Luận văn Nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh ngân hàng công thương khu vực Cầu Giấy

Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã có những bước phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, đóng một vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Một trong những điều kiện hàng đầu để DNNQD có thể phát triển là vốn, mà đặc biệt là vốn vay ngân hàng. Trong mối quan hệ vay mượn, hai chủ thể ngân hàng và DNNQD đều đem lại lợi ích cho nhau, ngân hàng cần khách hàng đến vay vốn để phát triển còn DNNQD cần nguồn vốn vay từ ngân hàng để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy, đây là mối quan hệ tương hỗ, cần củng cố và phát triển. Trong hoạt động cho vay, chất lượng tín dụng luôn là vấn đề đáng quan tâm nhất của không chỉ ngân hàng mà cả DNNQD vì khi chất lượng tín dụng được đảm bảo thì mối quan hệ giữa ngân hàng và DNNQD mới được bền chặt. Đề tài của em đề cập đến vấn đề chất lượng cho vay đối với DNNQD tại NHCT Cầu Giấy, tìm hiểu thực trạng tại cơ sở để từ đó tìm ra nguyên nhân, khó khăn dẫn đến chất lượng các khoản vay của DNNQD chưa tốt. Từ đó đưa ra những giải pháp đối với NHCT Cầu Giấy và những kiến nghị đối với các cơ quan có liên quan để cùng nhau giải quyết, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trong thời gian tới. Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Vũ Duy Hào và các cô chú, anh chị phòng Kinh doanh đối nội – NHCT Cầu Giấy đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành Chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.

doc76 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1166 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh ngân hàng công thương khu vực Cầu Giấy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đồng, trong đó lợi nhuận từ hoạt động cho vay là 5.265 triệu đồng, tương ứng với 87%. Và trong số 5.265 triệu đồng thì lãi thu được từ cho vay DNNQD là 2.214 triệu đồng, chiếm 42.05% lợi nhuận cho vay DNNQD. d. Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn cao nhưng tốc độ tăng thấp hơn tốc độ tăng cho vay DNNQD. Tình hình nợ quá hạn của NHCT Cầu Giấy tăng lên qua các năm từ 2003 đến 2005 tương ứng là 23.504 triệu đồng - 28.373 triệu đồng - 32.156 triệu đồng. Song do dư nợ cho vay DNNQD tăng nên tỷ lệ nợ quá hạn đã giảm qua các năm với tỷ lệ tương ứng là 7.12 % - 6.04 % - 6.03 %. Tỷ lệ nợ quá hạn tuy cao song vẫn ở mức an toàn vì nằm giữa mức 5% - 10%, đảm bảo hoạt động cho vay DNNQD của ngân hàng vẫn an toàn. 2.3.2.Hạn chế và nguyên nhân các hạn chế về chất lượng cho vay DNNQD tại NHCT Cầu Giấy 2.3.2.1.Hạn chế Mặc dù đã đạt được một số kết quả khả quan trong chất lượng cho vay DNNQD song hoạt động cho vay ngoài quốc doanh của chi nhánh vẫn còn những hạn chế như: a. Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay ngoài quốc doanh của chi nhánh quá cao, chưa phù hợp với khả năng kiểm soát của chi nhánh. Ngân hàng mở rộng cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nên doanh số cho vay ngoài quốc doanh tăng kéo theo dư nợ cho vay DNNQD cũng tăng nhanh chóng. Tuy nhiên số lượng tăng quá nhanh, vượt qua sự kiểm soát của ngân hàng khiến cho chất lượng các khoản vay này chưa thực sự tốt. Tính đến đầu năm 2003 khi NHCT Cầu Giấy mới thành lập chưa được hai năm, dư nợ cho vay ngoài quốc doanh chuyển từ NHCT Ba Đình sang là 122.781 triệu đồng, đến 31/12/2003 là 330.118 triệu đồng, cuối năm 2004 là 443.322 triệu đồng và đến 31/12/2005 thì con số này đã là 533.682 triệu đồng. Tốc độ tăng trưởng tương ứng qua các năm là 18.48%, 28.26%, 36.76% và 43.95%. Qua số liệu trên, có thể thấy rằng tốc độ tăng trưởng cho vay DNNQD tăng rất nhanh và có xu hướng tăng thêm trong những năm tới. Trong khi đó nợ quá hạn của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng tăng, khá nhiều khách hàng có nợ quá hạn lớn đều thuộc DNNQD như: Công ty cổ phần 118 (5.046 triệu đồng), công ty TNHH Sao Sáng (3.707 triệu đồng)… b. Cơ cấu tín dụng chưa hợp lý. Dư nợ cho vay DNNQD còn chiếm tỷ trọng thấp, chưa phù hợp với sự phát triển hiện nay của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh Dư nợ cho vay DNNN vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ mặc dù số lượng DNNN là khách hàng của ngân hàng ít hơn số lượng DNNQD nhưng do giá trị khoản vay của DNNN lớn hơn dẫn đến dư nợ cho vay của thành phần này lớn hơn. Trong khi số lượng DNNQD tăng thì tỷ trọng cho vay DNNQD có năm chỉ chiếm 18.48% hay 28.86%, chưa xứng với tiềm năng của doanh nghiệp này. Những năm gần đây, tỷ trọng cho vay ngoài quốc doanh đã tăng lên đáng kể, năm 2005 là 43.95% nhưng vẫn thấp hơn dư nợ cho vay DNNN. Bên cạnh đó, trong số các lĩnh vực thì cho vay các DNNQD thuộc lĩnh vực xây dựng cơ bản, công trình giao thông có nhu cầu vay vốn lớn trong khi nguồn vốn đối ứng thấp, khả năng thanh toán chậm, khả năng thu hồi nợ khó khăn,…lại chiếm tỷ trọng lớn. Tính đến 31/12/2005, tỷ trọng cho vay DNNQD thuộc lĩnh vực xây dựng cơ bản chiếm tới gần 32% tổng dư nợ cho vay DNNQD. Tỷ trọng cho vay không có tài sản đảm bảo vẫn ở mức cao. Hầu hết khách hàng ngoài quốc doanh đến với NHCT Cầu Giấy là khách hàng mới, chưa có uy tín, vậy mà cho vay không có tài sản đảm bảo hoặc giá trị tài sản đảm bảo nhỏ hơn giá trị khoản vay còn khá cao, chiếm tới 27%. Bên cạnh đó, nguy cơ các khoản vay có đảm bảo bằng tài sản cũng còn nhiều điểm phải quan tâm như tình hình pháp lý của hồ sơ đảm bảo, chất lượng, tính thanh khoản và giá trị thực cũng như giá trị được đánh giá lại của tài sản đảm bảo. c. Hiệu quả cho vay DNNQD chưa vững chắc, chất lượng tín dụng nói lên nhiều vấn đề nợ quá hạn, nợ gia hạn. Về nợ quá hạn: Nợ quá hạn của toàn chi nhánh tính đến 31/12/2005 là 47.994 triệu đồng, thì nợ quá hạn trong cho vay DNNQD đã là 32.156 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 67%, trong đó nợ quá hạn trong cho vay xây dựng cơ bản và giao thông là 12.900 triệu đồng. Tỷ lệ nợ quá hạn của chi nhánh giảm dần qua các năm, năm 2003 tỷ lệ này là 7.12 %, năm 2004 giảm xuống 6.40 %, năm 2005 là 6.03 % chứng tỏ hoạt động cho vay DNNQD đã an toàn hơn qua các năm. Song tỷ lệ nợ quá hạn đã vượt 5%, ảnh hưởng đến mức an toàn trong cho vay và đến chất lượng tín dụng cũng như lợi nhuận của ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng phải chú trọng xem xét để giảm nợ quá hạn cũng như tỷ lệ nợ quá hạn xuống dưới mức 5% vì trong những năm tới cho vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh sẽ tăng và chiếm một tỷ trọng lớn. Về nợ gia hạn: Nợ gia hạn đến thời điểm 31/12/2005 là 157.000 triệu đồng, trong đó có nhiều món vay gia hạn nhiều lần, thời gian gia hạn dài, có DNNQD gia hạn 100% dư nợ, thời hạn cho vay và thời hạn gia nợ tới 24 tháng. Nợ gia hạn phát sinh lớn chủ yếu là doanh nghiệp xây dựng cơ bản và thi công công trình giao thông. 2.3.2.2.Một số nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến chất lượng cho vay ngoài quốc doanh * Nguyên nhân từ phía ngân hàng Thứ nhất, chất lượng cán bộ tín dụng chưa cao. Nguyên nhân cơ bản có tính chất quyết định đến chất lượng cho vay DNNQD là vấn đề con người. Một số cán bộ tín dụng chưa nắm chắc chế độ nghiệp vụ, một số khác trách nhiệm chưa cao, chưa thực sự tâm huyết với công việc. Bên cạnh trình độ kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ, dễ thấy rằng sự hiểu biết tổng hợp các lĩnh vực hoạt động trong ngân hàng của cán bộ tín dụng chưa nhiều. Phần lớn do chế độ tuyển dụng, đãi ngộ và công tác đào tạo còn một số bất cập, phân công công việc chưa phù hợp với năng lực của cán bộ tín dụng. Thứ hai, chính sách cho vay chưa linh hoạt. Đối với DNNQD dù đã có phương án vay vốn nhưng chưa có mục đích cụ thể và nhiều vướng mắc về thủ tục, về tài sản đảm bảo nên NHCT Cầu Giấy chỉ thực hiện cho vay các DNNQD làm ăn thực sự có hiệu quả và là khách hàng uy tín của ngân hàng. Mặc dù dư nợ cho vay DNNQD tăng song nợ quá hạn cũng tăng nên ngân hàng phải xem xét lại chế độ cho vay của mình. Thứ ba, kiểm tra, kiểm soát chưa được thực hiện đồng bộ. Hiện nay việc kiểm tra, kiểm soát nội bộ đã được thực hiện song chưa mang tính chất chuyên nghiệp. Chưa có một tiêu chuẩn qui định kiểm soát rõ ràng do đó nhiều tài liệu không hoàn toàn chính xác. Các hồ sơ cho vay nhiều khi thiếu giấy tờ như giấy nhận nợ, giấy chứng nhận tài sản đảm bảo … đến khi khách hàng không trả được gốc và lãi đã quá hạn, ngân hàng cần phong toả tài sản thế chấp, cầm cố thì không tìm thấy tài liệu liên quan. Do vậy, ngân hàng cần kiểm soát chặt chẽ hơn nữa trong công tác cho vay mới có thể tránh được những sai sót mang lại lợi ích cho cả khách hàng và ngân hàng. Thứ tư, chất lượng công tác thẩm định chưa tốt. Chất lượng thẩm định thấp là do hạn chế về trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng và hệ thống thông tin về các ngành nghề kinh doanh, về thông tin của khách hàng, báo cáo tài chính của DNNQD không được cập nhật hay không đầy đủ. Thứ năm, hệ thống thông tin trao đổi hai chiều giữa ngân hàng và doanh nghiệp còn hạn chế. Do số lượng DNNQD mở tài khoản tại ngân hàng và vay vốn tại ngân hàng nhiều mà các DNNQD lại có địa điểm ở cách xa ngân hàng hay doanh nghiệp có nhiều địa điểm hoạt động sản xuất nên gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thu thập thông tin hay kiểm tra, giám sát DNNQD về việc sử dụng món vay đúng mục đích. Hơn nữa, theo nguyên tắc tín dụng và theo các văn bản hướng dẫn về việc thẩm định, tái thẩm định của cán bộ tín dụng đối với các khoản vay thì khi các đơn vị xin vay phải cung cấp đầy đủ các thông tin, các báo cáo tài chính, giấy tờ về tài sản đảm bảo, báo cáo kiểm toán,… Nhưng hiện nay chưa có qui định bắt buộc phải kiểm toán đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nên các tài liệu họ mang đến NHCT Cầu Giấy chưa theo đúng chế độ hiện hành, gây khó khăn cho quá trình thẩm định, đem lại rủi ro cho ngân hàng. Thứ sáu, NHCT Cầu Giấy chưa chấp hành đúng các qui định về cho vay. Một số hồ sơ thiếu giấy tờ hay giấy tờ chưa đảm bảo tính pháp lý vẫn được ngân hàng chấp nhận. Để cho vay không có tài sản đảm bảo thì khách hàng phải đáp ứng những điều kiện hết sức chặt chẽ: doanh nghiệp phải có uy tín trong quan hệ vay trả, làm ăn hiệu quả, có uy tín trên thị trường,… còn đa số theo quy định là phải cho vay có tài sản đảm bảo vì tài sản đảm bảo là nguồn thu nợ thứ hai, vật thay thế khi các khoản vay đến hạn mà khách hàng không trả nợ được. Trong khi đó, đối với DNNQD, nhiều khách hàng không đủ điều kiện về tài sản đảm bảo hay tài sản đảm bảo có giá trị thấp hơn giá trị khoản vay. Theo lý thuyết, ngân hàng chỉ có thể cho vay tối đa bằng 70% giá trị tài sản thế chấp, nhưng thực tế nhiều món vay có giá trị hơn 70% hay lên đến 100% giá trị tài sản đảm bảo. Hơn nữa cán bộ tín dụng không thể định giá chính xác tất cả các loại tài sản đảm bảo. Nhiều khoản vay được thế chấp bằng tài sản không đủ điều kiện hay một số đã bị hao mòn vô hình làm giảm giá, nên ngân hàng gặp khó khăn trong việc thanh lý để thu hồi vốn. Có trường hợp số tiền bán tài sản đảm bảo không đủ bù khoản vay, gây thiệt hại đến lợi nhuận ngân hàng. * Nguyên nhân từ phía DNNQD Năng lực quản lý, quản trị của nhiều DNNQD còn hạn chế khiến cho đơn vị hoạt động chưa hiệu quả. Một số DNNQD có dự án kinh doanh thiếu khả thi, kinh nghiệm quản lý thấp, thị trường sản phẩm đầu ra bấp bênh khiến cho DNNQD khó có khả năng trả nợ ngân hàng đúng hạn. Hầu hết các DNNQD chưa thực hiện nghiêm túc chế độ hạch toán kế toán đúng qui định hiện hành. Khi muốn vay vốn NHCT Cầu Giấy, DNNQD cung cấp những thông tin chưa chính xác hay còn thiếu về tình hình tài chính, về bảng cân đối kế toán, về báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh. Hệ thống thông tin báo cáo tài chính ,sổ sách kế toán, thống kê DNNQD thiếu chính xác, minh bạch do đó nguồn số liệu để ngân hàng phân tích, đánh giá tình hình tài chính của DNNQD không đủ độ tin cậy. Điều này dẫn đến nhiều dự án được ngân hàng cấp vốn không thực sự khả thi, không có lãi. Về tài sản đảm bảo của DNNQD: Vốn chủ sở hữu của các DNNQD thường nhỏ nên khi tham gia vào sản xuất kinh doanh, họ không có tài sản đảm bảo tiền vay hoặc tài sản thế chấp (chủ yếu là đất đai) thường không có đủ hồ sơ pháp lý. DNNQD có thể vay vốn ngân hàng thông qua thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Trong khi đó những tài sản này phải do ngân hàng trực tiếp quản lý nên không chủ động cho doanh nghiệp cũng như khó khăn cho ngân hàng trong việc quản lý. * Các nguyên nhân khách quan Môi trường kinh tế: Nền kinh tế nước ta trong những năm qua liên tục phải đương đầu với nhiều khó khăn thử thách khiến môi trường kinh doanh và đầu tư bị ảnh hưởng không nhỏ, gây khó khăn cho hầu hết các DNNQD và ngân hàng. Hiện nay tình hình phát triển kinh tế trên địa bàn quận Cầu Giấy có tốc độ tăng trưởng cao song chưa ổn định nên các DNNQD trong địa bàn quận cũng bị ảnh hưởng. Môi trường pháp lý: Chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước ta trong quá trình đổi mới đã được hoàn thiện, nhiều văn bản pháp luật ra đời giúp công tác tín dụng của ngân hàng đơn giản hơn. Song vẫn chưa có một văn bản qui định củ thể về việc cấp tín dụng cho DNNQD nên NHCT Cầu Giấy vẫn chỉ áp dụng qui chế cho vay chung của ngân hàng đối với các thành phần kinh tế. CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNNQD TẠI CHI NHÁNH NHCT CẦU GIẤY 3.1.Định hướng nâng cao chất lượng cho vay đối với DNNQD tại NHCT Cầu Giấy 3.1.1.Mục tiêu phấn đấu Căn cứ vào kết quả đạt được năm 2005 và tình hình thực tiến những xu hướng triển vọng, trong năm tới 2006, kế hoạch dự kiến của NHCT Cầu Giấy như sau: + Tổng cho vay và đầu tư : 1.350 tỷ đồng, tăng 14% so với năm 2005 Trong đó: Dư nợ cho vay trung, dài hạn chiếm 40% tổng dư nợ Dư nợ cho vay DNNQD chiếm 50% tổng dư nợ + Tỷ lệ cho vay không có tài sản đảm bảo: 35% + Nợ quá hạn dưới 5% + Tỷ lệ nợ khó đòi, nợ xấu dưới 3% Góp phần đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng cho vay DNNQD, ngân hàng cùng với việc thu hút thêm khách hàng là DNNQD mới là việc củng cố mối quan hệ với các DNNQD cũ. NHCT Cầu Giấy sẽ tiến hành giảm lãi suất cho vay và tăng thu nhập từ cho vay DNNQD thêm 5.5% so với năm 2005. 3.1.2.Định hướng nâng cao chất lượng cho vay đối với DNNQD của NHCT Cầu Giấy Tiếp tục mở rộng tín dụng đối với các tổ chức kinh tế DNNQD, sản xuất kinh doanh hiệu quả trong khả năng cân đối nguồn vốn và kế hoạch trung ương giao, qui mô phát triển phù hợp với trình độ quản lý, năng lực cán bộ và môi trường kinh tế. Tăng trưởng dư nợ ngắn hạn vào những ngành có thể so sánh, những DNNQD sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có năng lực tài chính mạnh. Tăng cường quản lý chất lượng hiệu quả cho vay DNNQD trên cơ sở nâng cao chất lượng thẩm định, kiểm tra, kiểm soát khách hàng là DNNQD trong quá trình sử dụng vốn vay. Tích cực chuyển hết số dư không lành mạnh, có tiềm ẩn rủi ro thành dư nợ lành mạnh, chuyển vốn cho vay cho các DNNQD có phương án kinh doanh khả thi, đảm bảo khả năng trả nợ ngân hàng. Tăng tỷ trọng cho vay các DNNQD có tài sản đảm bảo. Giảm dư nợ tiến tới dừng quan hệ tín dụng với các DNNQD sản xuất kinh doanh thua lỗ, năng lực tài chính yếu kém, mất vốn, công nợ lớn hay có quan hệ vay mượn với nhiều tổ chức tín dụng. Tích cực đôn đốc khách hàng bằng mọi biện pháp, kể cả phát mại tài sản để thu hồi nợ, đặc biệt là nợ quá hạn, nợ gia hạn. Tăng tỷ trọng cho vay DNNQD đồng thời giảm cho vay DNNN. Mở rộng cho vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Phát triển nghiệp vụ bán lẻ, cho vay sản xuất kinh doanh ngắn hạn, mùa vụ,… Đa dạng hóa hình thức cho vay DNNQD để phân tán rủi ro. Tổ chức học tập, nâng cao trình độ nghiệp vụ cán bộ tín dụng đặc biệt giáo dục, nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng trong quá trình thẩm định cho vay, kiểm tra kiểm soát trong đầu tư tín dụng. 3.2.Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với DNNQD tại NHCT khu vực Cầu Giấy Sau những diễn biến phức tạp của nền kinh tế từ khủng hoảng kinh tế năm 1997 đến việc làm ăn kém hiệu quả của khu vực kinh tế quốc doanh đã khiến cho Đảng và Nhà nước xác định lại mục tiêu của mình là giảm số lượng DNNN và tăng số lượng DNNQD để đảm bảo thành công trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Với xu hướng chung của nền kinh tế cùng với quá trình cổ phần hoá hàng loạt các DNNN làm ăn yếu kém, chỉ giữ lại một vài DNNN chủ đạo thì khi đó, vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh càng trở nên quan trọng. Trong con mắt của nhiều NHTM, kinh tế quốc doanh đã không còn là khách hàng chiến lược nữa mà thay vào đó các ngân hàng bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến các DNNQD, ngày càng mở rộng cho vay đối với thành phần kinh tế này. Sau đây là một số giải pháp nhằm giúp NHCT Cầu Giấy từng bước nâng cao chất lượng cho vay đối với DNNQD 3.2.1.Bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ tín dụng Ngân hàng cần củng cố đội ngũ CBTD có tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt nhiệm vụ thẩm định, xét và quyết định cho vay; kiểm soát chặt quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng, chủ động thu hồi nợ đầy đủ gốc lãi theo từng kì hạn đúng khế ước hợp đồng vay vốn; phấn đấu không để phát sinh nợ quá hạn và nợ gia hạn mới. Để thực hiện được công tác này tốt có thể đưa ra hình thức quy trách nhiệm cho mỗi CBTD. Trong trường hợp cho vay nhưng không thu hồi được nợ thì CBTD phải có trách nhiệm với ngân hàng, ở đây chỉ nên áp dụng trách nhiệm hành chính, tuỳ từng trường hợp mà áp dụng trách nhiệm cụ thể. Ngân hàng cũng phải coi trọng công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tín dụng. CBTD là một nhân tố có tính chất quyết định trong hoạt động cho vay. Toàn bộ những quyết định cho vay, quy trình thực hiện cho vay, thu hồi nợ… không có một máy móc hay một công cụ nào có thể đảm nhận nổi nên kết hoạt động cho vay phụ thuộc rất lớn vào trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tính năng động và đạo đức nghề nghiệp của CBTD. Do vậy, để góp phần nâng cao chất lượng tín dụng thì đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ về tín dụng và kiến thức tổng hợp chính là một phần rất quan trọng và có giá trị trong mọi giai đoạn phát triển của bản thân ngân hàng. Thực hiện giải pháp này sẽ tiến hành chủ yếu trên các phương diện sau: - Không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn của CBTD: thường xuyên cử CBTD tham gia các khoá đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, cơ chế chính sách, pháp luật, thẩm định dự án, phân tích hoạt động kinh tế, thanh toán quốc tế, tin học, ngoại ngữ… mà NHCT TW tổ chức. Đối với những cán bộ cả mới và cũ đều cần phải hiểu rõ tầm quan trọng của việc thường xuyên nghiên cứu, học tập để cập nhật những kiến thức về chuyên môn và những kiến thức xã hội, luật pháp, ứng dụng vào thực tiễn để có thể quản lý tốt món vay và hiệu quả các khoản vay. - Bố trí sắp xếp đội ngũ CBTD hợp lý: tuỳ theo chức năng nhiệm vụ yêu cầu của từng vị trí công tác được phân công trong hoạt động tín dụng mà người CBTD cần phải có những tiêu chuẩn riêng phù hợp. Từng bước tiêu chuẩn hoá cán bộ trên cơ sở năng lực, nghĩa là mỗi CBTD sẽ đảm nhận một lĩnh vực cho vay nhất định, tạo nên tính chuyên môn hoá trong công việc, phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng và năng lực từng người, giúp họ làm việc hăng say và có hiệu quả cao hơn. Việc nâng cao chất lượng đội ngũ CBTD có trình độ nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, phân tích tín dụng tốt có quyết định cho vay đúng đắn và vừa đáp ứng được nhu cầu khách hàng vừa đảm bảo an toàn tín dụng cho ngân hàng. Theo đó CBTD không chỉ thực hiện tốt nghiệp vụ chuyên môn mà còn phải giỏi về các lĩnh vực khác như: thực hiện Marketing, tư vấn cho khách hàng, góp phần tăng quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. 3.2.2.Thực hiện nghiêm túc chế độ tín dụng, thực hiện đúng quy trình cho vay đối với DNNQD Ngân hàng dựa cần bổ sung, hoàn chỉnh các cơ chế, quy chế nghiệp vụ tín dụng tạo sự đồng bộ trong quá trình triển khai thực hiện. Ban hành sổ tay tín dụng nhằm đưa ra một quy trình cho vay hoàn chỉnh với đầy đủ các tiêu chí, thang điểm đánh giá dự án, chấm điểm tín dụng,... Quy định về cho vay tiêu dùng,cho vay không có tài sản đảm bảo, cho vay cầm cố, hướng dẫn kiểm tra tài sản đảm bảo nợ vay… Bên cạnh đó cần xem xét lại các cơ chế, quy chế đã ban hành trước đây để bổ sung hoàn chỉnh, bảo đảm tính cập nhật, cụ thể theo văn bản hướng dẫn của NHCT TW. Nâng cao vai trò của công tác thanh tra, kiểm soát quá trình cho vay DNNQD là công việc hết sức quan trọng nhằm đảm bảo chất lượng khoản vay. Do đó khi ngân hàng muốn nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng thì vai trò của công tác thanh tra kiểm soát phải được nâng lên ở mức tương xứng. Trong quá trình kiểm tra, giám sát vốn vay, CBTD phải thường xuyên đánh giá mức độ tín nhiệm, chấm điểm tín dụng của khách hàng. Nếu phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật thì ngân hàng phải lập tức tiến hành xử lý theo quyền hạn và nghĩa vụ của mình. Điều này là rất cần thiết vì trong quá trình cho vay, CBTD phải quan tâm đến khoản vay đó cả trước, trong và sau khi cho vay. Vì thế đòi hỏi CBTD phải giám sát thường xuyên, theo dõi chặt chẽ khoản vay để giảm thiểu rủi ro tín dụng. 3.2.3.Nâng cao chất lượng thẩm định (đặc biệt là tín dụng trung dài hạn) Cán bộ tín dụng thực hiện đúng quy trình thẩm định dự án trước khi quyết định cho vay là một việc làm cần thiết nhằm nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng. Việc phân tích, đánh giá lựa chọn cho vay DNNQD cần đảm bảo các nội dung sau: tính khả thi của phương án, dự án kinh doanh, tình hình tài chính và khả năng thanh toán của doanh nghiệp, uy tín và đạo đức của giám đốc doanh nghiệp. Trong quá trình thẩm định, CBTD cần phải tiến hành thẩm định DNNQD xin vay ở những vấn đề sau: - Trước tiên, ngân hàng xem xét tư cách pháp lý của DNNQD: Đó là việc căn cứ vào các văn bản, quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập. -Về việc thẩm định hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh. Đây là khâu chủ chốt và quan trọng bậc nhất đối với ngân hàng nhằm đạt hiệu quả mong muốn cũng như phòng tránh rủi ro. Quá trình thẩm định dự án đòi hỏi CBTD phải thực sự có năng lực, kinh nghiệm đánh giá xem xét tính khả thi của dự án trên toàn bộ các phương diện kỹ thuật, tài chính, kinh tế xã hội để đưa ra quyết định đúng đắn có nên cho vay hay không. CBTD cần phải xem xét hiệu quả phương án, dự tính được luồng tiền, thời gian thu hồi vốn đầu tư, doanh thu, chi phí dự tính, lợi nhuận từ dự án,... Ngoài ra thông qua quá trình thẩm định, CBTD có thể tư vấn thêm cho DNNQD những vấn đề có liên quan đến tình hình khả thi của dự án, phòng tránh rủi ro cho cả doanh nghiệp và ngân hàng. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng của công tác thẩm định, ngân hàng cũng phải chú ý đến công tác kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ bảo đảm thực hiện nghiêm túc các điều kiện, yêu cầu của quy trình tín dụng. - Qua các báo cáo thường kỳ của doanh nghiệp kết hợp với sự giám sát của cán bộ chuyên môn để đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng quản lý tài chính của giám đốc DNNQD. - Về vấn đề tài sản thế chấp: Hiện nay NHCT Cầu Giấy qui định khách hàng thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phải có tài sản thế chấp hoặc phải có tín chấp của bên thứ ba khi cho vay. Bởi vì ngân hàng thấy rằng cho vay có tài sản thế chấp là an toàn nhất, bởi khả năng phát mại tài sản để thu hồi nợ khi doanh nghiệp không trả nợ đúng hạn. Tuy nhiên việc quá tin tưởng vào tài sản thế chấp đã gây một vài hạn chế trong hoạt động cho vay của ngân hàng cả về quy mô lẫn chất lượng tín dụng. Bởi vì có rất nhiều DNNQD có phương án sản xuất kinh doanh khả thi nhưng do không có tài sản thế chấp hoặc có nhưng các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu không rõ ràng. Mặt khác chính bản thân tài sản thế chấp cũng chứa đựng nhiều rủi ro khi có biến động về giá. Do đó ngân hàng cần phải nhìn lại vấn đề về tài sản thế chấp, coi đó là điều kiện trong cho vay chứ không nhất thiết phải là một nguyên tắc. 3.2.4.Đổi mới cơ chế cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Nguyên tắc quan trọng đặt lên hàng đầu trong hoạt động cho vay là "an toàn và hiệu quả" song thực tế trong công tác cho vay đã xảy ra một số mâu thuẫn cần giải quyết hài hoà là tăng doanh số cho vay, tăng dư nợ nhưng phải giảm tỷ lệ nợ quá hạn. Yêu cầu đặt ra đối với cơ chế cho vay là phải gọn nhẹ, linh hoạt, phù hợp với từng loại hình kinh tế, từng loại hình doanh nghiệp, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động cho vay trên cơ sở phân tán rủi ro, và đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Về thủ tục cho vay: Những thủ tục trong quá trình xin vay vốn ngân hàng còn gây khá nhiều khó khăn cho DNNQD khi đến vay, cả về thời gian và qui trình. Những thủ tục phức tạp này không làm giảm rủi ro tín dụng mà lại làm giảm sự hài lòng của khách hàng đối với ngân hàng nên ngân hàng có thể thực hiện một số biện pháp sau: Rút ngắn thời gian xét duyệt vốn: Doanh nghiệp đi vay luôn muốn được vay nhanh chóng, vì vậy CBTD cần phải hoàn tất hồ sơ vay vốn trong thời gian ngắn nhất nhưng vẫn phải đảm bảo yếu tố đúng và đầy đủ. Ngân hàng có thể kết hợp với phòng công chứng Nhà nước để chứng nhận giấy tờ vừa chính xác vừa đảm bảo thời gian nhanh chóng. Tạo sự đơn giản, dễ hiểu về thủ tục cho vay phù hợp với mọi đối tượng khách hàng: CBTD cần hướng dẫn DNNQD về những giấy tờ cần thiết một cách rõ ràng, để họ hiểu và thông cảm với những khó khăn của ngân hàng. Về kỳ hạn vay: Hiện nay ngân hàng chủ yếu cho vay ngắn hạn, cho vay trung dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ và cho vay đối với khu vực kinh tế quốc doanh vẫn còn chiếm tỷ trọng khá lớn. Trong khi đó nhu cầu vốn trung dài hạn ở DNNQD là rất lớn. Nhiều khi các đơn vị kinh tế thuộc khu vực này muốn mở rộng sản xuất, đổi mới trang thiết bị công nghệ nhưng gặp khó khăn trong việc vay vốn ngân hàng nên đành bỏ lỡ cơ hội. Do đó NHCT Cầu Giấy nên định hướng cho vay trung dài hạn trong điều kiện tăng cường chất lượng quá trình thẩm định một cách kỹ lưỡng. Việc xác định kỳ hạn nợ không chỉ đơn thuần căn cứ vào bảng tổng kết tài sản, báo cáo kết quả kinh doanh, kế hoạch sản xuất mà còn phải dựa vào hợp đồng mua bán, tiêu thụ sản phẩm… Do vậy ngân hàng cần xác định kỳ hạn cho vay sao cho phù hợp với chu kỳ kinh doanh của khách hàng và tuổi thọ của máy móc thiết bị. Mỗi loại hình doanh nghiệp sản xuất có một chu kỳ sản xuất kinh doanh khác nhau do đó đối với từng loại hình kinh doanh của khách hàng mà ngân hàng tiến hành cho vay với kỳ hạn phù hợp. Về lãi suất cho vay: Lãi suất cho vay là vấn đề quan tâm không chỉ của ngân hàng mà các DNNQD cũng đặc biệt chú ý, vì lãi suất là điểm hội tụ của nhiều mối quan hệ liên quan trực tiếp tới lợi ích vật chất của các bên. Hiện nay ngân hàng đã thực hiện mức lãi suất linh hoạt đối với từng đối tượng khách hàng nhưng vẫn còn sự phân biệt đối với khu vực kinh tế NQD. Điều này làm nhu cầu về vốn của khách hàng thuộc thành phần kinh tế này không được đáp ứng vốn một cách đầy đủ. Ngân hàng nên mở rộng cho vay kinh tế NQD thông qua việc sử dụng mức lãi suất linh hoạt hơn tạo điều kiện cho thành phần kinh tế này có thể vay vốn và kinh doanh có lãi. Ngân hàng có thể áp dụng mức lãi suất linh hoạt theo mức vốn vay. Về cơ chế bảo đảm tiền vay: Ngân hàng áp dụng rất nhiều hình thức đảm bảo tiền vay như thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, ký quỹ tiền gửi. Hiện nay ngân hàng chủ yếu áp dụng hình thức bảo đảm bằng tài sản thế chấp. Trong khi đó các khách hàng thuộc khu vực kinh tế NQD hầu như tài sản có giá trị rất thấp, thậm chí họ không có tài sản đáng kể để đem đi thế chấp, do đó họ không có điều kiện để vay vốn nhất là các nguồn vốn lớn. Vì vậy ngân hàng nên kết hợp nhiều hình thức bảo đảm khác nhau để giải quyết cho vay vốn. - Đối với DNNQD được bảo lãnh tín dụng một phần và đủ tài sản thế chấp phần còn lại thì yêu cầu đơn vị thực hiện bảo đảm đủ nợ theo yêu cầu. - Đối với những DNNQD được bảo lãnh tín dụng một phần và tài sản thế chấp không đủ để đảm bảo phần còn lại thì yêu cầu đơn vị dùng tài sản hình thành từ vốn vay tiếp tục bảo đảm cho phần còn lại. - Đối với những DNNQD không đủ điều kiện để thực hiện như hai dạng trên thì ngân hàng phải chú trọng thẩm định dự án, phương án vay vốn và phải thông qua hội đồng tín dụng, ban giám đốc ngân hàng để quyết định xem có cho vay hay không và hạn mức cho vay là bao nhiêu. Hiện nay khi đi vay ngân hàng, các đơn vị kinh tế NQD thường quan tâm nhiều đến tài sản thế chấp. Nhưng bản thân tài sản thế chấp cũng chứa đựng nhiều rủi ro như quyền sở hữu tài sản mang thế chấp, sự biến động giá cả và những tác động khác gây hư hại cho tài sản thế chấp. Mặt khác việc thanh - xử lý tài sản thế chấp cũng không phải dễ dàng và không có ngân hàng nào cho vay mà lại mong muốn phải dùng đến biện pháp cuối cùng là xử lý tài sản thế chấp. Ngoài hình thức thế chấp tài sản ngân hàng nên phát triển các hình thức bảo đảm khác theo hướng sau: - Phát triển bảo đảm bằng các chứng từ có giá. Đây cũng là một loại tài sản đem cầm cố nhưng đó là một loại đặc biệt. Ưu điểm của loại tài sản này là gọn nhẹ, không bị tác động của yếu tố môi trường, những tác động lý hoá nên dễ bảo quản, và ưu điểm lớn nhất của loại tài sản này là có khả năng sinh lời, tất nhiên là vẫn còn những yếu tố rủi ro do những tác động kinh tế. Tuy nhiên, trong điều kiện thị trường chứng khoán như nước ta hiện nay thì loại giấy tờ có giá mà tính ổn định cao chứa đựng ít rủi ro là các trái phiếu chính phủ, vì vậy mà ngân hàng nên mở rộng hình thức bảo đảm bằng loại tài sản này. - Cho vay bằng bảo lãnh của bên thứ ba cũng là hình thức có nhiều ưu điểm giúp cho các DNNQD mới thành lập có điều kiện vay vốn ngân hàng. Tuy nhiên ở nước ta hoạt động bảo lãnh vẫn còn hạn hẹp và quy chế bảo lãnh chưa đầy đủ. Do vậy cần có những chính sách, quy chế cụ thể để phát huy tốt nhất những ưu thế của hình thức bảo lãnh. - Ngoài ra còn có những hình thức bảo đảm bằng các khoản phải thu, hàng tồn kho, hoặc cho vay dựa vào thế chấp các hàng hoá, thiết bị được hình thành từ vốn vay. Các hình thức này đòi hỏi thủ tục hành chính và sự giám sát thường xuyên của CBTD. Mỗi hình thức bảo đảm tiền vay đều có những ưu và nhược điểm riêng, tuy nhiên việc sử dụng chúng một cách linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng DNNQD thì sẽ tạo điều kiện cho thành phần kinh tế NQD tiếp cận được với nguồn vốn mà vẫn đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Về phương thức cho vay: NHCT Cầu Giấy cần phải đa dạng hoá các phương thức cho vay. Hiện nay mới chỉ cho vay DNNQD theo hạn mức tín dụng, cho vay từng lần còn cho vay theo dự án đầu tư nhưng chiếm một tỷ lệ nhỏ. Mỗi phương thức cho vay đều có những ưu, nhược điểm nhất định, ngân hàng có thể xem xét, áp dụng từng phương thức cho vay đối với từng loại hình DNNQD, tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay vốn sử dụng tốt vốn vay. Như vậy phát huy phương pháp cho vay theo hạn mức tín dụng đối với khu vực kinh tế DNNQD. Tuy nhiên, ngân hàng có thể cho những khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh vay hoặc buộc họ có tài sản thế chấp để đảm bảo. Nếu sau một thời gian khách hàng không trả dần nợ vay để làm giảm dư nợ tín dụng trên tài khoản cho vay theo hạn mức hay có dấu hiệu chiếm dụng vốn vay thì khi đó ngân hàng có thể tạm ngừng cung cấp tiếp vốn vay, yêu cầu khách hàng thực hiện đúng các khoản trong hợp đồng tín dụng và chuyển cho vay từng món đối với số tiền vay đã phát hành. Ngoài ra, ngân hàng nên áp dụng nghiệp vụ thấu chi, ưu điểm của nghiệp vụ này là khách hàng được sử dụng vốn và tiền vay một cách linh hoạt và chủ động. Đối với khách hàng có năng lực tài chính lành mạnh, tài khoản tiền gửi phát sinh không thường xuyên, đồng thời phát sinh nợ chỉ trong thời gian ngắn thì ngân hàng nên cho phép khách hàng sử dụng tài khoản vãng lai. Khi tài khoản này là dư có thì khách hàng là chủ nợ của ngân hàng và ngược lại thì ngân hàng là chủ nợ của khách hàng. Tuy nhiên tài khoản chỉ được sử dụng trong một thời gian nhất định. 3.2.5.Tăng cường các biện pháp thu hồi nợ quá hạn, nợ gia hạn. NHCT Cầu Giấy cần tập trung thực hiện ngay một số nội dung như: Rà soát lại chỉ tiêu nợ quá hạn năm 2005 do Ngân hàng Công thương Việt Nam giao. Đánh giá phân loại nợ quá hạn, nợ gia hạn theo nguyên nhân của từng khoản nợ. Đề ra kế hoạch và biện pháp xử lý cụ thể, tập trung cán bộ thu nợ, không để tình trạng nợ nần kéo dài. Đặc biệt là tất cả các khoản nợ quá hạn phát sinh trong 9 tháng đầu năm 2005 cần tập trung bằng mọi biện pháp thu được nợ quá hạn này dứt điểm trong 3 tháng còn lại năm 2005. đối với những khoản nợ đọng do khách hàng cố tình chây ỳ thì chi nhánh tiến hành các thủ tục khởi kiện và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng tổ chức cưỡng chế, phát mại tài sản thu hồi nợ theo quy định của pháp luật. Đối với một số khách hàng tạm thời gặp khó khăn dẫn đến chưa trả được nợ ngân hàng, chi nhánh phải xem xét cụ thể từng trường hợp để quyết định có cho vay tiếp hay không, nếu cho vay tiếp phải đảm bảo khách hàng khắc phục được khó khăn trả được nợ ngân hàng với số tiền thu hồi nợ lớn hơn số tiền cho vay thêm, đồng thời yêu cầu khách hàng thực hiện biện pháp bổ sung tài sản thế chấp đảm bảo số nợ vay tại chi nhánh. Bên cạnh đó thực hiện tốt chiến lược khách hàng là DNNQD, thực hiện tốt chính sách khách hàng, thường xuyên quan tâm chăm sóc phục vụ tốt và dành hạn mức tín dụng để đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn tín dụng hợp lý, hiệu quả của những khách hàng tốt; tích cực khai thác, tiếp thị các khách hàng tốt, các nhu cầu vay vốn thu mua nông sản, lương thực xuất khẩu, kinh doanh hàng phục vụ tế. Các phương án kinh doanh có hiệu quả (chú trọng cho vay vốn ngắn hạn) để thẩm định phải được chú trọng tăng cường kiểm tra kiểm soát đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích, thu hồi nợ đầy đủ, đúng hạn. - NHCT Cầu Giấy nên giao trách nhiệm cụ thể bằng văn bản đối với từng thành viên Ban giám đốc, Trưởng phòng và cán bộ kinh doanh trong việc thực hiện chỉ tiêu, tiến bộ thu nợ quá hạn, nợ gia hạn. Gắn kết quả thực hiện với xếp lương kinh doanh, xếp loại thi đua, đánh giá cán bộ. Định kỳ hàng tuần, tháng tổ chức họp phân tích, đánh giá chi tiết thực trạng từng khoản nợ, tiến độ thu nợ, những khó khăn vướng mắc và giải pháp tháo gỡ. Chỉ đạo thực hiện mọi biện pháp để tận thu nợ quá hạn cũ và thu hồi triệt để nợ quá hạn, nợ gia hạn mới phát sinh trong 9 tháng đầu năm 2005. - Thành lập tổ thu hồi nợ quá hạn: gồm trưởng phòng và các CBTD , đồng thời cũng bầu một người có kinh nghiệm làm tổ trưởng tổ thu hồi nợ (thường là đồng chí trưởng phòng). Tổ thu hồi nợ có trách nhiệm đề ra các biện pháp thích hợp thu hồi nợ cụ thể đối với từng khách hàng và báo cáo tiến độ thu hồi nợ với Ban giám đốc. Hiện nay ở NHCT Cầu Giấy thì một cán bộ tín dụng phải chịu rất nhiều trách nhiệm, và phải thực hiện nhiều công việc một lúc: có thể vừa phải đi thu hồi món cũ về, vừa phải thẩm định cho vay món mới. Trong khi đó việc thu hồi nợ thường gây mất nhiều thời gian, bên cạnh đó lại ảnh hưởng tâm lý của CBTD, nhiều khi khiến họ bỏ qua những khách hàng tốt hoặc lại sai lầm trong cho vay món mới. Như vậy rõ ràng sẽ ảnh hưởng đến hiệu suất làm việc của CBTD, trong khi đó NHCT Cầu Giấy là một ngân hàng mới, trong giai đoạn hiện nay lại gặp nhiều khoản nợ quá hạn, trong đó nợ quá hạn cho vay NQD chiếm một tỷ trọng khá cao. Vì thế theo tôi thì việc thành lập hằn một tổ thu hồi nợ là hợp lý, vừa để giải quyết triệt để những món vay quá hạn vừa không ảnh hưởng đến hiệu suất và nếu có thể thành lập hẳn một phòng nhỏ thu hồi nợ. 3.2.6.Thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro cho vay ngoài quốc doanh. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, rủi ro là một vấn đề không thể tránh khỏi Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thì rủi ro có thể nói là một đặc trưng, một nguy cơ thường trực với muôn hình vẻ. Mà trong khi đó rủi ro lại là nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của một ngân hàng. Khi rủi ro tăng, nợ khó đòi không thể thu hồi được là thực tế thì lợi nhuận kinh doanh sẽ lập tức sụt giảm, thêm vào đó là uy tín của một ngân hàng cũng sẽ bị giảm. Trong khi đó tại NHCT Cầu Giấy thì nợ quá hạn cho vay NQD đang chiếm một tỷ trọng lớn, với mức ảnh hưởng ngày càng tăng của việc cho vay thành phần kinh tế này trong một vài năm tới thì đương nhiên là lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Như vậy thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong cho vay NQD là hoạt động hết sức cần thiết và quan trọng đối với NHCT Cầu Giấy để có được hiệu quả kinh doanh tốt. Các biện pháp cụ thể để thực hiện là: - Chủ động phân tán, hạn chế rủi ro: Điều này có nghĩa rủi ro ở một mức độ nào đó là chắc chắn phải có nhưng nếu rủi ro xảy ra ngắt quãng về thời gian, phân tán về không gian cũng như lĩnh vực thì thiệt hại có thể sẽ không dẫn đến sự bất ổn trong kinh doanh ngân hàng. Như vậy đối với kinh doanh tín dụng mức rủi ro làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng và kết quả kinh doanh của mỗi ngân hàng như thế nào lại phụ thuộc vào chính khả năng ngăn ngừa và khắc phục của mỗi ngân hàng. Phân tán rủi ro là một giải pháp có tính chủ động và ngăn ngừa có tích cực những hậu quả lớn có thể xảy ra đối với mỗi ngân hàng. Việc phân tán rủi ro được thực hiện thông qua phân tán dư nợ, nó được biểu thị dưới hình thức mỗi ngân hàng nên đa dạng hoá ngành nghề cho vay, không nên tập trung quá nhiều vốn cho một người vay, hạn chế cho vay những lĩnh vực có độ rủi ro cao, những lĩnh vực kinh doanh hay sản phẩm mà thị trường đã có dấu hiệu bão hoà, sản phẩm sản xuất ra không có khả năng cạnh tranh,… - Nghiên cứu và hình thành các bảo đảm tín dụng chắc chắn: có hai phương thức bảo đảm cơ bản đó là bảo đảm bằng uy tín và bảo đảm bằng tài sản. Đối với bảo đảm bằng uy tín thì hiện nay các ngân hàng cũng đã hạn chế rất nhiều, và xét chung thì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ lẻ, cũng không có sự bảo trợ của Nhà nước nên cũng nên hạn chế. Đối với bảo đảm bằng tài sản thì nó lại tuỳ thuộc vào những khoản vay nhất định và tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng để có những tài sản đảm bảo phù hợp nhất định. Khi nhận một tài sản làm đảm bảo cho một khoản vay phải xem xét kỹ lưỡng và chắc chắn rằng có thể đánh giá tương đối chính xác giá trị của TSBĐ đó. Trên thực tế áp dụng, nếu ngân hàng làm tốt khâu TSBĐ, kiên quyết từ chối cho vay nếu tài sản đảm bảo không đầy đủ, rõ ràng thì chắc chắn sẽ hạn chế được phần lớn những rủi ro, đảm bảo một nguồn thu hồi nợ thứ hai chắc chắn khi khách hàng không thanh toán được món nợ. - Xây dựng một hệ thống thông tin tốt: Nắm bắt thông tin tốt về các DNNQD sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng có quyết định cho vay đúng hạn chế rủi ro. Mặt khác, nắm bắt thông tin tốt, ngân hàng sẽ phân tích đánh giá "định lượng được rủi ro, có những dự báo dự đoán được diễn biến của tình hình thị trường, của nền kinh tế. Dự báo, dự đoán được tính hiệu quả, khả thi của dự án trong tương lai từ đó đưa ra quyết định đầu tư hay không đối với các dự án lớn, dự án trung dài hạn. Đây là giải pháp ngân hàng nên quan tâm và thực hiện trong một môi trường mà thông tin trở thành tài nguyên, nguồn lực đối với sự phát triển kinh tế. Theo đó cần phải xây dựng và tổ chức tốt hệ thống thông tin: bao gồm thông tin tín dụng; thông tin khách hàng và thông tin về nền kinh tế, thông tin pháp luật, thông tin thị trường và mức độ ứng dụng công nghệ cao cho phép thu thập và xử lý thông tin nhanh, đảm bảo tính cập nhật và chính xác. - Thực hiện quan hệ trao đổi thông tin tốt giữa các TCTD với nhau và với NHNN, với các tổ chức kinh tế. Tận dụng nguồn thông tin của trung tâm thông tin tín dụng (CIC). - Phát triển mạng thông tin nội bộ và xây dựng trang web, kết nối Internet để thường xuyên khai thác thông tin về tình hình kinh tế chính trị - xã hội trong nước và quốc tế, nắm bắt kịp thời diễn biến của tình hình thị trường của doanh nghiệp. - Tham gia đầy đủ vào hệ thống thông tin tín dụng của Nhà nước với tư cách thành viên, thực hiện nghiêm túc các quy định của quy chế thông tin tín dụng do NHNN ban hành. - Có quy định bắt buộc đối với doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với ngân hàng định kỳ phải gửi báo cáo tài chính quý, 6 tháng, năm đầy đủ, kịp thời và chính xác. 3.2.7.Khai thác tốt các chương trình hỗ trợ DNNQD. Thứ nhất, làm tốt công tác tư vấn, hỗ trợ DNNQD trong quá trình tạo lập và xây dựng dự án khả thi; tư vấn tốt cho khách hàng về thực hiện thủ tục vay vốn, quan hệ giao dịch với ngân hàng. Hạn chế tối đa những vướng mắc, lúng túng không cần thiết từ các DNNQD khi quan hệ tín dụng với ngân hàng, loại bỏ những trung gian, dịch vụ gây sự phiền hà và tốn kém cho doanh nghiệp. Thứ hai, mở rộng tài trợ DNNQD dưới hình thức cho thuê tài chính. Khu vực NQD phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp này có vốn tự có thấp, tài sản dùng để thế chấp, cầm cố vay vốn ngân hàng ít. Bởi vậy, vay vốn NH dưới hình thức thế chấp, cầm cố tài sản là rất khó khăn. Vay vốn dưới hình thức tín chấp lại không đủ điều kiện quy định của ngân hàng cho vay. Cho nên, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế này huy động vốn dưới hình thức đi thuê tài chính là tối ưu. Khi ngân hàng mở rộng hình thức tài trợ này sẽ phát huy được những tác dụng : - Doanh nghiệp không có hoặc có tài sản thế chấp, cầm cố ít vẫn thuê được tài sản để sử dụng cho quá trình sản xuất kinh doanh. - Tiền thuê được trả dần theo nhiều năm, do đó không gây khó khăn tài chính cho doanh nghiệp đi thuê. - Doanh nghiệp có đủ điều kiện máy móc, thiết bị đảm bảo kỹ thuật tiên tiến và công nghệ mới cho sản xuất kinh doanh để tạo ra sản phẩm mới đủ tiêu chuẩn cạnh tranh trên thị trường. 3.3. Một số kiến nghị 3.3.1.Kiến nghị đối với Nhà nước và các cơ quan hữu quan Những năm gần đây Chính phủ đã thể hiện quan điểm phát triển bình đẳng các thành phần kinh tế: giữa các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh. Tuy nhiên những động thái cụ thể về vấn đề này vẫn chưa được thể hiện rõ ràng. Để DNNQD có những bước phát triển vượt bậc hơn nhờ những chính sách của Nhà nước, em xin đề xuất một số ý kiến sau: Luật doanh nghiệp đã có hiệu lực thi hành từ 01/07/2006, Chính phủ khẩn trương yêu cầu các Bộ chức năng xây dựng xong các dự thảo Nghị định triển khai luật mặt này, trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành, tạo môi trường pháp lý cho các DNNQD phát triển đúng pháp luật, vững chắc, ổn định, sớm cho ra đời luật cạnh tranh… Các cơ quan hữu quan Nhà nước tăng cường kiểm tra hoạt động của các DNNQD, đảm bảo các doanh nghiệp này hoạt động đúng pháp luật, thực hiện đúng pháp lệnh kế toán thống kê, yêu cầu các doanh nghiệp có số vốn điều lệ từ 5 tỷ đồng trở lên hoặc 10 tỷ đồng trở lên, hàng năm dứt phải thực hiện kiểm toán. Song cũng tránh tình trạng kiểm tra, kiểm tra quá nhiều, chồng chéo,… gây khó khăn cho doanh nghiệp. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước để không gây khó khăn cho sự phát triển DNNQD. Chính phủ mạnh dạn cổ phần hoá ngay các doanh nghiệp của Nhà nước có quy mô vốn lớn, đang hoạt động có hiệu quả, mà không phải thuộc lĩnh vực quan trọng như Công ty Bia Sài Gòn, Công ty Sữa Việt Nam, một số Công ty Xi măng, Nhà máy Mía đường, May mặc,… tạo sự đột phá tăng tốc đẩy nhanh thực sự quá trình cổ phần hoá DNNN thúc đẩy thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả. Chính phủ kiên quyết thực hiện đúng cam kết với IMF, ADB, WB, WTO, AFTA,… về cải tổ DNNN, chống bao cấp, bảo trợ quá mức cho DNNN, thúc đẩy phát triển DNNQD. Không hình sự hoá các quan hệ kinh tế - dân sự trong quan hệ vay vốn giữa các ngân hàng khi xảy ra các tranh chấp khi doanh nghiệp không trả được nợ cho ngân hàng. Chính phủ cho phép các DNNQD hoạt động có hiệu quả, được vay vốn ngân hàng đến mức 100 triệu, hoặc 200 triệu đồng không phải thế chấp tài sản, miễn là đảm bảo được 3 điều kiện: dự án có hiệu quả, doanh nghiệp 3 năm liền kề có lãi, tình hình tài chính mạnh và có uy tín trong quan hệ vay vốn với ngân hàng. Chính phủ có chính sách xử lý rủi ro đối với các ngân hàng cho vay vốn DNNQD, bình đẳng như đối với DNNN như: khoanh nợ, giảm nợ, xoá nợ, ân hạn, gia hạn, ưu đãi lãi suất Xây dựng dự án, đàm phán thu hút tài trợ của nước ngoài, các tổ chức quốc tế về: Đào tạo nâng cao trình độ quản lý kinh doanh cho các chủ doanh nghiệp Việt Nam; xây dựng và cung cấp thông tin thị trường thế giới cho các DNNQD; giúp đỡ về công nghệ, hợp tác kinh doanh, tài trợ vốn ban đầu thành lập. Có chính sách đáp ứng nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu cho các DNNQD bình đẳng như các DNNN. Cho phép kinh tế tư nhân tham gia vào hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, thương mại, xuất nhập khẩu ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế mà lâu nay thuộc độc quyền của các DNNN, thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế. 3.3.2.Kiến nghị đối với NHNN. NHNN cần thực hiện nhanh có hiệu quả chương trình cải tổ, cơ cấu lại ngành Ngân hàng Việt Nam. Thu hút các dự án, chương trình của quốc tế, các nước khác trong khu vực và trên thế giới, hỗ trợ ngành Ngân hàng Việt Nam về đào tạo cán bộ quản lý, nâng cao trình độ quản lý, điều hành hoạt động ngân hàng theo trình độ quốc tế; đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ, thẩm định dự án, đánh giá dự án, phân tích đánh giá rủi ro cho cán bộ ngân hàng; trang bị công nghệ Ngân hàng hiện đại. Sửa đổi cơ chế, chính sách về cho vay, bảo lãnh theo hướng nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các ngân hàng, tăng thu nhập, tăng lương cho chủ ngân hàng và cán bộ ngân hàng. Nghiên cứu, xem xét có thể trong một số năm tới tiến hành cổ phần hoá 1 - 2 NHTM quốc doanh, nhưng Nhà nước vẫn nắm giữ trên 50% vốn cổ phần; trong tổng số 6 NHTM quốc doanh hiện có. Tất nhiên cũng cần xem xét yếu tố khác là trong cơ cấu hiện tại, thì số lượng NHTM cổ phần có quá đông không, trong khi thị phần còn nhỏ. Thực hiện đúng lộ trình mở cửa hoạt động ngân hàng với nước ngoài, bãi bỏ các quy định hạn chế hoạt động của các NH ở Việt Nam, theo cam kết với hiệp định thương mại Việt Mĩ, AFTA. Cho phép thêm một số ngân hàng của Nhật, Mĩ, Khối EU mở chi nhánh hoạt động ở Việt Nam; tạo môi trường cạnh tranh thông thoáng cho hoạt động ngân hàng, thúc đẩy thị trường vốn phát triển. 3.3.3.Kiến nghị đối với NHCT TW NHCT khu vực Cầu Giấy là chi nhánh cấp I của NHCT cho vay vì vậy NHCT TW cần có những định hướng đối với chi nhánh: Hỗ trợ cho NHCT Cầu Giấy chi phí để hiện đại hoá cơ sở trang thiết bị, mua sắm máy móc để thực hiện tốt công tác thẩm định và lưu trữ, đánh giá thông tin về khách hàng. Thu thập các thông tin về cãc DNNQD hoạt động trên địa bàn thành phố Hà Nội, các tổ chức tín dụng cạnh tranh với chi nhánh, cũng như đánh giá xu thế phát triển của thị trường. Từ đó đưa ra lãi suất chỉ đạo hợp lý giúp chi nhánh điều chỉnh khung lãi suất cho vay của mình cho phù hợp, tăng khả năng cạnh tranh của chi nhánh và giúp chi nhánh thu hút thêm khách hàng. Tổ chức thanh tra, kiểm soát nội bộ định kỳ và bất thường, hướng dẫn chi nhánh thực hiện tự kiểm tra để phát hiện những sai sót, kịp thời sửa chữa, tránh những hậu quả nghiêm trọng và thực hiện theo đúng đường lối, chính sách đã đề ra. NHCT TW cũng phải có kịp thời các văn bản và hướng dẫn nghiệp vụ khi có các văn bản của Nhà nước, của các ngành liên quan được phát hành. Thường xuyên quan tâm xem xét hoạt động kinh doanh tại chi nhánh để có những chiến lược cụ thể, phù hợp với khả năng của chi nhánh. Tổ chức các khoá học đào tạo và nâng cao nghiệp vụ cho các cán bộ tín dụng trẻ. Bên cạnh đó cũng phải thường xuyên tổ chức những buổi thảo luận chuyên ngành ngân hàng để các cán bộ tín dụng trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của nhau. Có chế độ khen thưởng rõ ràng, công minh, xứng đáng cho các chi nhánh nhằm khuyến khích, thúc đẩy các chi nhánh hoạt động có hiệu quả hơn và tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các chi nhánh trong cùng hệ thống NHCT. 3.2.4.Kiến nghị đối với các DNNQD. Trong thời gian qua tỷ trọng cho vay đối với thành phần kinh tế NQD có tăng nhưng ở một tốc độ khá chậm. Nguyên nhân thực tế lại xuất phát chủ yếu từ các DNNQD. Thứ nhất, từ năm 1996 hàng loạt các DNNQD làm ăn thua lỗ, bị phá sản. Hàng loạt vụ án lớn đối với DNNQD vay số vốn NH rất lớn bị đưa ra xét xử, cán bộ tín dụng NH lo sợ không dám mở rộng cho vay như trước đây. Trong khi đó nhiều các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong các lĩnh vực quan trọng như: Dầu khí, Bưu chính viễn thông, xăng dầu, hàng hải, điện lực, xây dựng, giao thông, xi măng,… vay vốn với các dự án lớn cho thi công làm cho dư nợ cho vay được phục hồi trở lại. Thứ hai, các DNNQD cần nâng cao uy tín của mình vì những năm qua Nhà nước bị thất thu thuế với tỷ lệ cao nhất, các vụ án bị đưa ra xét xử nhiều nhất, nhiều vụ đổ vỡ, lừa đảo, phá sản xảy ra, cơ quan quản lý Nhà nước kêu ca nhiều về DNNQD, tỷ lệ nợ quá hạn của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh còn khá cao. Thứ ba, đa số các DNNQD thiếu vốn khi thành lập và cả trong quá trình kinh doanh. Trong quá trình hoạt động kinh doanh thường chiếm dụng vốn của đối tác kinh doanh đến khi mất khả năng thanh toán thì lừa đảo ngân hàng, giả mạo giấy tờ xin vay vốn và lừa đảo đối tác kinh doanh. Thứ tư, nhiều DNNQD trong hoạt động trái chức năng được phép, buôn lậu, lừa đảo. Một số DNNQD mở rộng quy mô kinh doanh quá lớn, thực hiện nhiều chức năng vượt quá khả năng quản lý. Thứ năm, Nhiều chủ DNNQD không có kiến thức quản lý, không có trình độ chuyên môn, thậm chí trình độ văn hoá thấp, không đủ khả năng xây dựng dự án đầu tư xin vay vốn NH theo quy định. Trình độ tay nghề công nhân thấp. Thứ sáu, thiếu thông tin về thị trường, nhất là thị trường quốc tế, trình độ công nghệ và chất lượng sản phẩm thiếu sức cạnh tranh. Thứ bảy, phần đông DNNQD không thực hiện nghiêm túc pháp lệnh kế toán, thống kê. Do đó không có báo cáo tài chính tin cậy. Như vậy, trước hết DNNQD phải tự chịu trách nhiệm về khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng của mình. Chỉ khi DNNQD làm ăn có hiệu quả thì tự khắc nguồn vốn NH sẽ chảy vào. Cụ thể: Ngay từ khi mới thành lập DNNQD phải có được mục đích kinh doanh chính đáng lành mạnh vào những lĩnh vực phát triển mạnh hoặc những lĩnh vực mà mình có khả năng hay ưu thế nhất định. Khi đi vào hoạt động phải có kế hoạch chiến lược kinh doanh phù hợp với điều kiện, chủ động tiếp cận thì trường nắm bắt cơ hội, xây dựng được các dự án chiến lược khả thi, có hiệu quả, sản phẩm có khả năng cạnh tranh. Các DNNQD phải chủ động trong việc đi tìm kiếm nguồn vốn và phải nhận thức được vai trò quan trọng của nguồn vốn vay từ ngân hàng, lãi suất phải trả ngân hàng là một chi phí mà doanh nghiệp được từ đi khi tính thuế. Do đó doanh nghiệp phải nhận thức được vấn đề "tiết kiệm thuế nhờ lãi suất ngân hàng". Một vấn đề cũng hết sức quan trọng đó là nâng cao trình độ cán bộ lãnh đạo, một người chủ có phẩm chất, có kiến thức ắt sẽ tự xây dựng được một doanh nghiệp vững mạnh. Bên cạnh đó cũng chú trọng công tác bồi dưỡng đào tạo cán bộ, công nhân để đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường. KẾT LUẬN Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã có những bước phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, đóng một vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Một trong những điều kiện hàng đầu để DNNQD có thể phát triển là vốn, mà đặc biệt là vốn vay ngân hàng. Trong mối quan hệ vay mượn, hai chủ thể ngân hàng và DNNQD đều đem lại lợi ích cho nhau, ngân hàng cần khách hàng đến vay vốn để phát triển còn DNNQD cần nguồn vốn vay từ ngân hàng để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy, đây là mối quan hệ tương hỗ, cần củng cố và phát triển. Trong hoạt động cho vay, chất lượng tín dụng luôn là vấn đề đáng quan tâm nhất của không chỉ ngân hàng mà cả DNNQD vì khi chất lượng tín dụng được đảm bảo thì mối quan hệ giữa ngân hàng và DNNQD mới được bền chặt. Đề tài của em đề cập đến vấn đề chất lượng cho vay đối với DNNQD tại NHCT Cầu Giấy, tìm hiểu thực trạng tại cơ sở để từ đó tìm ra nguyên nhân, khó khăn dẫn đến chất lượng các khoản vay của DNNQD chưa tốt. Từ đó đưa ra những giải pháp đối với NHCT Cầu Giấy và những kiến nghị đối với các cơ quan có liên quan để cùng nhau giải quyết, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trong thời gian tới. Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Vũ Duy Hào và các cô chú, anh chị phòng Kinh doanh đối nội – NHCT Cầu Giấy đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành Chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36462.doc
Tài liệu liên quan