Hiệu quả trong kinh doanh là mục tiêu hàng đầu của các Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường. Để đạt được điều đó đòi hỏi các Ngân hàng Thương mại phải luôn tiếp cận cái mới, áp dụng công nghệ ngân hàng tiên tiến trên thế giới, nhất là đối với các Ngân hàng Thương mại Việt Nam đang trong quá trình đổi mới, còn thiếu nhiều điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh doanh.
Thanh toán không dùng tiền mặt là nghiệp vụ được hiện đại hoá cao trên thế giới, song trái lại ở Việt Nam thì nó đang trong quá trình hoàn thiện và mở rộng. Do đó các Ngân hàng Thương mại cần nghiên cứu nâng cao chất lượng và số lượng dịch vụ nhằm mục đích tăng cường hiệu quả và an toàn. Quá trình này gồm nhiều mặt, nó đòi hỏi các ngân hàng phải từng bước mở rộng và trang bị kỹ thuật hiện đại để đưa công tác thanh toán của ngân hàng nhanh chóng hoà nhập với công nghệ thanh toán hiện đại trong khu vực và trên thế giới.
Xuất phát từ nghiên cứu tình hình thực tế tại Ngân hàng Công thương Đống Đa em đã mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ của mình mong rằng sẽ góp được một phần nhỏ vào công tác hoàn thiện các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.
Những nội dung cơ bản đã đề cập trong luận văn này mới chỉ giới hạn trong phạm vi các điều kiện cần thiết của nghiệp vụ. Hy vọng rằng với một vài suy nghĩ về nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt có thể đóng góp phần nhỏ vào việc hoàn thiện và mở rộng nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện cho Ngân hàng Thương mại.
Trong quá trình nghiên cứu, khóa luận có điều gì sơ suất, thiếu sót em rất mong được sự thông cảm và giúp đỡ của ngân hàng cũng như các thầy cô giáo.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
69 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1206 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số vấn đề về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Công thương Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là một đơn vị kinh doanh tiền tệ tín dụng đã góp phần quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn và thanh toán giúp cho các doanh nghiệp, cá nhân tham gia đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thanh toán kịp thời góp phần thúc đẩy kinh tế trong quận đạt hiệu quả cao.
II. Khái quát tình hình hoạt động của Ngân hàng Công thương Đống Đa.
1. Mô hình tổ chức:
Ngân hàng Công thương Đống Đa được thành lập ngày 01/08/1988 là một doanh nghiệp nhà nước thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng đối với các tổ chức doanh nghiệp, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước, đáp ứng nhu cầu vay vốn ngắn hạn trung và dài hạn (kể cả ngoại tệ) của mọi thành phần kinh tế có nhu cầu về vốn và thanh toán trong nền kinh tế.
Sự chuyển mình của cơ chế thị trường đã đặt các ngân hàng vào một môi trường mới, môi trường mà ở đó chỉ có chỗ đứng cho những ngân hàng nhạy bén, năng động và sáng tạo. Ngân hàng Công thương Đống Đa ngoài chức năng đi vay để cho vay, còn tổ chức tốt dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, làm nhiệm vụ bảo lãnh, dự thầu... Giúp cho các doanh nghiệp, cá nhân mở rộng hoạt động kinh doanh của mình để cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho xã hội, nhằm thúc đẩy nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển.
Ngân hàng Công thương Đống Đa là một chi nhánh ngân hàng quận trực thuộc Ngân hàng công thương Việt Nam. Cho nên Ngân hàng Công thương Đống Đa là một đơn vị hạch toán nội bộ, trực tiếp kinh doanh tiền tệ, dịch vụ ngân hàng trên địa bàn quận Đống Đa.
Ngân hàng Công thương Đống Đa có quy mô tương đối lớn khoảng 300 cán bộ nhân viên. Ngân hàng gồm có ban giám đốc với 1 giám đốc và 3 phó giám đốc. Các phòng ban chức năng đảm nhiệm công việc kinh doanh tuỳ từng nội dung. Hoạt động bao gồm :
1. Phòng kế toán - tài chính.
2. Phòng kinh doanh.
3. Phòng nguồn vốn.
4. Phòng kho quỹ tiền tệ.
5. Phòng Tổ chức - Hành chính.
6. Phòng thanh toán quốc tế.
7. Phòng kiểm soát.
Với 2 phòng giao dịch:
a. Phòng giao dịch Kim liên.
b. Phòng giao dịch Cát linh.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban giám đốc Ngân hàng Công thương Đống Đa, các phòng ban phối kết hợp chặt chẽ để hoạt động, làm tốt chức năng kinh doanh của ngân hàng là đi vay để cho vay, làm dịch vụ thanh toán đảm bảo an toàn vốn vay, thu hồi cả gốc và lãi, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng và thu lợi nhuận của ngân hàng cao. Bằng cách luôn đổi mới phong cách lề lối làm việc, trân trọng khách hàng, nâng cao uy tín của ngân hàng đối với khách hàng, đưa khoa học công nghệ tin học mới vào khâu thanh toán. Thực hiện thanh toán nhanh, kịp thời, an toàn cho khách hàng và ngân hàng góp phần không nhỏ trong công cuộc phát triển kinh tế nhiều thành phần, thúc đẩy sản xuất, dịch vụ của nước ta ngày càng phát triển.
2. Hoạt động nguồn vốn.
Nhận thức được tầm quan trọng về công tác nguồn vốn của ngân hàng là “đi vay để cho vay” nên ngay từ đầu năm Ngân hàng Công thương Đống Đa đã đặc biệt quan tâm bằng mọi biện pháp duy trì và không ngừng tăng trưởng nguồn vốn. Vì vậy nguồn vốn của ngân hàng là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập và huy động được để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ tài chính khác.
Nguồn vốn tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động tiền gửi của Ngân hàng phải kể đến nguồn tiền gửi tiết kiệm. Để khai thác tối đa nguồn tiền gửi này, Ngân hàng Công thương Đống Đa đã đưa ra nhiều hình thức huy động tiết kiệm như tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn 3 tháng. 6 tháng, 9 tháng, 1 năm và tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ. Song song với việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn tiền gửi tiết kiệm, Ngân hàng đã mở rộng mạng lưới thu hút tiền gửi tiết kiệm đến tận các Phường trong Quận đống đa. Trong những năm qua Ngân hàng Công thương Đống Đa đã có nhứng khoản chi lớn để tu bổ, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật cho các Qũy tiết kiệm cũ, mở thêm các quỹ tiết kiệm mới, nâng tổng số qũy tiết kiệm của Ngân hàng lên 14 Quỹ. Hầu hết các qũy được xây dựng đẹp. ở vị trí thuận tiện, với đội ngũ nhân viên lịch sự trong giao tiếp đối với khách hàng nên đã thu hút thêm nhiều khách hàng tới gửi tiền ở Ngân hàng.
Nguồn vốn là cơ sở để thành lập và tổ chức các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, vì đối tượng kinh doanh của ngân hàng là tiền tệ. Nếu nguồn vốn dồi dào, ngân hàng có điều kiện mở rộng quy mô tín dụng để thoả mãn tối đa nhu cầu về vốn trên địa bàn quận mà vẫn đảm bảo khả năng thanh toán chi trả cho đơn vị, mặt khác nó quyết định khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
Nhận thức được vai trò cần thiết, quan trọng của nguồn vốn trong kinh doanh, Ngân hàng Công thương Đống Đa luôn quan tâm, chỉ đạo công tác huy động vốn trên địa bàn một cách tích cực, bằng nhiều biện pháp:
- Tuyên truyền, quảng cáo trên truyền hình, báo chí để thu hút khách hàng để mở tài khoản tiền gửi cá nhân và các tổ chức kinh tế. Với tháI độ tiếp khách nhiệt tình, văn minh, phục vụ khách hàng nhanh, đảm bảo chính xác và an toàn, thủ tục mở tài khoản đơn giản tránh phiền hà để thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư.
Với việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn và mở rộng mạng lưới huy động vốn trên địa bàn Quận đã thu hút thêm nhiều khách hàng đến mở tài khoản tại Ngân hàng, nâng số tài khoản hoạt động từ 1824 tài khoản vào cuối năm 1999 lên 2300 tài khoản vào cuối năm 2000. Đến ngày 30/6/2001 tổng số tài khoản tiền gửi đã tăng lên 2602 tài khoản, tăng 302 tài khoản so với năm 2000.
Kết cấu vốn lưu động của Ngân hàng Công thương Đống Đa thời gian qua được phản ánh qua biểu sau:
Đơn vị : tỷ đồng.
Thời gian
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
2000
30/6/2001
1. Tiền gửi của các TCKT
339
436
347
439
469
2. Tiền gửi dân cư và tiền gửi khác
850
859
1171
1360
1401
Tổng nguồn vốn
1.189
1295
1518
1799
1870
Theo bảng số liệu trên chúng ta thấy rằng tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng có chiều hướng gia tăng nhanh. Chỉ trong vòng 04 năm từ 1997 đến 2001 nguồn vốn huy động đã tăng rất nhanh. Trong đó nguồn vốn của các tổ chức kinh tế có chiều hướng gia tăng nhưng còn chậm. Trong thời gian gần đây do nguồn gửi tiết kiệm của Ngân hàng gia tăng mạnh Ngân hàng đã giảm bớt hình thức huy động bằng kỳ phiếu.
3. Công tác sử dụng vốn.
Với nguồn vốn huy động được trên địa bàn quận là chủ yếu, Ngân hàng Công thương Đống Đa đã sử dụng một cách tối đa để đáp ứng nhu cầu vay vốn: ngắn hạn, trung hạn, dàI hạn của các đơn vị kinh tế và cá nhân... trong quận bằng nhiều hình thức: cho vay ngắn hạn, cho vay đầu tư các dự án, cho vay sinh viên, tạo công ăn việc làm, cho vay hộ sản xuất, cầm cố...
Do tình hình sản xuất kinh doanh, dịch vụ của các thành phần kinh tế trong quận có nhiều biến động. Cụ thể về sản xuất công nghiệp: các doanh nghiệp sản xuất (quốc doanh và tư nhân) kỹ thuật công nghệ lạc hậu, chậm đổi mới, thiếu vốn đầu tư... dẫn đến sản xuất hàng hoá trong một số doanh nghiệp trong quận sản phẩm sản xuất ra bị ứ đọng, chậm tiêu thụ gây ảnh hưởng không nhỏ cho việc kinh doanh của ngân hàng và đơn vị kinh tế.
Nhưng với đội ngũ cán bộ tín dụng có trình độ nghiệp vụ chuyên sâu và nhiệt tình, có đạo đức tốt nên Ngân hàng Công thương Đống Đa đã mở rộng thị trường tín dụng. Cán bộ tín dụng đã trực tiếp tiếp cận với doanh nghiệp và cá nhân để nắm vững tình hình các đối tượng có nhu cầu xin vay vốn, giúp cho việc phát tiền vay của ngân hàng mang lạI hiệu quả kinh tế cao, đảm bảo an toàn vốn vay của ngân hàng, hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất, giúp cho các đơn vị, cá nhân tìm ra hướng đI mới phù hợp với kinh tế thị trường, cải thiện đời sống kinh tế xã hội.
Để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động và vốn cố định của khách hàng Ngân hàng tiến hành cấp tín dụng với thời hạn ngắn, trung và dài hạn. Trong các loại hình cho vay này thì tín dụng ngắn hạn bao giờ cũng chiếm tỷ trọng lớn hơn so với tín dụng trung và dài hạn. Thực tế đó thể hiện qua biểu sau:
Đơn vị : tỷ đồng
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
2000
30/6/2001
1. Dư nợ ngắn hạn
474
503
573
588
592
2. Dư nợ trung và dài hạn
67
100
121
183
190
Tổng dư nợ
541
603
694
771
782
Theo biểu trên thì dư nợ ngắn hạn và trung dài hạn đều có chiều hướng gia tăng.
Mặc dù nhu cầu vay vốn trung dài hạn lớn nhưng Ngân hàng vẫn không có đủ nguồn vốn trung dài hạn để đáp ứng nhu cầu vay này. Trong thời gian qua Ngân hàng tuy đã thực hiện cấp tín dụng bằng ngoại tệ nhưng loại tín dụng này vẫn chưa phát huy được hiệu quả do nguồn vốn ngoại tệ của Ngân hàng còn rất hạn hẹp, Ngân hàng phải thường xuyên nhận vốn điều hoà từ Ngân hàng Công thương trung ương, trong nhiều trường hợp Ngân hàng phải cho khách hàng vay VND để mua ngoại tệ.
Thấy được tầm quan trọng của thành phần kinh tế quốc doanh đối với nền kinh tế, trong quan hệ tín dụng với thành phần kinh tế này Ngân hàng Công thương Đống Đa đã tập trung một khối lượng vốn lớn để thoả mãn nhu cầu vốn lưu động và vốn cố định cho các doanh nghiệp làm ăn thực sự có hiệu quả để giúp doanh nghiệp có đủ sức vươn lên đứng vững trên thị trường.
4. Kinh doanh đối ngoại.
Sáu tháng đầu năm 2001 kinh doanh đối ngoại thu được kết quả đáng kể, thông qua hoạt động đối ngoại uy tín của Ngân hàng Công thương Đống Đa ngày càng được nâng cao, thu hút được thêm nhiều khách hàng. Lĩnh vực kinh doanh đối ngoại đã thu được 1852 triệu đồng, bao gồm phí thanh toán mở L/C và lãi mua bán, cụ thể:
- Đã mở 290 L/C nhập khẩu, số tiền là 18.528.040 USD cho 22 khách hàng.
- Đã mở được 8 L/C xuất khẩu, số tiền là 646.814 USD.
- Thu dịch vụ phí thanh toán quốc tế đạt 1348 triệu Đồng, bằng 124% so với 9 tháng đầu năm 1999.
Kinh doanh ngoại tệ:
- Tổng doanh số mua vào 20.991.548 USD và 2.183.881 DEM bằng 136% so với cùng kỳ năm 1999.
Tổng số doanh số bán ra là 22.142.062 USD và 2.146.604 DEM bằng 128% so với cùng kỳ năm 1999. Chênh lệch lãi 387 triệu Đồng chi trả kiều hối.
- Ngân hàng nhận số tiền 196.527 USD và 758.193 DEM
- Trả số tiền 193.927 USD và 755.950 DEM.
Hoạt động kinh doanh đối ngoại là nghiệp vụ tuy còn mới nhưng đã có nhiều triển vọng phát triển có hiệu quả. Thời gian qua ngoại tệ khan hiếm, nhưng chi nhánh đã tích cực khai thác bằng nhiều nguồn để tăng khả năng thanh toán bằng ngoại tệ đáp ứng được nhu cầu nhập vật tư hàng hoá của doanh nghiệp cũng như nhu cầu thanh toán kiều hối cho dân cư, Chi nhánh đã sử dụng nguồn ngoại tệ từ quỹ điều hoà của Trung ương cho vay có hiệu quả tăng vòng quay vốn ngoại tệ.
5. Công tác thanh toán:
Trong công tác thanh toán Ngân hàng Công thương Đống Đa luôn đặt việc phục vụ khách hàng với chất lượng cao, gây lòng tin với khách hàng là mục tiêu hàng đầu để thực hiện. Đào tạo đội ngũ thanh toán viên có trình độ nghiệp vụ thành thạo, thái độ phục vụ nghiêm túc, nhiệt tình, hướng dẫn khách hàng nắm vững thủ tục thanh toán không dùng tiền mặt trong giao dịch. Bên cạnh việc đào tạo con người, Ngân hàng còn trang bị hệ thống vi tính, thực hiện việc nối mạng trong toàn chi nhánh để cung cấp thông tin nhanh, chính xác để lãnh đạo chỉ đạo việc kinh doanh hoạt động của Ngân hàng được tốt.
Việc ngân hàng áp dụng thanh toán liên hàng đIện tử, thanh toán bù trừ qua vi tính (giao nhận qua đĩa mềm) đã đẩy nhanh tốc độ thanh toán rút ngắn thời gian chu chuyển vốn của khách hàng, đảm bảo an toàn cao, ít sai sót gây lòng tin và uy tín với khách hàng.
6. Kết quả tài chính:
Năm 1999 thu nhập cả năm đạt 111 tỷ đồng trong đó:
Thu lãi cho vay: 60,6 tỷ đồng
Thu lãi điều chuyển vốn : 45,2 tỷ đồng
Thu phí dịch vụ và bảo lãnh: 5,2 tỷ đồng
Năm 2000 thu nhập cả năm đạt 132 tỷ đồng trong đó:
Thu lãi cho vay: 72,5 tỷ đồng
Thu lãi điều chuyển vốn: 51,5 tỷ đồng
Thu phí dịch vụ và bảo lãnh: 8,0 tỷ đồng.
II. Thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Công thương Đống Đa:
1. Tình hình thanh toán nói chung:
Hoạt động trên phạm vi quân Đống Đa với nền kinh tế thị trường đa thành phần. Khách hàng là những doanh nghiệp nhà nước, HTX, tổ sản xuất, công ty TNHH, hộ cá thể và cá nhân, với số tài khoản tiền gửi lên tới 2102 có nhu cầu thanh toán qua ngân hàng. Đòi hỏi Ngân hàng Công thương Đống Đa quan tâm, chú trọng đến công tác thanh toán không dùng tiền mặt và coi đó là mục tiêu quan trọng hàng đầu. Vì nếu làm tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng, làm tăng thêm nguồn vốn trong thanh toán (với lãi suất thấp) tạo đIều kiện cho kinh doanh ngân hàng có hiệu quả cao, đáp ứng vốn cho nền kinh tế và tăng thu nhập về dịch vụ. Đồng thời giúp cho cá nhân quen dần với thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng, thấy hết được sự hơn hẳn của nó so với thanh toán bằng tiền mặt.
Thấy rõ được ưu điểm và thuận lợi của công tác thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng nên một số các doanh nghiệp, công ty...và khách hàng càng quan tâm hơn đến phương thức này nhằm giảm tối đa về chi phí, tranh thủ được thời gian, cũng như an toàn vốn cao. Bên cạnh đó công tác thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện ở Ngân hàng Công thương Đống Đa trong 6 tháng đầu năm 2001 vẫn gặp khó khăn. Số liệu bảng 1 sẽ thể hiện điều đó:
Bảng 1:
Tình hình thực hiện thanh toán chung 6 tháng đầu năm 2000
và 6 tháng đầu năm 2001
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
6 tháng đầu năm 2000
6 tháng đầu năm 2001
So sánh
Doanh số
Tỷ trọng (%)
Doanh số
Tỷ trọng (%)
Tuyệt đối
Tương đối (%)
Thanh toán bằng tiền mặt
2.140.247
31,8
2.103.956
28,1
-36.291
-1,7
Thanh toán không dùng tiền mặt
5.140.573
70,6
5.383.413
71,9
+244.838
4,8
Doanh số thanh toán chung
7.280.822
100
7.489.369
100
+208.547
+2,8
Qua số liệu ở bảng 1 cho ta thấy: Tổng doanh số thanh toán chung 6 tháng đầu năm 2001 là 7.489.369 Triệu đồng tăng + 208.547 Triệu đồng so với 6 tháng đầu năm 2000, số tương đối tăng + 2,9%.
Sở dĩ có sự gia tăng này là do ngân hàng không ngừng cải tiến công nghệ thanh toán, nâng cao chất lượng phục vụ của đội ngũ thanh toán viên, công tác hạch toán kế toán luôn đảm bảo kịp thời, nhanh chóng, phản ánh chính xác hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng luôn tận tình hướng dẫn giúp đỡ khách hàng lựa chọn hình thức thanh toán phù hợp mang lại hiệu quả cao.
Đặc biệt hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Công thương Đống Đa có chiều hướng tăng, cụ thể: 6 tháng đầu năm 2001 so với 6 tháng đầu năm 2000 tăng về số tuyệt đối là: + 244.838 Triệu đồng, số tương đối tăng + 4,8% và thanh toán bằng tiền mặt giảm xuống: về số tuyệt đối giảm - 36.291 Triệu đồng, số tương đối giảm - 1,7%. Điều đó cho thấy NHCT đã khắc phục được những tồn tại trong chế độ cũng như việc tổ chức thực hiện, góp phần mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt tại địa phương giúp cho các doanh nghiệp, cá nhân rút ngắn thời gian chu chuyển vốn, góp phần tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển.
2. Thực trạng áp dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Công thương Đống Đa:
Hiện nay Ngân hàng Công thương Đống Đa đang áp dụng chủ yếu các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt sau:
- Séc
- Uỷ nhiệm chi - chuyển tiền
- Uỷ nhiệm thu
- Ngân phiếu thanh toán
Qua khảo sát thực tế tại Ngân hàng Công thương Đống Đa cho thấy việc sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt nói chung như sau:
Các thể thức thanh toán bằng uỷ nhiệm chi - chuyển tiền, séc, ngân phiếu thanh toán được sử dụng nhiều, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh số thanh toán.
Một số thể thức thanh toán khác như: uỷ nhiệm thu, thư tín dụng, thẻ thanh toán... bộc lộ nhiều nhược điểm như: Thủ tục rườm rà, chậm thu được tiền vốn... cho nên ít được khách hàng áp dụng.
Tuy nhiên thể thức nào cũng có những mặt ưu - nhược điểm khác nhau và được sử dụng trong những trường hợp cụ thể khác nhau. Để làm sáng tỏ vấn đề ta đi sâu vào phân tích các hình thức thanh toán thực tế tại Ngân hàng Công thương Đống Đa.
Bảng 2:
Tình hình thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt 6 tháng đầu năm 2000 và 6 tháng đầu năm 2001 tại Ngân hàng Công thương Đống Đa
Đơn vị: Triệu đồng
Các hình thức thanh toán
6 tháng đầu năm 2000
6 tháng đầu năm 2001
Số món
Tỷ. trọng (%)
Doanh số
tỷ trọng (%)
Số món
Tỷ trọng (%)
Doanh số
tỷ trọng (%)
1. Các loại séc
7.124
19,3
185.140
3,6
6.389
17,9
203.215
3,8
- Séc chuyển khoản
5.223
14,1
141.289
2,7
4.685
13,1
144.722
2,7
- Séc bảo chi
1.901
5,2
43.851
0,9
1.704
4,8
58.493
1,1
2. Uỷ nhiệm chi
21.150
57,3
4.387.848
85,3
23.035
64,9
58.493
90,9
3. Uỷ nhiệm thu
2.958
8,0
23.329
0,4
3.013
8,4
4.900.527
0,5
4. Ngân phiếu TT
5.673
15,3
544.258
10,5
3.066
8,6
28.483
4,7
Cộng
36.905
100
5.140.575
100
35.503
100
253.188
100
2.1. Hình thức thanh toán bằng séc:
Séc là hình thức thanh toán quen thuộc trong thanh toán không dùng tiền mặt. Qua số liệu bảng 2 ta thấy:
- 6 tháng đầu năm 2000 doanh số thanh toán bằng séc là 185.140 Triệu đồng chiếm tỷ trọng 3,6% trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt.
- 6 tháng đầu năm 2001 doanh số thanh toán bằng séc là 203.215 Triệu đồng chiếm tỷ trọng 3,8% trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt.
Số liệu thể hiện thanh toán bằng séc 6 tháng đầu năm 2001 so với 6 tháng đầu năm 2000 tăng và tỷ trọng của nó trên toàn bộ doanh số thanh toán không dùng tiền mặt cũng tăng + 0,2% tuy chưa cao. Điều đó cho thấy séc là công cụ chưa được nhiều người sử dụng trong thanh toán vì hiện nay uy tín của các doanh nghiệp ngày càng tăng trong quan hệ mua bán chi trả người ta đã sử dụng hình thức thanh toán uỷ nhiệm chi nhiều hơn. Để xem xét ta đi cụ thể vào từng loại séc:
a. Séc chuyển khoản:
Bảng 3:
Tình hình thực hiện thanh toán bằng séc
6 tháng đầu năm 2000 và 6 tháng đầu năm 2001
Đơn vị: Triệu đồng
Các loại séc
6 tháng đầu năm 2000
6 tháng đầu năm 2001
Số món
Tỷ trọng (%)
Doanh số
tỷ trọng (%)
Số món
Tỷ trọng (%)
Doanh số
tỷ trọng (%)
1. Séc chuyển khoản
5.223
73,3
141.289
76,3
4.685
73,3
144.722
71,2
2. Séc bảo chi
1.901
26,7
43.851
23,7
1.704
26,7
58.493
28,8
Cộng
7.124
100
185.140
100
6.389
100
203.215
100
Qua số liệu ở bảng 2 cho thấy trong 6 tháng đầu năm 2000 so với 6 tháng đầu năm 2001 séc chuyển khoản chiếm tỷ trọng về số món thanh toán từ 14,1% xuống 13,1% giảm 1% và doanh số thanh toán không thay đổi. Vì vậy séc chuyển khoản được đánh giá áp dụng ở mức thứ 3 trong các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt.
Số liệu thanh toán bằng séc ở bảng 3 cho thấy: Tuy số món trong thanh toán séc chuyển khoản giảm so với cùng kỳ năm trước nhưng doanh số trong thanh toán bằng séc chuyển khoản so với cùng kỳ năm trước lại tăng và nó chiếm tỷ trọng cao hơn so với thanh toán bằng séc bảo chi.
Sở dĩ thanh toán bằng séc chuyển khoản chiếm tỷ trọng cao hơn thanh toán bằng séc bảo chi là do từ ngày 1/4/1997 ngân hàng thực hiện thanh toán loại séc mới (thay thế cho séc cũ trước kia) áp dụng theo nghị định 30/CP ngày 9/5/1996 của Chính phủ và thông tư 07/TH - NH1 ngày 27/12/1996 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Loại séc mới này được dùng cho cả tiền mặt và chuyển khoản, séc được chuyển nhượng và thời hạn tờ séc là 15 ngày.
Ngân hàng áp dụng thanh toán điện tử nên đã rút ngắn thời gian thanh toán xuống còn từ 1 đến 2 ngày làm việc. Nếu đơn vị thụ hưởng nộp séc vào ngân hàng trước giờ đi giao nhận ngoại bảng tại phiên bù trừ buổi sáng thì sau một ngày đơn vị đã có tiền trên tài khoản.
Về thủ tục đối với đơn vị mua việc phát hành tờ séc đơn giản, thuận tiện vì khi mua hàng đơn vị có thể phát hành séc trả cho người bán hàng mà không phải qua ngân hàng làm thủ tục (chỉ cần tuân thủ những yêu cầu của chế độ phát hành séc). Đơn vị không bị ứ đọng vốn do sau khi phát hành séc, đơn vị mua giao séc trực tiếp cho người bán và nhận hàng hoá về, không phải lưu ký vào tài khoản một khoản tiền để đảm bảo khả năng chi trả như séc bảo chi như vậy thời gian giao hàng và phát hành séc xảy ra đồng thời cùng một lúc.
Đối với đơn vị bán: Đơn vị nhận được séc ngay sau khi giao hàng. Nếu hai đơn vị mở tài khoản tại một ngân hàng thì người bán sẽ nhận được tiền ngay trong ngày họ nộp séc. Còn nếu họ mở tài khoản tại hai chi nhánh khác nhau thì sau 2 đến 3 ngày là nhận được tiền.
Ngoài những ưu điểm nêu trên séc chuyển khoản còn có những hạn chế sau:
- Phạm vi sử dụng séc hẹp, chỉ áp dụng thanh toán trong phạm vi hai đơn vị cùng mở tài khoản một ngân hàng hoặc ở hai ngân hàng khác nhau, khác hệ thống có tham gia thanh toán bù trừ giao nhận chứng từ trực tiếp. Trường hợp thanh toán trong địa bàn khi tờ séc bị từ chối thanh toán do chữ ký sai và dấu mờ sẽ kéo dài thời gian thanh toán, làm vốn bị ứ đọng trong khâu thanh toán, dẫn đến vốn luân chuyển chậm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh. Do vậy người thụ hưởng không ưa dùng thanh toán bằng séc chuyển khoản đối với khoản tiền hàng có giá trị lớn.
- Nguyên nhân nữa là khi người bán nhận trực tiếp tờ séc chuyển khoản từ người mua, họ không tránh khỏi những băn khoăn về khả năng thanh toán của tờ séc vì họ không biết chắc chắn rằng số dư trên tài khoản tiền gửi của người mua có đủ để thanh toán cho mình hay không. Nếu xảy ra trường hợp phát hành quá số dư thì cùng một lúc người phát hành séc phải chịu hai loại phạt: Phạt quá số dư (30%) và phạt chậm trả. Tuy nhiên cũng có một vài tờ séc chuyển khoản khi về đến ngân hàng nhưng trên tài khoản tiền gửi của họ không có đủ số dư thanh toán, những trường hợp này không phải do khách hàng cố ý mà do tiền của họ chưa về kịp trong ngày, hoặc do những khoản chi tiêu đột xuất... nhiều khi số tiền vượt quá số dư không lớn lắm. Nếu ngân hàng tính phạt khách hàng lúc này là chưa thoả đáng. Hơn nữa mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng là tín nhiệm và làm ăn lâu dài, do đó chủ yếu là quen biết nể nang mà ngân hàng không tính phạt.
Séc chuyển khoản không ghi tên, số chứng minh thư của người cầm séc, không ghi nội dung chi trả làm cho đơn vị phát hành séc khó theo dõi.
Do có những hạn chế đã nêu trên mà séc chuyển khoản chỉ được sử dụng thanh toán giữa các đơn vị có độ tín nhiệm cao.
b. Séc bảo chi.
Tình hình sử dụng séc bảo chi trong thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Công thương Đống Đa, qua số liệu bảng 3 cho thấy về số món thì mức độ sử dụng séc bảo chi trong 6 tháng đầu năm 2000 và 6 tháng đầu năm 2001 là không đổi, giữ ở mức 26,7%. Về mặt doanh số thanh toán bằng séc bảo chi tăng trong 6 tháng đầu năm 2001 đã tăng từ 23,7% (6 tháng đầu năm 2000) lên 28,8%. Điều này cho thấy thể thức thanh toán bằng séc bảo chi có chiều hướng tăng.
Tuy nhiên trong các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt thì séc bảo chi chỉ được áp dụng ở mức thứ 4 so với séc chuyển khoản. Sử dụng séc bảo chi có những ưu điểm sau:
- Do điều kiện bảo chi séc đơn vị thanh toán phải lưu ký một khoản tiền bằng số tiền trên séc vào ngân hàng thanh toán nên séc bảo chi được ghi có ngay cho đơn vị thụ hưởng (với điều kiện tờ séc đủ điều kiện), không làm ứ đọng vốn và gây độ tin cậy giữa các đơn vị kinh tế.
- Séc bảo chi thanh toán cùng hệ thống được phép ghi “có” trước ghi “nợ” sau nên khi khách hàng nộp séc bảo chi vào ngân hàng, sau khi kiểm tra thấy tờ séc hợp lệ, ngân hàng sẽ thanh toán ngay cho khách hàng. Nếu thanh toán khác hệ thống theo quy định hiện nay “nợ” “có” đồng thời tại phiên giao dịch bù trừ. Vì vậy tốc độ thanh toán bằng séc bảo chi khá nhanh.
Bên cạnh những ưu điểm sử dụng séc bảo chi còn có những nhược điểm sau:
- Thủ tục bảo chi phiền hà. Đơn vị, cá nhân muốn bảo chi tờ séc phải lập 2 liên “giấy yêu cầu bảo chi séc” theo mẫu quy định kèm theo tờ séc có đầy đủ các yếu tố, chữ ký dấu (nếu có) ở mặt trước tờ séc/
- Nếu đơn vị cá nhân có nhu cầu vay để thanh toán tiền hàng hoá và dịch vụ bằng thể thức bảo chi séc thủ tục rườm rà hơn. Đơn vị phải lập đồng thời cùng với uỷ nhiệm chi vay tiền chuyển vào tài khoản tiền gửi của đơn vị kèm theo thủ tục bảo chi tờ séc đã nêu trên.
- Số tiền mà đơn vị, cá nhân lưu ký để bảo chi séc không được ngân hàng trả lãi.
- Nếu tờ séc bảo chi sai ký hiệu mật hoặc chữ ký bảo chi của ngân hàng bảo chi so với mẫu đã gửi sẽ gây chậm chễ trong thanh toán. Tính ký hiệu mật trên tờ séc bảo chi thực chất ngân hàng chỉ đảm bảo an toàn vốn mình chứ chưa đảm bảo vốn cho người bán. Khi nhận séc từ người phát hành thì người bán chỉ kiểm tra chứng minh thư của người mua mà không biết được tính ký hiệu mật này có đúng chưa. Việc kiểm tra chứng minh thư của người mua không đủ đảm bảo là của người phát hành, vì trong nhiều trường hợp không nhận thấy sự giả mạo chứng minh thư, người bán sẽ chấp nhận tờ séc và giao cho người mua. Chỉ đến khi tờ séc vào ngân hàng họ mới phát hiện được tờ séc là giả mạo. Khi đó người bán sẽ thiệt.
Để đảm bảo thanh toán bằng séc bảo chi cần có những biện pháp giảm tối đa những sai sót trong nghiệp vụ và thanh toán. Từ những nhược điểm nêu trên đã làm cho thể thức thanh toán bằng séc bảo chi không được sử dụng nhiều trong thanh toán không dùng tiền mặt .
Qua phân tích về thể thức thanh toán bằng séc. Tuy thể thức thanh toán này đứng hàng thứ 3 trong thanh toán không dùng tiền mặt nhưng cũng chưa được áp dụng rộng rãi, vì bên cạnh những thuận lợi còn có nhiều hạn chế. Ngân hàng cần phải có biện pháp khắc phục tình trạng này nhằm mở rộng phạm vi thanh toán của séc. Trong nền kinh tế thị trường thì các đơn vị, cá nhân sẽ chọn phương thức thanh toán nào có lợi cho họ.
2.2. Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi - chuyển tiền:
Hiện nay tại Ngân hàng Công thương Đống Đa uỷ nhiệm chi là hình thức thanh toán được khách hàng rất ưa chuộng và sử dụng nhiều nhất, chiếm tỷ trọng lớn về số món và doanh số thanh toán.
Số liệu ở bảng 2 đã phản ánh số món thanh toán bằng uỷ nhiệm chi qua hai kỳ như sau:
+ 6 tháng đầu năm 2000 có 21.150 món chiếm tỷ trọng 57,3% trong tổng doanh số thanh toán.
+ 6 tháng đầu năm 2001 có 23.035 món chiếm tỷ trọng 64,9% trong tổng doanh số thanh toán.
Doanh số thanh toán bằng uỷ nhiệm chi qua hai kỳ cũng tăng lên rõ rệt:
+ 6 tháng đầu năm 2000 doanh số thanh toán là 4.387.848 Triệu đồng chiếm tỷ trọng 85,3% trong tổng doanh số thanh toán.
+ 6 tháng đầu năm 2001 doanh số thanh toán là 4.900.527 Triệu đồng chiếm tỷ trọng 90,9% trong tổng doanh số thanh toán.
Qua số liệu trên cho thấy thanh toán bằng uỷ nhiệm chi ngày càng tăng về cả số món và doanh số. Điều đó chứng tỏ việc dùng uỷ nhiệm chi để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ là phổ biến và được tất cả các thành phần kinh tế chọn để thanh toán nhiều nhất và nó đứng hàng đầu trong 4 thể thức thanh toán không dùng tiền mặt. Tính ưu việt của uỷ nhiệm chi thể hiện ở những điểm sau:
- Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi thủ tục đơn giản không gây phiền hà cho người trả tiền. Không phải giao nhận ngoại bảng như séc. Khi có nhu cầu thanh toán khách hàng người mua chỉ lập uỷ nhiệm chi (theo mẫu do ngân hàng bán) đem nộp cho ngân hàng thanh toán.
Hơn nữa do việc thanh toán liên hàng qua mạng vi tính và thanh toán bù trừ trên địa bàn Hà Nội rất nhanh nên hình thức thanh toán bằng uỷ nhiệm chi trở nên thuận tiện và kịp thời. Chỉ trong vòng 1- 2 ngày, thậm chí vài giờ kể từ khi người mua gửi uỷ nhiệm chi, người bán đã nhận được tiền. Do vậy đối với những khoản thanh toán tiền lớn, khách hàng thường thanh toán bằng uỷ nhiệm chi.
- Bên cạnh đó, uỷ nhiệm chi cũng được sử dụng thanh toán những khoản của chính ngân hàng như thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách, chi trả lãi điều hoà vốn... vì vậy doanh số thanh toán bằng uỷ nhiệm chi thường rất cao.
- Khách hàng còn dùng uỷ nhiệm chi để trích tài khoản tiền gửi của mình khi có nhu cầu xin cấp séc chuyển tiền, phát hành séc bảo chi hay xin chuyển tiền nhanh qua mạng vi tính một loại dịch vụ mới của ngân hàng gần đây rất phát triển. Trước đây những món chuyển tiền có thể kéo dài hàng tuần, nay nhờ mạng vi tính một món chuyển tiền chỉ mất 1 - 2 ngày (đối với chuyển tiền thường) và 1 - 2 giờ (đối với chuyển tiền nhanh). Vì vậy lượng khách chuyển tiền qua ngân hàng ngày càng nhiều. Phí dịch vụ ngân hàng thực hiện như thu phí của séc áp dụng theo công văn 1015 của ngân hàng công thương Việt Nam ngày 25/9/1993.
Do Ngân hàng Công thương Đống Đa đã thực hiện tốt công tác thanh toán điện tử, thanh toán bù trừ qua máy vi tính đẩy nhanh tốc độ luân chuyển chứng từ, giúp cho khách hàng thu hồi vốn nhanh nên việc thanh toán bằng uỷ nhiệm chi được nhiều khách hàng ưa chuộng.
Tuy việc thanh toán bằng uỷ nhiệm chi có nhiều thuận lợi đã nêu nhưng cũng có một số hạn chế đó là:
- Việc trả tiền do người mua thực hiện. Vì vậy nếu người mua lập và gửi uỷ nhiệm chi vào ngân hàng thanh toán không kịp thời sẽ ảnh hưởng lớn cho việc thu hồi vốn của người thụ hưởng.
- Trường hợp người mua nộp uỷ nhiệm chi vào ngân hàng thanh toán nhưng số dư tiền gửi không đủ để thanh toán ngân hàng trả lạI hoặc để lui vào ngày hôm sau (không nhập ngoại bảng).
Những hạn chế của uỷ nhiệm chi dẫn đến các đơn vị kinh tế dễ lợi dụng để chiếm dụng vốn trong kinh doanh. Vì vậy, ngân hàng cần có biện pháp khắc phục hạn chế để hình thức thanh toán bằng uỷ nhiệm chi phát huy hơn nữa trong thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Công thương Đống Đa.
ở Ngân hàng Công thương Đống Đa uỷ nhiệm chi được áp dụng:
- Thanh toán giữa các đơn vị mở tài khoản trong cùng ngân hàng.
- Thanh toán giữa các đơn vị mở tài khoản trong cùng hệ thống ngân hàng trong địa bàn và khác địa bàn qua thanh toán liên hàng.
- Thanh toán giữa các đơn vị mở tài khoản khác hệ thống cùng địa bàn hoặc khác địa bàn qua thanh toán bù trừ.
Việc thanh toán trong hệ thống ngân hàng công thương được thực hiện thanh toán đIện tử (chứng từ đIện tử được thực hiện đến 15h30 trong ngày). Đối với khách hàng có nhu cầu chuyển uỷ nhiệm chi thanh toán khác hệ thống, khác tỉnh nếu số tiền dưới 200 triệu đồng thực hiện chuyển qua thanh toán đIện tử về ngân hàng công thương tỉnh, sau đó ngân hàng công thương tỉnh chuyển tiếp cho các tổ chức tín dụng, kho bạc khác. Trên 200 triệu đồng sẽ chuyển qua tài khoản tiền gửi của Ngân hàng Công thương Đống Đa tại ngân hàng nhà nước.
Việc sử dụng séc chuyển tiền cầm tay không được khách hàng ưa dùng, trong 6 tháng đầu năm 2001 không có khách hàng nào dùng hình thức này. Do séc cầm tay có hạn chế là khách hàng phải lưu ký số tiền trên séc vào ngân hàng, khi thanh toán người cầm séc phảI đến ngân hàng để làm thủ tục.
- Trường hợp người mua nộp uỷ nhiệm chi vào ngân hàng thanh toán nhưng số dư tiền gửi không đủ để thanh toán ngân hàng trả lạI hoặc để lui vào ngày hôm sau (không nhập ngoại bảng).
Những hạn chế của uỷ nhiệm chi dẫn đến các đơn vị kinh tế dễ lợi dụng để chiếm dụng vốn trong kinh doanh. Vì vậy, ngân hàng cần có biện pháp khắc phục hạn chế để hình thức thanh toán bằng uỷ nhiệm chi phát huy hơn nữa trong thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Công thương Đống Đa.
ở Ngân hàng Công thương Đống Đa uỷ nhiệm chi được áp dụng:
- Thanh toán giữa các đơn vị trong cùng ngân hàng
- Thanh toán cùng hệ thống ngân hàng trong địa bàn và khác địa bàn thanh toán điện tử.
- Thanh toán khác hệ thống cùng địa bàn hoặc khác địa bàn qua thanh toán bù trừ.
Việc thanh toán trong hệ thống ngân hàng công thương được thực hiện thanh toán đIện tử (chứng từ đIện tử được thực hiện đến 15h30 trong ngày). Đối với khách hàng có nhu cầu chuyển uỷ nhiệm chi thanh toán khác hệ thống, khác tỉnh nếu số tiền dưới 200 triệu đồng thực hiện chuyển qua thanh toán đIện tử về ngân hàng công thương tỉnh, sau đó ngân hàng công thương tỉnh chuyển tiếp cho các tổ chức tín dụng, kho bạc khác. Trên 200 triệu đồng sẽ chuyển qua tài khoản tiền gửi của Ngân hàng Công thương Đống Đa tại ngân hàng nhà nước.
Việc sử dụng séc chuyển tiền cầm tay không được khách hàng ưa dùng, trong 6 tháng đầu năm 2001 không có khách hàng nào dùng hình thức này. Do séc cầm tay có hạn chế là khách hàng phải lưu ký số tiền trên séc vào ngân hàng, khi thanh toán người cầm séc phảI đến ngân hàng để làm thủ tục.
2.3. Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu:
Tình hình thanh toán bằng uỷ nhiệm thu ở Ngân hàng Công thương Đống Đa được áp dụng để thanh toán tiền cung ứng lao vụ (tiền điện thoại, tiền điện) và một vài đơn vị áp dụng để đòi tiền hàng. Theo số liệu bảng 2 cho thấy:
6 tháng đầu năm 2001 doanh số thanh toán chỉ chiếm tỷ trọng 0,5% nhưng về số món lại chiếm tỷ trọng cao hơn 8,4% trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt, điều này phản ánh thể thức thanh toán này về số món thì nhiều nhưng giá trị tiền nhỏ. Nó chỉ dùng thanh toán cho các khoản tiền có tính chất định kỳ thường xuyên như tiền điện, nước, điện thoại của các tổ chức kinh tế, cá nhân.
6 tháng đầu năm 2000 doanh số thanh toán bằng uỷ nhiệm thu là 23.329 Triệu đồng, chiếm tỷ trọng 0,4% trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt.
Đến 6 tháng đầu năm 2001 doanh số thanh toán bằng uỷ nhiệm thu lên tới 28.483 Triệu đồng và chiếm tỷ trọng 0,5% trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt.
Qua số liệu thể hiện thể thức thanh toán bằng uỷ nhiệm thu tại Ngân hàng Công thương Đống Đa đã có chiều hướng gia tăng nhưng vẫn chậm. Hiện tượng thanh toán bằng uỷ nhiệm thu ít được khách hàng ưa dùng là do xuất phát từ nhược điểm của hình thức thanh toán này.
Uỷ nhiệm thu được sử dụng để thu tiền hàng hoá và dịch vụ đã cung ứng do đó thường gây thiệt hại cho người bán. Nếu uỷ nhiệm thu dùng để đòi tiền đơn vị có tài khoản ở cùng một ngân hàng thì thủ tục khá đơn giản, khách hàng chỉ cần nộp uỷ nhiệm thu kèm hoá đơn gần như là có tiền ngay. Trường hợp uỷ nhiệm thu đòi tiền đơn vị có tài khoản mở ở ngân hàng khác, bên bán phải chờ một thời gian để ngân hàng gửi uỷ nhiệm thu sang ngân hàng phục vụ bên mua để ghi “nợ” trước. Sau khi uỷ nhiệm thu quay về, ngân hàng mới ghi “có” tài khoản đơn vị bán. Do khả năng chiếm dụng vốn như vậy, người bán thường rất ngại sử dụng hình thức này. Ngoài ra nếu số dư của đơn vị mua không đủ tiền gây chậm trễ cho đơn vị bán hoặc gây thiệt hại cho bên mua nếu nhờ thu đơn vị lập nhầm số tiền, sai đơn vị....
Tuy ngân hàng có áp dụng biện pháp xử phạt trong trường hợp số dư của đơn vị không đủ tiền bằng cách tính phạt chậm trả theo chế độ quy định nhưng người bán hoàn toàn không muốn điều đó xảy ra vì sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, kế hoạch tài chính của họ. Trong cơ chế thị trường, các đơn vị kinh tế phải tính toán sát sao các khoản thu nhập về tài chính của mình, việc để cho bên mua chiếm dụng vốn trong thời gian dài là không thể chấp nhận được. Vì vậy hiện nay hình thức này ít được sử dụng, mà người ta dùng nhiều hình thức khác mang lại hiệu quả cao hơn như: uỷ nhiệm chi, ngân phiếu thanh toán...
2.4. Thanh toán bằng ngân phiếu thanh toán:
Từ tháng 11/1992 ngân hàng Nhà nước đã phát hành ngân phiếu thanh toán vào lưu thông. Ngân phiếu thanh toán là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt do Nhà nước độc quyền phát hành, được lưu hành trong cả nước, có mệnh giá và thời hạn lưu hành in sẵn trên từng tờ. Qua số liệu bảng 2 thể hiện thanh toán bằng ngân phiếu thanh toán trong thời gian qua như sau:
6 tháng đầu năm 2000, ngân phiếu thanh toán chiếm tỷ trọng về số món là 15,3% trong tổng số món và doanh số chiếm 10,5% trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt.
Sang đến 6 tháng đầu năm 2001 thanh toán bằng ngân phiếu thanh toán có chiều hướng giảm, cụ thể: Tỷ trọng về số món chiếm 8,6% trong tổng số món và doanh số chiếm 4,7% trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt. Sở dĩ thanh toán bằng ngân phiếu thanh toán có chiều hướng giảm là do sử dụng ngân phiếu thanh toán cũng có những hạn chế:
- Thời hạn thanh toán của ngân phiếu còn ngắn cho nên nhiều khi khách hàng sử dụng ngân phiếu thanh toán vì lý do nào đó đã để quá hạn, lúc đó thì họ phải chịu phí để đổi lấy ngân phiếu mới hoặc đổi lấy tiền mặt. Trường hợp quá hạn trên 3 tháng thì không còn giá trị thanh toán và không được thanh toán tiền.
- Ngân phiếu bẩn, rách nát thì đơn vị cá nhân phải nộp phạt với tỷ lệ 2% giá trị ngân phiếu thanh toán được chấp nhận (đổi tại các Ngân hàng Thương mại và ngân hàng Nhà nước).
- Ngân phiếu giả.
- Về phía ngân hàng Nhà nước mất chi phí in ấn, bảo quản, vận chuyển...
Chương III:
Một số giải pháp nhằm mở rộng và hoàn thiện các hình thức
thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế không ngừng mở rộng và đa dạng với nhiều hình thức. Ngân hàng là cầu nối liền giữa các quan hệ kinh tế thông qua các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán của mình. Vì vậy nghiệp vụ thanh toán và tín dụng của ngân hàng là nhân tố trực tiếp tác động kinh doanh của đơn vị, cá nhân trong nền kinh tế.
Với vai trò, vị trí quan trọng của mình, ngành ngân hàng bằng nhiều biện pháp đã khai thác và đáp ứng mọi nhu cầu, khả năng về vốn cho sự phát triển của nền kinh tế góp phần thực hiện công cuộc đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để đạt được điều này đòi hỏi ngành ngân hàng phải thường xuyên đổi mới công nghệ ngân hàng, bằng cách đưa khoa học công nghệ tin học hiện đại áp dụng trong công tác thanh toán. Tìm mọi biện pháp khắc phục những tồn tại, thiếu sót để từ đó thúc đẩy và mở rộng công tác thanh toán qua ngân hàng ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn.
Theo như đánh giá chung của ngành ngân hàng, công tác thanh toán không dùng tiền mặt hiện còn những tồn tại sau:
- Việc triển khai mở rộng phạm vi thanh toán trong dân cư còn chậm, các phương tiện thanh toán mới chưa phát huy được hiệu quả, thanh toán bằng tiền mặt ngoài hệ thống ngân hàng vẫn còn khá phổ biến.
- Môi trường pháp lý còn thiếu, một số luật theo thông lệ quốc tế như: Luật séc, luật thương mại, luật thư tín dụng, các pháp lệnh về thanh toán không chứng từ...chưa ra đời.
- Phương tiện kỹ thuật, công nghệ thanh toán mặc dù đã có những bước phát triển nhưng chưa cao và chưa rộng khắp trong toàn quốc. Thực trạng trên đã và đang được phản ánh nhiều trên công luận.
Yêu cầu đặt ra là cần phải có những giải pháp phù hợp với đòi hỏi bức bách hiện nay nhằm loại bỏ những ách tắc trong thanh toán, phát huy tác dụng vốn có của thanh toán không dùng tiền mặt để phục vụ tốt nhất trước hết là cho khách hàng và cho toàn bộ nền kinh tế.
Trong những năm 1993 - 1994 ngân hàng Nhà nước đã cho ra đời nhiều quyết định, thể chế về cải tiến hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và tổ chức hệ thống thanh toán khá hợp lý. Năm 1996 Chính phủ đã ban hành nghị định 30/CP và ngân hàng Nhà nước đã ban hành thông tư 07/TT - NH1 về việc cải tiến hình thức thanh toán bằng séc là các loại séc như: Séc chuyển khoản, séc bảo chi...có thể dung chung một mẫu séc. Chính vì vậy cho nên tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt đã không ngừng tăng lên.
Mặc dù vậy, qua quá trình thực tập, nghiên cứu ở Ngân hàng Công thương Đống Đa, kết hợp với những kiến thức đã được học ở nhà trường em thấy nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt còn một số khó khăn tồn tại. Với nguyện vọng được góp phần nhỏ vào việc hoàn thiện công tác thanh toán không dùng tiền mặt em xin mạnh dạn đưa ra một vài kiến nghị và đề xuất nhỏ.
1. Kiến nghị về séc chuyển khoản:
Séc chuyển khoản là một hình thức thanh toán không dùng tiền mặt đã có từ lâu đời và là một hình thức thanh toán chuyên dùng của các đơn vị kinh tế. Theo em, một trong những nhược điểm cần phải giải quyết để hoàn thiện hơn hình thức thanh toán này là xử lý séc phát hành quá số dư. Em xin nêu một vài ý kiến như sau :
Thông thường khi đơn vị phát hành một tờ séc chuyển khoản để trả trả tiền hàng hoá hay cung ứng lao vụ cho người cung cấp. Nếu lúc người thu hưởng nộp séc vào Ngân hàng xin thanh toán mà trên tài khoản tiền gửi của đơn vị phát hành séc không đủ số dư thì Ngân hàng sẽ lưu tờ séc đó lại để chờ đến khi tài khoản của người mua đủ tiền mới tiến hành thanh toán và tính phạt phát hành quá số dư cũng như phạt chậm trả theo Ngân hàng Nhà nước đã quy định.
Nhưng nếu làm như vậy nhiều khi gây thiệt thòi cho đơn vị phát hành séc cũng như làm chậm quá trình luân chuyển vốn của người bán. Bởi vì, trong nhiều trường hợp tờ séc chuyển khoản chỉ phát hành quá số dư một số tiền rất nhỏ.
Ví dụ: Số tiền trên tờ séc chuyển khoản là 40.000.000đ, nhưng số dư trên tài khoản tiền gửi của đơn vị tại thời điểm khách hàng nộp séc vào Ngân hàng là 35.000.000đ. Theo quy định hiện nay thì tờ séc đó không được thanh toán mà phải lưu lại cho đến khi tài khoản của người phát hành đủ số dư và chủ tài khoản phải chịu phạt vì phát hành qúa số dư và bị phạt chậm trả toàn bộ số tiền trên tờ séc (mặc dù tờ séc đó chỉ phát hành quá số dư với số tiền rất nhỏ).
Còn người bán phải chờ cho đến khi tài khoản của người phát hành đủ số dư mới được thanh toán. Nếu tài khoản của người mua có tiền ngay sau ngày khách hàng nộp séc vào thì người bán sẽ không bị thiệt thòi. Nhưng nếu nếu tài khoản của người mua sau 4 - 5 ngày mới đủ tiền thì như vậy sẽ gây ảnh hưởng tới vòng quay vốn kinh doanh của họ.
Theo em Ngân hàng nên có sửa đổi như sau :
+ Đối với đơn vị kinh doanh tốt, làm ăn có hiệu quả, có tín nhiệm lâu nay với Ngân hàng thì Ngân hàng có thể cho phát hành quá số dư một số tiền nhất định nào đó. Vì đây là khó khăn tài chính tạm thời của họ chứ không phải họ cố ý phát hành quá số dư.
+ Ngân hàng có thể cho vay để đơn vị phát triển séc thanh toán tờ séc đó cho đơn vị bằng cách : Ngân hàng có thể yêu cầu đơn vị phát hành séc lập một đơn xin vay và một giấy cam kết sẽ trả ngay số tiền vay với đầy đủ chữ ký của Giám đốc và Kế toán trưởng với một mức lãi suất phù hợp do Ngân hàng quy định để góp phần đẩy nhanh quá trình thanh toán. Khi đó kế toán hoạch toán :
Nợ : Tài khoản của khách hàng.
Có : Tài khoản cho vay.
+ Hoặc khi phát hành quá số dư thì Ngân hàng vẫn tiến hành thanh toán số tiền hiện có trên tài khoản cho đơn vị thụ hưởng, còn số tiền quá số dư thì lưu lại để đến khi tài khoản tiền gửi của đơn vị phát triển đủ tiền sẽ tiến hành thanh toán nốt và tính phạt như chế độ hiện nay quy định (nhưng chỉ tính phạt trên số tiền bị quá số dư chứ không tính phạt toàn bộ số tiền trên séc).
2. Về mức thu phí chuyển tiền trong cùng địa bàn khi thực hiện thanh toán điện tử.
Hiện nay Ngân hàng Công thương Đống Đa áp dụng mức thu phí chuyển tiền theo công văn 1015 của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Tỷ lệ thu là 0,05% trên số tiền chuyển. Mức tối đa là 500.000đ tối thiểu là 20.000đ. Cụ thể ngày 10/7/2000 Công ty cơ khí Hà Nội có chuyển một ủy nhiệm chi trả tiền cho Công ty vật tư ngân hàng (mở TK tại hội sở Ngân hàng Công thương Việt Nam) số tiền là 100.000.000đ Ngân hàng Công thương Đống Đa đã thu phí:
100.000.000đ x 0,05% = 50.000 đ
Trong khi đó nếu qua đường bù trừ (qua máy vi tính) thì phí dịch vụ phải thu là 2.000đ/1 món.
Để tạo điều kiện cho đơn vị và cá nhân tham gia thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng càng phát triển em xin đề nghị Ngân hàng Công thương Việt Nam nên ấn định mức thu phí thanh toán điện tử trong cùng hệ thống trên địa bàn Hà Nội giảm xuống với tỷ lệ từ 0,02% đến 0,03 % trên số tiền thanh toán.
- Thời gian thanh toán điện tử nên kéo dài đến 16h trong ngày, có như vậy những chứng từ phát sinh trong ngày sẽ được giải quyết trong một ngày làm việc.
3. Kiến nghị về uỷ nhiệm chi:
Uỷ nhiệm chi là thể thức thanh toán áp dụng giữa hai bên mua bán tín nhiệm lẫn nhau nhưng trong thực tế nhiều trường hợp hai bên mua bán không tín nhiệm lẫn nhau vẫn dùng uỷ nhiệm chi. Từ đó rất dễ xảy ra nợ nần, dây dưa, chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các tổ chức kinh tế, bên bị thiệt hại sẽ là người bán. Nếu sau khi nhận hàng người mua không lập uỷ nhiệm chi gửi đến ngân hàng hoặc uỷ nhiệm chi có thể gửi đến ngân hàng nhưng trên tài khoản của họ không có tiền hoặc không đủ tiền dẫn đến người bán bị chiếm dụng vốn.
Để khắc phục tình trạng này đảm bảo quyền lợi cho người bán trong quan hệ thanh toán, nên quy định phạt đối với bên mua khi họ để ra tình trạng nói trên. Nói khác đi là khôi phục chế độ phạt chậm trả đối với uỷ nhiệm chi mà trước đây đã áp dụng. Hình thức phạt này quy định như sau:
Sau khi bên mua hoàn thành việc nhận hàng từ bên bán, bên mua phải lập ngay uỷ nhiệm chi kèm theo bản sao hoá đơn và vận đơn giao hàng (ghi rõ ngày giao hàng) gửi đến ngân hàng phục vụ mình trong thời hạn hai ngày sau khi nhận hàng để tiến hành thanh toán cho người bán. Nếu người mua không chịu thực hiện quy định này người mua sẽ phải chịu phạt chậm trả:
Số tiền phạt
Chậm trả
=
Số tiền trên uỷ nhiệm chi
X
Số ngày phạt
Chậm trả
x
Tỷ lệ phạt
chậm trả
Tỷ lệ phạt chậm trả là lãi suất trả quá hạn loại cho vay cao nhất tại ngân hàng phục vụ người lập uỷ nhiệm chi. Đây là một quy định đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia thanh toán bằng uỷ nhiệm chi và góp phần thúc đẩy nhanh tiến trình thanh toán.
4. Kiến nghị về ngân phiếu thanh toán :
Ngân phiếu thanh toán là hình thức thanh toán đơn giản, thuận tiện và được sử dụng rộng rãi. Nhưng hiện nay tình hình thanh toán bằng ngân phiếu thanh toán có chiều hướng giảm do có những nhược điểm như thời hạn sử dụng bị hạn chế. Vì vậy nếu người sử dụng để ngân phiếu quá thời hạn sẽ bị phạt. Với mức phạt mà ngân hàng Nhà nước áp dụng để phạt ngân phiếu để quá thời hạn thanh toán cụ thể là:
- Mức phạt đang áp dụng đối với một tờ ngân phiếu thanh toán loại 5 triệu để quá hạn là 15 ngày. Số tiền phạt hiện hành là:
5.000.000 x 1,5% = 75.000đ
Theo em Ngân hàng Nhà nước nên áp dụng tính phạt theo như cách tính lãi là:
5.000.000đ x 1,5% x 15 ngày
=
37.500đ
100 x 30
Vì Ngân hàng Nhà nước áp dụng mức phạt là để nhắc nhở đơn vị, cá nhân phải quan tâm đến thời hạn của ngân phiếu thanh toán, đây là mức phạt cảnh cáo nên để mức phạt vừa phải.
* Đề xuất:
Mặc dù thanh toán không dùng tiền mặt đang trên đà phát triển song không tránh khỏi những tồn tại nhất định do trình độ công nghệ còn yếu kém. Vì vậy:
Cần thiết phải “Tin học hoá một cách đồng bộ thống nhất trong toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam mà trọng tâm là ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Thương mại, ngân hàng Đầu tư và phát triển và Kho bạc Nhà nước.
Thành lập mạng lưới thanh toán không chỉ trong nội bộ hệ thống Ngân hàng Thương mại mà còn phải lập mạng lưới thanh toán giữa các ngân hàng trên cùng một địa bàn, địa phương. Có như vậy chúng ta mới tận dụng tối đa những ưu điểm máy tính và điều đó mới đúng nghĩa với “Tin học hoá ngân hàng”. Việc trang bị máy tính tuy bước đầu tốn kém nhưng xét đến vai trò và hiệu quả của nó thì rất lớn. Theo em nhất thiết phải trang bị đồng bộ ngay không nên chờ đợi nữa vì các lý do sau:
1. Muốn tránh được tình trạng khan hiếm tiền mặt cần thiết phải tạo cho khách hàng tâm lý thích sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Họ cảm thấy sử dụng các phương tiện này nhanh chóng, thuận tiện, an toàn hơn là sử dụng tiền mặt. Nếu chúng ta trang bị toàn bộ máy tính ở hầu hết các trung tâm tài chính NH thì việc sử dụng các phương tiẹn thanh toán thay tiền sẽ thể hiện rõ những ưu điểm của nó. Thực tế đã kiểm nghiệm ở những nước có nền kinh tế phát triển người dân chỉ sử dụng tiền mặt để chi trả những khoản tiêu lặt vặt không đáng kể còn đa phần là sử dụng các phương tiện thanh toán thay tiền.
2. Nhờ trang bị hệ thống máy tính đồng bộ và rộng khắp sẽ giúp cho các hoạt động của Ngân hàng Thương mại quốc doanh được nâng cao ngang tầm với các ngân hàng trong khu vực, hoà nhập vào hoạt động kinh doanh tiền tệ thế giới. Bên cạnh đó giúp các hệ thống ngân hàng nắm bắt những biến động về tiền tệ trên thế giới nói chung và của từng quốc gia nói riêng một cách nhanh chóng. Tất cả điều đó đều ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến kinh doanh tiền tệ trong nước.
Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế mở cửa, hàng loạt các ngân hàng loạt các ngân hàng trên thế giới đặt quan hệ mở chi nhánh hoạt động tại nước ta, đòi hỏi các hệ thống Ngân hàng Thương mại nước ta phải hiện đại hoá nhằm tạo khả năng cạnh tranh.
3. Một khi mà hoạt động ngân hàng nước ta đủ mạnh thì khả năng chuyển vốn đầu tư của nước ngoài sẽ thực hiện mau chóng. Hiện nay theo quan điểm của một số chuyên gia kêu gọi đầu tư còn e ngại hoạt động của hệ thống Ngân hàng Thương mại nước ta còn quá non kém, phần nào cản trở ý định đầu tư.
Theo em với trình độ nhận thức của chúng ta hiện nay và sự phát triển mạnh mẽ của ngành Bưu chính viễn thông cho phép chúng ta sử dụng mạng lưới thanh toán truyền tin có hiệu quả.
Kết luận
Hiệu quả trong kinh doanh là mục tiêu hàng đầu của các Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường. Để đạt được điều đó đòi hỏi các Ngân hàng Thương mại phải luôn tiếp cận cái mới, áp dụng công nghệ ngân hàng tiên tiến trên thế giới, nhất là đối với các Ngân hàng Thương mại Việt Nam đang trong quá trình đổi mới, còn thiếu nhiều điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh doanh.
Thanh toán không dùng tiền mặt là nghiệp vụ được hiện đại hoá cao trên thế giới, song trái lại ở Việt Nam thì nó đang trong quá trình hoàn thiện và mở rộng. Do đó các Ngân hàng Thương mại cần nghiên cứu nâng cao chất lượng và số lượng dịch vụ nhằm mục đích tăng cường hiệu quả và an toàn. Quá trình này gồm nhiều mặt, nó đòi hỏi các ngân hàng phải từng bước mở rộng và trang bị kỹ thuật hiện đại để đưa công tác thanh toán của ngân hàng nhanh chóng hoà nhập với công nghệ thanh toán hiện đại trong khu vực và trên thế giới.
Xuất phát từ nghiên cứu tình hình thực tế tại Ngân hàng Công thương Đống Đa em đã mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ của mình mong rằng sẽ góp được một phần nhỏ vào công tác hoàn thiện các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.
Những nội dung cơ bản đã đề cập trong luận văn này mới chỉ giới hạn trong phạm vi các điều kiện cần thiết của nghiệp vụ. Hy vọng rằng với một vài suy nghĩ về nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt có thể đóng góp phần nhỏ vào việc hoàn thiện và mở rộng nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện cho Ngân hàng Thương mại.
Trong quá trình nghiên cứu, khóa luận có điều gì sơ suất, thiếu sót em rất mong được sự thông cảm và giúp đỡ của ngân hàng cũng như các thầy cô giáo.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Tài liệu tham khảo
Giáo trình lưu thông tiền tệ - tín dụng
Giáo trình hạch toán kế toán và xử lý thông tin trong hệ thống ngân hàng
Chế độ thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng (quyết định số 22/QĐ - NH 1 ngày 21/2/1994).
Nghị định 30/CP ngày 9/5/1996 của Chính phủ và Thông tư số 07/TT - NH 1 ngày 27/12/1996 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Tạp chí Khoa học Ngân hàng.
Các báo cáo của Ngân hàng Công thương Đống Đa.
Báo cáo tình hình hoạt động kinh tế quận Đống Đa 6 tháng đầu năm 2000.
Kinh tế học.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0105.doc