Đào tạo nghề trong hệ thống giáo dục – đào tạo quốc dân là quốc sách hàng đầu, cung cấp phần lớn công nhân kỹ thuật cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Để đạt được điều đó, cần tập trung đầu tư, phát triển các cơ sở đào tạo nghề, trong đó bộ phận chính là các trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề. Đây là nhiệm vụ lớn đòi hỏi sự tham gia toàn xã hội.
Qua quá trình thực tập tại Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội, trên cơ sở nghiên cứu những lý luận đã học ở trường và thực tế, tôi đã đi sâu tìm hiểu và đưa ra được một số nhận xét và đề xuất nhằm phát triển công tác dạy nghề ở các trường dạy nghề và trung tâm dạy nghề.
78 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1498 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số ý kiến về công tác dạy nghề của trường dạy nghề và trung tâm dạy nghề, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ược xét tới.
Biểu 11: Bình quân cán bộ,giáo viên theo nhiệm vụ chính theo vùng
Trường dạy nghề
trung tâm dạy nghề
Tổng số CB_GV
Cơ cấu GV(%)
Tổng số CB_GV
Cơ cấu GV(%)
Công lập
66.0
53.79
26.8
72.76
Ngoài công lập
22.7
64.32
16.8
67.26
Đồng bằng sông Hồng
56.4
53.90
28.5
77.19
Đông Bắc
90.5
52.82
14.4
64.58
Tây Bắc
35.0
31.43
0
0
Bắc Trung Bộ
45.6
54.82
14.4
59.72
Duyên Hải Nam Trung Bộ
81.9
48.23
13.1
64.89
Tây Nguyên
57.5
60.87
28.0
64.29
Đông nam Bộ
31.5
64.13
28.7
70.03
Đồng bằng sông Củu Long
45.8
53.49
14.0
52.14
Chung
51.3
55.36
23.8
71.85
1.1 Đối với trường dạy nghề
Bình quân mỗi trường dạy nghề có 51.3 cán bộ, giáo viên trong đó số giáo
viên chiếm 55,4%. Đối với các trường công lập, bình quân mỗi trường có 66 cán bộ, giáo viên, trong đó số giáo viên chiếm 53,8%. Tỉ lệ giáo viên như vậy là rất thấp, chứng tỏ bộ máy quản lý cồng kềnh. Tuy nhiên, một nguyên nhân khác là do nhiều trường có quy mô nhỏ nhưng không thể không có bộ máy hành chính.
Chỉ có vùng Đông Nam Bộ có số cán bộ giáo viên thấp nhất (31,5%) nhưng tỉ lệ giáo viên lại cao nhất (64,13%), có thể khẳng định trình độ quản lý của các trường ở vùng này là tốt nhất.
1.2 Đối với trung tâm dạy nghề
Bình quân mỗi trung tâm có 23,8 cán bộ, giáo viên (chưa bằng một nửa của trường dạy nghề ) nhưng số cán bộ giáo viên được bố trí phù hợp hơn.Tỉ lệ giáo viên là 72%, ở trung tâm dạy nghề công lập tỉ lệ này còn tốt hơn:73%.
Cơ cấu đội ngũ giáo viên theo hình thức tham gia giảng dạy
Hình thức tham gia giảng dạy có 3 loại: Biên chế, hợp đồng dài hạn, hợp đồng ngắn hạn- thỉnh giảng.
Đối với trường dạy nghề
Biểu 12: Cơ cấu giáo viên theo hình thức tham gia giảng dạy
Giáo viên(người)
Tỷ trọng theo sự tham gia giảng dạy
Biên chế
Hợp đồng dài hạn
Hợp đồng ngắn hạn, thỉnh giảng
Chung
28.4
67.25
21.13
11.97
I. Theo hình thức sở hữu
Công lập
35.5
77.46
16.06
6.48
ngoài công lập
14.6
17.12
45.21
38.36
II. Theo vùng kinh tế
Đồng bằng Sông Hồng
30.4
70.07
15.79
14.14
Đông Bắc
47.8
83.47
14.64
1.88
Tây Bắc
11.0
97.27
2.73
0.00
Bắc Trung Bộ
25.0
75.20
18.00
6.80
Duyên Hải Nam Trung Bộ
39.5
85.82
13.42
0.76
Tây Nguyên
35.0
82.86
8.57
8.57
Đông nam Bộ
20.2
40.59
35.64
24.75
Đồng bằng sông Cửu Long
24.5
70.20
27.35
2.04
Bình quân mỗi trường có 28,4 giáo viên trong đó ở trường công lập là 35,5 giáo viên.
Trường công lập chủ yếu sử dụng giáo viên trong biên chế (77,5%).
Trường ngoài công lập chủ yếu sử dụng giáo viên theo hợp đồng dài hạn(45,21%) và hợp đồng ngắn hạn, thỉnh giảng (38,36%). Tỉ lệ giáo viên trong biến chế thấp dẫn tới tình trạng thiếu ổn định trong việc tổ chức nhiệm vụ đào tạo.
Theo vùng, những vùng có kinh tế phát triển mạnh thì tỉ trọng giáo viên trong biên chế thấp hơn và tỉ trọng giáo viên thỉnh giảng lại cao hơn. Điều này được thấy rõ nhất ở vùng Đông Nam Bộ, nơi có nền kinh tế và thị trường lao động phát triển mạnh nhất. ỏ đây, tỉ trọng giáo viên trong biên chế chỉ có 40,6% trong khi tỉ trọng giáo viên thỉnh giảng lại lên đến 24,8%. Một trong những nguyên nhân là do vùng Đông Nam Bộ có nhiều trường ngoài công lập – là những trường có tỉ lệ giáo viên thỉnh giảng cao.
2.2 Đối với trung tâm dạy nghề
Biểu 13: Giáo viên của trung tâm dạy nghề theo hình thức tham gia giảng dạy và theo vùng
Giáo viên (người)
Tỷ trọng theo sự tham gia giảng dạy(%)
Biên chế
Hợp đồng dài hạn
Hợp đồng ngắn hạn, thỉnh giảng
Chung
17.1
21.64
37.43
40.94
I. Theo hình thức sở hữu
Công lập
19.5
22.05
33.85
44.62
ngoài công lập
11.3
20.35
53.98
26.55
II. Theo vùng kinh tế
Đồng bằng Sông Hồng
22
23.18
29.55
47.27
Đông Bắc
9.3
24.73
50.54
24.73
Bắc Trung Bộ
8.6
38.37
23.26
38.37
Duyên Hải Nam Trung Bộ
8.5
38.82
36.47
25.88
Tây Nguyên
18
0
88.89
11.11
Đông nam Bộ
20.1
13.93
49.25
36.82
Đồng bằng sông Củu Long
7.3
17.81
54.79
27.4
Bình quân mỗi trung tâm có 17,1 giáo viên, trong đó các trung tâm công lập có 19,5 giáo viên còn các trung tâm ngoài công lập có 11,3 giáo viên. Tỉ trọng giáo viên trong biên chế thấp hơn so với trường dạy nghề, nhưng là tỉ trọng giáo viên tham gia giảng dạy dưới hình thức hợp đồng ngắn hạn và thỉnh giảng lớn đối với các trung tâm dạy nghề, đặc biệt là đối với các trung tâm công lập. Tỉ lệ này cao gấp 2 lần so với số giáo viên trong biên chế của trung tâm. Tỉ trọng giáo viên hợp đồng ngắn hạn và thỉng giảng cao do một phần nhu cầu học nghề của người lao động lớn, trong khi đó bị khống chế số biên chế và số hợp đồng dài hạn. Các trung tâm thường phải mời giáo viên từ các trường đại học, các trường dạy nghề đến giảng dạy những môn mà họ không có khả năng giảng dạy.
Mặt khác, đa số các trung tâm dạy nghề đều mới được thành lập nên bộ máy gọn nhẹ, linh hoạt. Tuy nhiên, việc các trung tâm dạy nghề sử dụng giáo viên dưới hình thức thỉnh giảng đôi khi sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch của trung tâm nhưng nếu xét về tổng thể sẽ có lợi hơn vì trung tâm không phải bỏ ra nhiều khoản chi phí cho số giáo viên đó, đồng thời có thể mời được những giáo viên có kinh nghiệm.
Theo vùng kinh tế thì số giáo viên bình quân của một trung tâm thuộc vùng đồng bằng sông Hồng là cao nhất, tiếp đó là vùng Đông Nam Bộ. Có sự chênh lệch lớn về số giáo viên bình quân của một trung tâm giữa các vùng khác nhau. Bên cạch đó cũng có sự khác nhau lớn giữa tỉ trọng giáo viên trong biên chế và giáo viên hợp đồng ngắn hạn, thỉnh giảng của các vùng.
Cơ cấu đội ngũ giáo viên theo thâm niên giảng dạy
Thâm niên giảng dạy cao giúp giáo viên tích lũy được nhiều kinh nghiêm hơn, góp phần không nhỏ làm tăng chất lượng giảng dạy.
Biểu 14: Giáo viên trong biên chế theo thâm niên giảng dạy
GV trong biên chế(%)
Tỉ trọng theo thâm niên giảng dạy (%)
<5năm
5-10năm
11-20 năm
> 20năm
1.Trường dạy nghề
19.1
15.71
17.28
30.89
36.13
Công lập
27.5
15.64
17.09
30.18
36.73
Ngoài công lập
2.5
20.00
16.00
40.00
20.00
2.Trung tâm dạy nghề
3.7
22.7
22.7
28.65
25.95
Công lập
4.3
24.29
20.95
27.62
27.14
Ngoài công lập
2.4
15.08
30.16
34.13
20.63
3.1 Đối với trường dạy nghề
Tính chung số giáo viên có thâm niên giảng dạy trên 20 năm chiếm tỉ trọng cao nhất (36,1%), tiếp đó là số có thâm niên từ 11 – 20 năm (30,9%). Nếu tính chung cho số có trên 10 năm giảng dạy thì tỉ trọng sẽ là 67%. Các tỉ lệ này gần giống đối với các trường công lập. Đây là điều đáng mừng vì với thâm niên giảng dạy cao như vậy thì các giáo viên đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy. Đồng thời đó cũng là khoảng thời gian để đội ngũ giáo viên có thể cập nhật các kiến thức mới.
Tỉ trọng giáo viên có thâm niên giảng dạy dưới 5 năm là 15,7%. Mặt dù đội ngũ này chưa tích luỹ được hhiều kinh nghiệm nhưng lại rất cần thiết để kế thừa khi số có thâm niên giảng dạy cao đến tuổi nghỉ hưu. Lúc đó các trường sẽ tránh được hiện tượng thiếu hụt giáo viên.
3.2 Đối với trung tâm dạy nghề
Qua số liệu trên, có thể thấy tỉ trọng giáo viên theo thâm niên giảng dạy ở các trung tâm dạy nghề nói chung và trong các trung tâm dạy nghề công lập nói riêng: có sự phân bố khá đều về đội ngũ giáo viên theo nhóm thâm niên giảng dạy. Điều này vừa đảm bảo cung cấp cho học sinh học nghề những kiến thức chuyên sâu vừa đảm bảo được sự thay thế liên tục của đội ngũ giáo viên. Trong tổng số thì tỉ trọng giáo viên có dưới 5 năm giảng dạy là 22,7%, có từ 5 – 10 năm cũng là 22,7%, có từ 11 – 20 năm là 28,6% và trên 20 năm là 26%. Tỉ lệ này tương ứng với các trung tâm công lập là: 24,3%, 21%, 27,6% và 27,1%.
4. Tương quan giữa quy mô giáo viên và quy mô đào tạo của các
cơ sở dạy nghề
Dạy nghề có đặc thù khác với các bậc giáo dục khác là thời gian thực hành chiếm đa số. Do đó, mỗi giáo viên sẽ giảng dạy ít học sinh hơn. Bình quân ở nước ta cần 9 đến 10 giáo viên trên 100 học sinh.
Biểu15: Giáo viên /100 học sinh theo loại cơ sở và theo vùng
Giáo viên /100 học sinh
Trường dạy nghề
Trung tâm dạy nghề
Chung
7.9
9.1
I. Theo hình thức sở hữu
Công lập
5.6
8.5
ngoài công lập
12.5
11.6
II. Theo vùng kinh tế
Đồng bằng Sông Hồng
6.7
10.7
Đông Bắc
6.4
16.2
Tây Bắc
1.0
Bắc Trung Bộ
4.6
6.2
Duyên Hải Nam Trung Bộ
4.9
12.3
Tây Nguyên
6.4
5.2
Đông nam Bộ
11.0
6.1
Đồng bằng sông Củu Long
6.2
4.0
4.1 Đối với trường dạy nghề
Từ biểu 12, bình quân số giáo viên trên 100 học sinh tính chung là 7,9 người, tương ứng ở trường dạy nghề công lập là 5,6 người. Theo vùng, chỉ có vùng Đông Nam Bộ có số giáo viên đạt yêu cầu, các vùng còn lại đều từ 6,7 giáo viên/100 học sinh trở xuống. Cá biệt vùng Tây Bắc chỉ có 1 giáo viên/ 100 học sinh. Như vậy, rõ ràng đang thiếu rất nhiều giáo viên đồng thời có sự khác biệt lớn về nhu cầu giáo viên theo các vùng kinh tế
4.2 Trung tâm dạy nghề
Bình quân với mỗi trung tâm dạy nghề thì số lượng giáo viên trên 100 học sinh
là 9,1 người với trung tâm công lập là 8,3 người, trung tâm ngoài công lập là 11,6 người. Tỉ lệ này là khá hợp lý.
Tuy vậy, có sự khác biệt rõ ràng về số giáo viên trên 100 học sinh giữa các vùng. Các vùng Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng Bằng sông Cửu Long còn thiếu nhiều giáo viên. Riêng vùng Đông Bắc, tỉ lệ này khá cao (16,2 giáo viên ), có thể do 3 khả năng sau.
Số giáo viên đang thừa so với nhu cầu hoặc
Người lao động không có nhu cầu học nghề hoặc
Trung tâm đang đào tạo những nghề không phù hợp với nhu cầu của thị trường nói chung và của người lao động nói riêng.
5. Cơ cấu đội ngũ giáo viên theo tuổi
Tuổi của giáo viên dạy nghề có tác động tới nhiều mặt; sức khỏe, kinh nghiệm, khả năng học hỏi, tiếp cận công nghệ mới…từ đó ảnh hưởng tới chất lượng giảng dạy.
5.1 Trường dạy nghề
Biểu 16: Cơ cấu giáo viên theo nhóm tuổi của trường dạy nghề
Đến 35(%)
36-45(%)
46-54(%)
55-59(%)
60+(%)
Tổng(người)
Đồng bằng Sông Hồng
28.5
31.6
35.7
3.9
0.2
843
Đông Bắc
27.6
37.0
29.2
6.3
606
Bắc Trung Bộ
29.2
33.3
33.3
4.2
241
Duyên Hải Nam Trung Bộ
40.2
41.0
17.3
1.5
266
Tây Nguyên
45.9
32.8
21.3
61
Đông nam Bộ
37.2
42.2
18.2
2.2
0.3
327
Đồng bằng sông Củu Long
58.2
26.2
11.3
4.3
141
Chung
32.9
35.2
27.9
4.0
0.1
2485
Tuy chưa khảo sát dược toàn bộ số giáo viên của các trường dạy nghề nhưng cũng có thể khái quát dược bức tranh toàn cảnh về cơ cấu tuổi của giáo viên trường dạy nghề.
Hai nhóm tuổi chiếm ưu thế là nhóm từ 35 tuổi trở xuống và nhóm từ 35-45 tuổi. Đây là điều kiện tốt để các trường dạy nghề phói hợp được cả kinh nghiệm trong giảng dạy và những kiến thức mới được cập nhật để truyền bá cho học sinh.
5.2 Trung tâm dạy nghề
Biểu 17: Cơ cấu giáo viên dạy nghề theo nhóm tuổi của các trung tâm dạy nghề
Đến 35(%)
36-45(%)
46-54(%)
55-59(%)
60+(%)
Tổng(người)
Đồng bằng Sông Hồng
26.1
28.8
27.9
9.9
7.2
128
Đông Bắc
75
12.5
12.5
8
Bắc Trung Bộ
42.5
32.5
17.5
7.5
40
Duyên Hải Nam Trung Bộ
43.2
29.7
18.9
2.7
5.4
50
Đông nam Bộ
66.7
29.2
4.2
24
Đồng bằng sông Củu Long
72.5
25.5
2
52
Chung
44.6
28.4
17.7
5.5
3.7
302
Nhóm tuổi có tỉ trọng cao tuyệt đối là nhóm từ 35 tuổi trở xuống (44,6%). Cơ cấu giáo viên trẻ nhất là ở các trung tâm thuộc vùng Đông Bắc, Đồng bằng sông Cửu Long và vùng Đông Nam Bộ. Số dưới 36 tuổi lần lượt chiếm tới 75%,72,5% và 66,7% . Dường như đay là một điều bất hợp lý. Tuy nhiên có thể có ba lí do để giải thích hiện tượng này đó là:
-Do một số trung tâm mới được thành lập nên họ tiếp nhận giáo viên mới ra trường;
-Do các thiết bị giảng dạy cũng đơn giản, dễ sử dụng nên không cần nhiều giáo viên có trình độ cao;
-Do chức năng là đào tạo ngắn hạn nên không đòi hỏi học sinh phải học nhiều về lí thuyết mà chỉ cần những kiến thức cơ bản nên không cần giáo viên nhiều kinh nghiệm.
6. Mức độ phù hợp giữa chuyên ngành được đào tạo và chuyên môn đang giảng dạy của đội ngũ giáo viên
Biểu 18: Mức độ phù hợp giữa chuyên ngành được đào tạo và chuyên môn đang giảng dạy của đội ngũ giáo viên
Tham gia giảng dạy
Tổng (%)
Đúng chuyênngành đào tạo
Không đúng chuyên ngành đào tạo
Khác
Đồng bằng Sông Hồng
57.28
28.64
14.08
100
Đông Bắc
48.54
32.1
19.36
100
Bắc Trung Bộ
57.52
20.28
22.2
100
Duyên Hải Nam Trung Bộ
50.68
37.4
11.92
100
Tây Nguyên
75.41
21.31
3.28
100
Đông nam Bộ
50.7
34.88
14.42
100
Đồng bằng sông Củu Long
43.99
33.65
22.36
100
Chung
51.3
30
16.9
100
Có 51.3% số giáo viên đang giảng dạy các môn đúng chuyên ngành mình được đào tạo là rất thấp. Số không phù hợp với chuyên ngành đào tạo là 30%. Số còn lại(16.9%) là do nhiều nguyên nhân như :Không có thông tin về chuyên ngành được đào tạo hoặc chuyên ngành đang giảng dạy của giáo viên. Như vậy nhìn chung sự không phù hợp giũa chuyên ngành đào tạo và chuyên ngành giảng dạy là rất lớn. Các giáo viên sẽ không phát huy được khả năng, kiến thức đã được học đồng thời không chuyên sâu về chuyên ngành đang giảng dạy. Đó là một trong những nguyên nhân tác động không tốt tới chất lượng giảng dạy.
Xét theo vùng kinh tế, vùng có tỉ trọng giáo viên đang giảng dạy không đúng chuyên môn được đào tạo nhất là vùng Đồng Bắng sông Cửu Long (chỉ có 44%) và đây cũng là một trong hai vùng có sự khác biệt lớn nhất về chuyên ngành đào tạo với nghề đang giảng dạy. Trừ vùng Tây Nguyên, các vùng còn lại tỉ trọng giảng dạy đúng chuyên ngành đào tạo chỉ khoảng 50%. Như vậy có thể khẳng định rằng các vùng đều đang sử dụng lãng phí đội ngũ giáo viên hoặc mặt khác có thể là do nhu cầu của thị trường đang có mâu thuẫn lớn so với cơ cấu giáo viên theo nghề đang đào tạo ở tất cả các vùng.
Trình độ chuyên môn kĩ thuật của đội ngũ giáo viên
Đây là yếu tố quan trọng nhất, quyết định tới chất lượng giảng dạy, từ đó tác động trực tiếp tới chất lượng học sinh.
Biểu 19: Trình độ chuyên môn kĩ thuật của đội ngũ giáo viên theo loại cơ sở dạy nghề
Trường dạy nghề (%)
Trung tâm dạy nghề (%)
Chung
Trên đại học
1.6
3.2
2.1
Đại học
40.6
42.8
40.9
ĐH SPKT
8.2
10.0
9.5
Cao đẳng
11.1
8.8
9.3
Cao đẳng SPKT
10.4
10.4
10.8
Trung cấp
11.5
5.6
9.6
Trung cấp SPKT
5.7
1.2
4.5
Công nhân KT
9.9
16.8
11.4
Khác
1.0
1.2
1.9
Chung
100
100
100
ở trường dạy nghề : Chỉ có khoảng 50% đã tốt nghiệp đại học trở lên, sau đại học chỉ có 1,6%.
Còn ở trung tâm dạy nghề: Có khoảng 56% có trình độ đại học trở lên, sau đại học là 5.6%.
Điều này cho thấy các trung tâm dạy nghề có điều kiện lựa chọn giáo viên có trình độ cao để hợp đồng giảng dạy.
Vẫn còn 11% giáo viên (ở trường dạy nghề )và 18%(ở trung tâm dạy nghề) có trình độ từ CNKT trở xuống, chủ yếu được bố trí hướng dẫn thực hành.
Tóm lại, trình độ chuyên môn kĩ thuật của giáo viên ở các cơ sở dạy nghề còn rất thấp nhất là ở trường dạy nghề.
Trình độ sư phạm
Trình độ sư phạm của đội ngũ giáo viên quyết định tới khả năng truyền đạt kiến thức đến học sinh.
Biểu 20: Trình độ phạm của giáo viên chia theo loại cơ sở dạy nghề
Trường dạy nghề (%)
Trung tâm dạy nghề (%)
Chung
Chưa có trình độsư phạm
14.3
65.6
20.2
SPI
21.2
8.6
20.7
SPII
42.8
5.0
36.3
SPKT
3.7
7.6
3.6
ĐHSP
8.3
4.0
9.3
CĐSP
9.7
9.3
9.8
Tổng
100
100
100
Các trung tâm dạy nghề tuy có tỉ lệ đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn kĩ thuật cao hơn trường dạy nghề nhưng tỉ lệ chưa có trình độ sư phạm lại quá lớn (65,6%). Đây là một bất cập lớn ở các trung tâm dạy nghề, tác động không nhỏ tới chất lượng đào tạo do thiếu nghiệp vụ sư phạm để truyền tải kiến thức, kĩ năng tới học sinh.
9.Trình độ tin học
Hiện nay, do việc thiếu nhiều trang thiết bị trực quan để học tập thì việc sử dụng các mô hình trên máy vi tính vẫn có thể đảm bảo phần lớn khả năng giảng dạy, vừa có thể tiếp cận các công nghệ hiện đại, vừa có chi phí thấp hơn. Để làm được điều này thì đội ngũ giáo viên phải có trình độ tin học nhất định để có thể khai thác các phần mềm đó vào giảng dạy.
Biểu 21: Trình độ tin học của giáo viên theo loại cơ sở dạy nghề
Trường dạy nghề (%)
Trung tâm dạy nghề (%)
Chung (%)
Không có thông tin
36.9
76.5
44.4
ĐH
1.8
1.7
2.1
CĐ
0.7
2.0
1.5
Nâng cao
9.7
1.0
8.8
C
42.3
11.3
35.9
B
4.7
2.3
4.2
A
3.8
5.3
3.2
Chung
100
100
100
Có 44,4% số giáo viên được hỏi không có thông tin về trình độ tin học của bản thân. Điều này có thể do các nguyên nhân sau:
Họ không có trình độ về tin học, hoặc
Họ có thể biết sử dụng ở mức độ tin học văn phòng nhưng không có chứng chỉ tin học.
Việc không có thông tin nhiều nhất là đối với trung tâm dạy nghề. Dù bất cứ nguyên nhân nào cũng có thể khẳng định rằng tỉ trọng không có trình độ tin học ở các trung tâm đều rất cao.
Ngoài ra, số giáo viên có trình độ tin học C chiếm tỉ trọng lớn nhất (35,9%), các trình độ khác đều rất thấp nhất là ở trung tâm dạy nghề. Như vậy, việc đào tạo bổ xung kiến thức tin học đều cần thiết đối với tất cả các cơ sở dạy nghề. Việc trang bị kiến thức tin học phải đi đôi với tăng cường năng lực trang thiết bị tin cho các cơ sở dạy nghề.
10.Trình độ ngoại ngữ
Trình độ ngoại ngữ là điều kiên cần thiết để các giáo viên cập nhật các kiến thức mới, các tài liệu nước ngoài, do các công nghệ mới chủ yếu được nhập từ nước ngoài.
Biểu 22: Trình độ ngoại ngữ của đội ngũ giáo viên theo loại cơ sở dạy nghề
Trường dạy nghề(%)
Trung tâm dạy nghề(%)
Chung
Không có thông tin
34.1
52.3
39.5
Đại học tiếng Anh
1.6
1.3
1.5
Đại học NN khác
0.1
0.1
Cao đẳng tiếng Anh
0.4
1.0
0.4
Trên Đại học NN khác
0.1
0.1
Anh C
7.4
27.5
9.0
Ngoại ngữ khác trình độ C
1.8
0.7
1.5
Anh B
17.2
5.6
15.2
Ngoại ngữ khác trình độ B
1.0
1.0
Anh A
35.3
10.9
30.6
Ngoại ngữ khác trình độ A
1.0
0.7
1.1
Chung
100
100
100
Tính chung cho toàn bộ giáo viên thì có gần 40% không biết ngoại ngữ. Trong đó trung tâm dạy nghề có tỉ lệ giáo viên không biết ngoại ngữ cao nhất (52.3%). Đối với trường dạy nghề cũng có tới 30% không biết ngoại ngữ. Với trường dạy nghề, trình độ ngoại ngữ A chiếm tỉ lệ cao nhất (35.3%). Chỉ có trung tâm dạy nghề thì đa số lại có trình độ C. Đây là một điều khá đặc biệt và chỉ có thể giải thích được rằng do cơ cấu giáo viên trong các trung tâm dạy nghề đều rất trẻ, đa số trong đó đều đã được học tiếng Anh trong những năm gần đây, khi mà tiếng Anh gần như là môn học bắt buộc đối với hầu hết các trường.
Tóm lại trình độ ngoại ngữ của đội ngũ giáo viên ở các cơ sở dạy nghề còn rất thấp, với trình độ này rất khó có thể làm phương tiện để giáo viên có thể cập nhật kiến thức mới.
VI. Chính sách của Nhà nước Đối với công tác dạy nghề
Từ 1987 đến 1997, công tác quản lý đào tạo nghề không được quan tâm đúng mức và bị thu hẹp dần. Số trường dạy nghề đã giảm từ 360 trường xuống còn 174 trường (giảm 52%), Quy mô đào tạo giảm từ 25 vạn xuống còn 10 vạn học sinh (giảm 60%). Điều hành ở cấp trung ương phân tán, gặp nhiều khó khăn, hiệu lực giảm, theo đó cơ quan quản lý về đào tạo nghề ở các Bộ, ngành và đặc biệt ở địa phương co hẹp dần, có nơi chỉ còn 1, 2 người theo dõi công tác này…
Đến năm 1998, công tác dạy nghề mới được quan tâm trở lại, từ việc tái thành lập Tổng cục dạy nghề, công tác quản lý Nhà nước về dạy nghề từ Trung ương đến địa phương đã được củng cố và đi dần vào nền nếp. Số trường dạy nghề từ 1998 tới 2001 đã tăng từ 129 trường lên 213 trường.
Đầu tư cho dạy nghề đã được đa dạng hoá nhưng còn rất thấp. Ngân sách Nhà nước chi cho dạy nghề (trong tổng ngân sách chi cho giáo dục, đào tạo )giảm từ 7,3% năm 1991 xuống 3,5% năm 1995; 3,9% năm 1996; 4,3 năm 1999 và năm 2000 tuy có nhiều cố gắng nhưng cũng chỉ đạt 4,7 %. Tình hình này dẫn đến tình trạng không đủ tiền chi cho các yêu cầu của công tác đào tạo. Chất lượng đào tạo của công nhân kĩ thuật do đó còn thấp so với yêu cầu sử dụng của các doanh nghiệp ngày nay đang ngày một hiện đại hoá hơn.
Hệ thống chính sách về dạy nghề đã được bổ sung và sửa đổi theo hướng xã hội hoá hình thức đào tạo, linh hoạt, thiết thực hơn. Nhưng còn thiếu nhiều văn bản dưới Luật giáo dục và Luật Lao động đảm bảo một chính sách đồng bộ thông thoáng, đủ sức tạo động lực cho công tác dạy nghề đổi mới và phát triển. Điển hình như chính sách tiền lương đối với giáo viên dạy nghề.
Trong tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức – viên chức Nhà nước có chức danh giáo viên dạy nghề nhưng chưa có thang bảng lương áp dụng riêng mà được xếp vào cùng với các chức danh giáo viên trung học chuyên nghiệp và phổ thông trung học. Chế độ tiền lương cho các chức danh này có 2 ngạch: giáo viên trung học và giáo viên trung học cao cấp. Theo chế độ tiền lương ban hành năm 1993, đại đa số giáo viên dạy nghề được xếp vào ngạch giáo viên trung học, mặt khác ngạch giáo viên trung học chỉ có 10 bậc, trong khi ngạch giáo viên trung học cao cấp có tới 11 bậc, không phải giáo viên dạy nghề nào cũng có đủ điều kiện và khả năng để thi nâng bậc lên giáo viên trung học cao cấp. Có người đã hết bậc lương 8-9 năm nhưng vẫn “giẫm chân tại chỗ”.
Ngoài ra trong quá trình công tác, nhiều giáo viên đã phấn đấu nâng trình độ từ công nhân kĩ thuật, trung cấp lên đại học, thậm chí sau đại học, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của trường nhưng tiền lương vẫn không thay đổi. Chế độ tiền lương như vậy khó có thể động viên khuyến khích được giáo viên tâm huyết, gắn bó với nghề và tích cực học tập nâng cao trình độ.
Mặc dù Nhà nước đã có những ưu đãi nhất định đối với đội ngũ giáo viên nói chung và giáo viên dạy nghề nói riêng với quy định chế độ phụ cấp 35% theo lương cấp bậc nhưng tiền lương của giáo viên dạy nghề cồn rất khiêm tốn.Quy định về mức phụ cấp còn mang tính bình quân chủ nghĩa. Một giáo viên có thâm niên công tác và mức lương thấp, do yêu cầu đào tạo của trường ngoài dạy đạt số giờ tiêu chuẩn là 420 đến 630 tiết/năm còn dạy vượt hàng trăm tiết nhưng hệ số phụ cấp vẫn thấp hơn những người có thời gian giảng dạy trong năm thấp hơn mình nhiều lần nhưng hệ số lương cao hơn. Điều đó tạo ra tâm lý không muốn dạy vượt giờ nhiều và làm giảm sự nhiệt tình, lòng say mê giảng dạy của những giáo viên có trình độ và khả năng khá trong các cơ sở dạy nghề.
Phần 3
Khuyến nghị nhằm phát triển công tác dạy nghề ở các cơ sở dạy nghề
I . Một số quan điểm chỉ đạo phát triển đào tạo nghề
Đào tạo nghề phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển nguồn nhân lực đồng thời coi đào tạo nghề cũng là bồi dưỡng nhân tài cho đất nước . Đào tạo nghề phải tăng nhanh về cả quy mô, chất lượng, hiệu quả và tạo ra cơ cấu lao động hợp lý hơn cho thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Phát triển đào tạo nghề phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, gắn với nhu càu phát triển của các ngành kinh tế, vùng kinh tế, vùng dân cư, gắn với thị trường sức lao động theo quan hệ cung cầu trong nước và quốc tế .
Thực hiện xã hội hoá đào tạo nghề nhằm thu hút mọi nguồn lực trong và ngoài nước cho các hoạt động đào tạo nghề . Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đào tạo nghề và tạo mọi điều kiện cho người lao động có cơ hội học nghề, tìm kiếm việc làm. Đa dạng hoá các loại hình đào tạo, các loại hình trường lớp .
Nhà nước thống nhất quản lý về mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo nghề, quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống trường, trung tâm dạy nghề
Đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm cho người lao động chưa có việc làm, tạo việc làm mới cho những người lao động mất việc làm trong quá trình sắp xếp lại lao động và cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước.
Đào tạo có trọng điểm để tạo nên một bộ phận đào tạo nghề chất lượng cao làm chuẩn mực và để đào tạo đội ngũ công nhân kĩ thuật, nhân viên nghiệp vụ có khả năng cạnh tranh trong thị trường sức lao động trong nước và quốc tế.
Nhà nước và địa phương các cấp tăng ngân sách đầu tư cho đào tạo nghề, đồng thời có chính sách, cơ chế hợp lý, để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước.
II- Một số khuyến nghị nhằm phát triển công tác dạy nghề ở các cơ sở dạy nghề
Quy hoạch sắp xếp lại mạng lưới cơ sở dạy nghề
Phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề theo hướng xã hội hóa, đa dạng hóa, linh hoạt, năng động và thiết thực về hình thức đào tạo
Đối với các trường dạy nghề công lập: Nhà nước cần tập trung xây dựng hệ thống trường công lập, đặc biệt là ccs trường trọng điểm, theo quy hoạch, làm nòng cốt trong đào tạo đội ngũ công nhâny kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ lành nghề và lành nghề bậc cao cho các ngành kinh tế mũi nhọn, các khu công nghiệp tập trung và cho xuất khẩu lao động . Các trường này sẽ phải đảm bảo tiếp nhận khoảng 26 – 28% số tuyển sinh vào năm 2010.
Các trường dạy nghề trong doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp lớn, các tổng công ty trong nước và đầu tư nước ngoài đào tạo nghề theo yêu cầu của sản xuất, có địa chỉ sử dụng, cập nhật công nghệ mới. Nhà nước cần khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp, các công ty lớn có nhu cầu đào tạo nghề nhiều , xúc tiến mở trường dạy nghề.
Các trung tâm dạy nghề: tiếp tục phát triển mạng lưới, mở rộng quy mô đào tạo các trung tâm dạy nghề do chính quyền địa phương, ca s tổ chức đoàn thể xã hội đầu tư để đào tạo nghề ngắn hạn, nghề phổ biến mà thị trường đang cần, nhất là ở các trung tâm dạy nghề quận huyện, đào tạo nghề và chuyển giao công nghệ (nhất là công nghệ sinh học) vào nông thôn
Các cơ sở đào tạo nghề tư nhân (trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề) chủ yếu đào tạo nghề cho người lao động tự tạo việc làm, tự hành nghề phù hợp với thị trường lao động.
Phát triển đào tạo nghề thông qua hợp tác quốc tế: đa dạng hóa các hình thức hợp tác quốc tế về dạy nghề như: khảo sát, trao đổi kinh nghiệm, hội thảo, tập huấn, liên kết đào tạo nghề ở Việt Nam, đưa đi đào tạo ở nước ngoài những ngành nghề đòi hỏi kỹ thuậtt cao mà ở Việt Nam chưa có đủ điều kiện để đào tạo, trao đổi chuyên gia, cán bộ quản lý, đưa giáo viên, học sinh đi thực tập ở nước ngoài để nâng cao trình độ, tham gia các cuộc thi học sinh giỏi nghề ở khu vực và quốc tế… khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân và tổ chức nước ngoài đầu tư về dạy nghề ở Việt Nam.
Soát xét lại các trường trung học chuyên nghiệp vừa được đổi từ các trường dạy nghề từ năm 1997-1998 theo hướng những trường nào vẫn chủ yếu đào tạo công nhân thì chuyển lại thành trường dạy nghề .
Tiếp tục dự án đầu tư nâng cấp 15 trường dạy nghề hiện có thành các trường đào tạo nghề chất lượng cao. Phấn đấu đến năm 2010 sẽ có 45 trường trọng điểm quốc gia, các trường này được tập trung đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị theo hướng hiện đại hóa thông qua dự án giáo dục kỹ thuật – dạy nghề bằng vốn vay của Ngân hàng Châu á (ADB), các dự án hợp tác quốc tế khác và cac nguồn lực trong nước. Các trường trọng điểm sẽ là hệ xương sống, mô hình mẫu và đi đầu trong việc đảm bảo chất lượng đào tạo trong toàn bộ hệ thống. Bên cạnh đó, phát triển mạnh mẽ các loại hình cơ sở dạy nghề để phổ cập nghề cho người lao động, tạo mọi cơ hội cho người lao động có điều kiện học tập nghề nghiệp, có việc làm và phát triển không hạn chế năng lực của mình.
Hỗ trợ cho các tỉnh chưa có trường dạy nghề mà có nhu cầu. Mở ở mỗi tỉnh một trường dạy nghề hoặc nâng cấp một trung tâm dạy nghề thành một trường dạy nghề. Những nơi đó cần phải xây dựng dề án xác định quy mô, ngành nghề đào tạo, trên cơ sở nhu cầu thực tế về đào tạo nghề phục vụ cho chương trình phát triển kinh tế xã hội của địa phương, lập luận chứng king tế kỹ thuật, dự tính kinh phí cần thiết cho việc xây dựng trường và các điều kiện khác, trong đó cần dự kiến nguồn lực do địa phương đầu tư và những nội dung cần hỗ trợ của Nhà nước (kinh phí, đào tạo giáo viên…). Căn cứ vào mục tiêu ngành nghề đào tạo của trường, Tổng cục dạy nghề sẽ chọn và giao nhiệm vụ cho các trường dạy nghề có kinh nghiệm liên kết hỗ trợ về nội dung, chương trình, giáo trình trong thời gian đầu theo hình thức chuyển giao công nghệ.
Tiếp tục mở thêm các trung tâm dạy nghề ở các huyện ,thị xã ,tại các làng nghề để đào tạo nghề cho thanh niên, bộ đội xuất ngũ ,đào tạo nghề kết hợp với chuyển giao công nghệ (chế biến nông lâm hải sản và điện, cơ khí nhỏ nông thôn) nhất là cho nông dân các vùng ven đo thị do quá trình đô thị hoá để chuyển sang làm các ngành nghề và dịch vụ. Các tỉnh thuộc vùng đông bằng bắc bộ, các tỉnh ven biển miền trung (phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế biển), các tỉnh miền núi, Tây nguyên, vùng sâu vùng xa cần có kế hoạch mở rộng mạng lưới các trung tâm dạy nghề sao cho số trung tâm dạy nghề ở các quận huyện ít nhất bằng 30% tổng số quận huyện.
Đặc biệt, các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long là vùng nông nghiệp phát triển nhưng hệ thồng dạy nghề còn rất mỏng, cần được hỗ trợ để từ nay đến hết năm 2003 mở thêm 20 trung tâm dạy nghề ở các huyện và thành lập 4 trường dạy nghề ở 4 tỉnh mà chưa có một trường dạy nghề nào ( Kiên Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau) để phục vụ sản xuất, chế biến nông sản – hải sản và các ngành công nghiệp, giao thông, xây dựng ở địa phương.
Đối với đội ngũ giáo viên giảng dạy
2.1 Đầu tư cho các cơ sở đào tạo giáo viên dạy nghề:
Đầu tư cho các cơ sở đào tạo giáo viên dạy nghề là đầu tư chiều sâu, đầu tư cho phát triển, vì sản phẩm của nó có ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng nguồn nhân lực, đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất, thiết bị của các cơ sở đào tạo giáo viên dạy nghề (phòng học lý thuyết, xưởng thực hành, phòng thí nghiệm, phòng máy tính, thiết bị dạy và học hiện đại, thư viện, ký túc xá…)
Hiện nay có 4 trương cao đẳng và 1 trường đại học sư phạm kỹ thuật, hàng năm đào tạo ra 2500 – 3000 giáo viên dạy nghề nhưng thực tế chỉ khoảng 60 – 70% số này làm giáo viên dạy nghề với khoảng 17 nghề. Còn nhiều ngành nghề mới, ngành nghề có hàm lượng kỹ thuật cao, các cơ sở này chưa có hoặc chưa có đủ khả năng để đào tạo, đặc biệt là những nghề phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn gần như còn trống, ít nơi đào tạo giáo viên dạy nghề. Trong khi dự kiến đến năm 2005, nhu cầu về số giáo viên dạy nghề khoảng 14500 – 15000 người.
Để có đủ số lượng, chất lượng và cơ cấu hợp lý đội ngũ giáo viên dạy nghề thì cùng với việc mở rộng quy mô đào tạo của các cơ sở đào tạo giáo viên dạy nghề, cần:
- Nâng cấp cơ sở vật chất, thiết bị cho các cơ sở đào tạo giáo viên theo hướng: Các trường Sư phạm kỹ thuật nâng lên hệ cao đẳng Sư phạm kỹ thuật, hình thành một số khoa sư phạm kỹ thuật trong các trường đại học, xây dựng thêm trường cao đẳng Sư phạm kỹ thuật ở vùng Duyên hải miền Trung và Tây nguyên, tập trung đầu tư từ ngân sách và ngoài ngân sách cho hệ thống đào tạo giáo viên.
Xây dựng và đổi mới nội dung chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên cho phù hợp với cơ cấu ngành nghề.
Tổ chức và chuẩn hoá đội ngũ giáo viên theo hướng: Đảm bảo đa số giáo viên tốt nghiệp Cao đẳng Sự phạm kỹ thuật hoặc cao đẳng, đại học được bồi dưỡng chương trình nghiệp vụ sư phạm; bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề cho giáo viên thực hành, áp dụng phương pháp dạy học tiên tiến vào đào tạo nghề; xác định danh mục nghề đào tạo giáo viên dạy nghề trên cơ sở chuẩn hoá (hoặc xây dựng lại) danh mục nghề đào tạo công nhân và nhân viêc kỹ thuật nghiệp vụ. Trước mắt, cần xây dựng tiêu chuẩn riêng biệt cho 2 loại giáo viên dạy nghề về lý thuyết và thực hành. Cụ thể:
+ Với giáo viên lý thuyết: Phải có trình độ từ đại học trở lên và cấu trúc trình độ là: Kiến thức lý thuyết chiếm 60%- 70% tổng số khối kiến thức.
Kĩ năng thực hành: 30%- 40% tổng số khối kiến thức. Kĩ năng thực hnàh đạt được thông qua chương trình đào tạo, bồi dưỡng kĩ năng nghề theo lĩnh vực chuyên môn sau khi đã tốt nghiệp đại học.
+ Với giáo viên dạy thực hành: Phải có trình độ cao đẳng kĩ thuật trở lên và cấu trúc trình độ là:
Kiến thức thực hành: 60%- 70% tổng số khối kiến thức.
Kiến thức lý thuyết: 30%- 40% tổng số khối kiến thức. Kiến thức lý thuyết được bổ sung thông qua khóa học đặc biệt phù hợp với lĩnh vực nghề nghiệp.
Xúc tiến việc xây dựng chế độ chính sách cho đội ngũ giáo viên dạy nghề để khuyến khích và tạo điều kiện để họ yên tâm với nghề nghiệp một cách ổn định (lương và các chế độ phụ cấp)
Có những chính sách thu hút học sinh giỏi, công nhân, nhân viên, cán bộ kỹ thuật nghiệp vụ vào học các trường cao đẳng sự phạm kỹ thuật và các khoa sư phạm kỹ thuật của các trường đại học nhằm đào tạo nên những giáo viên đầu đàn và giáo viên trẻ kế cận có đủ năng lực ở các trường dạy nghề (chế độ học bổng, việc làm, ...)
Khẩn trương xây dựng và triển khai chương trình đào tạo liên thông từ đào tạo công nhân kỹ thuật lên trình độ cao đẳng sư phạm kỹ thuật cũng như mở rộng liên kết với các trường cao đẳng, đại học kỹ thuật, các cơ sở sản xuất để đào tạo giáo viên dạy nghề.
Đối với những giáo viên dạy nghề có khả năng đáp ứng được nhu cầu đào tạo, nhưng cần bổ sung một số kiến thức cần thiết cho giảng dạy thì tổ chức cho họ học tập, nâng cao về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm hoặc các lĩnh vực có liên quan.
Tạo điều kiện để giáo viên dạy nghề được bồi dưỡng và bồi dưỡng thường xuyên như đi thăm quan các cuộc triển lãm công nghiệp, tham giự các cuộc hội thảo có liên quan đến chuyên môn giảng dạy và đi thực tế ở các công ty, xí nghiệp… nhằm cập nhật kiến thức, tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới và phương pháp giảng dạy tiên tiến. Thực hiện việc luân phiên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên theo chu kỳ 5 năm 1 lần.
Tăng cường đào tạo giáo viên dạy nghề có trình độ đại học và sau đại học.
Đổi mới cơ bản phương thức đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dạy nghề theo mô hình đào tạo – tự đào tạo. Mở rộng mô hình đào tạo – tự đào tạo từ xa trên mạng, đáp ứng nhu cầu “đảm bảo về cơ bản đội ngũ giáo viên đạt chuẩn quốc gia và tỉ lệ giáo viên so với học sinh…” để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên dạy nghề thì hoạt động nghiên cứu khoa học phải dần dần có vị trí xứng đáng trong đào tạo bồi dưỡng giáo viên.
Cụ thể hoá tiêu chuẩn giáo viên dạy nghề về trình độ chuyên môn kỹ thuật, sư phạm, tin học, ngoại ngữ. Mục tiêu đến năm 2005 phải đảm bảo đội ngũ giáo viên dạy nghề:
+ 80% đạt trình đọ chuẩn quốc gia
+ 30% giáo viên thực hành có tay nghề bậc 6/7 – 7/7.
+ 100% giáo viên được phổ cập tin học, trong đó, 15 đến 20% có khả năng sử dụng tin học vào giảng dạy.
+ 100% biết ngoại ngữ, 5 – 10% có khả năng làm việc và giao tiếp.
2.2 Nâng cao đời sống vật chất, thu nhập của đội ngũ giáo viên dạy nghề.
Xây dựng chế độ tiền lương riêng cho chức danh giáo viên dạy nghề bởi đặc thù của công việc này là phải dạy cả lý thuyết và thực hành chứ không chỉ giảng lý thuyết đơn thuần như giáo viên trung học chuyên nghiệp và phổ thông trung học.
Quan tâm đúng mức đến việc tổ chức thi nâng ngạch cho giáo viên đã hết bậc lương. Ngoài ra, Nhà nước cần có cơ chế mang tính động viên, khuyến khích về tiền lương cho giáo viên đã hết bậc mà không đủ điều kiện thi chuyển ngạch như cho hưởng một phần mức chênh lệch giữa 2 bậc lương của ngạch đang hưởng. Ví dụ, ngạch giáo viên trung hcọ bậc 10 có hệ số là 4,12, bậc 9 là 3,83, hệ số chệnh lệch là 0,29. Đối với giáo viên thuộc đối tượng nói trên có thể được cộng thêm hệ số chênh lệch 0,2 và hưởng mức lương với hệ số 4,12 + 0,2 là 4,32 để người đã hết bậc lương trong nhiều năm đỡ thiệt thòi.
Để đảm bảo tính công bằng, chế độ phụ cấp cần tính trên số tiết thực tế giảng dạy của từng giáo viên và có chế độ nâng lương thỏa đáng đối với những người tự học tập, nâng cao trình độ phục vụ yêu cầu công tác.
Đồng thời cần có chế độ phụ cấp nghề nghiệp (phương tiện bảo vệ cá nhân, chế độ bồi dưỡng hiện vật làm nghề độc hại, phụ cấp lương độc hại…).
Đổi mới chương trình, giáo trình, phương pháp dạy học.
3.1 Chương trình, giáo trình dạy nghề.
Để quản lý tốt chương trình, giáo trình dạy nghề thì đòi hỏi phải xây dựng được các chuẩn. Chương trình, giáo trình đạt chuẩn phải đạt được các yêu cầu sau:
Phẩm chất: Tính tới sự hình thành nhân cách như một công dân Việt Nam.
Tính thích nghi: Tính tới khả năng tăng tự phát triển bản thân.
- Khả năng sản xuất: Khả năng thành thạo công việc nhất định gồm: lý thuyết nghề, thực hành cơ bản, kĩ năng taynghề giỏi.
Nội dung chương trình, giáo trình đào tạo nghề phải gắn với yêu cầu của hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; đáp ứng cho người học những kiến thức cơ bản (kiến thức chuyên môn, kỹ năng hành nghề) và cả ý thức trách nhiệm công dân đối với gia đình, cộng đồng và xã hội.
Từ trước đến nay, việc xây dựng nội dung chương trình ,giáo trình đào tạo nghề do cơ quan quản lý Nhà nước về dạy nghề hoặc các Bộ chuyên ngành thực hiện theo sự thoả thuận của cơ quan quản lý Nhà nước về dạy nghề. Việc phân tích nghề, xác định nội dung chương trình dạy nghề thường do một số ít chuyên viên ở các cơ quan quản lý thực hiện, do đó không tránh khỏi chủ quan, thiếu thực tiễn .Vì vậy, việc phải thay đổi đầu tiên là cách xác định và thể hiện mục tiêu đào tạo. Mục tiêu cần phải được xây dựng trên cơ sở phân tích nghề một cách khoa học.
Chính những người đang thực hiện thành công các trách nhiệm trong nghề nghiệp của mình là những người có khả năng nhất trong mô tả những kiến thức, kỹ năng, thái độ cần thiết cho việc thực hiện trách nhiệm và công việc đó . Vì thế nếu các lần phân tích nghề trước đây, chỉ do các giáo viên tiến hành thì nay cần thành lập một tiểu ban phân tích nghề dưới sự điều khiển của một chuyên gia về phương pháp sư phạm và các thành viên là những công nhân bậc cao, các kỹ sư, các kỹ thuật viên có kinh nghiệm đang trực tiếp làm tốt công việc trên vị trí của họ để tham gia phân tích công việc. Tiếp theo phân tích nghề là phân tích quá trình dạy học, xây dựng mục tiêu, nội dung đào tạo, xây dựng hệ thống các câu hỏi trắc nghiệm, kiểm tra, đánh giá thường xuyên cũng như đánh giá học sinh tốt nghiệp.
Theo xu hướng liên thông trong giáo dục nghề nghiệp, chương trình đào tạo các cấp bậc trình độ phải liên thông với nhau để tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng lao động hợp lý cũng như cho người học không phải học đi học lại nhiều lần một vấn đề.
Cần tập trung xây dựng một số chương trình đào tạo theo hướng:
Xây dựng và ban hành chương trình các môn học chung tối thiểu cho tất cả các nghề. Chương trình riêng tối thiểu cho mỗi nhóm nghề mà người công nhân kĩ thuật phải học bắt buộc.
Quy định chương trình đào tạo nâng cao bắt buộc cho từng nhóm nghề. Trong đó phải đặc biệt quan tâm đến sự kết hợp giữa đào tạo lý thuyết với thực hành. Việc thực hành nên được tiến hành tại các cơ sở sản xuất đang có nhu cầu tuyển dụng công nhân kĩ thuật. Đào tạo về lý thuyết cần tiến tới áp dụng hình thức đào tạo từ xa.
Đối với một số nghề đặc thù thì giao quyền chủ động cho các ngành xây dựng chương trình đào tạo, nhất là đối với công nhân kĩ thuật, báo cáo với cơ quan quản lý Nhà nước về dạy nghề phê chuẩn.
Cần thành lập một trung tâm "xây dựng chương trình" để xây dựng nội dung chương trình, sách giáo khoa và các tài liệu dạy- học theo các chuẩn quy định trong lĩnh vực đào tạo nghề. Đặc biệt cần sớm biên soạn chuẩn kỹ năng nghề quốc gia cho các nghề đào tạo làm cơ sở cho việc xác định mục tiêu, nội dung đào tạo; tổ chức quá trình đào tạo và đánh giá chất lượng đào tạo; cấp văn bằng chứng chỉ; đồng thời, xác định trình độ công nhân kĩ thuật đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.
Xây dựng trung tâm kiểm tra, đánh giá để kiểm soát chất lượng đào tạo nghề, bao gồm: Các nhà quản lý, các chuyên gia trong đào tạo nghề, các chuyên gia của các doanh nghiệp,..
Nội dung chương trình đào tạo cần được đổi mới và thiết kế theo hướng liên thông giữa các bậc học để tạo cơ hội thuận lợi cho người học khi chuyển đổi nghề hoặc tiếp tục học lên khi có điều kiện.
Việc bổ sung, hoàn thiện chương trình, giáo trình có thể được tiến hành bằng cách tổ chức hội nghị khách hàng với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tiếp nhận và sử dụng học sinh đã tốt nghiệp và một số học sinh tốt nghiệp đã đi làm để xin ý kiến góp ý.
Phương pháp đào tạo phải gắn với sản xuất, việc làm. Đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng phương pháp dạy nghề theo Modul vào đào tạo ngắn hạn và thí điểm cho một số nghề dài hạn nhằm tạo độ linh hoạt, tiếp nối và đào tạo nhanh theo yêu cầu của người học nghề và người sử dụng lao động kỹ thuật.
3.2 Phương pháp dạy nghề:
Phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của người học. Nội dung cơ bản là chuyển trọng tâm cơ bản hoạt động từ giáo viên sang học sinh, đòi hỏi và làm cho học sinh nhận thức họ phải tự huy động nội năng của mình là chính để chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng, thái độ làm phương tiện, hành trang trong cuộc sống lao động sau này.
Phương pháp học tập phải phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh. Một nội dung cơ bản là truyền cho học sinh niềm tin vào con dường nghề nghiệp đã chọn, làm cho học sinh nắm được nghề nghiệp chuyên môn và có tư duy sáng tạo. Với một bộ phận học sinh giỏi phải giúp họ bước đầu nắm được bí quyết của nghề nghiệp. Cần tạo cầu nối giữa kiến thức và thực tế cuộc sống nhằm tăng cường năng lực vận dụng tri thức đã học của người học vào sản xuất luôn luôn biến động.
Chính sách thu hút học sinh học nghề
Nâng cao nhận thức xã hội về vai trò vị trí của đào tạo nghề đối với sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, tạo nên phong trào học nghề, lập nghiệp.
Tăng cường công tác tuyên truyền về vai trò, vị trí của đào tạo nghề đối với sự phát triển kinh tế xã hội trong các nhà trường và toàn thể xã hội. Trong đó các phương tiện thông tin đại chúng đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của nhân dân, nhất là lớp trẻ về vấn đề hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau THCS, và PTTH, qua các nội dung sau:
+ Thông tin về phân luồng học sinh, cơ cấu lao động ở các nước đã phát triển để thấy xu hướng quốc tế, giúp tác động đến nhận thức của các tầng lớp nhân dân ta.
+ Nêu các thông tin về nhu cầu lao động trên thị trường trong nước và quốc tế.
+ Nêu những tấm gương lao động thành đạt của thanh niên từ nhiều con đường khác nhau, trong đó đặc biệt chú ý những gương “phân luồng” từ học sinh phổ thông và đi lên bằng những con đường khác nhau (bằng các bài viết trên sách báo, phim ảnh…)
+ Nên mở các cuộc thi viết về các tấm gương lập thân, lập nghiệp trong thanh niên, qua đó cho xã hội, nhất là thanh niên thấy được có nhiều tấm gương từ rất nhiều con đường khác nhau để đi đến thành đạt…
Xây dựng các chương trình phối hợp giữa Tổng cục dạy nghề với Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và Tổng liên đoàn lao động Việt Nam về việc tuyên truyền giáo dục dạy nghề.
Đưa phong trào thi học sinh giỏi nghề, giáo viên giỏi nghề các trường, trung tâm dạy nghề trở thành hoạt động thường xuyên của từng cơ sở và trên phạm vi cả nước.
4.2. Các chính sách khuyến khích người lao động, nhất là thanh niên vào học ở các cơ sở dạy nghề .
Miễn giảm học phí và cấp học bổng cho học sinh học các nghề có điều kiện lao động nặng nhọc và độc hại hoặc khó tuyển, học sinh đào tạo theo địa chỉ ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Dành tỉ lệ lớn tuyển học sinh học nghề từ nông thôn, vùng sâu, vùng xa, bộ đội phục viên và đối tượng thuộc diện chính sách có đủ trình độ văn hoá để phục vụ cho các vùng kinh tế.
Lao động nông thôn không có điều kiện thoát li sản xuất, đượ phép học từng học phần trong mỗi đợt, khi học hết chương trình được thi tốt nghiệp, nếu đạt yêu cầu thì được cấp bằng nghề hoặc chứng chỉ tương ứng với chương trình đào tạo.
Điều chỉnh hợp lí mức học bổng cho học sinh học nghề so với sinh viên để khuyến khích học nghề.
Nhà nước đầu tư khuyến khích học sinh đi học một số nghề cần thiết ở nước ngoài.
Nhưng yếu tố cốt lõi thu hút học nghề chính là thu nhập thực tế của người lao động học nghề: Nhà nước cần có chính sách điều chỉnh chế độ tiền lương đối với công nhân có tay nghề cao và công nhân làm những nghề có yêu cầu kĩ thuật cao hoặc những nghề có điều kiện làm việc nặng nhọc và độc hại.
Những người có bằng tốt nghiệp nghề hoặc chứng chỉ nghề được ưu tiên vay vốn để tạo việc làm theo nghề đã được đào tạo.
Đồng thời, ban hành danh mục những nghề bắt buộc người hành nghề phải có bằng nghề hoặc chứng chỉ nghề. Người sử dụng lao động chỉ được phép tuyển dụng những người có bằng tốt nghiệp nghề hoặc chứng chỉ nghề để bố trí làm những nghề nói trên.
Chính sách của Nhà nước về đào tạo nghề
5.1.Chính sách đối với cơ sở dạy nghề
Để thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước cho lĩnh vực dạy nghề Nhà nước cần xây dựng các chính sách khuyến khích, hỗ trợ cho các cơ sở dạy nghề, nhất là các cơ sở dạy nghề ngoài công lập, như:
Ưu đãi thuế thu nhập cho các cở ngoài công lập
Ưu tiên mức thuế phù hợp với hoạt động sản xuất kết hợp thực hành nghề của các cơ sở dạy nghề.
Ưu tiên cấp quyền sử dụng đất để xây dựng cơ sở dạy nghề hoặc cho thuê đất, thuê nhà, xưởng để mở cơ sở dạy nghề với giá ưu đãi.
Các cơ sở dạy nghề được mua trang thiết bị thanh lí của các doanh nghiệp do đổi mới công nghệ để làm thiết bị giảng dạy và thực hành.
Tuy nhiên, các cơ sở dạy nghề trong tương lai dù theo mô hình nào đều phải là mô hình hạch toán kinh tế chứ không theo cơ chế bao cấp: Đầu vào có thể là nguồn từ ngân sách Nhà nước,của người học nghề, từ đơn vị sản xuất, từ cơ sở đào tạo, từ nước ngoài (vốn ODA hoặc FDI )và các nguồn vốn tài trợ khác. đầu ra phải trả lời cho được câu hỏi chi phí đào tạo cho người học, trên cơ sở đó để kí kết hợp đồng dạy nghề
Nhà nước cần có chính sách quy định doanh nghiệp phải lập quỹ đào tạo, coi đây là chi phí sản xuất, đồng thời phải thường xuyên kiểm tra, thưởng-phạt để đảm bảo thực hiện nghiêm quy định này.
Nhà nước cũng cần có chế tài buộc các nhà tuyển dụng lao động phải đóng đủ lệ phí đào tạo như quy định 71/CP đã quy định để tránh tình trạng người sử dụng không quan tâm tới công tác đào tạo.
Đồng thời, Nhà nước cần quản lý chặt chẽ các trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề thông qua việc đăng ký, cấp giấy phép dạy nghề, cấp bằng – chứng chỉ nghề; định hướng và hướng dẫn hoạt động với các cơ sở dạy nghề quy mô nhỏ.
Tổng cục dạy nghề, các cơ quan quản lý về đào tạo nghề của các địa phương và các ngành cần tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thi hành các quy phạm pháp luật về đào tạo nghề của các cơ sở dạy nghề nhằm kịp thời chấn chỉnh các sai sót, tồn tại của các cơ sở dạy nghề, phát hiện các điển hình tốt để nhân rộng và các quy định chưa hợp lý của các văn bản quy phạm pháp luật về đào tạo nghề để đề nghị sửa đổi.
5.2.Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật và quy định về đào tạo nghề
Quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy quản lý đào tạo nghề ở các địa phương và các Bộ, ngành, trung ương.
Quy định về việc cấp phát, quản lý, sử dụng, kiểm tra và kiểm soát việc sử dụng ngân sách Nhà nước cấp cho đào tạo nghề.
Xây dựng các chuẩn về cơ sở dạy nghề: các chuẩn về cơ sở vật chất, tiêu chuẩn và định mức về đội ngũ giáo viên ….
Bước đầu xây dựng các chương trình đào tạo chuẩn cho một số nghề đào tạo ngắn hạn phổ biến.
Chế độ báo cáo định kỳ quý, 6 tháng, 1 năm và đột xuất về đào tạo nghề.
Kết Luận
Đào tạo nghề trong hệ thống giáo dục – đào tạo quốc dân là quốc sách hàng đầu, cung cấp phần lớn công nhân kỹ thuật cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Để đạt được điều đó, cần tập trung đầu tư, phát triển các cơ sở đào tạo nghề, trong đó bộ phận chính là các trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề. Đây là nhiệm vụ lớn đòi hỏi sự tham gia toàn xã hội.
Qua quá trình thực tập tại Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội, trên cơ sở nghiên cứu những lý luận đã học ở trường và thực tế, tôi đã đi sâu tìm hiểu và đưa ra được một số nhận xét và đề xuất nhằm phát triển công tác dạy nghề ở các trường dạy nghề và trung tâm dạy nghề.
Thứ nhất: thấy được vai trò của đào tạo nghề trong phát triển nguồn nhân lực, từ đó thấy được sự cần thiết phải tăng cường đầu tư cho các cơ sở dạy nghề (nhất là trường dạy nghề và trung tâm dạy nghề).
Thứ hai: cơ sở lí luận để thấy được tính chất đa dạng của công tác đào tạo nghề, từ đó tìm ra các yếu tố chính ảnh hưởng đến công tác dạy nghề.
Thứ ba: thực trạng công tác dạy nghề ở các trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề. Từ đó thấy được các yếu tố ảnh hưởng chính đến công tác dạy nghề như: sự phân bố cơ sở dạy nghề, cơ sở vật chất, chương trình – giáo trình giảng dạy, đội ngũ giáo viên…còn nhiều tồn tại, bất cập.
Thứ tư: Một số kiến nghị nhằm phát triển công tác dạy nghề ở trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề.
Thông qua luận văn này, tôi hy vọng có thể đóng góp một phần nào đó trong việc phát triển công tác dạy nghề ở các cơ sở dạy nghề. Tuy nhiên do trình độ lý luận bản thân có hạn, nhất là nguồn tài liệu tham khảo còn hạn hẹp và chỉ được thực tập một thời gian ngắn ở Viện, tôi tự thấy rằng: trong quá trình thực hiện luận văn này, bản thân khó tránh khỏi những sai sót nóng vội trong nhận thức về thực tế công tác dạy nghề rất đa dạng và sinh động. Vì thế, tôi rất mong nhận được sự góp ý, phê bình của thầy giáo và các cô chú, anh chị tại Viện.
Một lần nữa, cho phép tôi bày tỏ sự biết ơn chân thành đối với thầy giáo Nguyễn Vĩnh Giang, chú Đặng Kim Chung và các cô chú, anh chị tại Viện khoa học lao động và các vấn đề xã hội đã giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Ghi chú
Danh mục những từ viết tắt
TDN Trường dạy nghề
TTDN Trung tâm dạy nghề
TW Trung Ương
ĐP Địa phương
ĐB Đồng bằng
Nguồn trích bảng- biểu đồ
Báo cáo tổng hợp của viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội
– 2000/2001
Biểu 1: 1, 2, 3, 8, 9, 10.
Biểu đồ: 1, 2, 3, 4.
Báo cáo điều tra về nhu cầu công nhân kĩ thuật của các doanh nghiệp
- Unilever - 2000/2001
Biểu: 4, 5, 6, 7.
Báo cáo điều tra về thực trạng đội ngũ giáo viên dạy nghề
- Unilever - 2000/2001
Biểu: 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Kinh tế lao động – Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
Kết quả điều tra đánh giá năng lực các cơ sở dạy nghề.
- Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội - 2000/2001
3. Báo cáo điều tra về thực trạng đội ngũ giáo viên dạy nghề.
- Điều tra của Unilever -2000/2001.
4. Báo cáo điều tra về nhu cầu công nhân kĩ thuật của các doanh nghiệp.
- Điều tra của Unilever -2000/2001.
5. Tạp chí Đào tạo nghề –Xuân 2001.
6. Tạp chí Lao động xã hội.
- Số 172, 174, 176, 180
7. Tạp chí Đại học và giáo dục chuyên nghiệp – Tháng 11/2000.
8. Thông tin Thị trường lao động .
- Số 1/2000, 3/2000, 4/2000, 6/2000, 4/2001
9. Thời báo Kinh tế Việt Nam.
- Số 17, 19, 38, 49, 67,76, 80, 88, 89, 131, 146 : năm 2001 (trang 8)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34273.doc