Luận văn Nâng cao chất lượng cho vay dự án đầu tư tại Ngân hàng công thương - Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh

CHƯƠNG 1 ***o0o*** CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY DỰ ÁN ĐẦU TƯ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI .1. Tổng quan về DAĐT và cho vay DAĐT của NHTM .1.1. Những vấn đề cơ bản về DAĐT .1.1.1. Khái niệm Đầu tư được coi là động lực của sự phát triển nói chung và sự phát triển kinh tế ói riêng của mọi quốc gia trên thế giới. Có thể hiểu đầu tư là việc huy động nguồn ực để biến các lợi ích dự kiến thành hiện thực trong một khoảng thời gian đủ dài rong tương lai. Trong đó: các nguồn lực chính là vốn, chất xám, tài nguyên thiên hiên, thời gian ; lợi ích dự kiến có thể lượng hoá được (hay đo được hiệu quả ằng tiền như sự tăng lên của sản lượng, lợi nhuận ) mà cũng có thể không lượng oá được (như sự phát triển trong các lĩnh vực giáo dục, giải quyết các vấn đề xã ội, quốc phòng ). Đối với doanh nghiệp, đầu tư hiểu đơn giản là việc bỏ vốn kinh oanh để mong thu được lợi nhuận trong tương lai. Còn trên quan điểm xã hội thì ầu tư là hoạt động bỏ vốn để từ đó thu được các hiệu quả kinh tế * xã hội, vì mục êu phát triển quốc gia. Nhưng cho dù đứng từ góc độ nào đi chăng nữa, muốn tối a hoá hiệu quả của đầu tư thì trước khi quyết định đầu tư, nhất thiết phải có DAĐT. Vậy DAĐT là gì? DAĐT là một tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về khối lượng, cải ến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một khoảng hời gian xác định. DAĐT chính là cơ sở quan trọng để chủ đầu tư và các nhà đầu ư liên quan xem xét ra quyết định đầu tư.

pdf89 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1659 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng cho vay dự án đầu tư tại Ngân hàng công thương - Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 kinh doanh đa ngành, trong đó cốt lõi là hoạt động NHTM, ngân hàng đầu tư  và các dịch vụ tài chính. Lựa chọn và áp dụng các thông lệ quốc tế tốt nhất vào mô  hình tổ chức, quản trị, điều hành, quản lý và kiểm soát rủi ro. Hoàn thiện hệ thống  cơ chế, chính sách về quản trị, điều hành kinh doanh, quản lý và kiểm soát rủi ro,  quy trình kỹ thuật nghiệp vụ, đánh giá hiệu quả kinh doanh theo thông lệ quản trị  hiện đại trong lĩnh vực tài chính ngân hàng trên thế giới.  Ø  Chiến  lược về phát  triển nguồn nhân lực chất  lượng cao, cải  thiện căn  bản chất lượng nguồn nhân lực  Từ nay đến năm 2015 sẽ tiếp tục cơ cấu lại nguồn nhân lực một cách mạnh mẽ,  không tăng mà giảm số lượng, tăng chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ  cán bộ có trình độ  và năng lực chuyên môn  cao, đào tạo nhiều hơn các kiến thức  nghiệp vụ của ngân hàng quốc tế, ngoại ngữ, tin học; Tuyển dụng thêm nhiều cán  bộ  có  trình  độ  chuyên môn  cao  ở  các  nghiệp  vụ,  có  khả  năng  tạo  doanh  số,  lợi  nhuận nhiều cho NHCT. Tiếp tục hoàn thiện thực hiện cơ chế động lực tiền lương,  tiền thưởng  theo nguyên  tắc gắn  lợi  ích với  trách nhiệm, kết quả, năng suất, hiệu  quả công việc của từng cán bộ nhân viên NHCT. Thực hiện chương trình tính đầy  đủ chi phí, hiệu quả đến từng đơn vị sản phẩm, cá nhân.  Ø  Chiến lược về đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin  Ưu  tiên  tập trung đầu  tư phát  triển mạnh công nghệ  thông  tin ngân hàng, xây  dựng hệ  thống  công  nghệ  thông  tin  đồng bộ,  hiện  đại,  an  toàn  và hiệu  quả,  đẩy  mạnh ứng dụng công nghệ mới, hiện đại  trong lĩnh vực quản trị ngân hàng, kiểm  soát  rủi  ro, phát  triển  sản phẩm dịch vụ mới. Coi công nghệ ngân hàng  là yếu  tố  then chốt, là cơ sở nền tảng để phát triển, hội nhập tích cực với khu vực, quốc tế.  Nâng  cao  năng  lực  cạnh  tranh,  chất  lượng,  năng  suất,  hiệu  quả  hoạt  động  kinh  doanh của NHCT  3.1.2. Chiến lược kinh doanh của NHCT – CN TP.HCM từ nay đến năm 2015  3.1.2.1. Định hướng chung  Trên cơ sở định hướng chung là xây dựng NHCT trở  thành tập đoàn tài chính  ngân hàng hiện đại, xếp hạng  tiên  tiến  trong khu vực, đáp ứng  toàn diện nhu cầu  các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng,  tài chính, hỗ  trợ  tốt nhất cho khách hàng trong  nước  và quốc  tế, quản  lý  có hiệu quả và phát  triển  bền  vững với  các  chiến  lược  cùng với vị  thế  là một  trong những chi nhánh dẫn đầu  trong hệ  thống về quy mô 67  hoạt động, NHCT ­ CN TP.HCM đã ra vạch ra định hướng hoạt động từ năm 2011  đến những năm 2015 là “Dẫn đầu trong hệ thống NHCT về quy mô hoạt động, hiệu  quả kinh doanh và trở thành một trong số Ngân hàng đứng đầu trên địa bàn Thành  Phố Hồ Chí Minh”.  3.1.2.2. Định hướng cụ thể  Từ định hướng chung ở trên, NHCT – CN  TP.HCM đã đề ra những mục tiêu cụ  thể trong giai đoạn từ năm 2011­2015 như sau: +  Phát huy  những  kết  quả  đạt được  trong những năm  vừa qua,  tiếp  tục  đẩy  mạnh công tác huy động, thu hút nhiều nguồn vốn với khối  lượng lớn, kỳ hạn ổn  định từ các khách hàng lớn trong nước và quốc tế, bên cạnh đó đẩy mạnh hoạt động  thanh toán, thẻ và dịch vụ ngân hàng điện tử, tài trợ thương mại, kiều hối... nhằm  phát  huy  tổng  thể  sức  mạnh  của  ngân  hàng,  nghiên  cứu  phát  triển  các  gói  sản  phẩm/dịch vụ đa dạng, cạnh tranh với nhiều giá trị gia tăng, đẩy mạnh huy động thu  hút khách hàng gửi tiền dân cư, tận dụng mọi nguồn vốn nhàn rỗi trên thị trường. +  Ưu tiên vốn phục vụ cho vay phát triển sản xuất, kinh doanh: tập trung cho  vay các ngành kinh tế trọng điểm phục vụ sản xuất, kinh doanh, đồng thời rà soát,  kiểm soát chặt chẽ, khống chế và hạn chế cho vay các nhu cầu phi sản xuất, đồng  thời triển khai nhiều chương trình tín dụng cho vay ưu đãi lãi suất đối với các khu  vực kinh tế được Chính phủ khuyến khích như: Cho vay hỗ trợ xuất khẩu, cho vay  phát  triển  kinh  tế  nông nghiệp,  nông  thôn,  cho  vay  công nghiệp  hỗ  trợ,  cho  vay  doanh nghiệp nhỏ và vừa. +  Phấn đấu đạt được một số chỉ tiêu cơ bản trong hoạt động kinh doanh, bao  gồm:  ü  Tăng trưởng nguồn vốn huy động: 20%/năm.  ü  Tăng  trưởng  dư  nợ  tín  dụng:  25%/năm  (tỷ  trọng  dư  nợ  cho  vay  theo  DAĐT chiếm bình quân 40% tổng dư nợ tín dụng).  ü  Tăng trưởng thu dịch vụ: 10%.  ü  Nợ xấu/tổng dư nợ: < 0,5%.  ü  Tăng trưởng lợi nhuận hằng năm: 15%.  ü 68  3.2 Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay DAĐT tại NHCT – CN TP.HCM  3.2.1. Các giải pháp chung  3.2.1.1. Đa dạng hóa danh mục đầu tư  Việc tập trung quá nhiều dư nợ  vào một số ngành nghề,  lĩnh vực sẽ làm ngân  hàng phải đối mặt với rất nhiều rủi ro, nhất là trong trường hợp các ngành nghề đó  gặp khó khăn. Do đó, để hạn chế rủi ro này, NHCT – CN TP.HCM cần đa dạng hóa  danh mục đầu tư của mình. Đồng  thời,  trên cơ sở  chính sách  tín dụng mà NHCT  ban hành hàng năm, NHCT – CN TP.HCM cần phải cụ thể hóa lại cho phù hợp với  tình hình thực tế trên địa bàn, qua đó xác định cụ thể các ngành nghề, lĩnh vực cần  tập trung vốn để tài  trợ và các ngành nghề,  lĩnh vực cần hạn chế. Làm được điều  này sẽ giúp cho Chi nhánh rất nhiều trong việc hạn chế rủi ro nhất là trong những  trường hợp nền kinh tế có nhiều khó khăn làm ảnh hưởng đến một số ngành nghề,  lĩnh vực nhất định.  3.2.1.2. Đa dạng hóa các phương thức huy động vốn nhất là nguồn vốn trung,  dài hạn  Các khoản vay dành cho đầu tư dự án cần phải được tài trợ chủ yếu bởi nguồn  vốn trung và dài hạn (bao gồm nguồn vốn có thời hạn từ một năm trở  lên và các  nguồn vốn  có  thời hạn dưới một năm nhưng  có  tính  ổn định  cao  trong  thời  gian  dài), do  đó để đảm bảo việc  tăng  trưởng ổn định  đối  với hoạt  động  cho  vay nói  chung và hoạt động cho vay DAĐT nói  riêng  thì NHCT ­ CN.TP.HCM cần phải  chú trọng hơn nữa đến công tác huy động vốn.  Hiện tại, mặc dù nguồn vốn huy động vẫn đảm bảo cho hoạt động tín dụng của  Chi nhánh và còn dư ra một phần để gửi vốn điều hòa về trụ  sở chính nhưng nếu  xét trong cơ cấu vốn hiện tại của Chi nhánh thì tiền gửi của Kho bạc Nhà nước và  tiền gửi của các  tổ chức kinh  tế nhất  là các doanh nghiệp  lớn chiếm tỷ trọng khá  cao  trong  tổng nguồn vốn huy động. Điều này  làm cho nguồn vốn huy động của  Chi nhánh thật sự vẫn chưa ổn định mà còn phụ thuộc nhiều vào một số khách hàng  lớn, tệ hơn nếu do một nguyên nhân nào đó các khách hàng lớn này đều rút tiền thì  sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến việc cân đối vốn cho vay của Chi nhánh.  Do đó, để đảm bảo cho nguồn vốn huy động của Chi nhánh được ổn định hơn  và không bị  lệ  thuộc quá nhiều vào một số đối  tượng khách hàng  lớn, Chi nhánh  cần phải tăng cường huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau bằng nhiều hình thức  như: phát hành các kì phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi, gửi tiết kiệm ngắn hạn, 69  trung và dài hạn với nhiều mức lãi suất cụ thể, hấp dẫn, kèm theo đó là những giải  pháp về khuyến mại, marketing… Đặc biệt Chi nhánh cần quan tâm nhiều hơn nữa  đến nguồn tiền gửi từ dân cư, và nguồn tiền gửi của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.  Mặc dù lượng tiền gửi của từng cá nhân hay từng doanh nghiệp có quy mô nhỏ là  khá ít, tuy nhiên với một số lượng lớn dân cư cũng như doanh nghiệp vừa và nhỏ  thì nguồn huy động từ các đối tượng này thực sự là một con số rất lớn, bên cạnh đó  nguồn huy động này thường ít có sự biến động lớn, đây là  yếu tố  rất cần thiết để  đảm bảo cho việc tăng trưởng ổn định đối với hoạt động cho vay nói chung và hoạt  động cho vay DAĐT nói riêng của Chi nhánh.  3.2.1.3.  Nhanh  chóng  thành  lập  Bộ  phận/Phòng  Pháp  chế  tại  NHCT  –  CN  TP.HCM  Là một  trong  những Chi nhánh  lớn,  dẫn  đầu  trong  toàn  hệ  thống NHCT nên  NHCT – CN TP.HCM thường xuyên nhận được đề nghị tài trợ vốn của các DAĐT  lớn  và  phức  tạp.  Trong  khi  đó,  hiện  nay  các  văn  bản  pháp  luật  của  nước  ta  lại  thường xuyên được sửa đổi và ban hành mới để phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp  ứng yêu cầu hội nhập. Điều này đã gây ra khá nhiều khó khăn cho các cán bộ  tín  dụng, cán bộ thẩm định trong việc cập nhật và nắm bắt các thay đổi này. Do đó, để  hạn  chế  các  rủi  ro  trong  công  tác  thẩm  định,  cho  vay  DAĐT  phát  sinh  từ  việc  không  nắm  bắt  kịp  thời  các  văn  bản,  quy  định  của  Nhà  nước,  NHCT  –  CN  TP.HCM cần phải quan tâm xây dựng bộ phận pháp chế và khi đạt đến một quy mô  nhất định thì tiến tới thành lập Phòng Pháp chế tại Chi nhánh (hiện nay chỉ ở Trụ sở  chính của NHCT mới có Phòng Pháp chế vì vậy không thể hỗ trợ kịp thời các vấn  đề phát sinh của Chi nhánh được).  Nhiệm vụ của bộ phận này là thường xuyên nghiên cứu các văn bản pháp luật,  các quy định của Nhà nước về các ngành kinh tế…nhằm hỗ trợ kịp thời cho cán bộ  tín  dụng,  cán  bộ  thẩm  định  của  Chi  nhánh  trong  quá  trình  thẩm  định,  cho  vay  DAĐT, đảm bảo việc thẩm định, cho vay được chặt chẽ và theo đúng quy định của  pháp luật. Đồng thời bộ phận này còn có nhiệm vụ nghiên cứu và tham mưu cho  Ban Giám đốc các vấn đề về pháp lý khi cần thiết. Bên cạnh đó, bộ phận này còn  phải đưa ra những cảnh báo và thông tin liên quan đến các rủi ro phát sinh từ việc  không nắm bắt  kịp  thời các quy  định  của pháp  luật cho  cán  bộ  tín dụng,  cán bộ  thẩm định biết để tránh mắc phải. 70  3.2.1.4. Chú trọng đào tạo, phát triển và nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng,  cán bộ thẩm định  Nhân tố con người luôn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng  tín  dụng  của ngân  hàng. Dù ngân hàng  có một chính  sách  tín dụng và quy  trình  phân tích tín dụng tốt mà cán bộ  tín dụng thiếu trình độ chuyên môn hoặc cố tình  cấu kết với người vay lừa đảo ngân hàng thì rủi ro trong cho vay chắc chắn sẽ xảy  ra. Do đó để xây dựng được một đội ngũ cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định vừa có  trình độ chuyên môn vừa có tư cách đạo đức nhằm phục vụ tốt cho hoạt động cho  vay nói chung và hoạt động cho vay DAĐT nói riêng thì ngoài việc chú trọng đến  công tác tuyển dụng cán bộ, NHCT – CN TP.HCM cần có một số biện pháp cụ thể  như sau: +  Đối với các cán bộ tín dụng, cán bộ  thẩm định mới tuyển dụng thì cần phải  có một khoảng thời gian (ít nhất là 03 tháng) để các cán bộ mới có thể học và nắm  bắt tất cả các nghiệp vụ của Chi nhánh, đồng thời luân chuyển cán bộ tín dụng, cán  bộ thẩm định thực tập tại các phòng nghiệp vụ để nắm bắt kiến thức tổng quát trước  khi làm nghiệp vụ thẩm định, giải ngân, thu nợ, quản lý, giám sát khoản vay.... Sau  khi hết thời gian tập sự cần phân công các cán bộ cũ có nhiều kinh nghiệm tiếp tục  giúp đỡ, xem xét lại hồ sơ của các cán bộ mới trước khi trình lãnh đạo phòng phê  duyệt, qua đó giúp các cán bộ mới nhận ra các sai sót trong quá trình tác nghiệp. +  Cần có các lớp bồi dưỡng kiến thức về phân tích tài chính và thẩm định dự  án cho cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định cả về lý thuyết và kinh nghiệm thực tế, từ  đó không chỉ giúp cho cán bộ nắm vững về mặt lý thuyết mà còn giúp cho cán bộ  tránh được các sai sót, các rủi ro thực tế đã phát sinh. +  Bên cạnh đó, hiện nay có rất nhiều văn bản hướng dẫn, chỉ đạo liên quan đến  nghiệp vụ tín dụng do NHNN và NHCT ban hành, do đó cần phải thường xuyên tổ  chức các buổi học tập nhằm triển khai và hệ thống lại các văn bản này cho cán bộ  tín dụng, cán bộ thẩm định giúp cho cán bộ kịp thời cập nhật và nắm bắt, tránh tình  trạng ngân hàng vô tình thành kẻ tiếp tay cho một số cán bộ, doanh nghiệp cố tình  lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của ngân hàng. +  Có chính sách ưu đãi nhằm thu hút những cán bộ giỏi về làm cho Chi nhánh  hoặc làm cộng tác viên, cố vấn trong công tác thẩm định DAĐT; khuyến khích về  tinh thần và vật chất đối với những cán bộ  tín dụng, cán bộ thẩm định hoàn thành  tốt công việc được giao,…Thông qua đó nâng cao ý thức tự vươn lên, đề cao tính  sáng tạo, coi trọng những sáng kiến, đề xuất có giá trị của mỗi cán bộ và đưa những 71  sáng kiến đó vào áp dụng trong thực tế đồng thời có hình thức khen thưởng kịp thời  nhằm động viên, khích lệ tinh thần. +  Xây dựng kế hoạch hợp tác đào tạo, trao đổi, nghiên cứu với các ngân hàng,  Tổ chức tài chính có uy tín trên thế giới để tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ được  tiếp cận với những kinh nghiệm về cung cấp các sản phẩm tín dụng đối với khách  hàng (bao gồm công tác thẩm định cho vay DAĐT).  3.2.1.5. Xây dựng hệ thống thông tin phục vụ cho công tác đánh giá, xếp loại  khách hàng và thẩm định DAĐT.  Chất lượng cho vay nói chung và chất lượng cho vay DAĐT nói riêng của ngân  hàng chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi thông tin và chất lượng thu thập, xử lý thông  tin. Nếu ngân hàng không có đầy đủ và chính xác thông tin để thẩm định trước khi  quyết định cho vay thì rủi ro không thu hồi được vốn đúng hạn hoặc mất vốn sẽ rất  lớn.  Hiện nay, trên thực tế tại NHCT – CN TP.HCM, việc thu thập các thông tin về  ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh của khách hàng cũng như các thông tin  về DAĐT như nguyên vật liệu, nhà cung cấp, sản phẩm, thị  trường… đều do mỗi  cán  bộ  tín  dụng,  cán  bộ  thẩm  định  thu  thập  từ  nhiều  nguồn  khác  nhau  như  từ  internet, báo chí, khách hàng vay vốn, thông tin từ các khách hàng liên quan…Tuy  nhiên, các  thông  tin  thu  thập được  thường không nhiều, không có độ  tin cậy cao  cũng như không có hệ  thống để so  sánh, đánh giá do đó  làm cho việc phân  tích,  nhận định của cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định trong quá trình thẩm định khách  hàng, thẩm định DAĐT vẫn chưa thật sự được chính xác, ảnh hưởng nhiều đến việc  đánh giá hiệu quả cũng như mức độ rủi ro của dự án.  Để khắc phục được hạn chế này, NHCT – CN TP.HCM cần xây dựng một hệ  thống thông tin nội bộ, một kho lưu trữ thông tin về các khách hàng vay vốn (lịch  sử hình thành, phát triển, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, quá trình quan  hệ tín dụng, các khách hàng liên quan…), về các ngành nghề, lĩnh vực đầu tư (thị  trường đầu vào, đầu ra, khả năng cạnh tranh, mức độ gia nhập thị  trường, các đối  thủ, rào cản, các chỉ số bình quân theo từng ngành, từng lĩnh vực…) đồng thời bố  trí  cán bộ  có nhiệm vụ  thường xuyên  tổng hợp,  thu  thập,  cập nhật các  thông  tin.  Đây  thực sự  là những  thông  tin  rất cần thiết và đáng  tin cậy giúp cho  cán bộ  tín  dụng, cán bộ  thẩm định đưa ra những phân  tích, nhận xét, đánh giá chính xác về  khách hàng, về DAĐT từ đó có những quyết định đúng đắn, biện pháp thích hợp  nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro tín dụng có thể xảy ra. 72  3.2.1.6. Thành lập bộ phận nghiên cứu, phân tích và dự báo về sự phát triển  của các ngành kinh tế  Mặc dù hiện nay, NHCT – CN TP.HCM là chi nhánh duy nhất trong hệ thống  NHCT có Phòng Thẩm định với chức năng chính là thẩm định các khách hàng mới  và các DAĐT của khách hàng. Tuy nhiên như vậy vẫn chưa đủ, việc thẩm định cho  vay  không chỉ dựa  trên số  liệu quá khứ và hiện  tại mà nó còn phải dựa vào việc  nghiên cứu, phân tích và dự báo cho tương lai. Điều này đặc biệt quan trong trong  việc thẩm định và quyết định cho vay DAĐT vì không thể chỉ dựa vào số liệu quá  khứ và hiện  tại để đánh giá  tình hình hoạt động của doanh nghiệp cũng như  tính  hiệu quả của DAĐT mà còn phải dựa vào các dự báo về xu hướng phát triển trong  tương lai để đánh giá, có như vậy mới có thể đánh giá chính xác được tính khả thi,  hiệu quả của dự án, xác định đúng dòng tiền và khả năng trả nợ của dự án.  Nhưng không phải ai cũng có khả năng phân tích, dự báo mà để làm được điều  này và đảm bảo cho kết quả dự báo mang  tính chính xác cao, đòi hỏi phải có  sự  nghiên cứu bài bản, chuyên sâu. Do đó, NHCT – CN TP.HCM cần nhanh chóng  thành  lập một bộ  phận nghiên  cứu, phân  tích  và dự báo  về  sự  phát  triển  của các  ngành kinh tế nhất là trong giai đoạn NHNN và NHCT chưa xây dựng được một hệ  thống thông tin phục vụ cho công tác thẩm định, định hướng tín dụng.  Nhiệm vụ của bộ phận này là tiến hành nghiên cứu phân tích, đánh giá tình hình  của các ngành kinh tế trong quá khứ, hiện tại kết hợp với các chính sách của Nhà  nước để đưa ra dự báo làm định hướng cho hoạt động tín dụng nói chung và hoạt  động cho vay DAĐT của Chi nhánh. Bên cạnh đó, căn cứ vào tỷ trọng đầu tư của  NHCT – CN TP.HCM trong hiện tại để xây dựng chiến lược, đề ra định hướng đầu  tư vào các ngành kinh tế (theo danh mục hoặc theo tỷ trọng) nhằm hạn chế, phân  tán rủi ro tín dụng và mang lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh của Chi nhánh.  3.2.1.7. Chuyên môn  hóa  cán bộ  thẩm định  theo  từng  ngành  nghề,  lĩnh  vực  đầu tư  Trong  nền  kinh  tế  có  rất  nhiều  ngành  nghề,  lĩnh  vực  đầu  tư  khác  nhau; mỗi  ngành  nghề,  lĩnh  vực đầu  tư  lại  có  những đặc  điểm  riêng,  những  thuận  lợi,  khó  khăn, rào cản riêng do đó để hiểu và nắm bắt thật tường tận bất kỳ ngành nghề nào  cũng đều đòi hỏi phải có một sự tìm hiểu, nghiên cứu chuyên sâu, từ đó mới có thể 73  có được những nhận xét, đánh giá thật chính xác. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay,  tại NHCT – CN TP.HCM, cán bộ thẩm định vẫn thẩm định chung tất cả các ngành  nghề,  lĩnh  vực  đầu  tư mà  chưa  có  sự  phân  công phụ  trách một  số  ngành  cụ  thể.  Điều này dẫn đến việc cán bộ thẩm định không thể nắm bắt đầy đủ các thông tin về  ngành nghề thẩm định cũng như các nhận xét, đánh giá đưa ra chưa thật sự chính  xác và phù hợp.  Do đó, để khắc phục được vấn đề này đồng thời nâng cao chất lượng công tác  thẩm định, NHCT – CN TP.HCM nên bố trí, sắp xếp cán bộ thẩm định theo một số  ngành nghề,  lĩnh  vực đầu  tư như bất động  sản, dệt may,  da  giày,  chế biến  lương  thực – thực phẩm, dược phẩm, giáo dục – y tế, nhà hàng – khách sạn,… Việc bố trí  như  vậy  sẽ  giúp  cho  cán  bộ  thẩm định  có  thể  nghiên  cứu,  nắm bắt  thông  tin  về  ngành nghề, lĩnh vực mà họ thẩm định một cách đầy đủ, tường tận, từ đó có thể đưa  ra các phân tích, đánh giá chính xác về tính khả thi, hiệu quả của DAĐT.  3.2.1.8. Tăng cường thanh tra, kiểm tra và phòng ngừa rủi ro đối với hoạt  động cho vay theo DAĐT  Thanh tra kiểm soát là nghiệp vụ rất quan trọng để đảm bảo chất lượng tín dụng,  do đó khi ngân hàng mở rộng đầu tư tín dụng thì vai trò của công tác thanh tra kiểm  soát cũng phải được nâng lên với mức tương ứng.  Công tác thanh tra, kiểm soát được đề cập ở đây không đơn thuần chỉ  là kiểm  tra  khách  hàng mà  quan  trọng  là  kiểm  tra  thanh  lọc  những  cán  bộ  tín  dụng mất  phẩm  chất, tiêu cực, gây thất thoát tài sản và làm mất uy tín của ngân hàng.  Hoạt động kinh doanh ngày càng đa dạng, phức tạp nhất là khi nền kinh tế đang  trong  giai  đoạn  chuyển  đổi  và  hội  nhập,  do  đó  phòng  ngừa  rủi  ro  là một  trong  những nhiệm vụ và giải pháp quan trọng trong thời gian tới. Để thực hiện nâng cao  chất lượng công tác phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng nói chung và cho  vay DAĐT nói riêng, NHCT ­ CN TP.HCM cần phải xây dựng hệ  thống quản trị  rủi ro tín dụng như sau: +  Thực hiện phân tách chức năng bán hàng, chức năng thẩm định, quản lý rủi  ro  tín dụng và chức năng quản  lý nợ  trong hoạt động cấp  tín dụng đối với khách  hàng; +  Tiêu chuẩn hóa cán bộ theo dõi rủi ro tín dụng để đáp ứng các yêu cầu, theo  đó, cần xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý rủi ro tín dụng có kinh nghiệm, kiến thức 74  và khả năng nhanh nhạy khi xem xét, đánh giá các đề xuất tín dụng và các yếu tố  liên quan đến rủi ro tín dụng; +  Xây  dựng  cơ  chế  trao đổi  thông  tin hiệu  quả, đảm bảo  sự  liên  lạc  thường  xuyên, liên tục và cập nhật kịp thời các thông tin trọng yếu giữa các bộ phận chức  năng trong hoạt động cấp tín dụng và phòng ngừa rủi ro tín dụng.  3.2.2. Giải pháp về kỹ thuật nghiệp vụ  3.2.2.1. Chú trọng đến việc đánh giá năng lực tài chính của khách hàng  Hiện nay việc đánh giá năng lực tài chính của khách hàng chủ yếu dựa trên việc  phân  tích  các báo cáo  tài  chính bao  gồm: bảng  cân đối kế  toán, báo  cáo  kết quả  kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Do đó để việc phân tích được chính xác,  phản ảnh đúng “sức khỏe” của doanh nghiệp thì trước tiên đòi hỏi cán bộ tín dụng,  cán bộ thẩm định phải xác định được mức độ tin cậy, tính trung thực của các số liệu  mà khách hàng cung cấp từ đó loại bỏ những khoản mục tài sản có, tài sản nợ kém  chất lượng, không có khả năng thu hồi trên báo cáo tài chính, đồng thời phải kiểm  tra  sự  tuân  thủ  chế độ  tài  chính,  kế  toán,  về  phương pháp  và  thời gian  tính khấu  hao, phương pháp hạch toán hàng tồn kho, trích lập dự phòng...  Khi tiến hành phân tích báo cáo tài chính, thì ngoài việc phân tích khái quát báo  cáo tài chính nhằm đánh giá sự biến động của tài sản và sự hợp lý của cơ cấu vốn  đối với hoạt động của doanh nghiệp, phân  tích bảo đảm nợ  vay, cán bộ  tín dụng,  cán bộ  thẩm định  cần chú  trọng phân  tích, đánh giá về các chỉ  tiêu tài chính của  doanh nghiệp như: nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán, nhóm chỉ tiêu về đòn bẩy  tài chính (cơ cấu vốn), nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động, nhóm chỉ tiêu về khả  năng  tăng  trưởng, nhóm chỉ  tiêu về khả năng sinh  lời,…đồng  thời việc phân  tích  các chỉ  tiêu  tài chính phải được gắn với đặc điểm kinh  tế ngành, chiến  lược kinh  doanh, mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp và phải có sự so sánh với số  trung  bình  ngành  hay  số  liệu  của  các  doanh  nghiệp  khác  tương  tự  trong  ngành.  Tuy  nhiên, việc đánh giá một chỉ tiêu thế nào là tốt, thế nào là xấu rất khó xác định do  việc đánh giá chỉ tiêu tài chính phải gắn liền với rất nhiều nhân tố như môi trường  kinh doanh, ngành kinh doanh, vị  thế  của doanh nghiệp  trên  thị  trường,  tính chất  mùa  vụ  kinh  doanh… Hơn nữa, một  số  chỉ  tiêu mang  lại  kết  quả  đánh  giá mâu  thuẫn nhau, ví dụ chỉ tiêu hệ số tự tài trợ, hệ số đòn bẩy tài chính với chỉ tiêu ROE  (ngân hàng mong muốn một hệ số tự tài trợ cao để đảm bảo an toàn vốn vay nhưng  hệ số tự tài trợ cao đồng nghĩa với ROE thấp do doanh nghiệp không tận dụng được 75  ưu thế của hệ số đòn bẩy tài chính). Vì vậy khi phân tích các chỉ tiêu tài chính, cán  bộ tín dụng, cán bộ thẩm định cần gắn với mục tiêu phân tích để xác định tính trọng  yếu  của  từng  chỉ  tiêu,  từ  đó đưa  ra những đánh giá khái quát  về  hoạt động kinh  doanh, năng lực tài chính của doanh nghiệp.  Bên cạnh đó, việc phân  tích báo cáo  lưu chuyển  tiền  tệ của doanh nghiệp cần  phải  được  quan  tâm,  chú  trọng  nhiều  hơn nữa. Hiện  nay  có  rất  nhiều  cán  bộ  tín  dụng, cán bộ  thẩm định  không hề quan  tâm đến báo cáo lưu chuyển tiền  tệ  trong  quá  trình  đánh giá năng  lực  tài chính của khách hàng mà chỉ  tập  trung phân  tích  bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh vì theo họ chỉ cần hai báo cáo  này là đã có thể phân tích và đánh giá được tình hình tài chính doanh nghiệp. Tuy  nhiên, đây là cách suy nghĩ  thật sai  lầm và rất tai hại. Việc phân tích báo cáo lưu  chuyển tiền tệ không chỉ giúp cho cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định đánh giá được  sự bền vững của dòng tiền doanh nghiệp trong quá khứ, khả năng tạo tiền và sự phù  hợp của dòng tiền so với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, đánh giá được  sự thịnh vượng hay khó khăn về dòng vốn của doanh nghiệp trong từng thời kỳ mà  còn giúp cho cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định có thể đưa ra dự báo dòng tiền của  doanh nghiệp trong tương lai. Đây là điều hết sức quan trọng vì nó xác định trong  kỳ tới doanh nghiệp có thặng dư tiền mặt để trả nợ vay hay bội chi tiền mặt và phải  vay  ngân  hàng để  bù đắp,  đồng  thời qua  nghiên  cứu dòng  tiền  và  các  khoản  dễ  chuyển  đổi  thành  tiền,  cán  bộ  tín  dụng,  cán  bộ  thẩm định  sẽ  xác  định  được  khả  năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.  3.2.2.2. Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án  v  Sử dụng tỷ suất chiết khấu hợp lý khi thẩm định các chỉ tiêu tài chính dự án  Khi nghiên cứu các chỉ tiêu thẩm định tài chính dự án chúng ta thấy rằng các chỉ  tiêu như NPV, IRR, B/C, DPP đều có chung một nhược điểm là phụ  thuộc vào tỷ  suất chiết khấu. Việc sử dụng tỷ suất chiết khấu không hợp lý có thể làm thay đổi  hiện  giá dòng  tiền  từ  âm sang dương hay  ngược  lại  và  do đó đảo  ngược việc  ra  quyết định. Vì vậy vấn đề đặt  ra  là phải xác định và xây dựng nguyên  tắc  thống  nhất tỷ suất chiết khấu như thế nào cho phù hợp với các loại dự án khác nhau để kết  quả thẩm định tài chính dự án đạt được độ tin cậy cao phù hợp với từng quan điểm  thẩm định và phản ánh được chi phí của các nguồn vốn sử dụng trong dự án.  Đứng trên quan điểm tổng đầu tư thì tỷ suất chiết khấu áp dụng phải phản ánh  được chi phí vốn bình quân trọng số (WACC) của các nguồn vốn sử dụng trong dự 76  án. Sử dụng WACC làm tỷ suất chiết khấu để tính NPV có ưu điểm là có thể đánh  giá hiệu quả đầu tư thông qua chi phí sử dụng vốn hiện tại của công ty. WACC có  độ tin cậy cao hơn một số thông số khác trong việc chiết khấu dòng tiền đầu tư do  phương pháp  tính nó được xây dựng  trên những giá  trị bình quân của công  ty và  quan điểm thị trường.  Tuy nhiên, hiện nay ở  nước,  nền  kinh  tế  thị  trường vẫn đang  trong  giai đoạn  chuyển mình và chưa ổn định, vẫn còn chịu nhiều ảnh hưởng từ những biến động  của nền kinh tế thế giới, vì vậy rất khó để có những thông tin phản ảnh đầy đủ về  thị  trường cũng như rất khó để có thể xác định được mức độ  rủi ro của từng lĩnh  vực, ngành nghề, xác định mức sinh lời mong muốn của nhà đầu tư khi bỏ vốn vào  dự án từ đó xác định suất chiết khấu hợp lý và đáng tin cậy khi thẩm định hiệu quả  DAĐT.  Do đó, để xác định suất chiết khấu hợp lý và đáng tin cậy khi  thẩm định hiệu  quả DAĐT, cán bộ thẩm định cần chú ý một số nội dung sau: +  Tùy  theo  dự đoán  viễn  cảnh  của nền kinh  tế  và mức độ  lạm phát, nếu dự  đoán mức độ lạm phát tăng thì nên tăng tỷ suất chiết khấu và ngược lại. +  Tham khảo thêm tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp để tính toán mức sinh  lời mong muốn của các nhà đầu tư.  Bên cạnh đó, trong từng thời kỳ (có thể định kỳ 3 tháng/lần), Chi nhánh nên cử  một số cán bộ có kinh nghiệm, trình độ, có khả năng nghiên cứu, phân tích (có thể  để bộ phận nghiên cứu, phân tích và dự báo về sự phát triển của các ngành kinh tế  thực hiện) xác định mức độ  rủi ro từ đó tính toán được mức sinh lời mong muốn  của các nhà đầu tư đối với từng lĩnh vực, ngành nghề nhất là đối với các lĩnh vực,  ngành nghề đang chiếm tỷ trọng cho vay cao trên tổng dư nợ của Chi nhánh. Với  kết quả tính toán này sẽ giúp cho cán bộ thẩm định hạn chế được sai sót trong việc  xác định suất chiết khấu và đánh giá chính xác hiệu quả của dự án.  v  Cần quan tâm đến yếu tố lạm phát và tỷ giá khi thẩm định hiệu quả tài chính  dự án Lạm phát và tỷ giá hối đoái là hai yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả tài  chính dự án, đặc biệt là đối với các dự án có hàng hóa ngoại thương trong thời kỳ  có biến động mạnh về lạm phát và tỷ giá. Sự tác động của hai biến rủi ro này có thể  tác động làm dòng ngân lưu của dự án từ dương sang âm và ngược lại. 77  Do đó để đảm bảo dòng ngân lưu của dự án phản ánh tác động của lạm phát, tỷ  giá đến các giá trị  thực của dự án, khi xây dựng DAĐT cũng như quá trình thẩm  định tài chính cần thiết phải tiến hành điều chỉnh phân tích dự án theo lạm phát, tỷ  giá. Tuy nhiên trong quá trình phân tích, cần phải nhất quán trong việc đưa yếu tố  lạm phát,  tỷ giá vào các dòng  thu chi có chịu  ảnh hưởng của  lạm phát,  tỷ giá để  đảm bảo  tính khách quan,  không bỏ  sót nhằm  tránh  bóp méo kết quả dòng ngân  lưu.  v  Thẩm định chính xác vốn tự có của khách hàng tham gia vào dự án  Trong cho vay DAĐT, vốn tự có của khách hàng tham gia vào dự án được đánh  giá  là  rất  quan  trọng. Vốn  tự  có  của  khách  hàng  thường được  yêu  cầu  tham  gia  trước vào dự án, một số trường hợp có thể cho phép khách hàng tham gia vốn song  song theo tiến độ giải ngân.  Khi nguồn vốn của khách hàng được thẩm định đầy đủ và đảm bảo thì sẽ không  có trường hợp thiếu vốn trong quá trình triển khai dự án từ đó ảnh hưởng đến khả  năng trả nợ vay cho ngân hàng. Ngược lại nếu không thẩm định kỹ nguồn vốn tự có  của khách hàng thì khi đang triển khai thực hiện dự án, khách hàng không còn khả  năng góp tiếp vào dự án điều này đồng nghĩa với việc ngân hàng cũng không thể  tiến hành giải ngân tiếp được (do không đáp ứng được tỷ lệ giữa vốn tự có/vốn vay  theo cam kết đã quy định trong hợp đồng tín dụng) từ đó không chỉ làm cho dự án  không thể tiếp tục được thực hiện, mà còn làm phát sinh thêm một số chi phí khác  dẫn đến  làm  tăng  tổng vốn đầu  tư của dự  án, giảm hiệu quả của dự  án so với kế  hoạch ban đầu đã đề ra.  Do đó để hạn chế  rủi  ro này đòi hỏi cán bộ  thẩm định phải  thẩm định kỹ khả  năng và tính khả thi của nguồn vốn góp trước khi quyết định tài trợ vốn đồng thời  phải yêu cầu khách hàng cam kết tham gia góp vốn theo tiến độ.  v  Chú trọng đến việc phân tích độ nhạy của dự án  Do thời gian hoạt động, vận hành của dự án và thời gian vay vốn thường khá dài  nên các cơ sở tính toán hiệu quả tài chính của dự án đều có khả năng thay đổi. Để  khắc phục vấn đề này, các ngân hàng  thường sử dụng phương pháp phân tích độ  nhạy.  Phương pháp phân  tích độ  nhạy  được  dùng để  kiểm  tra  tính  vững chắc về  hiệu quả tài chính của dự án, nó xem xét đến sự thay đổi cuả các chỉ tiêu tài chính  của dự án khi các yếu tố liên quan thay đổi và mức độ nhạy cảm của dự án đối với  sự  biến động của các  yếu  tố  liên quan đó. Tuy nhiên, hiện nay việc phân tích độ  nhạy của dự án vẫn chưa thực sự được chú trọng mà vẫn còn là một kiểu làm hình 78  thức, điều này đã  làm mất đi  tác dụng của việc phân  tích độ nhạy  từ  đó dẫn đến  việc đánh giá chưa thật chính xác mức độ rủi ro của dự án khi có các biến động xảy  ra.  Để phát huy  tối đa công dụng của việc phân tích độ  nhạy  trong việc đánh giá  hiệu quả,  tính khả  thi  của DAĐT, đòi hỏi cán bộ  thẩm định  trước  tiên phải nhận  thức được tầm quan trọng của việc phân tích độ nhạy trong việc đưa ra các đề xuất  về việc cho vay/không cho vay đồng thời tập trung phân tích các nội dung sau: +  Phân tích ảnh hưởng của từng yếu tố  liên quan đến các chỉ tiêu hiệu quả tài  chính của dự án (thay đổi về tổng vốn đầu tư, công suất hoạt động, giá mua nguyên  vật  liệu, giá bán, nhu cầu  thị  trường,…) nhằm  tìm  ra các  yếu  tố  gây nên sự nhạy  cảm lớn hay nói cách khác là ảnh hưởng lớn đến hiệu quả tài chính của dự án. +  Tuy nhiên, trên thực tế không thể chỉ có một yếu tố biến động còn các yếu tố  khác thì giữ nguyên không thay đổi mà luôn luôn có sự thay đổi của nhiều yếu tố.  Do đó, để đánh giá chính xác hiệu quả của dự án cần tiến hành phân tích ảnh hưởng  đồng thời nhiều yếu tố như giữa tổng vốn đầu tư và công suất hoạt động, tổng vốn  đầu tư và giá bán, giá mua nguyên vật liệu và giá bán…  Hiện nay  trên  thế giới  còn một phương pháp khác để đánh  giá  các biến động  trên là phương pháp phân tích kịch bản hay còn gọi là phương pháp phân tích mô  phỏng. Phương pháp này  cho  phép  kết  hợp  nghiên  cứu độ  nhạy  của  các  chỉ  tiêu  tổng hợp (NPV, IRR) với phân tích xác suất độ lệch của chúng. Phương pháp này  tuy có độ  chính xác cao nhưng cần có cơ sở dữ  liệu phong phú để xác định được  xác  suất  xảy  ra  và có  phương  tiện  kỹ thuật  hiện đại để  tính  toán, do đó đến nay  phương pháp này vẫn chưa được áp dụng rộng rãi ở nước ta. Trong tương lai, khi  trình độ kỹ thuật công nghệ của nước ta phát triển, việc phân tích, lưu trữ thông tin  được thực hiện thường xuyên và khoa học hơn thì phương pháp này sẽ là một công  cụ rất hữu hiệu cho ngân hàng trong việc đánh giá hiệu quả tài chính của dự án.  3.2.3. Các kiến nghị  3.2.3.1. Đối với NHCT  v  Nhanh chóng thành lập các Phòng/Tổ  thẩm định tại các chi nhánh trên toàn  hệ thống  Hiện nay ngoại trừ NHCT – CN TP.HCM là có phòng thẩm định riêng biệt, còn  lại các chi nhánh khác đều không có phòng thẩm định, việc thẩm định tại các chi  nhánh đều do cán bộ tín dụng thực hiện. Điều này làm cho việc thẩm định của các 79  chi nhánh chưa có sự chuyên nghiệp, cán bộ tín dụng không có nhiều kinh nghiệm  trong việc thẩm định DAĐT dẫn đến kết quả thẩm định nhiều khi không phản ánh  đúng tính khá thi, hiệu quả của dự án, không lường trước được các rủi ro có thể xảy  ra từ đó ảnh hưởng đến chất lượng cho vay của chi nhánh.  Để hạn chế được các rủi ro tín dụng trong cho vay DAĐT phát sinh từ nguyên  nhân  là  các  sai  sót  trong  khâu  thẩm  định,  NHCT  nên  nhanh  chóng  thành  lập  Phòng/Tổ thẩm định tại các chi nhánh trên toàn hệ thống với chức năng, nhiệm vụ  chính là  thẩm định các khách hàng mới và các DAĐT của khách hàng. Phòng/Tổ  thẩm định sẽ quy tụ các cán bộ có kinh nghiệm trong công tác thẩm định cho vay  khách hàng, DAĐT, đồng  thời NHCT cần  thường xuyên  tổ  chức các lớp đào  tạo  nghiệp vụ cho bộ phận này. Làm được như vậy sẽ giúp cho việc thẩm định khách  hàng, thẩm định DAĐT của các chi nhánh trong hệ thống NHCT trở nên hiệu quả  hơn, hạn chế đến mức thấp nhất các sai sót có thể xảy ra trong công tác thẩm định  từ đó góp phần nâng cao chất lượng tín dụng của chi nhánh đồng thời giúp cho việc  phục vụ khách hàng ngày càng nhanh và tốt hơn, không làm lỡ mất cơ hội đầu tư  của khách hàng.  v  Tăng  mức  cho vay  trên  giá  trị định  giá đối với  tài  sản bảo đảm  là quyền  sử  dụng đất  Hiện nay đối với  tài  sản bảo đảm  là quyền sử dụng đất, các chi nhánh của hệ  thống NHCT chỉ được định giá tối đa bằng 70% giá trị thị trường và mức cho vay  tối đa chỉ bằng 70% giá trị định giá. Như vậy thực tế số tiền cho vay tối đa chỉ bằng  49% giá trị  thị trường của tài sản, đây là mức quá thấp so với mức cho vay chung  của  các NHTM khác  trên  địa  bàn. Điều  này  gây  ra  nhiều  khó  khăn  cho  các  chi  nhánh  trong việc  thu hút khách hàng mới và giữ  các khách hàng cũ. Đã có nhiều  trường  hợp  bị mất  khách  hàng hoặc  không  thiết  lập  được  quan  hệ  tín  dụng  với  khách hàng do khách hàng không đồng ý với giá  trị định giá của chi nhánh cũng  như không đồng ý với mức cho vay quá thấp so với giá trị thị trường của tài sản.  Do đó để có thể tạo điều kiện giúp các chi nhánh trong việc thu hút khách hàng  mới và giữ vững các khách hàng cũ, nâng cao sức cạnh tranh của các chi nhánh so  với các NHTM khác trên địa bàn, NHCT nên đồng ý ủy quyền cho các chi nhánh  trên các địa bàn  lớn như địa bàn TP.HCM, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng,…được  phép định giá giá trị  tài sản là quyền sử dụng đất bằng với giá trị  thực tế  trên thị  trường và mức cho vay  tối đa bằng 70% giá trị định giá của chi nhánh. Việc xác  định  giá  trị quyền  sử dụng đất  bằng  giá  trị  thực  tế  trên  thị  thường phải  được  sự 80  đồng ý phê duyệt của Hội đồng tín dụng chi nhánh, đồng thời sẽ do một tổ định giá  độc lập định và phải có cơ sở định giá rõ ràng, đảm bảo không để xảy ra việc cố  tình định giá cao hơn so với giá trị thực tế trên thị trường để nâng mức cho vay.  v  Giảm tỷ lệ vốn chủ sở hữu của khách hàng tham gia vào dự án  Theo quy định hiện hành của NHCT thì mức vốn chủ sở hữu tham gia vào dự án  tối thiểu bằng 40% tổng mức vốn đầu tư sau khi trừ đi phần vốn lưu động của dự án  (trường hợp thời hạn cho vay đến 3 năm), tối thiểu bằng 45% tổng mức vốn đầu tư  sau khi trừ đi phần vốn lưu động của dự án (trường hợp thời hạn cho vay từ 3 đến 5  năm) và tối thiểu bằng 50% tổng mức vốn đầu tư sau khi trừ đi phần vốn lưu động  của dự án (trường hợp thời hạn cho vay trên 5 năm). Việc quy định như vậy nhằm  nâng cao trách nhiệm của khách hàng trong việc thực hiện và quản lý dự án, hạn  chế rủi ro cho ngân hàng, tuy nhiên mức quy định này hiện nay đang cao hơn các  NHTM khác trên địa bàn, điển hình như: đối với Ngân hàng TMCP Ngoại thương  Việt Nam – Chi nhánh TP.HCM thì tỷ lệ cho vay một dự án là 75% tổng mức vốn  đầu tư, còn đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam thì tỷ lệ cho vay một  dự án là 85% tổng mức vốn đầu tư nhưng không vượt quá 2 lần vốn chủ sở hữu của  khách hàng vay vốn. Điều này đã gây khó khăn cho các chi nhánh trong việc thu  hút, tìm kiếm khách hàng vì thực tế không có nhiều doanh nghiệp có đủ vốn chủ sở  hữu tham gia vào dự án đáp ứng đủ tỷ lệ theo quy định của NHCT.  Do đó, để giúp cho các chi nhánh có thể cạnh tranh được với các NHTM khác  trên địa bàn, thu hút thêm nhiều khách hàng đến vay vốn đầu tư dự án, NHCT nên  cho phép các Chi nhánh được quyền quyết định tỷ lệ vốn chủ sở hữu tham gia vào  dự án tùy thuộc vào mức độ rủi ro, ngành nghề đầu tư của dự án. Tuy nhiên, để hạn  chế các rủi ro có thể xảy ra khi cho các chi nhánh được quyền quyết định tỷ lệ vốn  chủ sở hữu tham gia vào dự án, thì đối với từng ngành nghề, lĩnh vực đầu tư, từng  hình thức đầu  tư  (đầu  tư mới, đầu  tư chuyên sâu, đầu  tư mở  rộng,…) NHCT nên  quy định một mức vốn  chủ  sở  hữu  tham gia  tối  thiểu. Khi đó, các Chi  nhánh  sẽ  được quyền định đoạt tỷ lệ vốn chủ sở hữu tham gia vào dự án nhưng không được  thấp hơn mức tối thiểu này. 81  3.2.3.2. Đối với NHNN  v  Nâng cao vai  trò và chất  lượng hoạt động của Trung tâm thông tin  tín dụng  (CIC) Ngày nay, thông tin về khách hàng đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động  cho vay  của  các NHTM nói  chung và hoạt động cho vay DAĐT nói  riêng. Việc  thiếu thông tin hay nhận được nguồn thông tin không chính xác có thể sẽ làm cho  quyết định tín dụng của ngân hàng bị sai  lệch, dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín  dụng nhất là trong công tác thẩm định và cho vay DAĐT của các ngân hàng.  Trong thời gian vừa qua, Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) cũng đã hỗ trợ khá  nhiều cho các NHTM trong việc cung cấp  thông  tin về  khách hàng, phục vụ  cho  công tác thẩm định và cho vay của các NHTM. Tuy nhiên việc cung cấp thông tin  cũng chỉ mới dừng lại ở việc cung cấp dư nợ, lịch sử gia hạn nợ, nợ quá hạn, tài sản  bảo đảm của khoản vay một số trường hợp có phân tích sơ bộ tình hình hoạt động  kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp tuy nhiên thông tin cung cấp còn  đơn điệu, thiếu cập nhật nên chưa đáp ứng được đầy đủ  yêu cầu tra cứu thông tin  của các ngân hàng.  Do đó, để hỗ trợ và đáp ứng tốt hơn nhu cầu tra cứu thông tin của các NHTM,  NHNN cần yêu cầu các NHTM phải cung cấp thông tin về các khách hàng vay vốn  một  cách  kịp  thời  và  đầy  đủ  về  khách  hàng  cho  Trung  tâm  thông  tin  tín  dụng.  Trong  trường hợp các NHTM cung cấp  thông  tin không kịp  thời,  cung cấp thông  tin không chính xác hoặc không cung cấp thông tin về khách hàng thì NHNN cần  phải có biện pháp mạnh để xử lý, kỷ luật. Chỉ có như vậy thì các thông tin về khách  hàng của Trung tâm thông tin tín dụng mới có thể phục vụ tốt nhất cho hoạt động  thẩm định  và  cho  vay  của  các NHTM, nhất  là  trong  công  tác  thẩm định  cho  vay  DAĐT.  Bên cạnh đó, NHNN cần thu thập thêm các thông tin khác từ các cơ quan, ban  ngành như  tổng  cục  thống kê, Bộ kế hoạch đầu  tư,  tổng  cục  thuế,…để  thực hiện  xây dựng thông tin ngành, xu hướng phát  triển trong tương lai nhằm phục vụ cho  việc xây dựng các chính sách tín dụng, định hướng đầu tư của các NHTM qua đó  giúp cho các NHTM có quyết định đúng đắn trong việc tài trợ vốn cho các DAĐT  ở các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác nhau.  v  Sớm thành lập một Công ty xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp tại Việt Nam  Hiện  nay,  việc  chấm  điểm  và  xếp hạng  tín  dụng  của  khách  hàng đều  do  các  NHTM tự thực hiện dựa trên các chỉ tiêu về định tính và định lượng mà mỗi ngân 82  hàng tự đặt ra, vì vậy kết quả chấm điểm và xếp hạng của các NHTM không có sự  thống nhất với nhau. Do đó, việc hình thành một công ty xếp hạng tín nhiệm doanh  nghiệp có ý nghĩa  rất quan  trọng  trong hoạt động cho vay của các NHTM. Chức  năng chính của công ty này là thu thập, xử lý, phân tích các thông tin về tình hình  tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, so sánh với số liệu bình  quân ngành và các doanh nghiệp hoạt động trong cùng ngành nghề để đưa ra các  đánh giá, xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp. Trên cơ sở kết quả xếp hạng tín nhiệm  của  công  ty,  các NHTM  sẽ  có  được những đánh  giá  chính  xác  về doanh nghiệp  trước khi quyết định có cho doanh nghiệp vay vốn hay không.  Bên cạnh đó, để giúp cho công ty này ngày càng phục vụ tốt cho hoạt động cho  vay của các NHTM, NHNN có thể  quy định  tất cả các doanh nghiệp muốn được  ngân  hàng  xem  xét  cho  vay  vốn  thì  bắt  buộc  phải  được  xếp  hạng  tín  nhiệm  tại  Công ty  xếp hạng tín nhiệm này. Điều này sẽ làm các doanh nghiệp nếu muốn vay  vốn  ngân  hàng  thì  phải  tự  giác  tham  gia  đăng  ký  xếp  hạng  để  có  được  giấy  chứng  nhận. Hơn nữa,  ngoài  tác  dụng  giúp  đỡ  ngân  hàng  trong  việc  thẩm  định  khách  hàng, hoạt động của công ty xếp hạng tín nhiệm còn  tạo động  lực thúc đẩy  các  doanh nghiệp  tự  hoàn  thiện,  nâng  cao  năng  lực  tài  chính,  năng  lực  sản  xuất  kinh doanh, uy tín của mình để có được vị trí xếp hạng cao.  v  Chống sự cạnh tranh kém lành mạnh giữa các ngân hàng  Với sự mở  rộng tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các NHTM, NHNN đã  giải phóng tính sáng tạo và chủ động của các ngân hàng trong hoạt động kinh doanh.  Tuy  nhiên  đã  xuất hiện  tình  trạng  cạnh  tranh  kém  lành mạnh,  tranh  giành  khách  hàng vay vốn giữa các ngân hàng như cho vay để hoàn trả các khoản vay của các  ngân hàng khác, hạ thấp các tiêu chuẩn, điều kiện vay vốn dẫn đến nguy cơ rủi ro tín  dụng tăng cao. Do đó NHNN cần có sự kiểm tra, kiểm soát có hiệu quả những hoạt  động kinh doanh của các NHTM, đảm bảo sự phát triển bền vững và an toàn.  3.2.3.3. Đối với Nhà nước, Chính phủ  v  Nâng cao chất lượng các thông tin tài chính doanh nghiệp  Các báo cáo tài chính của doanh nghiệp  là cơ sở để các ngân hàng thẩm định,  đánh giá năng lực, “sức khỏe” của khách hàng. Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta, đa  số các số liệu báo cáo mà doanh nghiệp cung cấp đều chưa phản ánh đúng tình hình  tài chính của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, một doanh nghiệp  vẫn còn  tồn  tại một  lúc 2  báo  cáo  tài  chính, một báo cáo nội bộ  và một báo  cáo 83  thuế. Những điều này đã gây ra khá nhiều khó khăn cho các ngân hàng trong việc  thẩm định khách hàng.  Do đó, để hỗ trợ các ngân hàng trong công tác thẩm định, đánh giá khách hàng  đồng  thời  từng bước  làm minh bạch  thông  tin  tài  chính doanh nghiệp, Nhà nước  cần chỉ đạo các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện chế độ thống kê, kế toán, kiểm  toán và báo cáo  thông tin, đồng  thời xây dựng và ban  hành những quy định  ràng  buộc  trách  nhiệm  của  doanh  nghiệp,  những  chế  tài  xử  lý  khi  các  doanh  nghiệp  không thực hiện đúng những chế độ đó và cung cấp những thông tin không chính  xác.  Bên cạnh đó, cũng cần quy định chế độ kiểm toán bắt buộc theo định kỳ đối với  tất cả các doanh nghiệp, qua đó nâng cao tính trung thực, chính xác của các số liệu,  đảm bảo độ tin cậy của các báo cáo tài chính.  Ngoài  ra,  Nhà  nước  cũng  nên  quy  định  chặt  chẽ hơn  về  những  điều  kiện  để  được thành lập công ty kiểm toán và quy định rõ trách nhiệm của công ty kiểm toán  cũng như các kiểm toán viên có liên quan khi cho ra đời những báo cáo kiểm toán  sơ sài, hoặc thiếu trung thực. Vì thực tế hiện này cho thấy chất lượng của rất nhiều  công ty kiểm toán là chưa đảm bảo (có những báo cáo tài chính đã được kiểm toán  nhưng thậm chí sai ở tiêu chí cơ bản nhất là đơn vị tiền tệ USD thành VND).  v  Xử lý tài sản là quyền sử dụng đất hình thành từ vốn vay  Các DAĐT trong lĩnh vực đất đai, bất động sản như xây dựng nhà ở, chung cư,  trung tâm thương mại,…thường có tổng vốn đầu tư và nhu cầu vốn vay rất lớn. Từ  đó làm cho các chủ đầu tư rất khó để tìm các tài sản thế chấp nhằm bảo đảm đủ cho  khoản vay mà chủ yếu là dùng chính tài sản của dự án để làm bảo đảm (tài sản hình  thành từ vốn vay bao gồm cả quyền sử dụng đất).  Khi dự án hoàn thành và các tài sản hình thành từ vốn vay đã được cấp quyền sở  hữu, quyền sử dụng cho chủ đầu  tư  thì Ngân hàng sẽ  tiến hành ký hợp đồng  thế  chấp chính thức đối với các tài sản này.  Tuy nhiên trong thực tế, có không ít dự án gặp khó khăn, vướng mắc ngay trong  khâu đền bù, giải toả dẫn đến dự án thực hiện chậm tiến độ so với kế hoạch đã đề ra  ban đầu và bị Nhà nước  thu hồi quyết định giao đất/quyết định đầu  tư/giấy phép  xây dựng. Như vậy quyền sử dụng đất sẽ không được cấp cho chủ đầu tư khi mà  chỉ mới tiến hành đền bù được một phần và ngân hàng cũng không thể ký hợp đồng  thế chấp chính thức đối với tài sản. 84  Các ngân hàng khi lâm vào trường hợp này thường rất khó khăn trong công tác  xử lý tài sản để thu hồi nợ do các cơ quan chức năng chưa có hướng dẫn xử lý tài  sản  là quyền  sử dụng đất  trong  trường hợp này. Do đó, để hỗ  trợ  các ngân hàng  trong việc xử  lý tài sản cũng như mạnh dạn nhận các tài sản như vậy làm tài sản  bảo đảm cho khoản vay thì các cơ quan chức năng ban ngành cần ban hành các quy  định, văn bản hướng dẫn về trình tự và thủ tục xử lý quyền sử dụng đất đối với các  dự án bị  thu hồi quyết định giao đất, giấy phép đầu tư mà các quyền sử dụng đất  này đã được thế chấp cho ngân hàng để đảm bảo cho khoản vay của chủ đầu tư. 85  Kết luận chương 3  Trên cơ sở lý luận được trình bày ở chương 1, thực trạng hoạt động, hạn chế và  những nguyên nhân gây  ra hạn chế ở chương 2, những chiến  lược kinh doanh và  mục tiêu cụ thể từ năm 2011­2015 của NHCT – CN TP.HCM, trong chương 3, luận  văn đã mạnh dạn đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cho vay DAĐT  tại NHCT – CN TP.HCM bao gồm các giải pháp chung và các giải pháp mang tính  kỹ thuật nghiệp vụ.  Với  những  giải  pháp  cơ  bản  cùng với  những kiến  nghị  được  trình  bày  trong  chương 3  hy  vọng sẽ  góp phần  thiết  thực  cho  việc nâng  cao  chất  lượng  cho  vay  DAĐT  nói  riêng  và hoạt  động  kinh  doanh  tại  Chi  nhánh nói  chung,  qua  đó  góp  phần  giúp Chi  nhánh  tăng  sức  cạnh  tranh  và  tạo  thế  vững bước  cùng  với  ngành  Ngân hàng tiến vào con đường hội nhập kinh tế thế giới và phục vụ tốt nhất cho sự  nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. 86  KẾT LUẬN  Cùng với  sự phát  triển của sản xuất và  lưu  thông hàng hoá  thì hoạt động cho  vay cũng ngày càng phát triển nhằm cung cấp các phương tiện giao dịch để đáp ứng  mọi nhu cầu sản suất kinh doanh của xã hội. Trong điều kiện đó, chất  lượng cho  vay của ngân hàng là vấn đề ngày càng được quan tâm. Tuy nhiên, trong điều kiện  nền kinh tế thị trường có nhiều cạnh tranh và biến động như hiện nay thì hoạt động  cho vay của Ngân hàng đang  tiềm ẩn nhiều  rủi  ro, nhất  là  rủi  ro  trong hoạt động  cho vay DAĐT.  Trong thời gian qua, mặc dù chất  lượng tín dụng nói chung và chất  lượng cho  vay DAĐT tại NHCT – CN TP.HCM ngày càng được cải thiện, tuy nhiên bên cạnh  đó vẫn còn  tồn  tại một số hạn chế cần phải nhanh chóng khắc phục. Do đó,  việc  thường xuyên nghiên cứu,  tìm ra các giải pháp nâng cao chất  lượng cho vay theo  DAĐT tại NHCT – CN TP.HCM là vấn đề không thể thiếu được trong hoạt động  tín dụng của Chi nhánh.  Từ việc nhận định được những hạn chế, phân tích được những nguyên nhân dẫn  đến các hạn chế trong cho vay DAĐT tại NHCT – CN TP.HCM, thực tiến công tác  cho vay DAĐT tại Chi nhánh, đề tài đã đưa ra được những giải pháp thiết thực góp  phần nâng cao chất lượng cho vay DAĐT tại NHCT – CN TP.HCM. Tuy nhiên do  điều kiện hạn chế về thời gian cũng như trình độ nên chắc chắn đề tài không tránh  khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, bổ  sung quý báu của các Quý Thầy, Cô cùng bạn bè để đề tài được hoàn chỉnh hơn. 87  TÀI LIỆU THAM KHẢO  ­­­o0o­­­  1.  Đinh Thế Hiển  (2006)  Lập  –  Thẩm định hiệu quả  tài  chính dự  án đầu  tư,  Nhà xuất bản thống kê.  2.  Trần Huy Hoàng (2007) Quản trị Ngân hàng Thương mại, NXb Lao Động  Xã hội, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.  3.  Nguyễn Quốc Ân, Phạm Thị Hà, Phan Thị Thu Hương (2006), Thiết lập và  Thẩm  định  dự  án  đầu  tư,  NXB  Thống  Kê,  Trường  Đại  học  Kinh  tế  TP.HCM.  4.  Nguyễn Bạch Nguyệt, TS. Từ Quang Phương (2007) Giáo trình về Kinh tế  Đầu tư, NXB Đại học Kinh tế Quốc Dân­ Bộ Môn Kinh tế Đầu tư – Trường  Đại học kinh tế Quốc Dân.  5.  Nguyễn Bạch Nguyệt (2008) Giáo  trình  Lập dự  án Đầu tư, NXB Đại học  Kinh tế Quốc Dân­ Bộ Môn Kinh tế Đầu tư, Trường Đại học kinh tế Quốc  Dân.  6.  Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam, Báo cáo thường niên năm 2005,  2006, 2007, 2008 2009, 2010 và 6 tháng đầu năm 2011.  7.  Báo  cáo  hoạt  động  kinh  doanh  NHCT  –  CN  TP.HCM  năm  2005,  2006,  2007, 2008 2009, 2010 và 6 tháng đầu năm 2011.  8.  Quy chế cho vay của Tổ  chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm  theo Quyết định số 1627/2001/QĐ­NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc  Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam  9.  Thông tư 13/2010/TT­NHNN ngày 20/05/2010 của NHNNVN quy định an  toàn trong hoạt động tín dụng.  10.Thông tư 19/2010/TT­NHNN ngày 27/09/2010 của NHNNVN quy định an  toàn trong hoạt động tín dụng.  11.Quy  định  về  cấp  giới  hạn  tín  dụng  theo  quyết  định  số  208/QĐ­HĐQT­  NHCT35 ngày 24/02/2010 của NHCT (Mã số Qđ.35.19).  12.Quy định cho vay đối với các tổ  chức kinh tế số 222/QĐ­HĐQT­NHCT35  ngày 26/02/2010 của NHCT (Mã số Qđ.35.12).  13.Quy định về  thực hiện đảm bảo tiền vay kèm theo QĐ số 612/QĐ­HĐQT­  NHCT35 ngày 31/12/2008 của NHCT (Mã số Qđ.35.03). 88  14.Quy trình cho vay theo dư án đầu tư đối với khách hàng là tổ chức kinh  tế  trong  hệ  thống  NHCT  theo  quyết  định  số  2207/QĐ­NHCT5  ngày  18/12/2006 của NHCT.  15.Sổ tay tín dụng (2004) Ngân hàng Công Thương Việt Nam 89  CÁC WEBSIDE THAM KHẢO  ­­­o0o­­­  1.    2.    3.    4.  ­tai­lieu/thong­tu­so­13­2010­tt­nhnn.216521.html.  5.  ­te/Se­co­Cong­ty­xep­hang­tin­nhiem­doanh­.nghiep  /30130337/87/.  6.    Nâng  cao  hiệu  quả  hoạt  động  tín  dụng  của  Ngân  hàng  thương  mại  trong  quá  trình hội  nhập WTO  7.    “Hạn chế nguy  cơ rủi ro hoạt động tín dụng của các NHTMVN”, TS. Trần Huy Hoàng.  8.    9. 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnang_cao_chat_luong_cho_vay_du_an_dau_tu_tai_vietinbank__chi_nhanh_tp._ho_chi_minh1.pdf
Tài liệu liên quan