Thực hiện chiến lược tăng uy tín ngân hàng hướng vào các mục tiêu cung ứng cho khách hàng những dịch vụ ngày càng phong phú, đa dạng và hiệu quả cao thông qua chính sách lãi suất và lệ phí thích hợp; đẩy mạnh cạnh tranh; thiết lập, mở rộng và tăng cường mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng, đặc biệt là khách hàng cá nhân.
Tăng cường đào tạo cán bộ cho hệ thống thanh toán gồm cán bộ nghiệp vụ sử dụng thiết bị tin học trong hệ thống thanh toán , về kỹ năng truy cập số liệu, xử lý thông tin, thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn cho hoạt động ; cán bộ kỹ thuật nhằm trang bị hiểu biết về kỹ thuật phục vụ lắp đặt, vận hành, sửa chưa, bảo dưỡng các thiết bị của hệ thống thanh toán ; cán bộ quản lý trang thiết bị kỹ năng phân tích thông tin từ hệ thống, hoạch định các kế hoạch và các tiền đề cần thiết cho hệ thống thanh toán .
Cải thiện về tính hiệu quả của việc sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt xét từ các yếu tố như tốc độ thanh toán , chi phí và sự thuận tiện khi sử dụng là cách thức tốt nhất để hạn chế các giao dịch thanh toán bằng tiền mặt, cuối cùng mới sử dụng các biện pháp cấm đoán mang tính hành chính.
Buộc các đơn vị vay vốn ngân hàng ở một giới hạn nào đó cần phải thanh toán bằng chuyển khoản, qua đó ngân hàng sẽ ngăn chặn được việc dùng vốn sai mục đích
Đối với thể thức uỷ nhiệm chi – chuyển tiền cần phải được nới rộng phạm vi thanh toán, không phân biệt cùng hay khác hệ thống.
Đối với thể thức uỷ nhiệm thu cũng là một thể thức thanh toán rất phù hợp với cung cách giao dịch trong nền kinh tế hàng hoá lớn cần phải có sự mở rộng đối tượng, quy định các hình thức phạt khi bên mua chậm thanh toán
Đối với thể thức séc cần khuyến khích trong khu vực dân cư đẩy mạnh thanh toán bằng séc thông qua tài khoản tiền gửi mở taị Ngân hàng. Trong thời kỳ đầu để thu hút và tạo thói quen cho khách hàng thì tiền gửi để phát hành séc sẽ được tính lãi theo mức lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn, các dịch vụ thanh toán séc trên tài khoản này Ngân hàng không thu phí dịch vụ.
74 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1186 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số ý kiến nhằm mở rộng và phát triển thanh toán kinh doanh tiền mặt tại NHCT Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăm 2000, lên 69,1% năm 2001 và năm 2002 đạt 73,53% trong tỷ trọng TTKDTM. Số món tăng từ 42841 món lên tới 43415 món vào năm 2001 và tăng tới 51065 món vào năm 2002 cho thấy UNC-chuyển tiền được sử dụng phổ biến hơn các hình thức khác.
Đơn vị: tỷ đồng( số tiền)
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Món
Số tiền
%
Món
Số
Tiền
%
Món
Số tiền
%
UNC
42697
10791
99,92
53255
13196
99,97
50862
19488
99,99
SécCt
144
9
0,083
160
4
0,03
203
2
0,01
Tổng
42841
10800
100
43415
13200
100
51065
19490
100
Nhìn vào biểu số liệu ở trên ta thấy UNC là hình thức thanh toán được sử dụng nhiều nhất chiếm tỷ trọng gần như tuyệt đối 99,9%. Sở dĩ uỷ nhiệm chi được sử dụng nhiều như vậy nguyên nhân là do:
+ Hình thức và chứng từ và thủ tục đơn giản, người mua chủ động lập không sợ bị làm giả như séc.
+Đồng thời phạm vi thanh toán UNC rộng có thể thanh toán trong cùng một tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoặc thanh toán giữa hai tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cùng hệ thống, thanh toán giữa hai tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán khác hệ thống có tham gia thanh toán bù trừ hoặc thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại NHNN.
+Mặt khác UNC được thực hiện trên mạng máy tính nên tốc độ thanh toán nhanh, mỗi món thanh toán tại chi nhánh chỉ trong vòng một ngày, cùng lắm là sang đến đầu giờ làm việc ngày thứ hai, do đó đảm bảo an toàn chính xác cho khách hàng nên UNC vẫn luôn được khách hàng ưa chuộng.
Tuy nhiên bên cạnh đó UNC không được người bán ưa chuộng bởi lẽ bên bán dễ gặp rủi ro ứ đọng vốn vì họ giao hàng trước nhận hàng sau, việc thu tiền được hay khônglà phụ thuộc vào bêm mua. Rõ ràng hình thức thanh toán này chỉ được sử rụng khi bên mua và bên bán thực sự tin tưởng nhau.
Cũng qua biểu trên cho thấy chuyển tiền là hình thức thanh toán chiếm một tỷ trong rất khiêm tốn trong thanh toán bằng UNC– chuyển tiền (gần 0,1%). Đối với thanh toán bằng séc chuyển tiền, mặc dù việc phát hành séc chuyển tiền khá phức tạp vì phát hành tại Ngân hàng và tính ký hiệu mật nhưng nó lại rất thuận tiện cho khách hàng. Nhờ có séc chuyển tiền nên khi đến địa bàn khác, khách hàng có thể rút tiền mặt để chi tiêu hoặc xin được bảo chi séc để đi mua hàng hay chuyển thẳng vào tài khoản của người bán mà không phải mang theo tiền mặt. Về phía người bán khi bán hàng xong séc được nộp vào Ngân hàng là có tiền ngay. Tuy nhiên việc phát hành séc chuyển tiền trong thực tế mất nhiều thời gian, qua nhiều công đoạn nên nó không được ưa chuộng bằng hình thức UNC.
Tóm lại hình thức thanh toán UNC là hình thức thanh toán đơn giản, thuận tiện do vậy được khách hàng sử dụng nhiều nhất , chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh số TTKDTM. Hiện nay hình thức này được sử dụng thông qua hai phương thức thanh toán là phương thức thanh toán bù trừ và chuyển tiền điện tử.
2.3.2.3 UNT
Theo số liệu ở biểu ta thấy thể thức thanh toán này tại chi nhánh NHCT Đống Đa chiếm một tỷ trọng rất nhỏ, bình quân 0,2% trong tỷ trọng TTKDTM . Cụ thể năm 2000 số tiền UNT là 45 tỷ đồng, năm 2001 đạt giá trị là 37 tỷ đồng đạt 0,2% tổng doanh số TTKDTM và năm 2002 là 61tỷ đồng chiếm 0,23% doanh số TTKDTM
Thực tế cho thấy hình thức này chỉ được áp dụng đối với các khoản chi trả dịch vụ có tính chất định kỳ thường xuyên như: Tiền điện, tiền nước, tiền thuê nhà, tiền điện thoại, phí vệ sinh và làm sạch môi trường của các đơn vị cung ứng dịch vụ và đối với những khoản tiền thu bán hàng đối với bạn hàng có độ tin cậy cao. Như vậy đối tượng sử dụng UNC là những đơn vị sử dụng dịch vụ thường xuyên theo phương châm :" sử dụng trước, trả tiền sau"
Theo chế độ thanh toán được quy định tại chi nhánh NHCT Đống Đa , nếu trường hợp tài khoản tiền gửi của người mua không đủ khả năng thanh toán, Ngân hàng sẽ báo cho người mua biết đồng thời nhập “sổ theo dõi chứng từ quá hạn thanh toán” và chờ khi nào tài khoản người mua đủ khả năng thanh toán thì mới tiến hành thanh toán và tính phạt. Số tiền phạt chậm trả được tính như sau:
Tiền phạt chậm trả = Số tiền trên UNT x Số ngày chậm trả x 150% lãi suất trần cho vay ngắn hạn.
Trên thực tế tại chi nhánh NHCT Đống Đa từ năm 1999 đến nay không có trường hợp này xẩy do hình thức này chủ yếu chỉ áp dụng với những dịch vụ thanh toán thường xuyên, định kỳ với số tiền ít và vì thế nó chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh song hình thức thanh toán này có xu hướng tăng nhiều nhất so với các hình thức thanh toán khác( năm 2002 tốc độ tăng so với năm 2001 là 53,3% )
2.3.2.4 Thư tín dụng
Hình thức thanh toán bằng TTD nội địa ít được sử dụng tại các NHTM trong nước nói chung và ở chi nhánh NHCT Đống Đa nói riêng. Số tiền và số món chiếm tỷ trọng nhỏ, không đáng kể trong tổng doanh số TTKDTM . Điều đó có thể lý giải là khi áp dụng hình thức thanh toán bằng TTD, khách hàng phải ký gửi một số tiền vào tài khoản mở thư tín dụng mà không được hưởng lãi, gây ứ đọng vốn cho người mua. Đồng thời với hình thức thanh toán bằng TTD, thời gian luân chuyển chứng từ qua nhiều giai đoạn, thủ tục còn rườm rà, không thuận tiện.
2.3.2.5 Thẻ ngân hàng :
Máy ATM tại chi nhánh NHCT Đống Đa mới chỉ thực hiện chức năng rút tiền và thông báo số dư, tuy nhiên không phải lúc nào cần mà người sử dụng thẻ cũng rút tiền được ngay do sự bó hẹp về mặt thời gian, không gian và trình độ kỹ thuật .
So với các hình thức thanh toán khác, điều dễ nhận thấy là hình thức TTKDTM này đòi hỏi chi phí đầu tư cao, cụ thể như chi phí phát hành thẻ, lắp đặt nối mạng, vận hành bảo dưỡng, bảo đảm an ninh cho việc phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ là rất lớn trong khi nguồn vốn đầu tư không cao do thị trường đầu ra- nhu cầu sử dụng, tính phổ biến của thẻ thanh toán, mức phí có thể thu còn rất hạn chế. Đó là nguyên nhân vì sao hiện nay chi phí đầu tư của các ngân hàng nói chung và chi nhánh NHCT Đống Đa nói riêng cho mở rộng và phát triển thẻ thanh toán còn rất hạn chế
2.3.2.6 Ngân phiếu thanh toán
Ngân phiếu thanh toán thực chất là tiền mặt có thời hạn, nó đã gây những phiền nhiễu, bất cập, áp lực đối với công tác thanh toan nói riêng, đối với hoạt động thanh toán trong nền kinh tế nói chung.
Do đó kể từ ngày 1/04/2002 ngân phiếu thanh toán đã chính thức không được sử dụng nữa , đây là một bước ngoặt đáng kể vì điều đó sẽ góp phần tăng cả về doanh số lẫn chất lượng của TTKDTM .
Chính vì vậy qua biểu nói trên ta có thể thấy mặc dù thanh toán bằng ngân phiếu thanh toán năm 2002 có tăng so với năm 2001 song tỷ trọng của nó so với tổng doanh số TTKDTM đã giảm chỉ còn 2,67%.
2.3.2.6 Các hình thức thanh toán khác:
Ngoài các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt cụ thể như đã trình bày ở trên thì tại chi nhánh NHCT Đống Đa còn có một số thể thức thanh toán khác như tính lãi tài khoản tiền gửi khách hàng hay bảng kê tích số, phiếu chuyển khoản, chuyển tiền thanh toán bù trừ.
Những khoản thanh toán này chiếm một tỷ trọng đáng kể trong thanh toán không dùng tiền mặt, điều đó được thể hiện rất rõ trên biểu Cụ thể: Năm 2000 số tiền 3133 tỷ chiếm 21,04% ; Năm 2001 với số tiền 7480 tỷ đồng, chiếm 25% ; 2002 với số tiền 5659, chiếm 21,35%. Sở dĩ các hình thức thanh toán này đạt tới số tiền lớn với tỷ trọng tương đối cao như thế chủ yếu là do các khoản tính lãi trên tài khoản tiền gửi của khách hàng. Với những khoản tiền gửi dài hạn thì được tính lãi mỗi tháng một lần, với những khoản tiền gửi tiết kiệm thì sẽ được tính lãi vào ngày đến hạn. Những khoản tính lãi này lớn cả về món lẫn giá trị vì thế nó chiếm tỷ trọng khá lớn so với hình thức TTKDTM khác tại chi nhánh NHCT Đống Đa.
2.3.3 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng
Sự xuất phát triển của khoa học công nghệ mới, hiện đại trong lĩnh vực ngân hàng chủ yếu xuất phát từ nhu cầu của hoạt động thanh toán và phục vụ mục đích thanh toán . Do vậy, hoạt động thanh toán của ngân hàng liên tục được cải tiến, phát triển và hiện đại hoá cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ.
Công tác thanh toán là một trong 3 trung tâm hoạt động của các ngân hàng thương mại. Tại NHCT Đống Đa công nghệ ngân hàng nói chung, công nghệ TTKDTM nói riêng đang không ngừng được đổi mới nâng cao chất lượng bằng hệ thống tin học hiện đại để đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển kinh tế đất nước. Các phát sinh trong nghiệp vụ thanh toán đều được xử lý kịp thời chính xác.
Đặc biệt trong năm 2002, chi nhánh đã hoàn thành tốt dự án OSFA về hiện đại hoá các giao dịch thanh toán . Qua dự án hiện đại này, môi trường thanh toán luân chuyển chứng từ, các phương tiện thanh toán , tiện ích phục vụ trong công tác kế toán đã được nâng cao nhằm từng bước hoà nhập với các nước trong khu vực và thế giới.
Bên cạnh đó chi nhánh đã tự đầu tư vốn, cùng với sự hỗ trợ của NHCT Việt Nam để đổi mới trang thiết bị, công nghệ tin học và trang bị một hệ thống máy vi tính đến các phòng ban nghiệp vụ, thực hiện nối mạng nội bộ cũng như trong toàn hệ thống NHCT Việt Nam để đáp ứng tốt việc khai thác số liệu, xử lý thông tin, tổ chức thanh toán điện tử một cách nhanh chóng với độ chính xác cao.
Ngân hàng đã cài đặt 40 bộ máy tính cho việc triển khai dự án OSFA. Lắp đặt 2 hệ thống mạng cho hai phòng giao dịch, nâng cấp được 8 quỹ tiết kiệm giao dịch trên máy tính. chấp hành tốt các quy định về sử dụng và bảo quản trang thiết bị máy tính.
Trong chương trình hiện đại hoá, chi nhánh NHCT Đống Đa cũng là một trong những chi nhánh đầu tiên được thực hiện trên máy ATM trả tiền tự động sớm nhất trong hệ thống NHCT Việt Nam . Hiện tại ngoài việc trả lương hằng tháng cho CBCNV trên máy trả tiền tự động của chi nhánh và của một số doanh nghiệp, chi nhánh còn thu hút khá nhiều khách hàng cá nhân tham gia dịch vụ này, đây cũng là mở màn cho các dịch vụ sản phẩm tiếp theo tới đây trong chương trình hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Chi nhánh đã hoàn thiện chương trình rút tiền tự động hoặc chuyển tiền tự động qua hệ thống máy rút tiền tự động ATM, khách hàng có thể chuyển tiền thanh toán các dịch vụ từ máy ATM để thanh toán tiền :điện, nước, điện thoại...hoặc chuyển tiền từ tài khoản ATM vào bất cứ một tài khoản nào theo ý muốn.
Bên cạnh đó các công tác thanh toán điện tử , thanh toán điện tử liên ngân hàng, thanh toán bù trừ luôn đảm bảo nhanh gọn, chính xác đã đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của khách hàng đồng thời phục vụ đắc lực cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả của ngân hàng .
Như vậy công nghệ thanh toán hiện đại đã góp phần rút ngắn thời gian, tăng vòng quay vốn, tiết kiệm chi phí, đảm bảo an toàn bí mật, hạn chế được những sai sót từ đó tạo uy tín cho ngân hàng và thu hút ngày một tăng lượng khách hàng đến giao dịch.
2.3.4 Marketing hoạt động thanh toán.
Marketing hoạt động thanh toán đã từng bước được cải thiện, khách hàng đã biết đến ngân hàng cũng như sử dụng dịch vụ của ngân hàng ngày càng nhiều. Điều đó thể hiện qua số tài khoản năm sau cao hơn năm trước, cụ thể năm 2001 tăng thêm 695 tài khoản mới , nâng số tài khoản lên gần 4000 tài khoản và con số tổng tài khoản tại NHCT Đống Đa năm 2002 là 4772 tài khoản.
Ban giám đốc luôn quan tâm chú trọng đến công tác phát triển mở rộng TKTT cá nhân, ngân hàng đã bước đầu đổi mới công tác thanh toán qua ngân hàng khuyến khích cán bộ công nhân viên ngân hàng tiên phong trong việc mở và sử dụng tài khoản. Hiện tại chi nhánh thực hiện trả lương cho cán bộ công nhân viên trên máy trả tiền tự động.
2.4 Đánh giá chung về hoạt động TTKDTM của NHCT Đống Đa
2.4.1 Những kết quả đạt được.
Trong xu hướng phát triển đa năng, đa dạng hóa các loại hình sản phẩm dịch vụ ngân hàng , với sự hỗ trợ to lớn của NHCT Việt Nam và các tổ chức ngân hàng quốc tế về mặt nguồn vốn, tài trợ và trợ giúp nâng cấp công nghệ ngân hàng , đào tạo, công tác thanh toán của chi nhánh NHCT Đống Đa cũng được nâng cấp và phát triển.
Qua phân tích thực trạng về tình hình thực hiện các hình thức TTKDTM NHCT Đống Đa trong những năm đổi mới, chúng ta thấy được hệ thống thanh toán về mặt tổ chức và công nghệ từng bước được cải tiến, hoàn thiện và phát triển để phục vụ ngày một tốt hơn nhu cầu phát triển kinh doanh. Cụ thể:
+Hình thức và phương thức thanh toán cũng được cải tiến, thủ tục chuyển tiền ngày càng được đơn giản hoá. Việc luân chuyển chứng từ trước đây hoàn qua bưu điện nay trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin mới nên đã rút ngắn đáng kể thời gian thanh toán và hạn chế sai sót trong khâu luân chuyển chứng từ.
+ TTKDTM ngày càng nhiều, qua đó góp phần tăng quy mô tín dụng, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn , mở rộng phạm vi kinh doanh, tăng cường sức cạnh tranh của ngân hàng
+Nhìn chung, những chính sách giải pháp đổi mới về công tác thanh toán trong thời gian qua đã góp phần tích cực giải quyết tình trạng thiếu tiền mặt, tăng tốc độ chuyển tiền, thanh toán an toàn, bước đầu mở rộng dịch vụ thanh toán của ngân hàng vào dân cư, môi trường pháp chế và kỹ thuật đang được cải tiến.
Như vậy có thể nói việc cải tiến hệ thống thanh toán trên cơ sở ứng dụng công nghệ hiện đại đã tác động tích cực đến cải tiến quy trình và các thủ tục nghiệp vụ thanh toán nói chung và TTKDTM nói riêng tại chi nhánh.
2.4.2 Một số khó khăn, tồn tại
Bên cạnh những kết quả đạt được trong những năm qua, hệ thống thanh toán nói chung và TTKDTM nói riêng đã bộc lộ những khó khăn, tồn tại:
+Mặc dù TTKDTM tại NHCT Đống Đa trong những năm gần đây tăng cả về số món và số tiền, song phải nói rằng với tầm vóc vào loại lớn trong các chi nhanh của hệ thống NHCT thì tỷ trọng 78,83% của TTKDTM so với tổng doanh số thanh toán vẫn chưa thể gọi là cao, chưa thể đáp ứng nhu cầu ngày càng cao đối với nền kinh tế.
+Tiến trình hiện đại hoá ngân hàng còn quá dài và chậm so với yêu cầu phát triển các sản phẩm kinh doanh nghiệp vụ ngân hàng . TTKDTM hiện nay chưa mở rộng tới các tầng lớp dân cư, đặc biệt là cá nhân việc sử dụng còn rất chậm trễ. Ngoài ra việc đa dạng các hình thức TTKDTM còn hạn chế, đặc biệt là thiếu các hình thức thanh toán sử dụng công nghệ thanh toán hiện đại do đó kết cấu các hình thức TTKDTM vẫn chưa hợp lý. Loại hình áp dụng chủ yếu vẫn là UNC -chuyển tiền, séc vẫn còn hạn chế, hình thức thanh toán bằng thư tín dụng và thẻ ngân hàng vẫn chưa được sử dụng mấy.
+Chất lượng TTKDTM đôi khi còn không được đảm bảo, quy trình thanh toán đôi lúc còn chậm chạp, thủ tục thanh toán đôi khi còn rườm rà, phức tạp. Chứng từ thanh toán và quy trình luân chuyển chứng từ chưa tiêu chuẩn hoá để phù hợp với yêu cầu thanh toán tự động, việc lưu trữ thông tin và an toàn dữ liệu chưa tránh được những rủi ro ngẫu nhiên, hệ thống thanh toán hiện tại còn tách rời với thông tin quản lý khách hàng, do đó hạn chế khả năng mở rộng quy mô TTKDTM.
+Chưa có sự dồn sức làm tốt việc nâng cao tỷ trọng TTKDTM qua ngân hàng , thiếu trú trọng trong công tác thanh toán ngân hàng đặc biệt là các hình thức thanh toán hiện đại. Chưa có sự nhất quán quan điểm xuyên suốt từ các nhà lập chính sách vĩ mô đến các nhà quản trị kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng .
2.4.3 Nguyên nhân của tồn tại
2.4.3.1Nguyên nhân khách quan
Có thể thấy những tiện ích từ việc mở và giao dịch bằng tài khoản cá nhân của ngân hàng , nhưng khi thu nhập thấp và còn thói quen tiêu xài tiền mặt, người dân không thấy cần thiết phải mở tài khoản, họ chưa quen với các loại hình thanh toán qua ngân hàng , thậm chí kể cả dạng sơ khai, chẳng hạn như các loại séc thông thường mà gần đây nhất là việc áp dụng séc thanh toán cá nhân còn gặp không ít khó khăn. Đa số người thụ hưởng thấy rằng trong quan hệ mua bán, cung ứng dịch vụ , việc nhận tiền mặt trong thanh toán sẽ chắc chắn hơn( không lo séc giả, hoặc tài khoản của người mua không đủ số dư) vì khi giao hàng là họ nhận được tiền ngay, không bị chậm trễ mặc dù có phải mất thời gian đếm tiền và bảo quản tiền đi nữa.
Do sự phát triển thanh toán bằng vàng và ngoại tệ trong dân cư. Hỗu hết các khoản thanh toán lớn trong dân cư như mua nhà, đất, xe máy đều được thanh toán bằng vàng và ngoại tệ. Như ta đã biết phải mất hàng trăm năm để nhân loại chuyển việc thanh toán bằng vàng thật qua thanh toán bằng tiền giấy, thế nhưng trong nền kinh tế nước ta đang trở lại thời kỳ thanh toán bằng vàng thật thì điều đó là điều nghịch lý, cần phải có biện pháp thay thế. Như vậy rõ ràng thanh toán bằng vàng và ngoại tệ trở thành thói quen khó có thể xoá bỏ trong dân cư gây khó khăn trong việc mở rộng TTKDTM tại chi nhánh
Séc vẫn còn chiếm một tỷ trọng khá khiêm tốn do những văn bản quy phạm pháp luật vẫn chưa đi vào cuộc sống, đồng thời hiện nay vẫn chưa có cơ sở pháp lý cao, mới dừng lại ở nghị định, đó là nghị định 30/CP về phát hành và sử dụng séc, thông tư 07/TT-NH1 hướng dẫn thực hiện nghị định, gần đây nhất có dự thảo nghị định của chính phủ về séc sửa đổi bổ xung nghị định 30/CP về phát hành và sử dụng séc song vẫn chưa chính thức được ban hành.
Giới hạn thanh toán séc hẹp, quan hệ tiền hàng không đi đôi với nhau, tiền bao giờ cũng được trả trước hoặc trả sau hàng hoá, dịch vụ đôi bên có thể lợi dụng lẫn nhau. Muốn tránh được điều này phải bảo chi séc, nhưng mỗi lần bảo chi séc phải đến Ngân hàng làm thủ tục và phải trích tài khoản vừa gây ứ đọng vốn và không chủ động trong kinh doanh. Cho nên séc hiện nay vẫn chưa thoả mãn các nhu cầu của khách hàng, chưa thu hút mọi khoản tiền trong thanh toán.
Sở dĩ hình thức thanh toán thẻ vẫn còn chưa được phát triển vì thanh toán thẻ là dạng thức hiện đại trong công tác thanh toán ngân hàng , gắn bó rất mực thiết hiện đại hoá, đổi mới công nghệ ngân hàng . Đòi hỏi phải có đầu tư lớn cho cơ sở hạ tầng "cứng", hạ tầng "mềm" của hệ thống ngân hàng. Điều này thực sự rất khó khăn, bên cạnh đó một thực tế đặt ra là khó có thể hiện đại hoá công tác thanh toán ngân hàng , đưa mạnh vào ứng dụng các loại hình khi mà trình độ dân trí, văn minh thi trường còn thấp, điều kiện kinh tế xã hội nói chung còn ít thuận lợi. Ngoài ra quyết định 371/QĐ-NHNN1 ban hành về quy chế phát hành và thanh toán thẻ ngân hàng song một số quy định vẫn còn chưa phù hợp, chưa tạo cơ sở cho hoạt động thanh toán thẻ phát triển. Việc quản lý ngoại hối trong dịch vụ thẻ còn có những kẽ hở cần được khắc phục. Rõ ràng do chưa có sự phát triển đồng bộ về môi trường pháp lý và các chính sách có liên quan cho việc phát hành và sử dụng thẻ nên ngân hàng vẫn còn lúng túng trong việc phát triển chiến lược kinh doanh này
Hiện nay cơ sở hạ tầng thông tin của Việt nam còn chưa đồng bộ giữa các tỉnh thành phố trong toàn quốc, đường truyền dữ liệu tốc độ còn chậm . Việc chuẩn hoá thông tin còn nhiều vấn đề chưa thống nhất, dẫn đến thông tin không thông
suốt, đường truyền đôi khi bị tắc nghẽn. Do đó gây trở ngại lớn đến việc truyền dữ liệu cho nhiều ngành nói chung và trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng.
Ngân hàng phải đương đầu với áp lực cạnh tranh từ phía các ngân hàng khác đặc biệt là ngân hàng nước ngoài. Trong khi ngân hàng thiếu kinh nghiệm chuyên môn, đang phải xây dựng từng bước quy trình làm việc và nghiên cứu để áp dụng các nghiệp vụ mới, thì các ngân hàng nước ngoài với ưu thế về tài chính, kiến thức và kinh nghiệm sẵn sàng đầu tư mạnh để chiếm lĩnh thị trường.
2.4.3.2Nguyên nhân chủ quan
Đó là những nguyên nhân thuộc về bản thân đơn vị ngân hàng . Đây là những nguyên nhân mà ngân hàng có thể đã trực tiếp tác động đến số lượng cũng như chất lượng TTKDTM , do vậy việc nắm bắt được các nguyên nhân xuất phát từ chính đơn vị ngân hàng để có thể chủ động khắc phục , cải thiện tình hình thanh toán nói chung và TTKDTM nói riêng.
Công tác Marketing để phát triển TTKDTM chưa thực làm tốt, đội ngũ cán bộ Marketing chưa có nhiều kinh nghiệm trong khâu tiếp thị, ngân hàng chưa chủ động tìm đến với khách hàng, chưa tích cực tìm hiều nhu cầu của khách hàng, chưa chú trọng tới nhóm khách hàng tiềm năng. Việc tuyên truyền quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng còn hạn chế, chưa đủ sức hấp dẫn dân cư về các hình thức TTKDTM , đặc biệt trong điều kiện ở một đất nước luôn có thói quen tiêu tiền mặt.
Bên cạnh những khó khăn như tình trạng kém tin cậy của công chúng vào ngân hàng thì còn có những bất cập về trình độ của các cán bộ ngân hàng về cơ chế thanh toán hiện đại, chưa kể tới phong cách của một số nhân viên ngân hàng còn biểu hiện tư tưởng thời bao cấp, tác phong làm việc chưa linh hoạt, chưa tận tình hướng dẫn khách hàng trong việc làm thủ tục thanh toán làm cho khả năng tiếp cận khách hàng với những tiện ích hiện đại của ngân hàng càng có thêm khoảng cách.
Do trình độ cán bộ của trung tâm tin học của chi nhánh còn hạn chế lại không được cập nhật kiến thức mới, do vậy chưa đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng.
Qua việc phân tích những tiến bộ cũng như những hạn chế trong hoạt động TTKDTM tại NHCT Đống Đa , từ đó xác định nguyên nhân để có thể từng bước khắc phục những tồn tại đó là việc không phải dễ thực hiện, song ngay bây giờ chúng ta cần có những giải pháp hữu hiệu để dịch vụ TTKDTM ngày càng phát triển và hoàn thiện.
Chương 3:
Một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng và phát triển hoạt động TTKDTM tại NHCT Đống Đa
Trên thực tế thu nhập từ dịch vụ thanh toán chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng nguồn thu của ngân hàng , song nếu hoạt động thanh toán nói chung và TTKDTM nói riêng được tổ chức tốt thì lập tức sẽ kéo theo hoạt động huy động, đầu tư tín dụng phát triển.
Do đó chúng ta cần coi trọng hoạt động TTKDTM , coi nó như là một công cụ, một vũ khí để thông qua nó để đẩy mạnh các hoạt động khác của ngân hàng phát triển , nhằm tận thu lợi nhuận và đạt hiệu quả kinh tế một cách tối ưu. Song đã là một công cụ thì công cụ đó phải sắc bén, nhanh nhạy, phù hợp với mọi chính sách, mọi phương thức giao dịch, mọi giai đoạn phát triển và đổi mới của đất nước. Đã là một dịch vụ thì phải được hiện đại hoá, làm sao để dịch vụ phải nhanh , chính xác, giá cả cạnh tranh và phục vụ thiết thực cho quá trình kinh doanh của ngân hàng cũng như đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng.
Cùng với sự mở cửa của nền kinh tế, các ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh cũng đã được phép hoạt động tại Việt Nam. Điều đó lại càng làm tăng sự cạnh tranh của các ngân hàng . Vì vậy các ngân hàng đều phải trăn trở cải tiến dịch vụ để thu hút khách hàng. Dịch vụ TTKDTM cũng là lĩnh vực mà các ngân hàng phải đặc biệt quan tâm để cải tiến.
3.1 Định hướng phát triển dịch vụ thanh toán tại NHCT Đống Đa
Sau hơn 10 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến sâu sắc, đồng thời các quan hệ quốc tế hiện nay đang tác động to lớn đến mọi mặt đời sống kinh tế xã hội nước ta. Mục tiêu phấn đấu của nước ta đến năm 2020 sẽ trở thành một nước có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. Môi trường hoạt động của Ngân hàng đã và đang thay đổi. Điều đó đòi hỏi ngân hàng cũng phải thay đổi phương thức hoạt động theo chiều hướng dựa trên nền công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ tin học.
Tin học và hiện đại hoá công nghệ thanh toán phải được coi là một trong những mục tiêu hàng đầu của chiến lược đổi mới và hiện đại hoá hoạt động của NHCT Đống Đa
Trong những năm tới, chương trình ứng dụng thanh toán hiện đại cần được ưu tiên là:
+áp dụng công cụ thanh toán hiện đại mới để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong nền kinh tế. Đẩy mạnh triển khai các hình thức mới về dịch vụ, phục vụ ngân hàng như công ty thuê mua, quỹ đầu tư, công ty mô giới, công ty tư vấn, Ngân hàng tại nhà ...
+Kết hợp việc phát triển hệ thống thanh toán nội bộ với quản lý và điều hành nguồn vốn kinh doanh tập trung; giảm tối đa rủi ro trong thanh toán liên ngân hàng. Xây dựng hệ thống quản lý và kiểm soát các rủi ro Ngân hàng, đặc biệt là rủi ro trong thanh toán và tín dụng.
+ Nghiên cứu và triển khai dự án nâng cấp chương trình kế toán giao dịch và kế toán tín dụng lên trên môi trường kỹ thuật mới để cập nhật tức thời các giao dịch thanh toán của khách hàng, đáp ứng yêu cầu quản lý vốn của Chi nhánh đến từng thời điểm.
Đồng thời với việc nâng cao chất lượng thanh toán, các yêu cầu khác sẽ đạt được là:
- Giảm được các chi phí thanh toán.
- Tạo ra những điều kiện để phát triển thêm hệ thống hạch toán tài khoản khách
hàng, tốc độ chu chuyển tiền tệ nhanh hơn, khả năng tạo tiền nhiều hơn.
Nếu các yêu cầu trên được thực hiện thì chất lượng thanh toán sẽ được nâng cao, đảm bảo an toàn, nhanh chóng và chính xác; chi nhánh sẽ kiểm soát được nhanh nhạy nguồn vốn tạo điều kiện cho việc điều hành vốn và đầu tư tốt hơn.
Tiền đề đảm bảo cho các chương trình, mục tiêu trên được thực thi là ngoài nguồn vốn để mua sắm trang thiết bị, xây dựng, lắp đạt các phương tiện kỹ thuật. Trong điều kiện hiện tại, bản thân NHCT Đống Đa cần nỗ lực tự tạo ra nguồn vốn, đồng thời cần tranh thủ nguồn vốn vay từ bên ngoài. Bên cạnh đó còn cần có đội ngũ cán bộ quản lý, nghiệp vụ và kỹ thuật với trình độ chuyên môn cao theo tiêu chuẩn quốc tế. Nhưng hiện nay, đội ngũ cán bộ kỹ thuật và nghiệp vụ đảm nhiệm việc này còn rất thiếu và chưa được đào tạo chuyên sâu để đáp ứng yêu cầu phát triển lâu dài.
NHCT Đống Đa cần sớm xác lập chiến lược khách hàng hướng vào mục tiêu nâng cao dịch vụ ngân hàng, mở rộng phạm vi và tăng khối lượng thanh toán và thay đổi kết cấu tiền trong lưu thông với yêu cầu là tăng tiền gửi ngân hàng, giảm bớt tiền mặt; đặc biệt chú trọng khu vực dân cư và hộ kinh doanh cũng như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh; bảo vệ khả năng thanh toán của các tổ chức tín dụng; tăng tốc độ thanh toán, tín an toàn, chính xác và nâng cao tính thuận lợi của dịch vụ thanh toán đối với nền kinh tế và dân cư.
Cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án hiện đại hoá hệ thống thanh toán, nhằm sớm đưa vào sử dụng, tăng nhanh tốc độ thanh toán qua ngân hàng , giảm chi phí cho hoạt động thanh toán , tạo điều kiện phát triển các hình thức thanh toán mới, tăng khả năng cung cấp các dịch vụ thanh toán và các dịch vụ thanh toán và các dịch vụ khác có liên quan đến việc mở và sử dụng tài khoản của khách hàng tại ngân hàng .
3.2 Giải pháp
Xuất phát từ thực tiễn và bằng kiến thức thu thập được trong quá trình tìm hiểu thực tế tại chi nhánh NHCT Đống Đa. Em xin đề xuất một số giải pháp để phát triển và mở rộng TTKDTM qua ngân hàng.
3.2.1- Một là: thúc đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, không ngừng đổi mới kỹ thuật và công nghệ thanh toán .
Nhìn về mặt ứng dụng CNTT trong khối doanh nghiệp Việt Nam không thể phủ nhận rằng ngành ngân hàng , tài chính đang ở vị trí dẫn đầu. Tuy nhiên chỉ so với các nước trong khu vực thì mức ứng dụng này còn quá thấp và các hoạt động nghiệp vụ NH vẫn còn ở mức lạc hậu. Mức ứng dụng này khiến người ta lo ngại cho sự yếu kém và tụt hậu của ngành NH trong bối cạnh sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử và hội nhập toàn cầu. Chính vì vậy, việc ứng dụng CNTT để hiện đại hoá các nghiệp vụ ngành NH, cung cấp nhiều dịch vụ tiện lợi cho khách hàng là nhiệm vụ sống còn trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện nay.
Trước những thách thức trong quá trình hội nhập kinh tế nói chung và trên lĩnh vực tài chính -ngân hàng nói riêng buộc các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cần phải hiện đại hoá công nghệ thanh toán .Vì vậy việc hiện đại hoá phải đáp ứng được những yêu cầu sau:
-Đưa ra công cụ thanh toán thích hợp
-Các cơ chế thanh toán thích hợp nhất
-Xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế mang tính hiện đại có thể thực hiện được lâu dài, song tránh lạc hậu.
Cải thiện và nâng cao trình độ tự động hoá trong qui trình công nghệ ngân hàng là một trong những điều kiện tốt để quản lý vốn tập trung, tăng cường hơn nữa sự hoà nhập ngân hàng Việt Nam với ngân hàng thế giới
Trước những đòi hỏi cao như vậy trong khi ngân hàng gặp khó khăn về vốn để đầu tư trang thiết bị hiện đại cũng như tuyển dụng các kỹ sư tin học giỏi để điều hành hệ thống thanh toán cho toàn chi nhánh. Thiết nghĩ trước mắt ngân hàng nên cử một số cán bộ đi đào tạo trong nước và ngoài nước để nâng cao trình độ xử lý các giao dịch hiện đại đặc biệt là khi ngân hàng đang áp dụng hệ thống giao dịch mới OSFA. Đồng thời ngân hàng cần đổi mới và hoàn thiện hệ thống thanh toán theo hướng xây dựng mạng tập trung nhằm tăng hiệu năng sử dụng hệ thống chuyển tải thông tin, quy định thống nhất mẫu chứng từ, lưu giữ chứng từ và các dữ liệu điện toán.
Mặc dù chi nhánh hiện đã trang bị được hệ thống máy tính tương đối hiện đại. Tuy nhiên theo yêu cầu về đổi mới công nghệ thanh toán thì cần phải ứng dụng nhanh nhạy các phần mềm thích hợp trong thanh toán, hiện đại hoá triệt để công tác thanh toán theo tốc độ phát triển hiện nay của công nghệ thông tin để tăng thêm uy tín, đáp ứng nhu cầu ngày một cao của khách hàng đến với Ngân hàng mình, thu hút thêm khách hàng tiềm năng trong thời đại cạnh tranh quyết liệt giữa các Ngân hàng như hiện nay.
Tổ chức đào tạo và đào tạo lại cán bộ đồng thời không ngừng nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác thanh toán của ngân hàng theo nội dung và yêu cầu mới để có thể điều hành và xử lý tốt các mặt nghiệp vụ của ngân hàng đặc biệt là khâu thanh toán .
Trong tương lai cần triển khai ngân hàng ảo. Ngân hàng ảo là ngân hàng mà các dịch vụ được cung cấp qua các phương tiện kỹ thuật, khách hàng không cần đến trực tiếp các chi nhánh của ngân hàng mà vẫn có thể thực hiện được các giao dịch, nắm bắt được các thông tin tài chính của mình. Ngân hàng ảo tồn tại dưới nhiều dạng như ATM, KIOS Banking, Phone Banking, Home Banking, Internet Banking
3.2.2-Hai là: áp dụng Marketing vào hoạt động của ngân hàng
Ngày nay trong cơ chế thị trường, sự cạnh tranh diễn ra gay gắt từng giờ, từng phút, các ngân hàng muốn tồn tại và phát triển thì không thể ngồi đợi khách hàng tìm đến mình mà mình phải chủ động tìm đến khách hàng.
Vì vậy để giành thắng lợi trong cạnh tranh trong tất cả các lĩnh vực mà đặc biệt là dịch vụ TTKDTM thì các ngân hàng cần phải áp dụng chiến lược Marketing linh hoạt và phù hợp. Mục tiêu là để khách hàng biết đến ngân hàng và nắm được các nghiệp vụ mà ngân hàng phục vụ luôn đem lại sự thuận lợi, an toàn và hiệu quả. Cụ thể:
Nghiên cứu thị trường để nắm bắt được tập quán, thái độ và nhất là động cơ của khách hàng khi lựa chọn ngân hàng mình( có thể khách hàng thích địa điểm của ngân hàng , có thể do chất lượng và thái độ phụ vụ của nhân viên giao dịch...) qua đó để phát huy những ưu điểm và khắc phục những yếu điểm đã làm khách hàng không vừa lòng. Vì vậy thành lập một bộ phận Marketing chuyên trách là hết sức cần thiết đối với ngân hàng .
Khi đã nắm bắt được những yêu cầu của khách hàng, ngân hàng cần phải có những giải pháp trước mắt và lâu dài làm sao để khách hàng sử dụng ngày một nhiều các dịch vụ , có thể ngân hàng sẽ khuyến khích khách hàng sử dụng các hình thức TTKDTM bằng cách đưa ra các hình thức khuyến mãi đối với khách hàng có quan hệ thường xuyên, khách hàng đặc biệt cụ thể là:
Khuyến khích lợi ích vật chất đối với khách hàng có quan hệ thường xuyên như tặng quà, miễn phí một số dịch vụ có liên quan. Đến các ngày lễ, tết nên tặng quà lưu niệm như lịch, sổ, đồng hồ treo tường có biểu tượng của NHCT.
Bên cạnh đó chúng ta phải không ngừng tổ chức tuyên truyền vận động một cách có hệ thống qua các cơ quan báo chí, đặc biệt là các loại báo trong ngành ngân hàng vì đây là cách tốt nhất nâng cao hình ảnh của ngân hàng, để mọi người dân đều hiểu và nắm được các điều hay, cái tiện lợi và cái an toàn trong việc sử dụng các hình thức TTKDTM qua đó để người dân quen với những dịch vụ ngân hàng ngày càng một phát triển và tiện ích trong đời sống kinh tế xã hội hiện đại.
Không ngừng nâng cao trình độ của cán bộ Marketing ngân hàng, không chỉ nâng cao về trình độ chuyên môn mà phải không ngừng nâng cao tính trung thực , tự giác của một cán bộ ngân hàng. Luôn có khuyến khích về vật chất và tinh thần đối với nhân viên đạt thành tích tốt trong giao dịch với khách hàng.
3.2.3-Ba là:khuyến khích cá nhân mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng
Theo các văn bản trước đây cũng như gần đây nhất là quyết định 226/2002/QĐ-NHNN của thống đốc NHNN ban hành ngày 26/3/2002 thì thủ tục mở tài khoản rất đơn giản đồng thời người sử dụng dịch vụ thanh toán được quyền chọn ngân hàng và các tổ chức khác được làm dịch vụ thanh toán để mở tài khoản thanh toán trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Tại chi nhánh NHCT Đống Đa đã áp dụng và thực hiện với thủ tục đơn giản, thuận tiện và rất nhanh chóng cho khách hàng, mặc dù số lượng tài khoản có tăng song không đáng kể, mặc dù chi nhánh NHCT Đống Đa đóng trên địa bàn có đông dân cư, các hộ buôn bán nhỏ và các đơn vị cung ứng dịch vụ. Đây là điều kiện tốt để chi nhánh đẩy mạnh công tác mở tài khoản cá nhân, thu hút thêm một lượng vốn tín dụng và là cơ sở làm dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
Việc tiếp tục tuyên truyền, vận động mở tài khoản cá nhân và mở rộng nhiều loại hình dịch vụ thanh toán thích hợp qua ngân hàng trong tầng lớp dân cư hiện vẫn được đánh giá là thị trường tiềm năng của chi nhánh NHCT Đống Đa chưa được khai thác triệt để.
Vì vậy muốn tăng nhanh số lượng tài khoản tiền gửi thanh toán, tăng tỷ trọng thanh toán qua Ngân hàng, Ngân hàng cần phải cung ứng nhiều hơn nữa các dịch vụ trọn gói hoàn hảo song song với việc thoả mãn tốt nhất nhu cầu về văn minh giao dịch, khuyến khích các doanh nghiệp và tổ chức đóng trên địa bàn thực hiện chi trả thu nhập cho nhân viên thông qua tài khoản tại Ngân hàng.
3.2.4-Bốn là: Đơn giản hóa thủ tục
Đây là một vấn đề cũng gây không ít trở ngại không những cho khách hàng mà còn cho cả ngân hàng, khách hàng đến với ngân hàng ngoài các mục đích khác như lãi suất, an toàn và tiện lợi thì họ cũng cần các thủ tục đơn giản, nhanh chóng.
Theo đánh giá chung của các chuyên gia thì sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng Việt Nam còn quá nghèo nàn. Lâu nay khách hàng chỉ có một phương thức duy nhất là đến gặp chính cán bộ NH đã mở tài khoản cho mình để thực hiện giao dịch. Các thủ tục thường phiền hà, qua nhiều khâu và tốn nhiều thời gian. Trong khi đó, một số ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam lại nhạy bén đưa ra nhiều loại dịch vụ đa dạng, thuận tiện cho khách hàng.
Như vậy nếu ngân hàng cứ bắt khách hàng phải làm thủ tục rườm rà quá lâu thì một phần họ ngại, phần khác họ không muốn mất quá nhiều thời gian vào công việc này . Vì vậy ngân hàng phải cải cách các thủ tục sao cho đơn giản, rõ ràng, thanh toán nhanh, hiệu quả nhưng vẫn đảm bảo tính an toàn cho khách hàng. Để khách hàng thấy được sự thuận lợi của TTKDTM so với thanh toán bằng tiền mặt là cách tốt nhất tăng nhanh doanh số TTKDTM tại ngân hàng .
3.2.5-Năm là: Nâng cao năng lực trình độ của cán bộ
Trong hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán nói riêng yếu tố tổ chức và con người là quyết định. Do đó, người làm công việc thanh toán phải có đầy đủ năng lực pháp lý, trình độ chuyên môn. Muốn vậy, yêu cầu lúc này là chúng ta cần có chính sách phát triển nguồn nhân lực thật hiệu quả. Nó không chỉ cần thiết ở tầm vĩ mô (toàn ngành) mà còn là đòi hỏi bức thiết không thể thiếu của mọi tổ chức tín dụng (tầm vi mô). Cần đào tạo, tuyển chọn đội ngũ nhân viên đủ về số lượng, thạo về chuyên môn để có thể vận hành đạt hiệu quả hệ thống kỹ thuật cao.
+NHCT Đống Đa cấp thiết phải tăng cường đào tạo và đào tạo lại cán bộ Ngân hàng nói chung và đội ngũ cán bộ làm công tác kế toán thanh toán nói riêng, trong điều kiện hiện đại hoá hoạt động ngân hàng.
+Trước mắt, cần phổ cập kỹ thuật tin học cho cán bộ nhân viên Ngân hàng. Về lâu dài, khi đã tin học hoá hệ thống thông tin phục vụ công tác hoạt động thanh toán kinh doanh ngân hàng thì đương nhiên lúc đó đào tạo được một nhân viên ngân hàng thực sự công phu như đào tạo nghệ nhân.
3.2.6- Sáu là: ngân hàng cần tiếp tục đổi mới xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuất để triển khai áp dụng các hình thức thanh toán hiện đại như thẻ ngân hàng
Ngân hàng cần phải nhận thức sâu sắc rằng đây là một công nghệ mới và hiện đại, nó có một triển vọng rất lớn trong tương lai để có kế hoạch định hướng chiến lược trong việc mở rộng dịch vụ thanh toán. Cần phải đầu tư sức người sức của vào công cuộc hiện đại hoá công tác thanh toán ngân hàng nhằm từng bước cải thiện tình hình thanh toán tạo niềm tin trong dân chúng tiến tới giảm dần tỷ trọng thanh toán bằng tiền mặt, giảm chi phí xã hội, tăng nhanh vòng quay vốn góp phần thu hút một nguồn vốn lớn nhàn rỗi không nhỏ đang bị đọng lại trong dân chúng do thói quen thanh toán bằng tiền mặt.
Ngân hàng cần cử một số cán bộ tham gia các lớp bồi dưỡng về kỹ thuật phát hành và sử dụng thẻ, để có thể hướng dẫn tận tình khách hàng sử dụng một cách thành thạo các thao tác trên máy ATM, qua đó khách hàng sẽ thấy được sự thuận tiện của hình thức thanh toán này.
Bên canh việc trang bị máy rút tiền tự động (ATM), ngân hàng cần từng bước áp dụng mở rộng các loại thẻ thanh toán như: thẻ thanh toán không dùng tiền mặt và thẻ rút tiền mặt, thẻ phát hành séc của Ngân hàng…
Tóm lại với các giải pháp được đề xuất trên, cùng với sự nỗ lực không ngừng NHCT Đống Đa trong công cuộc thực hiện hiện đại hoá công nghệ ngân hàng chắc chắn rằng hoạt động thanh toán nói chung và TTKDTM nói riêng sẽ phát triển mạnh mẽ trong một tương lai không xa.
3.3 Kiến nghị
Các giải pháp trên, muốn mang tính khả thi cao phải có những điều kiện nhất định làm cơ sở để thực hiện. Những điều kiện đó là: môi trường Pháp lý, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tập quán dân cư, trình độ dân trí...đây là đòi hỏi không chỉ riêng ngành ngân hàng mà là trách nhiệm của toàn xã hội trong đó Ngân hàng đóng vai trò chủ đạo
Để nhanh chóng đưa nền công nghệ ngân hàng của nước ta lên ngang tầm Quốc tế, trước mắt là đỡ tụt hậu so với các nước trong khu vực, theo tôi đòi hỏi Nhà nước, ngành ngân hàng và toàn xã hội cần phải thực hiện một số công việc có tính cấp bách sau:
3.3.1 Đối với nhà nước và chính phủ
Trước tình trạng thất thu thuế, trốn thuế trong kinh doanh, tình trạng tham ô, tham nhũng, hối lộ, khai khống hoá đơn...do việc sử dụng tiền mặt tuỳ tiện trong thanh toán như hiện nay, Nhà nước cần có những bước đi thích hợp để cùng với các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán giải quyết bài toán hóc búa trong xã hội: Làm sao tăng tỷ trọng TTKDTM trong nền kinh tế ?
Nhà nước nên có chế tài bắt buộc các doanh nghiệp và tổ chức thực hiện chi trả thu nhập cho nhân viên thông qua tài khoản tại ngân hàng. Nếu làm được điều này chắc chắn ngân sách nhà nước sẽ có thêm một nguồn thu không nhỏ là thuế thu nhập cá nhân lâu nay vốn rất khó tận dụng do nạn chi trả bằng tiền mặt không thể kiểm soát nổi. Dùng thuế suất cao đối với những doanh nghiệp đòi thanh toán bằng tiền mặt.
Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích vốn đầu tư và thuế cho hệ thống trong thời gian đầu thực hiện các dự án hiện đại hóa hệ thống thanh toán của ngân hàng như trung tâm thanh toán thẻ, séc và hối phiếu thương mại
Ngoài việc tuyên truyền, vận động nhân dân mở tài khoản, trả lương qua tài khoản thì nên có một số biện pháp mang tính pháp quy như với những cá nhân có đăng ký kinh doanh nhất thiết phải mở tài khoản và nộp thuế qua tài khoản . Việc này phải có sự chỉ đạo của chính phủ và phối hợp với ngành có liên quan như ngành Thuế, Bộ tài chính,…
Chính phủ cần phát triển và hoàn thiện môi trường pháp lý, hoà nhập với thông lệ Quốc tế làm cơ sở thúc đẩy hiện đại hoá công nghệ ngân hàng.. Bởi vì môi trường pháp lý chính là cơ sở để đảm bảo thanh toán và phát triển. Nhà nước cần phải chỉnh sửa, cải tiến, bổ sung các nội dung, quy chế trong thanh toán không dùng tiền mặt, phải có những hình thức thích hợp để áp dụng các Luật Quốc tế về thanh toán vào nước ta như: Luật séc, Luật thanh toán Quốc tế, Luật hối phiếu thương mại, những quy định về thanh toán hiện đại.
Để hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động thanh toán qua ngân hàng trong điều kiện mới theo hướng cải tiến, hoàn thiện hệ thống thanh toán và tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước về công tác thanh toán , đề nghị sớm ban hành nghị định thay thế nghị định 30/CP , theo dự thảo nghị định thay thế nghị định 30 thì thời hạn hiệu lực của tờ séc là 30 ngày, theo tôi là rất hợp lý vì nó thuận tiện cho cả người ký phát lẫn người thụ hưởng. Bên cạnh đó những quy định về hình thức cũng như nội dung, việc ung ứng và chuyển nhượng séc, …đã được đề cập tương đối rõ ràng trong sự thảo nghị định của chính phủ về séc. Hi vọng rằng không lâu nữa nghị định này chính thức thay thế nghị định 30/CP.
Bên cạnh đó cần bổ sung các điều khoản về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thanh toán ngân hàng, do vấn đề này chưa được đề cập trong nghị định số 20/2000/NĐ-CP ngày 15/6/2000 của Chính Phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Đối với thể thức thư tín dụng là thể thức thanh toán mang hình thức “Bảo lãnh” rất phù hợp với quan hệ giao dịch thanh toán phong phú trong điều kiện hiện tại nhưng quy định vận hành chỉ theo một cách thức đơn thuần là ký gửi toàn bộ số tiền “ bằng tổng giá trị hàng mua”, và chỉ được nhận thanh toán “trong trường hợp bên thụ hưởng mở tài khoản ở tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cùng hệ thống hoặc trên địa bàn đó có tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cùng hệ thống hoạt động”. Điều này làm cho thể thức thư tín dụng chưa được ưa dùng mặc dù điều kiện khách quan nền kinh tế hàng hoá đã có sự phát triển. Vì vậy cần xoá bỏ bức tường ngăn cách giữa các đơn vị cùng hệ thống với khác hệ thống, mở rộng cách thức vận hành theo nhiều cách như ký gửi toàn bộ, ký gửi một phân hoặc ký gửi dần theo tiến độ giao nhận hàng, dịch vụ …
3.3.2 Đối với NHNN
Để đảm bảo khả năng thực thi các giải pháp , cần hoàn thiện môi trường pháp lý, những gì liên quan đến môi trường pháp lý, bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ các bên tham gia thanh toán .
NHNN với vai trò Ngân hàng của các Ngân hàng đứng ra làm trung gian trong quan hệ thanh toán nói riêng và điều hành cơ chế hoạt của các tổ chức tín dụng nói chung. Để hoàn thiện và tăng cường các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, NHNN phải hoạch định những vấn đề có tính quan trọng thuộc tầm vĩ mô sau:
+Cần ban hành các quy chế và các văn bản mới hướng dẫn cụ thể về nghiệp vụ TTKDTM để các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán tiến hành một cách thống nhất. Để hiểu rõ và phát hành thẻ, môi trường pháp lý hoạt động thẻ phải rõ ràng và đồng bộ với việc quản lý ngoại hối, với việc quản lý rủi ro cho chủ thẻ
Coi việc mở rộng thanh toán qua ngân hàng là vấn đề chiến lược cần phải được thực hiện. Trong đó NHNN cần vạch ra những bước đi cụ thể mà mỗi tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phải thực hiện.
+ NHNN cần xem xét chỉnh sửa bổ sung các văn bản quy định chế độ thanh toán bằng séc, sao cho người chủ tài khoản có thể thấy được tiện ích và hiệu quả kinh tế khi thanh toán bằng thể thức này. Trước hết , người cầm séc phải được rút tiền mặt hoặc ghi có ngay sau khi họ nộp tờ séc vào ngân hàng phục vụ, nếu ngân hàng phục vụ chấp nhận tờ séc hợp pháp. Còn việc xem người phát hành séc có tiền hay không, và xử lý như thế nào cẫn phải có sự quy định nghiêm ngặt và chặt chẽ để tránh gây thiệt hại cho khách hàng và ngân hàng . nếu quy định qúa thiên về việc bảo đảm sự an toàn cho ngân hàng cũng có nghĩa khó khăn cho khách hàng và sẽ ít ai nghĩ đến việc sử dụng séc, ngay cả những người đang làmviệc trong ngành ngân hàng như hiện nay.
+Trong việc phát triển các công cụ thanh toán mới, NHNN phải hướng dẫn cụ thể và nghiên cứu ban hành các thể lệ thanh toán khoa học, phù hợp với thông lệ Quốc tế. Nên tổ chức các hội nghị tổng kết tình hình thanh toán bằng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt, nhất là Thẻ thanh toán để rút ra kinh nghiệm và các biện pháp thực hiện trong thời gian tới.
+NHNN cần thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo, hội thảo về séc, thẻ ngân hàng cho các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cùng tham gia, phối hợp với học viện ngân hàng tổ chức các hội thảo và trao đổi kinh nghiệm về nghiệp vụ thẻ. Qua đây các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán có thể học hỏi kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề khó khăn thựctiễn phát sinh cả về nghiệp vụ và giải pháp kỹ thuật.
+ Hỗ trợ, hướng dẫn các ngân hàng thương mại trong việc xây dựng các báo cáo, hạch toán, kiểm tra phù hợp với nghiệp vụ thẻ theo thông lệ quốc tế và các yêu cầu của NHNN, giới thiệu và giúp các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thu thập các thông tin tài liệu cơ bản và chuyên sâu về nghiệp vụ thẻ. Để tạo điều kiện cho các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán trong nước có điều kiện cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài trong việc phát triển dịch vụ thẻ, NHNN nên có chính sách trợ giúp các NHTM trong nước trong việc phát triển dịch vụ thẻ. Ngoài ra cần có biện pháp xử phạt nghiêm khắc đối với những vi phạm quy định chung trong hoạt động thẻ nhằm tạo sự cạnh tranh lành mạnh góp phần thúc đẩy thị trường thẻ tại Việt Nam phát triển.
+Ngân hàng Nhà nước cần ban hành thống nhất chế độ thanh toán không chứng từ qua mạng lưới vi tính, tạo phần mềm (hệ chương trình) cho việc xử lý kỹ thuật truyền File chứng từ giữa các Ngân hàng thông qua mạng lưới vi tính, mở rộng thanh toán bù trừ xuống các quận, huyện thông qua mạng vi tính.
+ NHNN chủ động đề nghị với các Bộ, ngành có liên quan phối hợp với Ngân hàng thực hiện việc hoàn thiện và mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt
+Có kế hoạch đào tạo đội ngũ chuyên gia giỏi chuyên môn, nắm chắc kỹ thuật tin học để phục vụ hiện đại hoá công tác thanh toán của NHNN và làm tư vấn cho các NHTM thành viên.
+ Chủ động kêu gọi sự giúp đỡ của WB, IMF và các tổ chức tài chính tiền tệ khác trên Thế giới và trong khu vực với sự nghiệp hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng ở Việt nam
3.3.2. Đối với NHCT Việt Nam
Thường xuyên quảng cáo, tuyên truyền các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt cũng như những tiện ích của nó trên các phương tiện thông tin đại chúng để khách hàng biết và sử dụng
NHCT Việt Nam cần phải có một chương trình, kế hoạch quy hoạch đào tạo gấp rút đội ngũ cán bộ ngân hàng cho hiện tại và tương lai, phải am hiểu nghiệp vụ thanh toán về kỹ thuật tin học, tinh thông nghiệp vụ nắm vững luật pháp và luật lệ quốc tế để xử lý các tình huống trong thực tế xẩy ra
Thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo, hội thảo về các hình thức TTKDTM để cátổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán chi nhánh cùng tham gia. Hỗ trợ, hướng dẫn các chi nhánh trong việc xây dựng các chế độ báo cáo, hạch toán. Đồng thời NHCT Việt Nam cần giới thiệu và giúp các chi nhánh thu thập các thông tin, tài liệu cơ bản và chuyên sâu về các hình thức TTKDTM .
Đa dạng hoá các dịch vụ thanh toán , phát triển các điểm đặt thiết bị tự động đáp ứng nhu cầu tự phục vụ của khách hàng, giảm thời gian chờ đợi ở ngân hàng . Bên cạnh đó thiết lập các trung tâm thanh toán liên ngân hàng về thanh toán ATM, séc, hối phiếu thương mại và các dịch vụ thông báo tài khoản, phân chia chi phí và lợi nhuận.
NHCT cần tích cực tham gia hội các ngân hàng thanh toán thẻ Việt Nam nhằm tăng cường sự hợp tác trao đổi giữa các ngân hàng và phát triển nghiệp vụ thẻ tại Việt Nam phối hợp hành động vì quyền lợi chung của các ngân hàng thanh toán thẻ như mức phí áp dụng với các khách hàng. Trong khi việc phát hành và thanh toán thẻ đòi hỏi phải tuân thủ chặt chẽ theo quy định của ISO và các tổ chức thẻ quốc tế, đội ngũ cán bộ luôn có nhu cầu được đào tạo một cách bài bản và có hệ thống , việc xây dựng độ ngũ nhân viên , tiến hành trau dồi chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ thẻ được coi trọng hàng đầu và là vấn đề cấp bách trong quá trình phát triển thẻ, việc cung cấp đầy đủ các dịch vụ cho người sử dụng thẻ, cơ sở chấp nhận thẻ là một vấn đề quan trọng. Nó quyết định việc thành bại trong kinh doanh thẻ. Mặt khác khả năng cung ứng dịch vụ cho người sử dụng thẻ còn chưa có chỗ đứng trong đại bộ phận tầng lớp dân cư. Chẳng hạn thẻ nội địa do ngân hàng nào phát hành thì chỉ thanh toán trong nội bộ ngân hàng đó, hoặc ở điểm thanh toán của ngân hàng đó , không thanh toán được ở các ngân hàng khác. Vì vậy cần có sự phối hợp giữa các ngân hàng trong việc phát hành và thanh toán thẻ
Có những quy chế về đảm bảo bí mật trên tài khoản tiền gửi của các tổ chức kinh tế, dân cư, tạo tâm lý tin cậy, yên tâm cho người mở tài khoản tiền gửi ở Ngân hàng.
3.3.3 Đối với các cấp hữu quan
Đối với các ngành các cấp hữu quan cần quan tâm hơn nữa đến vấn đề TTKDTM , có chủ trương biên pháp đúng đắn kịp thời như chấp nhận thanh toán bằng thẻ tại các điểm bán hàng, thu tiền điện, tiền nước bằng các hình thức không dùng tiền mặt vừa tiết kiệm được chi phí vừa tiện quản lý nền kinh tế phát triển một cách lành mạnh và đúng đắn.
3.3.4 Đối với NHCT Đống Đa
Thực hiện chiến lược tăng uy tín ngân hàng hướng vào các mục tiêu cung ứng cho khách hàng những dịch vụ ngày càng phong phú, đa dạng và hiệu quả cao thông qua chính sách lãi suất và lệ phí thích hợp; đẩy mạnh cạnh tranh; thiết lập, mở rộng và tăng cường mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng, đặc biệt là khách hàng cá nhân.
Tăng cường đào tạo cán bộ cho hệ thống thanh toán gồm cán bộ nghiệp vụ sử dụng thiết bị tin học trong hệ thống thanh toán , về kỹ năng truy cập số liệu, xử lý thông tin, thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn cho hoạt động ; cán bộ kỹ thuật nhằm trang bị hiểu biết về kỹ thuật phục vụ lắp đặt, vận hành, sửa chưa, bảo dưỡng các thiết bị của hệ thống thanh toán ; cán bộ quản lý trang thiết bị kỹ năng phân tích thông tin từ hệ thống, hoạch định các kế hoạch và các tiền đề cần thiết cho hệ thống thanh toán .
Cải thiện về tính hiệu quả của việc sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt xét từ các yếu tố như tốc độ thanh toán , chi phí và sự thuận tiện khi sử dụng là cách thức tốt nhất để hạn chế các giao dịch thanh toán bằng tiền mặt, cuối cùng mới sử dụng các biện pháp cấm đoán mang tính hành chính.
Buộc các đơn vị vay vốn ngân hàng ở một giới hạn nào đó cần phải thanh toán bằng chuyển khoản, qua đó ngân hàng sẽ ngăn chặn được việc dùng vốn sai mục đích
Đối với thể thức uỷ nhiệm chi – chuyển tiền cần phải được nới rộng phạm vi thanh toán, không phân biệt cùng hay khác hệ thống.
Đối với thể thức uỷ nhiệm thu cũng là một thể thức thanh toán rất phù hợp với cung cách giao dịch trong nền kinh tế hàng hoá lớn cần phải có sự mở rộng đối tượng, quy định các hình thức phạt khi bên mua chậm thanh toán…
Đối với thể thức séc cần khuyến khích trong khu vực dân cư đẩy mạnh thanh toán bằng séc thông qua tài khoản tiền gửi mở taị Ngân hàng. Trong thời kỳ đầu để thu hút và tạo thói quen cho khách hàng thì tiền gửi để phát hành séc sẽ được tính lãi theo mức lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn, các dịch vụ thanh toán séc trên tài khoản này Ngân hàng không thu phí dịch vụ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0027.doc