô xin hứa).
- Đại diện người giới thiệu thanh niên của Đoàn phát biểu, hứa tiếp tục giúp đỡ đoàn viên.
- Đại diện thanh niên hoặc chi hội, chi đội phát biểu cảm tưởng.
- Đại biểu Đoàn cấp trên hoặc cấp uỷ phát biểu giao nhiệm vụ.
- Chào cờ, bế mạc.
Theo Bản phụ lục kèm theo Điều lệ đoàn thông qua ngày 27-11-1997 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đoàn ca có nội dung lời như sau:
Thanh niên làm theo lời Bác
"Kết liên lại thanh niên chúng ta cùng nhau đi lên
Giơ nắm tay thề gìn giữ hoà bình độc lập tự do
Kết liên lại anh em chúng ta cùng quyết tiến bước
Đánh tan quân thù xây đắp cuộc đời hạnh phúc ấm no
Đi lên thanh niên, chớ ngại ngùng chi
Đi lên thanh niên, làm theo lời Bác
Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên."
Những đoàn viên ưu tú, có ý thức tốt trong việc học tập, rèn luyện, phấn đấu sẽ được chi đoàn bình chọn (sáu tháng một lần) giới thiệu với Đảng để Đảng xem xét, bồi dưỡng kết nạp. Vì vậy, đoàn viên cần được học tập, quán triệt đường lối chủ trương của Đảng, nhất là những vấn đề có liên quan đến thanh niên và những vấn đề về sự lãnh đạo của Đảng ở trường học. Đồng thời, đoàn viên phải nắm được các điều kiện, tiêu chuẩn kết nạp vào Đảng, nắm được Điều lệ Đảng, Đảng kỳ, Đảng ca.
2.7. Nghi thức nhà nước và môn giáo dục công dân
Giáo dục công dân là môn học nhằm hình thành và bồi dưỡng nhân cách, đạo đức, phẩm chất và năng lực công dân, giáo dục cho học sinh cách quan niệm, cư xử đúng đắn trong quan hệ với thầy cô, ông bà, cha mẹ, người thân và với xã hội; bên cạnh đó cũng giáo dục tư tưởng và ý thức công dân đối với đất nước, xã hội .
Nghi thức nhà nước là những phương thức giao tiếp trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung, bao gồm cách thức thể hiện và sử dụng biểu tượng quốc gia, công tác lễ tân, kỹ năng giao tiếp, tổ chức các hoạt động quản lý v.v...
Như vậy, việc giáo dục cho học sinh kiến thức, thói quen thực hiện nghi thức nhà nước sẽ giúp ích cho giáo dục công dân, giúp nâng cao ý thức chính trị cũng như tinh thần yêu nước, ý thức đúng đắn về nền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là đối với sinh viên. Bởi vì, theo Điều 35 Luật Giáo dục1998, "Mục tiêu của giáo dục đại học và sau đại học là đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Khi sinh viên có kiến thức về nghi thức nhà nước và có thói quen thực hiện nghi thức nhà nước, tức là đã được nâng cao tinh thần yêu nước, nâng cao văn hoá giao tiếp trong mọi môi trường và chuẩn bị được một phần hành trang quan trọng để trở thành người công dân tốt hay xa hơn là một cán bộ công chức tốt, có tư cách đạo đức.
chương II
thực trạng thực hiện nghi thức nhà nước tại trường đại học quản lý và kinh doanh hà nội
1. giới thiệu chung về Trường Đại học quản lý và Kinh doanh Hà Nội
1.1. Quá trình hình thành Trường
Trường Đại học quản lý và Kinh doanh Hà Nội là một trường đại học dân lập, thuộc Hội khoa học Kinh tế Việt Nam, được phép thành lập theo Quyết định số 405/TTg, ngày 15/6/1996 của Thủ tướng Chính Phủ. Trường chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
1.2. Mục tiêu của Trường
Đào tạo nguồn nhân lực góp phần hình thành đội ngũ các nhà kinh doanh có kiến thức và kỹ năng quản lý hiện đại, dưới hình thức: đào tạo đại học chính quy, đào tạo tại chức, đào tạo văn bằng hai, bồi dưỡng ngắn hạn.....
Nghiên cứu khoa học về kinh tế, kinh doanh và quản lý
Hoạt động tư vấn về quản lý và phát triển.
1.3. Nội dung và chương trình đào tạo
1) Hệ đào tạo đại học chính quy có 3 ngành học:
Quản lý và kinh doanh
Tiếng Anh kinh doanh
Tin học quản lý.
a- Chương trình đào tạo cử nhân quản lý kinh doanh:
Trang bị kiến thức và năng lực nghề nghiệp về:
Kiến thức kinh tế: Học thuyết kinh tế Mác-Lênin, Kinh tế học vĩ mô - vi mô, Thống kê kinh tế, Địa lý kinh tế Việt Nam- Thế giới, Luật kinh tế...
Kiến thức và nghiệp vụ thương mại: Thương mại, Ngoại thương, Tiếp thị.
Kiến thức và nghiệp vụ tài chính kế toán: Tài chính - tiền tệ, Tài chính doanh nghiệp, Kế toán doanh nghiệp.
Kiến thức và nghiệp vụ quản lý: Khoa học quản lý, Tổ chức quản lý, Quản lý nhân lực, Chiến lược kinh doanh, Quản lý dự án, Quản lý tác nghiệp, Quản lý hành chính...
Kiến thức và nghiệp vụ chuyên sâu về một nhánh hoạt động của nghề quản lý kinh doanh để ra trường có thể làm việc được ngay.
Có 5 chuyên ngành:
+ Tài chính kế toán
+ Thương mại-Ngoại thương
+ Kinh tế đối ngoại
+ Quản lý doanh nghiệp
+ Hành chính doanh nghiệp
Kiến thức luật để kinh doanh theo Pháp luật: Pháp luật đại cương, Luật kinh tế Việt Nam, Luật quốc tế.
Công cụ toán: Toán cao cấp, Toán kinh tế ... để tính toán và giải các bài toán trong kinh doanh.
Kỹ năng sử dụng máy vi tính: Để soạn thảo văn bản, gửi thư điện tử, quản lý dữ liệu, truy cập mạng...
Sử dụng tiếng Anh ở trình độ tối thiểu là giao dịch được với các bạn hàng nước ngoài.
Hiểu biết nhất định về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam, Luật kinh tế Việt Nam.
Phương pháp tư duy đúng, tư duy logic, logic biện chứng và duy vật về lịch sử: Logic, Triết học Mác-Lênin
Được giáo dục về thể chất, quốc phòng.
b- Chương trình đào tạo cử nhân tin học quản lý
Cơ cấu kiến thức:
Tin học: Với 130 đơn vị tin học và toán học, trong đó có 24 đơn vị tin học ứng dụng.
Tiếng Anh với 80 đơn vị học trình
Kiến thức quản lý kinh doanh
Kiến thức giáo dục đại cương
c- Chương trình đào tạo cử nhân tiếng Anh:
Trang bị kiến thức về:
Tiếng Anh với 150 đơn vị học trình
Quản lý kinh doanh
Kỹ năng bổ trợ cho quản lý kinh doanh (như kỹ năng sử dụng máy vi tính)
Kiến thức giáo dục đại cương
Tóm lại sau 4 năm đào tạo hệ chính quy, sinh viên sẽ được trang bị 4 công cụ để bước vào cuộc đời lập nghiệp:
Có kiến thức liên ngành về kinh tế, kinh doanh, quản lý và kỹ năng thực hành, nhờ đó sinh viên sẽ dễ dàng lựa chọn và chuyển dịch nghề nghiệp.
Nắm vững một chuyên ngành để làm việc được ngay.
Sử dụng thành thạo hoặc tương đối thành thạo tiếng Anh kinh doanh.
Sử dụng thành thạo máy vi tính.
2) Chương trình đào tạo bằng hai cử nhân quản lý kinh doanh:
Theo Quyết định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trường đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội được phép mở Ngành đào tạo văn bằng thứ hai.
Những người học văn bằng thứ hai là những người đã có một bằng cử nhân, cũng tức là một nghề, nay muốn được trang bị nghề thứ hai- Nghề quản lý Kinh doanh, nhằm chuyển đổi hoặc bổ sung nghề.
3) Chương trình đào tạo ngắn hạn:
Đào tạo những cán bộ quản lý đương chức, nhằm bổ túc và nâng cao trình độ kiến thức của họ về quản lý và kinh doanh, theo kịp những kiến thức mới của thời đại và những kinh nghiệm mới của đất nước.
4) Chương trình đào tạo hướng nghiệp:
Là khoá học chuẩn bị đầu vào có chất lượng cho Trường, với chương trình đào tạo gồm: kiến thức trung học và kiến thức đại học (của học kỳ I)
2. cơ cấu tổ chức bộ máy
Về tổ chức, Trường được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có cơ cấu lãnh đạo như sau:
Cơ quan có thẩm quyền cao nhất của Trường là Đại hội cổ đông và giữa hai kỳ Đại hội cổ đông là Hội đồng quản trị do Đại hội bầu ra.
Hội đồng quản trị cử ra cơ quan thường vụ gồm: Chủ tịch kiêm Hiệu trưởng, các Phó chủ tịch, các Phó hiệu trưởng. Hiệu trưởng là đại diện pháp nhân của Trường.
Đại hội cổ đông bầu ra Ban kiểm soát là cơ quan giám sát, kiểm tra của Đại hội cổ đông.
Ban giám hiệu có các tổ chức trực thuộc sau:
+ Hội đồng khoa học
+ Các tổ chức đào tạo
+ Các tổ chức nghiên cứu khoa học
+ Các tổ chức tư vấn
+ Các phòng ban chức năng
+ Các tổ chức dịch vụ
Việc thành lập và giải thể các tổ chức trực thuộc do Ban giám hiệu quyết định căn cứ vào nhu cầu công tác trên nguyên tắc đảm bảo hiệu suất, hiệu quả của bộ máy hoạt động.
3. nhận xét chung
3.1. Những thuận lợi
Có sự thống nhất, đoàn kết trong nội bộ nhà trường, toàn thể cán bộ, giảng viên, công nhân viên để cùng nhau vượt qua mọi khó khăn, khắc phục thiếu sót cùng với mục đích là hoàn thành mục tiêu đề ra, xây dựng trường không ngừng phát triển.
Thiết lập được quan hệ quốc tế trong đào tạo.
được sự chỉ đạo, lãnh đạo cụ thể, sát sao của Bộ Giáo dục và Đào tạo, và sự giúp đỡ của các ban ngành, chính quyền các cấp và thành phố Hà Nội.
Ngoài việc thực hiện để hoàn thành nhiệm vụ được giao, đội ngũ cán bộ, giảng viên trong trường còn không ngừng phấn đấu học tập để nâng cao, trau dồi kiến thức rộng hơn về mọi mặt.
3.2. Những khó khăn
Là một trường mới được thành lập nên chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc tổ chức, quản lý bộ máy, và về nội dung, phương pháp giảng dạy, nên cần phải bổ sung, đổi mới liên tục để cập nhật với tiến bộ mới của thời đại và nâng cao chất lượng đào tạo.
3.3. Những kết quả đạt được của trường
Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn vất vả nhưng với sự lãnh đạo tài tình của Ban Giám hiệu, Hội đồng quản trị và sự cố gắng hết mình của đội ngũ cán bộ, giảng viên, Trường đã hoàn thành những mục tiêu đề ra một cách xuất sắc:
Trên 1000 sinh viên khoá I và khoá II đã lần lượt bảo vệ thành công luận văn và nhận bằng tốt nghiệp, trong đó có 15 sinh viên (khoá I) đã nhận được bằng cử nhân của Hà Lan, sau khi học tiếp năm thứ tư tại Hà Lan (học qua tiếng Anh)
Hầu như mọi sinh viên ra trường đều đã tìm được việc làm, nhiều sinh viên đã được nhận vào làm việc tại chính đơn vị mình thực tập. Có sinh viên đã thiết kế cả một dự án kinh doanh cho mình, lấy đó làm nội dung của luận văn tốt nghiệp.
Mỗi năm trường tuyển sinh hàng nghìn sinh viên mới (theo quy chế của Bộ Giáo dục và Đào tạo) và luôn hoàn thành chương trình đào tạo trong năm.
lời nói đầu
Nghi thức nhà nước là một bộ phận quan trọng để xây dựng và hoàn thiện "nghi lễ giao tiếp" của mỗi dân tộc, cộng đồng và nhóm người cũng như "thông lệ quốc tế" trong giao tiếp của cộng đồng nhân loại. Trong bối cảnh hội nhập với nền kinh tế thế giới, nghi lễ giao tiếp, trong đó có nghi thức nhà nước, càng trở nên quan trọng.
Những biểu tượng quốc gia là một bộ phận quan trọng cấu thành nên hệ thống các thủ tục nhằm thực hiện quyền lực nhà nước (thủ tục lập pháp, hành pháp và tố tụng tư pháp), đồng thời là một bộ phận hình thức mang tính hỗ trợ quan trọng của chính những thủ tục đó. Bất kỳ một tổ chức, đơn vị nào cũng phải hiểu và nắm được những nghi lễ này để hành xử cho đúng, cho tốt và có hiệu quả.
Đặc biệt là trong trường học, việc giáo dục cho học sinh, sinh viên những kiến thức về nghi thức nhà nước, nghi lễ giao tiếp tức là giáo dục cho học sinh một cách toàn diện; về ý thức chính trị, tinh thần yêu nước cũng như hành vi ứng xử đúng đắn trong giao tiếp đối với mọi môi trường, môi trường giáo dục (trường học) cũng như môi trường xã hội; đáp ứng mục tiêu của giáo dục (Luật giáo dục năm 1998) là: "Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, có tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc."
Chính vì vậy, trong thời gian thực tập tại trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội, tôi đã chọn đề tài: "Một số vấn đề về thực hiện nghi thức nhà nước tại trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội".
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề chung, luận văn tốt nghiệp này phân tích thực trạng thực hiện Nghi thức nhà nước của trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội, đề xuất một số kiến nghị để góp phần hoàn thiện hơn việc thực hiện nghi thức nhà nước tại Trường.
Kết cấu của luận văn:
Luận văn được chia thành 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về nghi thức nhà nước
Chương này cung cấp các kiến thức cơ bản về nghi thức nhà nước: Khái niệm, nội dung, những quy định của Nhà nước về nghi thức nhà nước, và vai trò việc thực hiện nghi thức nhà nước trong hệ thống giáo dục công dân. Những kiến thức này là cơ sở để nhìn nhận, đánh giá công tác thực hiện nghi thức nhà nước ở trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội.
Chương II: Thưc trạng về thực hiện nghi thức nhà nước tại trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội
Chương này nêu thực trạng thực hiện nghi thức nhà nước, những ưu điểm cũng như thiếu sót cần khắc phục trong thực hiện nghi thức nhà nước, để nâng cao vai trò giáo dục, chất lượng đào tạo của trường.
Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện hoạt động nghi thức nhà nước.
Chương này đưa ra một số kiến nghị và giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện hơn hoạt động nghi thức nhà nước tại Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34247.doc