CHƯƠNG 1
***o0o***
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY DỰ ÁN ĐẦU TƯ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
.1. Tổng quan về DAĐT và cho vay DAĐT của NHTM
.1.1. Những vấn đề cơ bản về DAĐT
.1.1.1. Khái niệm
Đầu tư được coi là động lực của sự phát triển nói chung và sự phát triển kinh tế ói riêng của mọi quốc gia trên thế giới. Có thể hiểu đầu tư là việc huy động nguồn ực để biến các lợi ích dự kiến thành hiện thực trong một khoảng thời gian đủ dài rong tương lai. Trong đó: các nguồn lực chính là vốn, chất xám, tài nguyên thiên hiên, thời gian ; lợi ích dự kiến có thể lượng hoá được (hay đo được hiệu quả ằng tiền như sự tăng lên của sản lượng, lợi nhuận ) mà cũng có thể không lượng oá được (như sự phát triển trong các lĩnh vực giáo dục, giải quyết các vấn đề xã ội, quốc phòng ). Đối với doanh nghiệp, đầu tư hiểu đơn giản là việc bỏ vốn kinh oanh để mong thu được lợi nhuận trong tương lai. Còn trên quan điểm xã hội thì ầu tư là hoạt động bỏ vốn để từ đó thu được các hiệu quả kinh tế * xã hội, vì mục êu phát triển quốc gia. Nhưng cho dù đứng từ góc độ nào đi chăng nữa, muốn tối a hoá hiệu quả của đầu tư thì trước khi quyết định đầu tư, nhất thiết phải có DAĐT. Vậy DAĐT là gì?
DAĐT là một tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về khối lượng, cải ến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một khoảng hời gian xác định. DAĐT chính là cơ sở quan trọng để chủ đầu tư và các nhà đầu ư liên quan xem xét ra quyết định đầu tư.
89 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1659 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng cho vay dự án đầu tư tại Ngân hàng công thương - Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh doanh đa ngành, trong đó cốt lõi là hoạt động NHTM, ngân hàng đầu tư
và các dịch vụ tài chính. Lựa chọn và áp dụng các thông lệ quốc tế tốt nhất vào mô
hình tổ chức, quản trị, điều hành, quản lý và kiểm soát rủi ro. Hoàn thiện hệ thống
cơ chế, chính sách về quản trị, điều hành kinh doanh, quản lý và kiểm soát rủi ro,
quy trình kỹ thuật nghiệp vụ, đánh giá hiệu quả kinh doanh theo thông lệ quản trị
hiện đại trong lĩnh vực tài chính ngân hàng trên thế giới.
Ø Chiến lược về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, cải thiện căn
bản chất lượng nguồn nhân lực
Từ nay đến năm 2015 sẽ tiếp tục cơ cấu lại nguồn nhân lực một cách mạnh mẽ,
không tăng mà giảm số lượng, tăng chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ
cán bộ có trình độ và năng lực chuyên môn cao, đào tạo nhiều hơn các kiến thức
nghiệp vụ của ngân hàng quốc tế, ngoại ngữ, tin học; Tuyển dụng thêm nhiều cán
bộ có trình độ chuyên môn cao ở các nghiệp vụ, có khả năng tạo doanh số, lợi
nhuận nhiều cho NHCT. Tiếp tục hoàn thiện thực hiện cơ chế động lực tiền lương,
tiền thưởng theo nguyên tắc gắn lợi ích với trách nhiệm, kết quả, năng suất, hiệu
quả công việc của từng cán bộ nhân viên NHCT. Thực hiện chương trình tính đầy
đủ chi phí, hiệu quả đến từng đơn vị sản phẩm, cá nhân.
Ø Chiến lược về đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin
Ưu tiên tập trung đầu tư phát triển mạnh công nghệ thông tin ngân hàng, xây
dựng hệ thống công nghệ thông tin đồng bộ, hiện đại, an toàn và hiệu quả, đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ mới, hiện đại trong lĩnh vực quản trị ngân hàng, kiểm
soát rủi ro, phát triển sản phẩm dịch vụ mới. Coi công nghệ ngân hàng là yếu tố
then chốt, là cơ sở nền tảng để phát triển, hội nhập tích cực với khu vực, quốc tế.
Nâng cao năng lực cạnh tranh, chất lượng, năng suất, hiệu quả hoạt động kinh
doanh của NHCT
3.1.2. Chiến lược kinh doanh của NHCT – CN TP.HCM từ nay đến năm 2015
3.1.2.1. Định hướng chung
Trên cơ sở định hướng chung là xây dựng NHCT trở thành tập đoàn tài chính
ngân hàng hiện đại, xếp hạng tiên tiến trong khu vực, đáp ứng toàn diện nhu cầu
các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, tài chính, hỗ trợ tốt nhất cho khách hàng trong
nước và quốc tế, quản lý có hiệu quả và phát triển bền vững với các chiến lược
cùng với vị thế là một trong những chi nhánh dẫn đầu trong hệ thống về quy mô
67
hoạt động, NHCT CN TP.HCM đã ra vạch ra định hướng hoạt động từ năm 2011
đến những năm 2015 là “Dẫn đầu trong hệ thống NHCT về quy mô hoạt động, hiệu
quả kinh doanh và trở thành một trong số Ngân hàng đứng đầu trên địa bàn Thành
Phố Hồ Chí Minh”.
3.1.2.2. Định hướng cụ thể
Từ định hướng chung ở trên, NHCT – CN TP.HCM đã đề ra những mục tiêu cụ
thể trong giai đoạn từ năm 20112015 như sau:
+ Phát huy những kết quả đạt được trong những năm vừa qua, tiếp tục đẩy
mạnh công tác huy động, thu hút nhiều nguồn vốn với khối lượng lớn, kỳ hạn ổn
định từ các khách hàng lớn trong nước và quốc tế, bên cạnh đó đẩy mạnh hoạt động
thanh toán, thẻ và dịch vụ ngân hàng điện tử, tài trợ thương mại, kiều hối... nhằm
phát huy tổng thể sức mạnh của ngân hàng, nghiên cứu phát triển các gói sản
phẩm/dịch vụ đa dạng, cạnh tranh với nhiều giá trị gia tăng, đẩy mạnh huy động thu
hút khách hàng gửi tiền dân cư, tận dụng mọi nguồn vốn nhàn rỗi trên thị trường.
+ Ưu tiên vốn phục vụ cho vay phát triển sản xuất, kinh doanh: tập trung cho
vay các ngành kinh tế trọng điểm phục vụ sản xuất, kinh doanh, đồng thời rà soát,
kiểm soát chặt chẽ, khống chế và hạn chế cho vay các nhu cầu phi sản xuất, đồng
thời triển khai nhiều chương trình tín dụng cho vay ưu đãi lãi suất đối với các khu
vực kinh tế được Chính phủ khuyến khích như: Cho vay hỗ trợ xuất khẩu, cho vay
phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, cho vay công nghiệp hỗ trợ, cho vay
doanh nghiệp nhỏ và vừa.
+ Phấn đấu đạt được một số chỉ tiêu cơ bản trong hoạt động kinh doanh, bao
gồm:
ü Tăng trưởng nguồn vốn huy động: 20%/năm.
ü Tăng trưởng dư nợ tín dụng: 25%/năm (tỷ trọng dư nợ cho vay theo
DAĐT chiếm bình quân 40% tổng dư nợ tín dụng).
ü Tăng trưởng thu dịch vụ: 10%.
ü Nợ xấu/tổng dư nợ: < 0,5%.
ü Tăng trưởng lợi nhuận hằng năm: 15%.
ü
68
3.2 Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay DAĐT tại NHCT – CN TP.HCM
3.2.1. Các giải pháp chung
3.2.1.1. Đa dạng hóa danh mục đầu tư
Việc tập trung quá nhiều dư nợ vào một số ngành nghề, lĩnh vực sẽ làm ngân
hàng phải đối mặt với rất nhiều rủi ro, nhất là trong trường hợp các ngành nghề đó
gặp khó khăn. Do đó, để hạn chế rủi ro này, NHCT – CN TP.HCM cần đa dạng hóa
danh mục đầu tư của mình. Đồng thời, trên cơ sở chính sách tín dụng mà NHCT
ban hành hàng năm, NHCT – CN TP.HCM cần phải cụ thể hóa lại cho phù hợp với
tình hình thực tế trên địa bàn, qua đó xác định cụ thể các ngành nghề, lĩnh vực cần
tập trung vốn để tài trợ và các ngành nghề, lĩnh vực cần hạn chế. Làm được điều
này sẽ giúp cho Chi nhánh rất nhiều trong việc hạn chế rủi ro nhất là trong những
trường hợp nền kinh tế có nhiều khó khăn làm ảnh hưởng đến một số ngành nghề,
lĩnh vực nhất định.
3.2.1.2. Đa dạng hóa các phương thức huy động vốn nhất là nguồn vốn trung,
dài hạn
Các khoản vay dành cho đầu tư dự án cần phải được tài trợ chủ yếu bởi nguồn
vốn trung và dài hạn (bao gồm nguồn vốn có thời hạn từ một năm trở lên và các
nguồn vốn có thời hạn dưới một năm nhưng có tính ổn định cao trong thời gian
dài), do đó để đảm bảo việc tăng trưởng ổn định đối với hoạt động cho vay nói
chung và hoạt động cho vay DAĐT nói riêng thì NHCT CN.TP.HCM cần phải
chú trọng hơn nữa đến công tác huy động vốn.
Hiện tại, mặc dù nguồn vốn huy động vẫn đảm bảo cho hoạt động tín dụng của
Chi nhánh và còn dư ra một phần để gửi vốn điều hòa về trụ sở chính nhưng nếu
xét trong cơ cấu vốn hiện tại của Chi nhánh thì tiền gửi của Kho bạc Nhà nước và
tiền gửi của các tổ chức kinh tế nhất là các doanh nghiệp lớn chiếm tỷ trọng khá
cao trong tổng nguồn vốn huy động. Điều này làm cho nguồn vốn huy động của
Chi nhánh thật sự vẫn chưa ổn định mà còn phụ thuộc nhiều vào một số khách hàng
lớn, tệ hơn nếu do một nguyên nhân nào đó các khách hàng lớn này đều rút tiền thì
sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến việc cân đối vốn cho vay của Chi nhánh.
Do đó, để đảm bảo cho nguồn vốn huy động của Chi nhánh được ổn định hơn
và không bị lệ thuộc quá nhiều vào một số đối tượng khách hàng lớn, Chi nhánh
cần phải tăng cường huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau bằng nhiều hình thức
như: phát hành các kì phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi, gửi tiết kiệm ngắn hạn,
69
trung và dài hạn với nhiều mức lãi suất cụ thể, hấp dẫn, kèm theo đó là những giải
pháp về khuyến mại, marketing… Đặc biệt Chi nhánh cần quan tâm nhiều hơn nữa
đến nguồn tiền gửi từ dân cư, và nguồn tiền gửi của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Mặc dù lượng tiền gửi của từng cá nhân hay từng doanh nghiệp có quy mô nhỏ là
khá ít, tuy nhiên với một số lượng lớn dân cư cũng như doanh nghiệp vừa và nhỏ
thì nguồn huy động từ các đối tượng này thực sự là một con số rất lớn, bên cạnh đó
nguồn huy động này thường ít có sự biến động lớn, đây là yếu tố rất cần thiết để
đảm bảo cho việc tăng trưởng ổn định đối với hoạt động cho vay nói chung và hoạt
động cho vay DAĐT nói riêng của Chi nhánh.
3.2.1.3. Nhanh chóng thành lập Bộ phận/Phòng Pháp chế tại NHCT – CN
TP.HCM
Là một trong những Chi nhánh lớn, dẫn đầu trong toàn hệ thống NHCT nên
NHCT – CN TP.HCM thường xuyên nhận được đề nghị tài trợ vốn của các DAĐT
lớn và phức tạp. Trong khi đó, hiện nay các văn bản pháp luật của nước ta lại
thường xuyên được sửa đổi và ban hành mới để phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp
ứng yêu cầu hội nhập. Điều này đã gây ra khá nhiều khó khăn cho các cán bộ tín
dụng, cán bộ thẩm định trong việc cập nhật và nắm bắt các thay đổi này. Do đó, để
hạn chế các rủi ro trong công tác thẩm định, cho vay DAĐT phát sinh từ việc
không nắm bắt kịp thời các văn bản, quy định của Nhà nước, NHCT – CN
TP.HCM cần phải quan tâm xây dựng bộ phận pháp chế và khi đạt đến một quy mô
nhất định thì tiến tới thành lập Phòng Pháp chế tại Chi nhánh (hiện nay chỉ ở Trụ sở
chính của NHCT mới có Phòng Pháp chế vì vậy không thể hỗ trợ kịp thời các vấn
đề phát sinh của Chi nhánh được).
Nhiệm vụ của bộ phận này là thường xuyên nghiên cứu các văn bản pháp luật,
các quy định của Nhà nước về các ngành kinh tế…nhằm hỗ trợ kịp thời cho cán bộ
tín dụng, cán bộ thẩm định của Chi nhánh trong quá trình thẩm định, cho vay
DAĐT, đảm bảo việc thẩm định, cho vay được chặt chẽ và theo đúng quy định của
pháp luật. Đồng thời bộ phận này còn có nhiệm vụ nghiên cứu và tham mưu cho
Ban Giám đốc các vấn đề về pháp lý khi cần thiết. Bên cạnh đó, bộ phận này còn
phải đưa ra những cảnh báo và thông tin liên quan đến các rủi ro phát sinh từ việc
không nắm bắt kịp thời các quy định của pháp luật cho cán bộ tín dụng, cán bộ
thẩm định biết để tránh mắc phải.
70
3.2.1.4. Chú trọng đào tạo, phát triển và nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng,
cán bộ thẩm định
Nhân tố con người luôn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng
tín dụng của ngân hàng. Dù ngân hàng có một chính sách tín dụng và quy trình
phân tích tín dụng tốt mà cán bộ tín dụng thiếu trình độ chuyên môn hoặc cố tình
cấu kết với người vay lừa đảo ngân hàng thì rủi ro trong cho vay chắc chắn sẽ xảy
ra. Do đó để xây dựng được một đội ngũ cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định vừa có
trình độ chuyên môn vừa có tư cách đạo đức nhằm phục vụ tốt cho hoạt động cho
vay nói chung và hoạt động cho vay DAĐT nói riêng thì ngoài việc chú trọng đến
công tác tuyển dụng cán bộ, NHCT – CN TP.HCM cần có một số biện pháp cụ thể
như sau:
+ Đối với các cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định mới tuyển dụng thì cần phải
có một khoảng thời gian (ít nhất là 03 tháng) để các cán bộ mới có thể học và nắm
bắt tất cả các nghiệp vụ của Chi nhánh, đồng thời luân chuyển cán bộ tín dụng, cán
bộ thẩm định thực tập tại các phòng nghiệp vụ để nắm bắt kiến thức tổng quát trước
khi làm nghiệp vụ thẩm định, giải ngân, thu nợ, quản lý, giám sát khoản vay.... Sau
khi hết thời gian tập sự cần phân công các cán bộ cũ có nhiều kinh nghiệm tiếp tục
giúp đỡ, xem xét lại hồ sơ của các cán bộ mới trước khi trình lãnh đạo phòng phê
duyệt, qua đó giúp các cán bộ mới nhận ra các sai sót trong quá trình tác nghiệp.
+ Cần có các lớp bồi dưỡng kiến thức về phân tích tài chính và thẩm định dự
án cho cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định cả về lý thuyết và kinh nghiệm thực tế, từ
đó không chỉ giúp cho cán bộ nắm vững về mặt lý thuyết mà còn giúp cho cán bộ
tránh được các sai sót, các rủi ro thực tế đã phát sinh.
+ Bên cạnh đó, hiện nay có rất nhiều văn bản hướng dẫn, chỉ đạo liên quan đến
nghiệp vụ tín dụng do NHNN và NHCT ban hành, do đó cần phải thường xuyên tổ
chức các buổi học tập nhằm triển khai và hệ thống lại các văn bản này cho cán bộ
tín dụng, cán bộ thẩm định giúp cho cán bộ kịp thời cập nhật và nắm bắt, tránh tình
trạng ngân hàng vô tình thành kẻ tiếp tay cho một số cán bộ, doanh nghiệp cố tình
lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của ngân hàng.
+ Có chính sách ưu đãi nhằm thu hút những cán bộ giỏi về làm cho Chi nhánh
hoặc làm cộng tác viên, cố vấn trong công tác thẩm định DAĐT; khuyến khích về
tinh thần và vật chất đối với những cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định hoàn thành
tốt công việc được giao,…Thông qua đó nâng cao ý thức tự vươn lên, đề cao tính
sáng tạo, coi trọng những sáng kiến, đề xuất có giá trị của mỗi cán bộ và đưa những
71
sáng kiến đó vào áp dụng trong thực tế đồng thời có hình thức khen thưởng kịp thời
nhằm động viên, khích lệ tinh thần.
+ Xây dựng kế hoạch hợp tác đào tạo, trao đổi, nghiên cứu với các ngân hàng,
Tổ chức tài chính có uy tín trên thế giới để tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ được
tiếp cận với những kinh nghiệm về cung cấp các sản phẩm tín dụng đối với khách
hàng (bao gồm công tác thẩm định cho vay DAĐT).
3.2.1.5. Xây dựng hệ thống thông tin phục vụ cho công tác đánh giá, xếp loại
khách hàng và thẩm định DAĐT.
Chất lượng cho vay nói chung và chất lượng cho vay DAĐT nói riêng của ngân
hàng chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi thông tin và chất lượng thu thập, xử lý thông
tin. Nếu ngân hàng không có đầy đủ và chính xác thông tin để thẩm định trước khi
quyết định cho vay thì rủi ro không thu hồi được vốn đúng hạn hoặc mất vốn sẽ rất
lớn.
Hiện nay, trên thực tế tại NHCT – CN TP.HCM, việc thu thập các thông tin về
ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh của khách hàng cũng như các thông tin
về DAĐT như nguyên vật liệu, nhà cung cấp, sản phẩm, thị trường… đều do mỗi
cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định thu thập từ nhiều nguồn khác nhau như từ
internet, báo chí, khách hàng vay vốn, thông tin từ các khách hàng liên quan…Tuy
nhiên, các thông tin thu thập được thường không nhiều, không có độ tin cậy cao
cũng như không có hệ thống để so sánh, đánh giá do đó làm cho việc phân tích,
nhận định của cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định trong quá trình thẩm định khách
hàng, thẩm định DAĐT vẫn chưa thật sự được chính xác, ảnh hưởng nhiều đến việc
đánh giá hiệu quả cũng như mức độ rủi ro của dự án.
Để khắc phục được hạn chế này, NHCT – CN TP.HCM cần xây dựng một hệ
thống thông tin nội bộ, một kho lưu trữ thông tin về các khách hàng vay vốn (lịch
sử hình thành, phát triển, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, quá trình quan
hệ tín dụng, các khách hàng liên quan…), về các ngành nghề, lĩnh vực đầu tư (thị
trường đầu vào, đầu ra, khả năng cạnh tranh, mức độ gia nhập thị trường, các đối
thủ, rào cản, các chỉ số bình quân theo từng ngành, từng lĩnh vực…) đồng thời bố
trí cán bộ có nhiệm vụ thường xuyên tổng hợp, thu thập, cập nhật các thông tin.
Đây thực sự là những thông tin rất cần thiết và đáng tin cậy giúp cho cán bộ tín
dụng, cán bộ thẩm định đưa ra những phân tích, nhận xét, đánh giá chính xác về
khách hàng, về DAĐT từ đó có những quyết định đúng đắn, biện pháp thích hợp
nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
72
3.2.1.6. Thành lập bộ phận nghiên cứu, phân tích và dự báo về sự phát triển
của các ngành kinh tế
Mặc dù hiện nay, NHCT – CN TP.HCM là chi nhánh duy nhất trong hệ thống
NHCT có Phòng Thẩm định với chức năng chính là thẩm định các khách hàng mới
và các DAĐT của khách hàng. Tuy nhiên như vậy vẫn chưa đủ, việc thẩm định cho
vay không chỉ dựa trên số liệu quá khứ và hiện tại mà nó còn phải dựa vào việc
nghiên cứu, phân tích và dự báo cho tương lai. Điều này đặc biệt quan trong trong
việc thẩm định và quyết định cho vay DAĐT vì không thể chỉ dựa vào số liệu quá
khứ và hiện tại để đánh giá tình hình hoạt động của doanh nghiệp cũng như tính
hiệu quả của DAĐT mà còn phải dựa vào các dự báo về xu hướng phát triển trong
tương lai để đánh giá, có như vậy mới có thể đánh giá chính xác được tính khả thi,
hiệu quả của dự án, xác định đúng dòng tiền và khả năng trả nợ của dự án.
Nhưng không phải ai cũng có khả năng phân tích, dự báo mà để làm được điều
này và đảm bảo cho kết quả dự báo mang tính chính xác cao, đòi hỏi phải có sự
nghiên cứu bài bản, chuyên sâu. Do đó, NHCT – CN TP.HCM cần nhanh chóng
thành lập một bộ phận nghiên cứu, phân tích và dự báo về sự phát triển của các
ngành kinh tế nhất là trong giai đoạn NHNN và NHCT chưa xây dựng được một hệ
thống thông tin phục vụ cho công tác thẩm định, định hướng tín dụng.
Nhiệm vụ của bộ phận này là tiến hành nghiên cứu phân tích, đánh giá tình hình
của các ngành kinh tế trong quá khứ, hiện tại kết hợp với các chính sách của Nhà
nước để đưa ra dự báo làm định hướng cho hoạt động tín dụng nói chung và hoạt
động cho vay DAĐT của Chi nhánh. Bên cạnh đó, căn cứ vào tỷ trọng đầu tư của
NHCT – CN TP.HCM trong hiện tại để xây dựng chiến lược, đề ra định hướng đầu
tư vào các ngành kinh tế (theo danh mục hoặc theo tỷ trọng) nhằm hạn chế, phân
tán rủi ro tín dụng và mang lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh của Chi nhánh.
3.2.1.7. Chuyên môn hóa cán bộ thẩm định theo từng ngành nghề, lĩnh vực
đầu tư
Trong nền kinh tế có rất nhiều ngành nghề, lĩnh vực đầu tư khác nhau; mỗi
ngành nghề, lĩnh vực đầu tư lại có những đặc điểm riêng, những thuận lợi, khó
khăn, rào cản riêng do đó để hiểu và nắm bắt thật tường tận bất kỳ ngành nghề nào
cũng đều đòi hỏi phải có một sự tìm hiểu, nghiên cứu chuyên sâu, từ đó mới có thể
73
có được những nhận xét, đánh giá thật chính xác. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay,
tại NHCT – CN TP.HCM, cán bộ thẩm định vẫn thẩm định chung tất cả các ngành
nghề, lĩnh vực đầu tư mà chưa có sự phân công phụ trách một số ngành cụ thể.
Điều này dẫn đến việc cán bộ thẩm định không thể nắm bắt đầy đủ các thông tin về
ngành nghề thẩm định cũng như các nhận xét, đánh giá đưa ra chưa thật sự chính
xác và phù hợp.
Do đó, để khắc phục được vấn đề này đồng thời nâng cao chất lượng công tác
thẩm định, NHCT – CN TP.HCM nên bố trí, sắp xếp cán bộ thẩm định theo một số
ngành nghề, lĩnh vực đầu tư như bất động sản, dệt may, da giày, chế biến lương
thực – thực phẩm, dược phẩm, giáo dục – y tế, nhà hàng – khách sạn,… Việc bố trí
như vậy sẽ giúp cho cán bộ thẩm định có thể nghiên cứu, nắm bắt thông tin về
ngành nghề, lĩnh vực mà họ thẩm định một cách đầy đủ, tường tận, từ đó có thể đưa
ra các phân tích, đánh giá chính xác về tính khả thi, hiệu quả của DAĐT.
3.2.1.8. Tăng cường thanh tra, kiểm tra và phòng ngừa rủi ro đối với hoạt
động cho vay theo DAĐT
Thanh tra kiểm soát là nghiệp vụ rất quan trọng để đảm bảo chất lượng tín dụng,
do đó khi ngân hàng mở rộng đầu tư tín dụng thì vai trò của công tác thanh tra kiểm
soát cũng phải được nâng lên với mức tương ứng.
Công tác thanh tra, kiểm soát được đề cập ở đây không đơn thuần chỉ là kiểm
tra khách hàng mà quan trọng là kiểm tra thanh lọc những cán bộ tín dụng mất
phẩm chất, tiêu cực, gây thất thoát tài sản và làm mất uy tín của ngân hàng.
Hoạt động kinh doanh ngày càng đa dạng, phức tạp nhất là khi nền kinh tế đang
trong giai đoạn chuyển đổi và hội nhập, do đó phòng ngừa rủi ro là một trong
những nhiệm vụ và giải pháp quan trọng trong thời gian tới. Để thực hiện nâng cao
chất lượng công tác phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng nói chung và cho
vay DAĐT nói riêng, NHCT CN TP.HCM cần phải xây dựng hệ thống quản trị
rủi ro tín dụng như sau:
+ Thực hiện phân tách chức năng bán hàng, chức năng thẩm định, quản lý rủi
ro tín dụng và chức năng quản lý nợ trong hoạt động cấp tín dụng đối với khách
hàng;
+ Tiêu chuẩn hóa cán bộ theo dõi rủi ro tín dụng để đáp ứng các yêu cầu, theo
đó, cần xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý rủi ro tín dụng có kinh nghiệm, kiến thức
74
và khả năng nhanh nhạy khi xem xét, đánh giá các đề xuất tín dụng và các yếu tố
liên quan đến rủi ro tín dụng;
+ Xây dựng cơ chế trao đổi thông tin hiệu quả, đảm bảo sự liên lạc thường
xuyên, liên tục và cập nhật kịp thời các thông tin trọng yếu giữa các bộ phận chức
năng trong hoạt động cấp tín dụng và phòng ngừa rủi ro tín dụng.
3.2.2. Giải pháp về kỹ thuật nghiệp vụ
3.2.2.1. Chú trọng đến việc đánh giá năng lực tài chính của khách hàng
Hiện nay việc đánh giá năng lực tài chính của khách hàng chủ yếu dựa trên việc
phân tích các báo cáo tài chính bao gồm: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả
kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Do đó để việc phân tích được chính xác,
phản ảnh đúng “sức khỏe” của doanh nghiệp thì trước tiên đòi hỏi cán bộ tín dụng,
cán bộ thẩm định phải xác định được mức độ tin cậy, tính trung thực của các số liệu
mà khách hàng cung cấp từ đó loại bỏ những khoản mục tài sản có, tài sản nợ kém
chất lượng, không có khả năng thu hồi trên báo cáo tài chính, đồng thời phải kiểm
tra sự tuân thủ chế độ tài chính, kế toán, về phương pháp và thời gian tính khấu
hao, phương pháp hạch toán hàng tồn kho, trích lập dự phòng...
Khi tiến hành phân tích báo cáo tài chính, thì ngoài việc phân tích khái quát báo
cáo tài chính nhằm đánh giá sự biến động của tài sản và sự hợp lý của cơ cấu vốn
đối với hoạt động của doanh nghiệp, phân tích bảo đảm nợ vay, cán bộ tín dụng,
cán bộ thẩm định cần chú trọng phân tích, đánh giá về các chỉ tiêu tài chính của
doanh nghiệp như: nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán, nhóm chỉ tiêu về đòn bẩy
tài chính (cơ cấu vốn), nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động, nhóm chỉ tiêu về khả
năng tăng trưởng, nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời,…đồng thời việc phân tích
các chỉ tiêu tài chính phải được gắn với đặc điểm kinh tế ngành, chiến lược kinh
doanh, mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp và phải có sự so sánh với số trung
bình ngành hay số liệu của các doanh nghiệp khác tương tự trong ngành. Tuy
nhiên, việc đánh giá một chỉ tiêu thế nào là tốt, thế nào là xấu rất khó xác định do
việc đánh giá chỉ tiêu tài chính phải gắn liền với rất nhiều nhân tố như môi trường
kinh doanh, ngành kinh doanh, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, tính chất
mùa vụ kinh doanh… Hơn nữa, một số chỉ tiêu mang lại kết quả đánh giá mâu
thuẫn nhau, ví dụ chỉ tiêu hệ số tự tài trợ, hệ số đòn bẩy tài chính với chỉ tiêu ROE
(ngân hàng mong muốn một hệ số tự tài trợ cao để đảm bảo an toàn vốn vay nhưng
hệ số tự tài trợ cao đồng nghĩa với ROE thấp do doanh nghiệp không tận dụng được
75
ưu thế của hệ số đòn bẩy tài chính). Vì vậy khi phân tích các chỉ tiêu tài chính, cán
bộ tín dụng, cán bộ thẩm định cần gắn với mục tiêu phân tích để xác định tính trọng
yếu của từng chỉ tiêu, từ đó đưa ra những đánh giá khái quát về hoạt động kinh
doanh, năng lực tài chính của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, việc phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp cần
phải được quan tâm, chú trọng nhiều hơn nữa. Hiện nay có rất nhiều cán bộ tín
dụng, cán bộ thẩm định không hề quan tâm đến báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong
quá trình đánh giá năng lực tài chính của khách hàng mà chỉ tập trung phân tích
bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh vì theo họ chỉ cần hai báo cáo
này là đã có thể phân tích và đánh giá được tình hình tài chính doanh nghiệp. Tuy
nhiên, đây là cách suy nghĩ thật sai lầm và rất tai hại. Việc phân tích báo cáo lưu
chuyển tiền tệ không chỉ giúp cho cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định đánh giá được
sự bền vững của dòng tiền doanh nghiệp trong quá khứ, khả năng tạo tiền và sự phù
hợp của dòng tiền so với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, đánh giá được
sự thịnh vượng hay khó khăn về dòng vốn của doanh nghiệp trong từng thời kỳ mà
còn giúp cho cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định có thể đưa ra dự báo dòng tiền của
doanh nghiệp trong tương lai. Đây là điều hết sức quan trọng vì nó xác định trong
kỳ tới doanh nghiệp có thặng dư tiền mặt để trả nợ vay hay bội chi tiền mặt và phải
vay ngân hàng để bù đắp, đồng thời qua nghiên cứu dòng tiền và các khoản dễ
chuyển đổi thành tiền, cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định sẽ xác định được khả
năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
3.2.2.2. Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án
v Sử dụng tỷ suất chiết khấu hợp lý khi thẩm định các chỉ tiêu tài chính dự án
Khi nghiên cứu các chỉ tiêu thẩm định tài chính dự án chúng ta thấy rằng các chỉ
tiêu như NPV, IRR, B/C, DPP đều có chung một nhược điểm là phụ thuộc vào tỷ
suất chiết khấu. Việc sử dụng tỷ suất chiết khấu không hợp lý có thể làm thay đổi
hiện giá dòng tiền từ âm sang dương hay ngược lại và do đó đảo ngược việc ra
quyết định. Vì vậy vấn đề đặt ra là phải xác định và xây dựng nguyên tắc thống
nhất tỷ suất chiết khấu như thế nào cho phù hợp với các loại dự án khác nhau để kết
quả thẩm định tài chính dự án đạt được độ tin cậy cao phù hợp với từng quan điểm
thẩm định và phản ánh được chi phí của các nguồn vốn sử dụng trong dự án.
Đứng trên quan điểm tổng đầu tư thì tỷ suất chiết khấu áp dụng phải phản ánh
được chi phí vốn bình quân trọng số (WACC) của các nguồn vốn sử dụng trong dự
76
án. Sử dụng WACC làm tỷ suất chiết khấu để tính NPV có ưu điểm là có thể đánh
giá hiệu quả đầu tư thông qua chi phí sử dụng vốn hiện tại của công ty. WACC có
độ tin cậy cao hơn một số thông số khác trong việc chiết khấu dòng tiền đầu tư do
phương pháp tính nó được xây dựng trên những giá trị bình quân của công ty và
quan điểm thị trường.
Tuy nhiên, hiện nay ở nước, nền kinh tế thị trường vẫn đang trong giai đoạn
chuyển mình và chưa ổn định, vẫn còn chịu nhiều ảnh hưởng từ những biến động
của nền kinh tế thế giới, vì vậy rất khó để có những thông tin phản ảnh đầy đủ về
thị trường cũng như rất khó để có thể xác định được mức độ rủi ro của từng lĩnh
vực, ngành nghề, xác định mức sinh lời mong muốn của nhà đầu tư khi bỏ vốn vào
dự án từ đó xác định suất chiết khấu hợp lý và đáng tin cậy khi thẩm định hiệu quả
DAĐT.
Do đó, để xác định suất chiết khấu hợp lý và đáng tin cậy khi thẩm định hiệu
quả DAĐT, cán bộ thẩm định cần chú ý một số nội dung sau:
+ Tùy theo dự đoán viễn cảnh của nền kinh tế và mức độ lạm phát, nếu dự
đoán mức độ lạm phát tăng thì nên tăng tỷ suất chiết khấu và ngược lại.
+ Tham khảo thêm tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp để tính toán mức sinh
lời mong muốn của các nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, trong từng thời kỳ (có thể định kỳ 3 tháng/lần), Chi nhánh nên cử
một số cán bộ có kinh nghiệm, trình độ, có khả năng nghiên cứu, phân tích (có thể
để bộ phận nghiên cứu, phân tích và dự báo về sự phát triển của các ngành kinh tế
thực hiện) xác định mức độ rủi ro từ đó tính toán được mức sinh lời mong muốn
của các nhà đầu tư đối với từng lĩnh vực, ngành nghề nhất là đối với các lĩnh vực,
ngành nghề đang chiếm tỷ trọng cho vay cao trên tổng dư nợ của Chi nhánh. Với
kết quả tính toán này sẽ giúp cho cán bộ thẩm định hạn chế được sai sót trong việc
xác định suất chiết khấu và đánh giá chính xác hiệu quả của dự án.
v Cần quan tâm đến yếu tố lạm phát và tỷ giá khi thẩm định hiệu quả tài chính
dự án
Lạm phát và tỷ giá hối đoái là hai yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả tài
chính dự án, đặc biệt là đối với các dự án có hàng hóa ngoại thương trong thời kỳ
có biến động mạnh về lạm phát và tỷ giá. Sự tác động của hai biến rủi ro này có thể
tác động làm dòng ngân lưu của dự án từ dương sang âm và ngược lại.
77
Do đó để đảm bảo dòng ngân lưu của dự án phản ánh tác động của lạm phát, tỷ
giá đến các giá trị thực của dự án, khi xây dựng DAĐT cũng như quá trình thẩm
định tài chính cần thiết phải tiến hành điều chỉnh phân tích dự án theo lạm phát, tỷ
giá. Tuy nhiên trong quá trình phân tích, cần phải nhất quán trong việc đưa yếu tố
lạm phát, tỷ giá vào các dòng thu chi có chịu ảnh hưởng của lạm phát, tỷ giá để
đảm bảo tính khách quan, không bỏ sót nhằm tránh bóp méo kết quả dòng ngân
lưu.
v Thẩm định chính xác vốn tự có của khách hàng tham gia vào dự án
Trong cho vay DAĐT, vốn tự có của khách hàng tham gia vào dự án được đánh
giá là rất quan trọng. Vốn tự có của khách hàng thường được yêu cầu tham gia
trước vào dự án, một số trường hợp có thể cho phép khách hàng tham gia vốn song
song theo tiến độ giải ngân.
Khi nguồn vốn của khách hàng được thẩm định đầy đủ và đảm bảo thì sẽ không
có trường hợp thiếu vốn trong quá trình triển khai dự án từ đó ảnh hưởng đến khả
năng trả nợ vay cho ngân hàng. Ngược lại nếu không thẩm định kỹ nguồn vốn tự có
của khách hàng thì khi đang triển khai thực hiện dự án, khách hàng không còn khả
năng góp tiếp vào dự án điều này đồng nghĩa với việc ngân hàng cũng không thể
tiến hành giải ngân tiếp được (do không đáp ứng được tỷ lệ giữa vốn tự có/vốn vay
theo cam kết đã quy định trong hợp đồng tín dụng) từ đó không chỉ làm cho dự án
không thể tiếp tục được thực hiện, mà còn làm phát sinh thêm một số chi phí khác
dẫn đến làm tăng tổng vốn đầu tư của dự án, giảm hiệu quả của dự án so với kế
hoạch ban đầu đã đề ra.
Do đó để hạn chế rủi ro này đòi hỏi cán bộ thẩm định phải thẩm định kỹ khả
năng và tính khả thi của nguồn vốn góp trước khi quyết định tài trợ vốn đồng thời
phải yêu cầu khách hàng cam kết tham gia góp vốn theo tiến độ.
v Chú trọng đến việc phân tích độ nhạy của dự án
Do thời gian hoạt động, vận hành của dự án và thời gian vay vốn thường khá dài
nên các cơ sở tính toán hiệu quả tài chính của dự án đều có khả năng thay đổi. Để
khắc phục vấn đề này, các ngân hàng thường sử dụng phương pháp phân tích độ
nhạy. Phương pháp phân tích độ nhạy được dùng để kiểm tra tính vững chắc về
hiệu quả tài chính của dự án, nó xem xét đến sự thay đổi cuả các chỉ tiêu tài chính
của dự án khi các yếu tố liên quan thay đổi và mức độ nhạy cảm của dự án đối với
sự biến động của các yếu tố liên quan đó. Tuy nhiên, hiện nay việc phân tích độ
nhạy của dự án vẫn chưa thực sự được chú trọng mà vẫn còn là một kiểu làm hình
78
thức, điều này đã làm mất đi tác dụng của việc phân tích độ nhạy từ đó dẫn đến
việc đánh giá chưa thật chính xác mức độ rủi ro của dự án khi có các biến động xảy
ra.
Để phát huy tối đa công dụng của việc phân tích độ nhạy trong việc đánh giá
hiệu quả, tính khả thi của DAĐT, đòi hỏi cán bộ thẩm định trước tiên phải nhận
thức được tầm quan trọng của việc phân tích độ nhạy trong việc đưa ra các đề xuất
về việc cho vay/không cho vay đồng thời tập trung phân tích các nội dung sau:
+ Phân tích ảnh hưởng của từng yếu tố liên quan đến các chỉ tiêu hiệu quả tài
chính của dự án (thay đổi về tổng vốn đầu tư, công suất hoạt động, giá mua nguyên
vật liệu, giá bán, nhu cầu thị trường,…) nhằm tìm ra các yếu tố gây nên sự nhạy
cảm lớn hay nói cách khác là ảnh hưởng lớn đến hiệu quả tài chính của dự án.
+ Tuy nhiên, trên thực tế không thể chỉ có một yếu tố biến động còn các yếu tố
khác thì giữ nguyên không thay đổi mà luôn luôn có sự thay đổi của nhiều yếu tố.
Do đó, để đánh giá chính xác hiệu quả của dự án cần tiến hành phân tích ảnh hưởng
đồng thời nhiều yếu tố như giữa tổng vốn đầu tư và công suất hoạt động, tổng vốn
đầu tư và giá bán, giá mua nguyên vật liệu và giá bán…
Hiện nay trên thế giới còn một phương pháp khác để đánh giá các biến động
trên là phương pháp phân tích kịch bản hay còn gọi là phương pháp phân tích mô
phỏng. Phương pháp này cho phép kết hợp nghiên cứu độ nhạy của các chỉ tiêu
tổng hợp (NPV, IRR) với phân tích xác suất độ lệch của chúng. Phương pháp này
tuy có độ chính xác cao nhưng cần có cơ sở dữ liệu phong phú để xác định được
xác suất xảy ra và có phương tiện kỹ thuật hiện đại để tính toán, do đó đến nay
phương pháp này vẫn chưa được áp dụng rộng rãi ở nước ta. Trong tương lai, khi
trình độ kỹ thuật công nghệ của nước ta phát triển, việc phân tích, lưu trữ thông tin
được thực hiện thường xuyên và khoa học hơn thì phương pháp này sẽ là một công
cụ rất hữu hiệu cho ngân hàng trong việc đánh giá hiệu quả tài chính của dự án.
3.2.3. Các kiến nghị
3.2.3.1. Đối với NHCT
v Nhanh chóng thành lập các Phòng/Tổ thẩm định tại các chi nhánh trên toàn
hệ thống
Hiện nay ngoại trừ NHCT – CN TP.HCM là có phòng thẩm định riêng biệt, còn
lại các chi nhánh khác đều không có phòng thẩm định, việc thẩm định tại các chi
nhánh đều do cán bộ tín dụng thực hiện. Điều này làm cho việc thẩm định của các
79
chi nhánh chưa có sự chuyên nghiệp, cán bộ tín dụng không có nhiều kinh nghiệm
trong việc thẩm định DAĐT dẫn đến kết quả thẩm định nhiều khi không phản ánh
đúng tính khá thi, hiệu quả của dự án, không lường trước được các rủi ro có thể xảy
ra từ đó ảnh hưởng đến chất lượng cho vay của chi nhánh.
Để hạn chế được các rủi ro tín dụng trong cho vay DAĐT phát sinh từ nguyên
nhân là các sai sót trong khâu thẩm định, NHCT nên nhanh chóng thành lập
Phòng/Tổ thẩm định tại các chi nhánh trên toàn hệ thống với chức năng, nhiệm vụ
chính là thẩm định các khách hàng mới và các DAĐT của khách hàng. Phòng/Tổ
thẩm định sẽ quy tụ các cán bộ có kinh nghiệm trong công tác thẩm định cho vay
khách hàng, DAĐT, đồng thời NHCT cần thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo
nghiệp vụ cho bộ phận này. Làm được như vậy sẽ giúp cho việc thẩm định khách
hàng, thẩm định DAĐT của các chi nhánh trong hệ thống NHCT trở nên hiệu quả
hơn, hạn chế đến mức thấp nhất các sai sót có thể xảy ra trong công tác thẩm định
từ đó góp phần nâng cao chất lượng tín dụng của chi nhánh đồng thời giúp cho việc
phục vụ khách hàng ngày càng nhanh và tốt hơn, không làm lỡ mất cơ hội đầu tư
của khách hàng.
v Tăng mức cho vay trên giá trị định giá đối với tài sản bảo đảm là quyền sử
dụng đất
Hiện nay đối với tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, các chi nhánh của hệ
thống NHCT chỉ được định giá tối đa bằng 70% giá trị thị trường và mức cho vay
tối đa chỉ bằng 70% giá trị định giá. Như vậy thực tế số tiền cho vay tối đa chỉ bằng
49% giá trị thị trường của tài sản, đây là mức quá thấp so với mức cho vay chung
của các NHTM khác trên địa bàn. Điều này gây ra nhiều khó khăn cho các chi
nhánh trong việc thu hút khách hàng mới và giữ các khách hàng cũ. Đã có nhiều
trường hợp bị mất khách hàng hoặc không thiết lập được quan hệ tín dụng với
khách hàng do khách hàng không đồng ý với giá trị định giá của chi nhánh cũng
như không đồng ý với mức cho vay quá thấp so với giá trị thị trường của tài sản.
Do đó để có thể tạo điều kiện giúp các chi nhánh trong việc thu hút khách hàng
mới và giữ vững các khách hàng cũ, nâng cao sức cạnh tranh của các chi nhánh so
với các NHTM khác trên địa bàn, NHCT nên đồng ý ủy quyền cho các chi nhánh
trên các địa bàn lớn như địa bàn TP.HCM, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng,…được
phép định giá giá trị tài sản là quyền sử dụng đất bằng với giá trị thực tế trên thị
trường và mức cho vay tối đa bằng 70% giá trị định giá của chi nhánh. Việc xác
định giá trị quyền sử dụng đất bằng giá trị thực tế trên thị thường phải được sự
80
đồng ý phê duyệt của Hội đồng tín dụng chi nhánh, đồng thời sẽ do một tổ định giá
độc lập định và phải có cơ sở định giá rõ ràng, đảm bảo không để xảy ra việc cố
tình định giá cao hơn so với giá trị thực tế trên thị trường để nâng mức cho vay.
v Giảm tỷ lệ vốn chủ sở hữu của khách hàng tham gia vào dự án
Theo quy định hiện hành của NHCT thì mức vốn chủ sở hữu tham gia vào dự án
tối thiểu bằng 40% tổng mức vốn đầu tư sau khi trừ đi phần vốn lưu động của dự án
(trường hợp thời hạn cho vay đến 3 năm), tối thiểu bằng 45% tổng mức vốn đầu tư
sau khi trừ đi phần vốn lưu động của dự án (trường hợp thời hạn cho vay từ 3 đến 5
năm) và tối thiểu bằng 50% tổng mức vốn đầu tư sau khi trừ đi phần vốn lưu động
của dự án (trường hợp thời hạn cho vay trên 5 năm). Việc quy định như vậy nhằm
nâng cao trách nhiệm của khách hàng trong việc thực hiện và quản lý dự án, hạn
chế rủi ro cho ngân hàng, tuy nhiên mức quy định này hiện nay đang cao hơn các
NHTM khác trên địa bàn, điển hình như: đối với Ngân hàng TMCP Ngoại thương
Việt Nam – Chi nhánh TP.HCM thì tỷ lệ cho vay một dự án là 75% tổng mức vốn
đầu tư, còn đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam thì tỷ lệ cho vay một
dự án là 85% tổng mức vốn đầu tư nhưng không vượt quá 2 lần vốn chủ sở hữu của
khách hàng vay vốn. Điều này đã gây khó khăn cho các chi nhánh trong việc thu
hút, tìm kiếm khách hàng vì thực tế không có nhiều doanh nghiệp có đủ vốn chủ sở
hữu tham gia vào dự án đáp ứng đủ tỷ lệ theo quy định của NHCT.
Do đó, để giúp cho các chi nhánh có thể cạnh tranh được với các NHTM khác
trên địa bàn, thu hút thêm nhiều khách hàng đến vay vốn đầu tư dự án, NHCT nên
cho phép các Chi nhánh được quyền quyết định tỷ lệ vốn chủ sở hữu tham gia vào
dự án tùy thuộc vào mức độ rủi ro, ngành nghề đầu tư của dự án. Tuy nhiên, để hạn
chế các rủi ro có thể xảy ra khi cho các chi nhánh được quyền quyết định tỷ lệ vốn
chủ sở hữu tham gia vào dự án, thì đối với từng ngành nghề, lĩnh vực đầu tư, từng
hình thức đầu tư (đầu tư mới, đầu tư chuyên sâu, đầu tư mở rộng,…) NHCT nên
quy định một mức vốn chủ sở hữu tham gia tối thiểu. Khi đó, các Chi nhánh sẽ
được quyền định đoạt tỷ lệ vốn chủ sở hữu tham gia vào dự án nhưng không được
thấp hơn mức tối thiểu này.
81
3.2.3.2. Đối với NHNN
v Nâng cao vai trò và chất lượng hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng
(CIC)
Ngày nay, thông tin về khách hàng đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động
cho vay của các NHTM nói chung và hoạt động cho vay DAĐT nói riêng. Việc
thiếu thông tin hay nhận được nguồn thông tin không chính xác có thể sẽ làm cho
quyết định tín dụng của ngân hàng bị sai lệch, dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín
dụng nhất là trong công tác thẩm định và cho vay DAĐT của các ngân hàng.
Trong thời gian vừa qua, Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) cũng đã hỗ trợ khá
nhiều cho các NHTM trong việc cung cấp thông tin về khách hàng, phục vụ cho
công tác thẩm định và cho vay của các NHTM. Tuy nhiên việc cung cấp thông tin
cũng chỉ mới dừng lại ở việc cung cấp dư nợ, lịch sử gia hạn nợ, nợ quá hạn, tài sản
bảo đảm của khoản vay một số trường hợp có phân tích sơ bộ tình hình hoạt động
kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp tuy nhiên thông tin cung cấp còn
đơn điệu, thiếu cập nhật nên chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin
của các ngân hàng.
Do đó, để hỗ trợ và đáp ứng tốt hơn nhu cầu tra cứu thông tin của các NHTM,
NHNN cần yêu cầu các NHTM phải cung cấp thông tin về các khách hàng vay vốn
một cách kịp thời và đầy đủ về khách hàng cho Trung tâm thông tin tín dụng.
Trong trường hợp các NHTM cung cấp thông tin không kịp thời, cung cấp thông
tin không chính xác hoặc không cung cấp thông tin về khách hàng thì NHNN cần
phải có biện pháp mạnh để xử lý, kỷ luật. Chỉ có như vậy thì các thông tin về khách
hàng của Trung tâm thông tin tín dụng mới có thể phục vụ tốt nhất cho hoạt động
thẩm định và cho vay của các NHTM, nhất là trong công tác thẩm định cho vay
DAĐT.
Bên cạnh đó, NHNN cần thu thập thêm các thông tin khác từ các cơ quan, ban
ngành như tổng cục thống kê, Bộ kế hoạch đầu tư, tổng cục thuế,…để thực hiện
xây dựng thông tin ngành, xu hướng phát triển trong tương lai nhằm phục vụ cho
việc xây dựng các chính sách tín dụng, định hướng đầu tư của các NHTM qua đó
giúp cho các NHTM có quyết định đúng đắn trong việc tài trợ vốn cho các DAĐT
ở các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác nhau.
v Sớm thành lập một Công ty xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp tại Việt Nam
Hiện nay, việc chấm điểm và xếp hạng tín dụng của khách hàng đều do các
NHTM tự thực hiện dựa trên các chỉ tiêu về định tính và định lượng mà mỗi ngân
82
hàng tự đặt ra, vì vậy kết quả chấm điểm và xếp hạng của các NHTM không có sự
thống nhất với nhau. Do đó, việc hình thành một công ty xếp hạng tín nhiệm doanh
nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động cho vay của các NHTM. Chức
năng chính của công ty này là thu thập, xử lý, phân tích các thông tin về tình hình
tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, so sánh với số liệu bình
quân ngành và các doanh nghiệp hoạt động trong cùng ngành nghề để đưa ra các
đánh giá, xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp. Trên cơ sở kết quả xếp hạng tín nhiệm
của công ty, các NHTM sẽ có được những đánh giá chính xác về doanh nghiệp
trước khi quyết định có cho doanh nghiệp vay vốn hay không.
Bên cạnh đó, để giúp cho công ty này ngày càng phục vụ tốt cho hoạt động cho
vay của các NHTM, NHNN có thể quy định tất cả các doanh nghiệp muốn được
ngân hàng xem xét cho vay vốn thì bắt buộc phải được xếp hạng tín nhiệm tại
Công ty xếp hạng tín nhiệm này. Điều này sẽ làm các doanh nghiệp nếu muốn vay
vốn ngân hàng thì phải tự giác tham gia đăng ký xếp hạng để có được giấy
chứng nhận. Hơn nữa, ngoài tác dụng giúp đỡ ngân hàng trong việc thẩm định
khách hàng, hoạt động của công ty xếp hạng tín nhiệm còn tạo động lực thúc đẩy
các doanh nghiệp tự hoàn thiện, nâng cao năng lực tài chính, năng lực sản xuất
kinh doanh, uy tín của mình để có được vị trí xếp hạng cao.
v Chống sự cạnh tranh kém lành mạnh giữa các ngân hàng
Với sự mở rộng tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các NHTM, NHNN đã
giải phóng tính sáng tạo và chủ động của các ngân hàng trong hoạt động kinh doanh.
Tuy nhiên đã xuất hiện tình trạng cạnh tranh kém lành mạnh, tranh giành khách
hàng vay vốn giữa các ngân hàng như cho vay để hoàn trả các khoản vay của các
ngân hàng khác, hạ thấp các tiêu chuẩn, điều kiện vay vốn dẫn đến nguy cơ rủi ro tín
dụng tăng cao. Do đó NHNN cần có sự kiểm tra, kiểm soát có hiệu quả những hoạt
động kinh doanh của các NHTM, đảm bảo sự phát triển bền vững và an toàn.
3.2.3.3. Đối với Nhà nước, Chính phủ
v Nâng cao chất lượng các thông tin tài chính doanh nghiệp
Các báo cáo tài chính của doanh nghiệp là cơ sở để các ngân hàng thẩm định,
đánh giá năng lực, “sức khỏe” của khách hàng. Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta, đa
số các số liệu báo cáo mà doanh nghiệp cung cấp đều chưa phản ánh đúng tình hình
tài chính của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, một doanh nghiệp
vẫn còn tồn tại một lúc 2 báo cáo tài chính, một báo cáo nội bộ và một báo cáo
83
thuế. Những điều này đã gây ra khá nhiều khó khăn cho các ngân hàng trong việc
thẩm định khách hàng.
Do đó, để hỗ trợ các ngân hàng trong công tác thẩm định, đánh giá khách hàng
đồng thời từng bước làm minh bạch thông tin tài chính doanh nghiệp, Nhà nước
cần chỉ đạo các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện chế độ thống kê, kế toán, kiểm
toán và báo cáo thông tin, đồng thời xây dựng và ban hành những quy định ràng
buộc trách nhiệm của doanh nghiệp, những chế tài xử lý khi các doanh nghiệp
không thực hiện đúng những chế độ đó và cung cấp những thông tin không chính
xác.
Bên cạnh đó, cũng cần quy định chế độ kiểm toán bắt buộc theo định kỳ đối với
tất cả các doanh nghiệp, qua đó nâng cao tính trung thực, chính xác của các số liệu,
đảm bảo độ tin cậy của các báo cáo tài chính.
Ngoài ra, Nhà nước cũng nên quy định chặt chẽ hơn về những điều kiện để
được thành lập công ty kiểm toán và quy định rõ trách nhiệm của công ty kiểm toán
cũng như các kiểm toán viên có liên quan khi cho ra đời những báo cáo kiểm toán
sơ sài, hoặc thiếu trung thực. Vì thực tế hiện này cho thấy chất lượng của rất nhiều
công ty kiểm toán là chưa đảm bảo (có những báo cáo tài chính đã được kiểm toán
nhưng thậm chí sai ở tiêu chí cơ bản nhất là đơn vị tiền tệ USD thành VND).
v Xử lý tài sản là quyền sử dụng đất hình thành từ vốn vay
Các DAĐT trong lĩnh vực đất đai, bất động sản như xây dựng nhà ở, chung cư,
trung tâm thương mại,…thường có tổng vốn đầu tư và nhu cầu vốn vay rất lớn. Từ
đó làm cho các chủ đầu tư rất khó để tìm các tài sản thế chấp nhằm bảo đảm đủ cho
khoản vay mà chủ yếu là dùng chính tài sản của dự án để làm bảo đảm (tài sản hình
thành từ vốn vay bao gồm cả quyền sử dụng đất).
Khi dự án hoàn thành và các tài sản hình thành từ vốn vay đã được cấp quyền sở
hữu, quyền sử dụng cho chủ đầu tư thì Ngân hàng sẽ tiến hành ký hợp đồng thế
chấp chính thức đối với các tài sản này.
Tuy nhiên trong thực tế, có không ít dự án gặp khó khăn, vướng mắc ngay trong
khâu đền bù, giải toả dẫn đến dự án thực hiện chậm tiến độ so với kế hoạch đã đề ra
ban đầu và bị Nhà nước thu hồi quyết định giao đất/quyết định đầu tư/giấy phép
xây dựng. Như vậy quyền sử dụng đất sẽ không được cấp cho chủ đầu tư khi mà
chỉ mới tiến hành đền bù được một phần và ngân hàng cũng không thể ký hợp đồng
thế chấp chính thức đối với tài sản.
84
Các ngân hàng khi lâm vào trường hợp này thường rất khó khăn trong công tác
xử lý tài sản để thu hồi nợ do các cơ quan chức năng chưa có hướng dẫn xử lý tài
sản là quyền sử dụng đất trong trường hợp này. Do đó, để hỗ trợ các ngân hàng
trong việc xử lý tài sản cũng như mạnh dạn nhận các tài sản như vậy làm tài sản
bảo đảm cho khoản vay thì các cơ quan chức năng ban ngành cần ban hành các quy
định, văn bản hướng dẫn về trình tự và thủ tục xử lý quyền sử dụng đất đối với các
dự án bị thu hồi quyết định giao đất, giấy phép đầu tư mà các quyền sử dụng đất
này đã được thế chấp cho ngân hàng để đảm bảo cho khoản vay của chủ đầu tư.
85
Kết luận chương 3
Trên cơ sở lý luận được trình bày ở chương 1, thực trạng hoạt động, hạn chế và
những nguyên nhân gây ra hạn chế ở chương 2, những chiến lược kinh doanh và
mục tiêu cụ thể từ năm 20112015 của NHCT – CN TP.HCM, trong chương 3, luận
văn đã mạnh dạn đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cho vay DAĐT
tại NHCT – CN TP.HCM bao gồm các giải pháp chung và các giải pháp mang tính
kỹ thuật nghiệp vụ.
Với những giải pháp cơ bản cùng với những kiến nghị được trình bày trong
chương 3 hy vọng sẽ góp phần thiết thực cho việc nâng cao chất lượng cho vay
DAĐT nói riêng và hoạt động kinh doanh tại Chi nhánh nói chung, qua đó góp
phần giúp Chi nhánh tăng sức cạnh tranh và tạo thế vững bước cùng với ngành
Ngân hàng tiến vào con đường hội nhập kinh tế thế giới và phục vụ tốt nhất cho sự
nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
86
KẾT LUẬN
Cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá thì hoạt động cho
vay cũng ngày càng phát triển nhằm cung cấp các phương tiện giao dịch để đáp ứng
mọi nhu cầu sản suất kinh doanh của xã hội. Trong điều kiện đó, chất lượng cho
vay của ngân hàng là vấn đề ngày càng được quan tâm. Tuy nhiên, trong điều kiện
nền kinh tế thị trường có nhiều cạnh tranh và biến động như hiện nay thì hoạt động
cho vay của Ngân hàng đang tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhất là rủi ro trong hoạt động
cho vay DAĐT.
Trong thời gian qua, mặc dù chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng cho
vay DAĐT tại NHCT – CN TP.HCM ngày càng được cải thiện, tuy nhiên bên cạnh
đó vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần phải nhanh chóng khắc phục. Do đó, việc
thường xuyên nghiên cứu, tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng cho vay theo
DAĐT tại NHCT – CN TP.HCM là vấn đề không thể thiếu được trong hoạt động
tín dụng của Chi nhánh.
Từ việc nhận định được những hạn chế, phân tích được những nguyên nhân dẫn
đến các hạn chế trong cho vay DAĐT tại NHCT – CN TP.HCM, thực tiến công tác
cho vay DAĐT tại Chi nhánh, đề tài đã đưa ra được những giải pháp thiết thực góp
phần nâng cao chất lượng cho vay DAĐT tại NHCT – CN TP.HCM. Tuy nhiên do
điều kiện hạn chế về thời gian cũng như trình độ nên chắc chắn đề tài không tránh
khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, bổ
sung quý báu của các Quý Thầy, Cô cùng bạn bè để đề tài được hoàn chỉnh hơn.
87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
o0o
1. Đinh Thế Hiển (2006) Lập – Thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư,
Nhà xuất bản thống kê.
2. Trần Huy Hoàng (2007) Quản trị Ngân hàng Thương mại, NXb Lao Động
Xã hội, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.
3. Nguyễn Quốc Ân, Phạm Thị Hà, Phan Thị Thu Hương (2006), Thiết lập và
Thẩm định dự án đầu tư, NXB Thống Kê, Trường Đại học Kinh tế
TP.HCM.
4. Nguyễn Bạch Nguyệt, TS. Từ Quang Phương (2007) Giáo trình về Kinh tế
Đầu tư, NXB Đại học Kinh tế Quốc Dân Bộ Môn Kinh tế Đầu tư – Trường
Đại học kinh tế Quốc Dân.
5. Nguyễn Bạch Nguyệt (2008) Giáo trình Lập dự án Đầu tư, NXB Đại học
Kinh tế Quốc Dân Bộ Môn Kinh tế Đầu tư, Trường Đại học kinh tế Quốc
Dân.
6. Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam, Báo cáo thường niên năm 2005,
2006, 2007, 2008 2009, 2010 và 6 tháng đầu năm 2011.
7. Báo cáo hoạt động kinh doanh NHCT – CN TP.HCM năm 2005, 2006,
2007, 2008 2009, 2010 và 6 tháng đầu năm 2011.
8. Quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm
theo Quyết định số 1627/2001/QĐNHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc
Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam
9. Thông tư 13/2010/TTNHNN ngày 20/05/2010 của NHNNVN quy định an
toàn trong hoạt động tín dụng.
10.Thông tư 19/2010/TTNHNN ngày 27/09/2010 của NHNNVN quy định an
toàn trong hoạt động tín dụng.
11.Quy định về cấp giới hạn tín dụng theo quyết định số 208/QĐHĐQT
NHCT35 ngày 24/02/2010 của NHCT (Mã số Qđ.35.19).
12.Quy định cho vay đối với các tổ chức kinh tế số 222/QĐHĐQTNHCT35
ngày 26/02/2010 của NHCT (Mã số Qđ.35.12).
13.Quy định về thực hiện đảm bảo tiền vay kèm theo QĐ số 612/QĐHĐQT
NHCT35 ngày 31/12/2008 của NHCT (Mã số Qđ.35.03).
88
14.Quy trình cho vay theo dư án đầu tư đối với khách hàng là tổ chức kinh tế
trong hệ thống NHCT theo quyết định số 2207/QĐNHCT5 ngày
18/12/2006 của NHCT.
15.Sổ tay tín dụng (2004) Ngân hàng Công Thương Việt Nam
89
CÁC WEBSIDE THAM KHẢO
o0o
1.
2.
3.
4. tailieu/thongtuso132010ttnhnn.216521.html.
5. te/SecoCongtyxephangtinnhiemdoanh.nghiep
/30130337/87/.
6. Nâng cao
hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại trong quá trình hội
nhập WTO
7. “Hạn chế nguy
cơ rủi ro hoạt động tín dụng của các NHTMVN”, TS. Trần Huy Hoàng.
8.
9.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nang_cao_chat_luong_cho_vay_du_an_dau_tu_tai_vietinbank__chi_nhanh_tp._ho_chi_minh1.pdf