Luận văn Nâng cao chất lượng hoạt động Bảo lãnh Ngân hàng tại Trung tâm kinh doanh - Hội sở Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam

Qua sự tìm hiểu khái quát về đặc điểm và chức năng của hoạt động bảo lãnh Ngân hàng thương mại, ta có thể thấy được vai trò quan trọng của hoạt động này đối với doanh nghiệp, đối với Ngân hàng và đối với nền kinh tế. Tại Trung tâm kinh doanh - Hội sở Techcombank, hoạt động bảo lãnh đã là một hoạt động dịch vụ Ngân hàng không thể thiếu trong quá trình phục vụ nhu cầu khách hàng của Techcombank. Bảo lãnh không những mang lại lợi nhuận cao hơn cho TTKD-HO, mà còn giúp nâng cao uy tín của Techcombank trên thị trường. Tuy vậy, với sự phát triển ngày càng mạnh của hoạt động bảo lãnh trong hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, thì sự cạnh tranh trong lĩnh vực này đang ngày càng quyết liệt và diễn ra sôi động giữa các Ngân hàng hay giữa các tổ chức tín dụng khác như: công ty tài chính, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, Chính phủ, hay các Tổng công ty lớn. Điều này đặt ra cho TTKD-HO nói riêng và Techcombank nói chung phải có những sự khác biệt trong hoạt động bảo lãnh để tạo ra sức cạnh tranh, và thu hút được khách hàng tham gia bảo lãnh tại Techcombank. Để có được điều này, Techcombank trước hết phải khắc phục được những hạn chế và tồn tại về chất lượng hoạt động bảo lãnh không chỉ tại Hội sở mà phải áp dụng tại tất cả các chi nhánh của Techcombank để có thể nâng cao chất lượng bảo lãnh một cách đồng bộ trong toàn hệ thống, từ đó tiến hành phát triển hoạt động bảo lãnh và các hoạt động khác hoàn thiện hơn đồng thời nâng cao uy tín của Techcombank hơn nữa. Với mong muốn được góp sức cùng Ngân hàng, em đã mạnh dạn tìm hiểu những hạn chế và tồn tại mà hoạt động bảo lãnh tại TTKD-HO Techcombank đang vướng mắc để tìm ra một vài giải pháp giúp nâng cao chất lượng bảo lãnh tại TTKD nói riêng và trong toàn hệ thống Techcombank nói chung. Tuy nhiên, những giải pháp này chỉ mang tính chất định hướng cho việc nâng cao chất lượng bảo lãnh, còn với mỗi giai đoạn, thời kỳ hay mỗi chi nhánh của Techcombank thì lại phải xây dựng những biện pháp cụ thể hơn, phù hợp hơn, khả thi hơn với chất lượng bảo lãnh của từng chi nhánh. Điều này thuộc trách nhiệm của ban lãnh đạo Techcombank trong quá trình duy trì, mở rộng và phát triển Techcombank theo từng giai đoạn và theo xu hướng chung của nền kinh tế. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện bài viết với chất lượng cao nhất, song do hạn chế về thời gian tìm hiểu, kinh nghiệm và khả năng thu thập thông tin cần thiết phục vụ cho bài viết, em không tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình nhìn nhận, phân tích và đánh giá vấn đề, do vậy bài viết của em còn cần được nghiên cứu tiếp. Em rất mong nhận được sự phê bình, đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các cán bộ Ngân hàng tại TTKD-HO để bài viết của em được hoàn thiện hơn nữa. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS Vũ Duy Hào và các anh chị phòng Tín dụng doanh nghiệp Trung tâm kinh doanh - Hội sở Techcombank đã giúp đỡ em trong quá trình hoàn thiện nhận thức về hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng và hoàn thiện bài viết Chuyên đề này.

doc89 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1361 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng hoạt động Bảo lãnh Ngân hàng tại Trung tâm kinh doanh - Hội sở Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm 2005 thấp hơn năm 2004 khoảng 67tỷ đồng, đây cũng là một phần nguyên nhân dẫn tới dư nợ bảo lãnh của toàn hệ thống tăng trưởng kém hơn nhiều so với năm 2004. * Thu từ hoạt động bảo lãnh Trong năm 2004, và 2005 tình hình thu phí bảo lãnh luôn chiếm khoảng trên dưới 10% trong tổng thu từ dịch vụ, điều này được mô tả theo Bảng báo cáo sau: Bảng 7: Doanh thu dịch vụ và doanh thu bảo lãnh 2004-2005 (Đơn vị: Triệu VNĐ) Khoản mục Toàn hệ thống TTKD-HO 2004 2005 2004 2005 Doanh thu dịch vụ 43388.2 89172.2 12212.4 13069.5 Doanh thu bảo lãnh 4740.94 7081.45 1732.5 1305.47 Tỷ trọng DTBL/DTDV 11% 8% 14% 10% Nguồn: Báo cáo thu nhập chi phí 2004-2005 Nhìn vào bảng 7 ta thấy, doanh thu từ hoạt động bảo lãnh luôn chiếm khoảng 10% doanh thu từ dịch vụ của toàn hệ thống Techcombank hay chỉ của TTKD, đây là một điều chứng tỏ hoạt động bảo lãnh luôn được chú ý tới trong toàn hệ thống. Tại trung tâm kinh doanh, doanh thu từ hoạt động bảo lãnh năm 2005 giảm so với năm 2004 khoảng 300 triệu đồng, tương ứng khoảng 17%, đây là do doanh số bảo lãnh giảm xuống trong năm 2005 tại TTKD. Tuy thu phí bảo lãnh giảm, song vẫn chiếm 10% tổng doanh thu từ hoạt động dịch vụ, cho thấy vai trò quan trọng của hoạt động bảo lãnh trong nhóm dịch vụ mà Ngân hàng Techcombank cung cấp cho khách hàng. Thu phí năm 2005 từ các loại hình dịch vụ khác tuy có tăng, nhưng không nhiều. Nguyên nhân phần nào là do hoạt động dịch vụ thanh toán và chuyển tiền được phát triển cao hơn do có cong nghệ khoa học trợ giúp, chính vì vậy mà doanh thu của hai loại hình dịch vụ này cao hơn các loại hình còn lại. * Dư nợ bảo lãnh quá hạn Chỉ tiêu này cho biết, dư nợ bảo lãnh mà Ngân hàng đã thực hiện thanh toán cho khách hàng nhưng khách hàng chưa thanh toán trở lại cho Ngân hàng, đã quá thời hạn và Ngân hàng không gia hạn nợ. Thực chất, dư nợ bảo lãnh chính là dư nợ tín dụng, vì chỉ khi hoạt động bảo lãnh phát sinh việc thanh toán hộ của Ngân hàng thì mới phát sinh khoản cho vay bắt buộc mà Ngân hàng phải thực hiện đối với người xin cấp bảo lãnh. khi đó, bảo lãnh đã chuyển hoá thành một khoản tín dụng và được hạch toán kế toán vào nội bảng. Tuy vậy, dư nợ bảo lãnh phản ánh phần nào chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng, nếu dư nợ bảo lãnh cao , chứng tỏ Ngân hàng đang phải đối mặt với việc có khả năng mất vốn cao, ảnh hưởng tới tài sản của Ngân hàng. Trong bảng cân đối nội bảng của Techcombank – TTKD, dư nợ bảo lãnh quá hạn được đặt trong hai khoản mục là: nợ có khả năng mất vốn (2415) và nợ nghi ngờ (2418). Năm 2005, cả hai khoản mục này đều không phát sinh nợ mới, điều này cho biết năm 2005, tỷ lệ nợ quá hạn không tăng so với năm 2004, dù thu phí bảo lãnh năm 2005 giảm nhưng chất lượng bảo lãnh đã được nâng cao hơn. *Tài sản đảm bảo Hoạt động bảo lãnh luôn yêu cầu phải có Tài sản đảm bảo dưới dạng ký quỹ tiền mặt hay cầm cố thế chấp tài sản cố định, thường là nhà đất. Mức ký quỹ thất nhất tại Techcombank là 5% giá trị bảo lãnh, đối với bảo lãnh vay vốn có mức độ rủi ro cao thì mức ký quỹ luôn yêu cầu phải là 100% vốn vay. Tương tự đối với bảo lãnh hoàn thanh toán và bảo lãnh đối ứng cũng vậy, mức ký quỹ yêu cầu phải đảm bảo 100% già trị bảo lãnh. Còn đối với các bảo lãnh còn lại, mức ký quỹ dao động 20-30%. Mức phí cạnh tranh của Techcombank có thể thấy được qua bảng so sánh sau: Bảng 8: Biểu phí bảo lãnh Khoản phí TCB VCB ICB 1. Phí bảo lãnh 1.1. Ký quỹ 100% 1.2. Ký quỹ dưới 100% 180.000 VNĐ 1.2% - 3%, tuỳ vào TSĐB 1.2%/quý 2%/năm 1%/năm 1%/năm 2. Sửa đổi thư bảo lãnh 10USD/150.000 VNĐ 10 USD 20 USD 3. Huỷ thư bảo lãnh 10 USD 15 USD 20 USD 4. Thông báo sửa đổi thư bảo lãnh của ngân hàng nước ngoài 5 USD 15 USD 10 USD Mức phí bảo lãnh của Techcombank được phân biệt theo các loại hình bảo lãnh và được dựa trên tỷ lệ các loại Tài sản đảm bảo ( nếu là sổ tiết kiệm của Techcombank thì mức phí là 1.2%, nếu là chứng chỉ được Techcombank chấp nhận thì mức phí là 1.5%, nếu là bất động sản, động sản, chứng chỉ vốn thì mức phí phải là 2%, phần thiếu của Tài sản đảm bảo sẽ phải chịu mức phí 3%). Mức phí này có tính chất cạnh tranh hơn vì tạo ra sự linh hoạt và công bằng hơn trong việc áp dụng phí bảo lãnh cho từng đối tượng khách hàng. Tuy nhiên Ngân hàng cần phải đẩy mạnh việc mở rộng đối tượng bảo lãnh, vươn lên tầm quốc tế, không dừng lại ở nhóm khách hàng trong nước là chủ yếu như hiện nay. 2.3. Đánh giá chất lượng hoạt động bảo lãnh tại TTKD-HO 2.3.1. Kết quả đã đạt được Dư nợ bảo lãnh năm 2005 không tăng so với năm 2004, điều này cho thấy độ an toàn trong thực hiện bảo lãnh được đảm bảo. Tuy nhiên, cũng phải nhận định rằng, quy trình bảo lãnh chính thức mới được đưa vào áp dụng tháng 12 năm 2004 nên còn có nhiều điểm phải chỉnh sửa, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, và cũng là một nguyên nhân khiến doanh số bảo lãnh của TTKD giảm đi trong năm 2005. Số lượng khách hàng tham gia bảo lãnh tăng lên, nhưng doanh số bảo lãnh lại giảm đi, cho thấy giá trị các khoản bảo lãnh tương đối nhỏ hơn năm 2004. Nhưng không vì vậy mà lợi nhuận từ hoạt động bảo lãnh đóng góp vào tổng lợi nhuận giảm đi. Năm 2004, hoạt động bảo lãnh tại Trung tâm kinh doanh - Hội sở đóng góp hơn 4% vào tổng lợi nhuận trước khi trích dự phòng, và con số này chỉ gần 3% trong năm 2005. Khách hàng tới sử dụng dịch vụ bảo lãnh tại Techcombank ngày càng nhiều cho thấy uy tín của Ngân hàng đang được nâng cao hơn. không chỉ là sự mở rộng mạng lưới chi nhánh, mà thực chất là trong những năm gần đây, hoạt động của Techcombank-TTKD, cũng như của các chi nhánh đã tạo được niềm tin của khách hàng, với những nỗ lực tạo ra tiện ích lớn nhất cho khách hàng của mình. Bên cạnh đó, việc Ngân hàng đang cố gắng hoàn thiện bộ máy, chấn chỉnh công tác tổ chức và đào tạo đội ngũ nhân viên năng động, nhiệt tình trong công việc đã và đang đưa Ngân hàng trở thành một trong những Ngân hàng TMCP hàng đầu Việt Nam. Ngân hàng Techcombank nói chung và TTKD nói riêng có được những kết quả trên là do: Thứ nhất, đất nước đang trong giai đoạn phát triển, tăng trưởng tương đối cao, do vậy có những ảnh hưởng tích cực tới hoạt động của Ngân hàng. Tốc độ tăng chóng mặt của đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực thương mại, điện tử, xây dựng … đã làm gia tăng các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và do đó, số lượng các giao dịch thương mại cũng tăng lên đáng kể, việc thực hiện giao dịch thông qua bên thứ ba cũng được phổ biến và phát triển hơn. Đây là cơ sở cho hoạt động bảo lãnh phát triển, bởi các giao dịch diễn ra rất cần một sự đảm bảo về uy tín giữa các bên đối tác, đặc biệt bảo lãnh đã có vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thứ hai, không thể phủ nhận nỗ lực của bản thân Ngân hàng Techcombank trong quá trình xây dựng và trưởng thành. Ban lãnh đạo đã có hướng chiến lược phát triển đúng đắn trong từng giai đoạn, từng thời kỳ. Các cán bộ tác nghiệp đã có sự phối hợp hài hoà với nhau để cùng đúc rút những kinh nghiệm có ích cho hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng. Thêm vào đó, uy tín của Ngân hàng ngày càng được củng cố và phát triển, làm nền tảng cho TTKD cũng như các chi nhánh khác phát triển và hoạt động có chất lượng hơn nữa. 2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân Bên cạnh những mặt được của toàn hệ thống Techcombank, và của TTKD, chất lượng hoạt động bảo lãnh đã được nâng cao nhưng không tránh khỏi những vướng mắc và những hạn chế. Thứ nhất, doanh thu từ hoạt động bảo lãnh đang có xu hướng chững lại, năm 2004 tăng cao, nhưng năm 2005 thì giảm xuống. Lợi nhuận thu được từ hoạt động bảo lãnh đóng góp một tỷ trọng chưa cao vào tổng doanh thu từ dịch vụ, và một tỷ trọng không đáng kể vào lợi nhuận của cả Ngân hàng. Trong khi đó, khách hàng tham gia bảo lãnh lại tăng lên, chứng tỏ quy mô các khoản bảo lãnh còn nhỏ lẻ. Thứ hai, về cơ cấu của hoạt động bảo lãnh. Bảo lãnh chủ yếu trong các loại hình như: thực hiện hợp đồng, thanh toán và dự thầu, đặc biệt là bảo lãnh thanh toán chiếm 20% tổng giá trị các khoản bảo lãnh và cam kết ngoại bảng. Các loại bảo lãnh còn lại ít được thực hiện hơn, tạo ra một sự phát triển không đồng bộ giữa các loại hình bảo lãnh, làm mất cân đối trong quá trình hoàn thiện các dịch vụ Ngân hàng. Thứ ba, quy trình được ban hành tháng 12 năm 2004, nhưng còn cứng nhắc trong quá trình áp dụng vào việc phát hành bảo lãnh cho khách hàng. Hơn thế nữa, về mặt pháp lý, hoạt động bảo lãnh chưa có một hệ thống văn bản quy định chặt chẽ dẫn đến tình trạng vướng mắc trong quá trình áp dụng, nhất là các khoản bảo lãnh có liên quan tới yếu tố nước ngoài. Thực hiện công tác thẩm định khách hàng là một trong những khâu quan trọng của quy trình bảo lãnh, nhưng chưa thực sự được nhìn nhận đúng tầm quan trọng. Việc thu thập thông tin về khách hàng còn gặp nhiều khó khăn, do vậy rủi ro phát sinh từ quá trình này tương đối cao. Cũng vì không thu thập đầy đủ thông tin về khách hàng mà có nhiều trường hợp tội phạm lợi dụng Ngân hàng để thực hiện hành vi rửa tiền thông qua việc thanh toán các nghĩa vụ cam kết đối với Ngân hàng. Thứ tư, về việc tuyên truyền quảng bá hoạt động và các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng Techcombank chưa được chú trọng đúng với vai trò của Bộ phận Marketing. Các chương trình quảng cáo chưa phong phú, và chưa thực sự đạt được hiệu quả như mong muốn, tạo ra một yếu tố thuận lợi cho việc tiếp cận được một lượng khách hàng rộng lớn cả về quy mô và mức độ tin tưởng của khách hàng. Công tác giao tiếp công chúng còn hạn chế, bộ phận PR chưa phát triển nên gây ra nhiều hạn chế trong việc cungcấp thông tin và giải đáp thắc mắc của khách hàng, và tạo dựng một hình ảnh Ngân hàng chuyên nghiệp và có hệ thống. Điều này đã gây nhiều hạn chế đối với hoạt động bảo lãnh, thể hiện ở lượng khách hàng doanh nghiệp tham gia bảo lãnh chỉ chiếm hơn một nửa trong tổng số khách hàng doanh nghiệp tham gia giao dịch tại ngân hàng. * Nguyên nhân của những hạn chế: Chính sách và kế hoạch phát triển: tất cả các chỉ tiêu mà TTKD- HO đang thực hiện đều do Hội sở giao cho theo từng giai đoạn, từng thời kỳ. Do vậy, cách thức thực hiện các mục tiêu trở nên cứng nhắc, dễ đặt cán bộ quản lý TTKD vào trạng thái vì muốn làm đẹp các báo cáo mà tiến hành thực hiện các chỉ tiêu chạy theo doanh số, chưa quan tâm đúng mức tới chất lượng. Bảo lãnh cũng là một nghiệp vụ dịch vụ chịu ảnh hưởng của xu hướng trên. Cán bộ quản lý đặt ra các chỉ tiêu và đặt nhiệm vụ cho nhân viên phải thực hiện các chỉ tiêu đó, việc này khuyến khích nhân viên làm tốt, nhưng cũng tạo cho họ áp lực chạy theo doanh số, mà quên đi chất lượng bảo lãnh. Công tác thẩm định còn nhiều bất cập, trong quá trình xét cấp bảo lãnh cho khách hàng, nhân viên Ngân hàng phải tìm kiếm các thông tin về khách hàng, nhưng thực tế, các nguồn thông tin chủ yếu lại được chính các khách hàng cung cấp. Do vậy, rủi ro xảy ra trong quá trình thẩm định là lớn nhất. Cán bộ Ngân hàng cũng chưa quan tâm tới tính hiệu quả của dự án, tính khả thi hay khả năng sinh lời của nó, mà chủ yếu chỉ xem tới giá trị ký quỹ hay giá trị tài sản đảm bảo. Điều này làm giảm tính hấp dẫn của dịch vụ bảo lãnh. Bên cạnh đó, việc ra quyết định bảo lãnh còn mang nặng tính kinh nghiệm, chưa có một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp gây khó khăn cho công tác thẩm định. Về quy trình bảo lãnh: tới nay, quy trình bảo lãnh của Techcombank mới triển khai được hơn 1 năm, chưa hoàn thiện, mà phần lớn là dựa trên quy trình của nghiệp vụ cho vay, do đó thiếu đi hẳn một cơ sở manh tính khoa học và chuyên nghiệp cho việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, khiến các cán bộ khi thực hiện gặp nhiều khó khăn và dễ đi đến quyết định bảo lãnh thiếu chính xác. Khách hàng cũng là một nguyên nhân gây ra những hạn chế trên. Khách hàng của Techcombank chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp tư nhân, do vậy, có không ít các trường hợp khách hàng không có hiểu biết về nghiệp vụ hay quy trình thực hiện hoạt động bảo lãnh tại Techcombank. Do đó, rất mất thời gian và công sức cho cán bộ nhân viên để làm cho khách hàng hiểu được bản chất hoạt động bảo lãnh. Điều này làm giảm năng suất của mỗi cán bộ trong quá trình làm việc. Còn một số trường hợp khác, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không đủ những điều kiện tham gia bảo lãnh như: vướng mắc một số giấy tờ pháp lý, TSDB không đủ giá trị cầm cố, thế chấp… do vậy cũng phần nào hạn chế lượng khách hàng tham gia bảo lãnh tại Ngân hàng, làm giảm doanh số bảo lãnh. Công tác cán bộ của Techcombank gẩn đây mới được chú ý phát triển đào tạo, nhưng chất lượng còn chưa cao, nhất là nghiệp vụ bảo lãnh còn tương đối mới mẻ, và đặc điểm của đội ngũ cán bộ Ngân hàng Techcombank là tương đối trẻ, do đó kinh nghiệm còn thiếu rất nhiều. Mặt khác, trong mấy năm gần đây, hệ thống Ngân hàng thiếu nguồn nhân lực trầm trọng, khiến có sự dịch chuyển công việc rất lớn giữa các Ngân hàng, làm xuất hiện tình trạng thiếu tương đối trong một thời gian, khiến số cán bộ còn lại phải thực hiện số lượng công việc quá lớn, làm mất đi tính hiệu quả của hoạt động bảo lãnh Ngân hàng. CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI TRUNG TÂM KINH DOANH - HỘI SỞ NGÂN HÀNG TECHCOMBANK 3.1.1. Định hướng phát triển chung của Techcombank. Trên cơ sở nghiên cứu những xu thế phát triển chung của nền kinh tế trong nước và thế giới, cùng với những định hướng của hệ thống Ngân hàng, Techcombank đã đặt ra chiến lược phát triển riêng cho mình trong giai đoạn 5 năm: 2005 tới 2010, nhằm giữ vững và gia tăng tốc độ phát triển, đạt được các mục tiêu đã đặt ra. * “Chiến lược phát triển mới giai đoạn 2005-2010” được xây dựng với các nội dung chủ yếu sau: - Phát triển trên cơ sở khách hàng cá nhân và dịch vụ ngân hàng bán lẻ đa dạng, chất lượng cao và cạnh tranh rộng khắp các đô thị lớn, đặc biệt là các nhóm khách hàng có thu nhập trung bình và cao, trẻ tuổi và thành đạt. - Tập trung phát triển hệ thống thẻ, đẩy mạnh phát hành và chấp nhận thẻ, lấy phát triển thẻ làm trung tâm và cơ sở để phát triển các dịch vụ bán lẻ với quy mô lớn. - Đẩy mạnh chiến lược phát triển mạng lưới tại các vùng trọng điểm của cả nước nhằm tiếp tục mở rộng nền tảng khách hàng dân cư và doanh nghiệp vừa và nhỏ, chuẩn bị cho các bước phát triển lớn đã được đề ra trong chiến lược Techcombank đến 2010. - Tập trung nâng cao chất lượng hoạt động mọi mặt trên cơ sở hệ thống thông tin quản trị (MIS), nắm bắt nhu cầu và độ hài lòng của khách hàng qua các kênh đo lường và phân tích ý kiến khách hàng, tiêu chuẩn hoá quy trình hoạt động và dịch vụ khách hàng. - Phát triển mạnh mẽ các dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp mới trong lĩnh vực quản trị và phòng ngừa rủi ro và các dịch vụ ngân hàng đầu tư và cho người có thu nhập cao. - Tập trung phát triển nhân lực nhằm chuẩn bị cho các bước phát triển lớn trong các năm tới. - Chú trọng các chương trình đào tạo nâng cao kiến thức và tác phong chuyên nghiệp của nhân viên. - Tiếp tục nâng cấp, hoàn thiện các dự án hiện đại hoá ngân hàng đảm bảo hệ thống công nghệ cho phép quản trị mạng lưới rộng với khả năng giao dịch cao. * Định hướng phát triển cho hoạt động bảo lãnh. Định hướng phát triển hoạt động bảo lãnh nằm trong định hướng phát triển chung các dịch vụ Ngân hàng doanh nghiệp. Cụ thể được xây dựng như sau: Tăng tỷ trọng thu từ dịch vụ bảo lãnh, từ đó nâng cao vai trò của dịch vụ bảo lãnh trong tổng thu của Ngân hàng. Đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh được thực hiên, mở rộng đối tượng khách hàng muốn tham gia bảo lãnh, mở rộng phạm vi bảo lãnh. Nhanh chóng hiện đại hóa hoạt động bảo lãnh và công nghệ Ngân hàng nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả bảo lãnh. Tăng cường phân tích và kiểm soát rủi ro thanh toán thay bảo lãnh. Tiến hành các biện pháp khắc phục rủi ro khi Ngân hàng phải trả thay bảo lãnh. Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là các kiến thức về luật pháp và các thông lệ quốc tế về bảo lãnh. Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng bảo lãnh theo hướng đơn giản hoá các thủ tục, áp dụng công nghệ thông tin, … trên nguyên tắc đảm bảo an toàn cho Ngân hàng. Việc xây dựng một hạn mức bảo lãnh kết hợp với thẩm quyền quyết định cấp bảo lãnh cho từng khách hàng của từng cấp trong cơ cấu bộ máy tại Ngân hàng đang được tiến hành từng bước và hoàn thiện nhằm giảm thiểu sự phức tạp và rườm rà trong thủ tục thẩm định cũng như quyết định phát hành bảo lãnh. Với những định hướng chiến lược phát triển chung và định hướng phát triển riêng đối với hoạt động bảo lãnh, sau quá trình tìm hiểu, phân tích tình hình hoạt động của Ngân hàng, em xin đưa ra một vài giải pháp nhằm phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm và những hạn chế để nâng cao chất lượng bảo lãnh tại Ngân hàng Techcombank nói chung và tại Trung tâm kinh doanh - Hội sở nói riêng. 3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng bảo lãnh tại Trung tâm kinh doanh - Hội sở Techcombank 3.2.1. Công tác chỉ đạo điều hành và hoạch định chiến lược kinh doanh Trung tâm kinh doanh - Hội sở nằm trên cùng một địa điểm với Hội sở chính, nên cần phải tận dụng được một thuận lợi của TTKD, là được sự chỉ đạo trực tiếp của ban lãnh đạo Techcombank trong các giai đoạn phát triển và trong việc thực hiện các chiến lược của Ngân hàng. Ban lãnh đạo có vai trò to lớn trong quá trình hướng dẫn, đôn đốc, điều hành và kiểm tra hiệu quả việc thực hiện của các đơn vị, hay bộ phận hoặc của từng nhân viên nhằm đạt được các mục tiêu kế hoạch đã đặt ra. Tuy nhiên, việc điều hành này cũng phải căn cứ dựa trên tình hình thực tế để có định hướng chỉ đạo sát thực, không quá quan liêu làm giảm tính năng động, sáng tạo của cán bộ nhân viên. Trung tâm kinh doanh - Hội sở có được lợi thế như vậy hơn các chi nhánh còn lại của hệ thống Techcombank nên phải biết tận dụng để tạo ra hiệu quả kinh doanh cao. Tuy vậy, TTKD cũng phải có những định hướng riêng trong quá trình hoạt động, để tạo ra những điểm riêng biệt và hơn nữa là phát huy được trình độ, khả năng và sự sáng tạo của cán bộ Ngân hàng làm việc tại Trung tâm. Việc lập kế hoạch phát triển riêng cho TTKD không phải là chuyện đơn giản. Một nội dung cơ bản của kế hoạch riêng là các chỉ tiêu cụ thể cho từng giai đoạn, từng tháng, từng quý hoặc từng năm. Để xây dựng các chỉ tiêu này rất phức tạp, phải căn cứ dựa trên tình hình kinh doanh thực tế của TTKD trong thời gian trước đó, đồng thời phải dự đoán được sự phát triển chung của thị trường dựa trên các phân tích mang tính chất khoa học thì mới có một kế hoạch sát với khả năng thực hiện được của TTKD. Đơn cử như việc xác định nhu cầu xin cấp bảo lãnh của khách hàng, cán bộ kế hoạch phải căn cứ vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, tốc độ tăng trưởng hoạt động bảo lãnh trên toàn hệ thống Techcombank và tại TTKD, phân tích đối thủ cạnh tranh… Vì vậy, những chỉ tiêu thường là mang tính dùng để chấm thi đua, khuyến khích cán bộ ngân hàng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và sáng tạo trong quá trình thực hiện. Điều quan trọng là việc hoạch định chiến lược và kế hoạch thực hiện. Đây mới là nội dung đòi hỏi rất nhiều kiến thức và kinh nghiệm trong nghề. Do vậy, không chỉ ban lãnh đạo của TTKD phụ trách việc lập kế hoạch có trách nhiệm đối với việc xây dựng chiến lược phát triển riêng của TTKD mà còn cần phải tham khảo ý kiến của cán bộ kế hoạch trên hội sở chính của Ngân hàng. Bên cạnh đó, việc xây dựng các chính sách cần mang tính đồng bộ nhằm đem lại một hiệu quả tác động lẫn nhau giữa các chính sách cụ thể. Trong đó có: chính sách về sản phẩm, chính sách khách hàng, chính sách giá cả, chính sách Marketing, chính sách con người… chỉ có vậy Ngân hàng mới đạt hiệu quả tối đa trong quá trình thực hiện. 3.2.2. Công tác thẩm định khách hàng Khi ngân hàng chấp nhận việc bảo lãnh cho một khách hàng nào đó, thì Ngân hàng đã sẵn sàng chấp nhận việc phải cho vay bắt buộc nếu khách hàng mất khả năng tổ chức thực hiện nghĩa vụ của mình. Nếu mọi việc diễn ra mà Ngân hàng không phải thực hiện việc thanh toán hộ, thì nghiệp vụ bảo lãnh sẽ được tất toán ở Ngoại bảng, nhưng nếu xảy ra rủi ro và Ngân hàng phải thanh toán hộ khách hàng thì khoản bảo lãnh sẽ được tất toán vào Nội bảng, và Ngân hàng sẽ phải đối mặt với những ảnh hưởng tiêu cực tới nguồn vốn và chất lượng hoạt động tín dụng cũng như tài sản của Ngân hàng. Do đó, quyết định bảo lãnh phải được căn cứ trên một quá trình thẩm định khách hàng kỹ lưỡng, nghiêm túc và chất lượng. Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định khách hàng, thì việc thẩm định phải được dựa trên ba mặt: Tính pháp lý: Năng lực pháp lý của khách hàng phải được kiểm tra kỹ lưỡng về tư cách pháp nhân, năng lực hành vi dân sự, mục tiêu xin cấp bảo lãnh. Việc kiểm tra không chỉ dựa trên những tờ mà khách hàng nộp cho ngân hàng mà còn phải được đối chiếu với nhiều nguồn thông tin khác. Với những hợp đồng bảo lãnh có giá trị lớn, TTKD nên có sự kết hợp với các cơ quan pháp luật để đảm bảo chắc chắn tính pháp lý của các giấy tờ liên quan, tránh trường hợp giấy tờ giả mạo gây rủi ro cho TTKD. Còn đối với các khách hàng có quan hệ lâu dài, truyền thống với TTKD thì có thể giảm đi một số các thủ tục tránh gây phiền hà cho khách hàng, nhưng vẫn phải đảm bảo được mức độ rủi ro mà Ngân hàng phải gánh chịu là nhỏ nhất. Tính kinh tế: Thẩm định tính kinh tế của khách hàng bao gồm việc thẩm định khả năng tài chính của khách hàng và tính khả thi của dự án mà khách hàng đề nghị cấp bảo lãnh. Phải nâng cao chất lượng của việc thẩm định kinh tế khách hàng để đảm bảo không xảy ra rủi ro ngân hàng phải thanh toán thay bảo lãnh hoặc nếu có xảy ra rủi ro thì khách hàng cũng có khả năng thanh toán lại cho Ngân hàng. Đối với những khoản bảo lãnh yêu cầu ký quỹ 100% thì có thể bỏ qua công tác này vì rủi ro xảy ra với Ngân hàng là không có. Việc thẩm định khả năng kinh tế của khách hàng không chỉ căn cứ trên các báo cáo tài chính mà khách hàng nộp cho ngân hàng trong hồ sơ xin bảo lãnh mà còn phải căn cứ dựa trên các nguồn thông tin khác, khai thác từ thị trường, từ nhà cung cấp cho khách hàng, từ đối thủ cạnh tranh của khách hàng,… Thực tế là nhân viên ngân hàng thường không có đủ thời gian và kinh nghiệm thu thập các thông tin này một cách thật đầy đủ và chính xác, vì nếu vậy sẽ tốn rất nhiềuthời gian, đôi khi còn gây nhiều phiền hà khiến khách hàng ngại ngần tham gia bảo lãnh tại ngân hàng. Do vậy, nhân viên ngân hàng cần có khả năng nhạy cảm trong khi đánh giá về doanh nghiệp khách hàng. Đồng thời ngân hàng cũng nên tổ chức một bộ phận chuyên thu thập, tìm hiểu, đánh giá và cung cấp thông tin về khách hàng khi khách hàng tới đề nghị được cấp bảo lãnh để hỗ trợ nhân viên tín dụng đánh giá khách quan, chính xác khả năng kinh tế của khách hàng. Tính xã hội: Tuỳ từng dự án có quy mô lớn hay nhỏ, có tính chất xã hội hay không mà ảnh hưởng của nó tới xã hội cao hay thấp, mà TTKD nên xem xét để có những ưu tiên nhất định. Việc thẩm định tính xã hội của dự án hay của khách hàng phải căn cứ dựa trên những chương trình phát triển kinh tế – xã hội, và những định hướng phát triển của Chính phủ. Đứng trên ba mặt này mà TTKD nói riêng và Ngân hàng Techcombank nói chung mà có thế áp dụng một số giải pháp kinh tế sau: Công tác thu thập thông tin phải được quan tâm chú ý. Đặc biệt tránh tình trạng chỉ lấy thông tin từ phía khách hàng mà cán bộ Ngân hàng phải thực hiện việc thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, như: phỏng vấn khách hàng, yêu cầu khách hàng cung cấp những thông tin cần thiết, từ các ngân hàng khác hay từ các đối tác có giao dịch làm ăn với khách hàng. Ngoài ra, cán bộ Ngân hàng còn có thể tham khảo thông tin về khách hàng thông qua các tổ chức chuyên đánh giá về tình hình tài chính của các doanh nghiệp trên thị trường. Đồng thời tiến hành đối chiếu giữa các thông tin Ngân hàng thu thập được nhằm xác định tính chính xác, độ trung thực của mỗi thông tin. Tính đến thời điểm hiện nay, Techcombank chưa thực sự có những chỉ tiêu phân tích doanh nghiệp mang tính chất thống nhất trong toàn hệ thống làm chuẩn mực cho công tác thẩm định. Do vậy, Techcombank hội sở nên khẩn trương xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu phân tích và chấm điểm doanh nghiệp chi tiết, cụ thể để áp dụng trên toàn hệ thống. Thứ nhất: về khách hàng, Techcombank nên áp dụng các chỉ tiêu phân tích khả năng sinh lời của doanh nghiệp, và các chỉ tiêu liên quan đến hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp đó. Về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, Techcombank nên xem xét các tỷ lệ như: vòng quay tiền hàng năm ( bằng Doanh thu tiêu thụ hàng năm/ tiền mặt và các khoản tương đương tiền mặt); vòng quay dự trữ hàng tồn kho; vòng quay vốn lưu động; hiệu suất sử dụng tài sản cố định (một đồng tài sản cố định tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong năm); hiệu suất sử dụng tổng tài sản( đo bằng doanh thu tiêu thụ trên tổng tài sản, cho biết 1 đồng tài sản mang lại bao nhiêu đồng doanh thu)… Khả năng sinh lời của doanh nghiệp phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp, bao gồm các chỉ tiêu như: Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm ( bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho doanh thu tiêu thụ sản phẩm) – phản ánh số lợi nhuận sau thuế có được trong 100 đồng doanh thu; chỉ tiêu doanh lợi vốn tự có ( xác định bằng việc chia lợi nhuận sau thuế cho vốn tự có, phản ánh khả năng sinh lời của vốn tự có); chỉ tiêu doanh lợi vốn dùng để đánh giá khả năng sinh lời của 1 đồng vốn đầu tư ; xác định phụ thuộc vào tình hình cụ thể và phạm vi so sánh mà lựa chọn lợi nhuận trước thuế và lãi (EBIT) hoặc lợi nhuận sau thuế để đánh giá so sánh với tổng tài sản… Ngoài ra, cần phải phân tích đánh giá diễn biến của nguồn vốn, sự thay đổi và sử dụng vốn, xác định các nguồn cung ứng vốn và mục đích sử dụng vốn. Việc phân tích này chỉ ra những điểm đầu tư vốn và những nguồn vốn chủ yếu được hình thành để yài trợ những khoản đầu tư đó. Thứ hai: đối với các dự án, việc thẩm định hiệu quả của dự án để đạt được mục đích là đảm bảo các nguồn lực tài chính cho việc thực hiện có hiệu quả dự án đầu tư, trong đó có số vốn của chủ dự án tham gia. Xác định và hạn chế đến mức tối thiểu các rủi ro của dự án có thể xảy ra như: rủi ro công nghệ, rủi ro thiết bị, nguyên vật liệu, rủi ro về thị trường, bán hàng, người bảo trợ dự án, về môi trường… Các chỉ tiêu quan trọng khi thẩm định tài chính dự án đầu tư gồm có: vốn tự có/ tổng tài sản đầu tư ( lý tưởng là 50%); vốn tự có/ vốn vay (>=1); tài sản có lưu động/ tài sản nợ lưu động (>=2); (Lãi ròng sau thuế + khấu hao)/ tổng nợ đến hạn trả (>=1). Ngoài ra còn có một số chỉ tiêu khác như: tỷ lệ thanh toán lãi nợ tối thiểu, thời hạn thanh toán nợ cuối cùng từ 10-12 năm; dự án phải có ý nghĩa cơ bản và bản thân dự án phải có khả năng tồn tại. Techcombank cũng nên xem xét uy tín của người bảo trợ dự án để đánh giá uy tín của dự án có được thực hiện thành công hay không. Thứ ba: Techcombank nên liên kết, phối hợp với các cơ quan chuyên ngành như: xây dựng, kinh doanh thép, công nghệ thông tin,… để khắc phục tình trạng thiếu kinh nghiệm và kiến thức về những lĩnh vực này của các cán bộ Ngân hàng trong quá trình giao dịch với khách hàng. Đặc biệt với những khoản bảo lãnh có giá trị bảo lãnh lớn, cán bộ Ngân hàng càng phải có sự tham khảo ý kiến các chuyên gia thuộc lĩnh vực phát sinh hợp đồng bảo lãnh, để thẩm định hiệu quả nhất tính khả thi của dự án. 3.2.3. Nâng cao tính cạnh tranh của hoạt động bảo lãnh Hoạt động bảo lãnh là nghiệp vụ tương đối mới mẻ, song trong những năm gần đây, bảo lãnh đang trở nên phổ biến, hầu hết các NHTM đều cung cấp các loại hình dịch vụ này. Do vậy, tính cạnh tranh của hoạt động này cũng đang dần trở nên gay gắt hơn giữa các Ngân hàng. Để hoạt động bảo lãnh trở nên có tính cạnh tranh với các Ngân hàng khác, Techcombank phải có một chiến lược Marketing đồng bộ và toàn diện, thu hút khách hàng tham gia bảo lãnh. Trước tiên, Techcombank nên tiến hành phân nhóm khách hàng để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của từng nhóm theo tính chất, đặc điểm tương tự nhau hoặc theo thời gian giao dịch với Techcombank. Có thể phân loại khách hàng theo thời gian giao dịch với Techcombank như sau: Nhóm khách hàng mới: là nhóm khách hàng lần đầu tiên tham gia bảo lãnh tại Techcombank. Đối với nhóm khách hàng này, phải tiến hành hướng dẫn cụ thể, tận tình về thủ tục bảo lãnh tại Techcombank, so sánh các ưu, nhược điểm và đặc điểm riêng có của Bảo lãnh tại Techcombank với các Ngân hàng, tổ chức tài chính khác. Đồng thời, cán bộ tín dụng phải tiến hành thu thập đầy đủ các thông tin về khách hàng mới như: tư cách pháp lý, khả năng tài chính, tư cách của người lãnh đạo… để thẩm định kỹ lưỡng và có quyết định bảo lãnh chính xác, tránh để xảy ra rủi ro cho Ngân hàng. Mức phí áp dụng cho nhóm đối tượng khách hàng này nên cao hơn mức phí bình quân, vì chi phí của Ngân hàng bỏ ra để tìm hiểu khách hàng này là tương đối cao hơn so với bình quân, nhưng bên cạnh đó, cán bộ Ngân hàng nên tư vấn miễn phí về các sản phẩm dịch vụ của Techcombank để khách hàng hiểu biết thêm về các hoạt động của Techcombank và giúp họ nâng cao chất lượng các hợp đồng đang và sẽ ký kết với Ngân hàng. Nhóm khách hàng truyền thống: đây là nhóm khách hàng đã có quan hệ giao dịch thường xuyên, lâu dài với Techcombank, đã tạo được uy tín đối với Techcombank. Đối với nhóm khách hàng này, Techcombank nên áp dụng một số chính sách ưu đãi hơn, như: áp dụng một mức phí thấp so với bình quân, các thủ tục về giấy tờ pháp lý có thể được cắt giảm trong khi xét đơn xin bảo lãnh, có những sự quan tâm gắn bó thể hiện mối quan hệ truyền thống giữa hai bên nhằm tăng sự liên kết lâu dài, bền chặt; hơn nũa Techcombank có thể có những sự điều chỉnh hạn mức bảo lãnh, hay thời hạn thanh toán … cho phù hợp với tình hình hoạt động kinh doanh của mỗi khách hàng. Nhóm khách hàng đã giao dịch với Techcombank nhưng chưa tạo được niềm tin của Ngân hàng đối với các hoạt động và tình hình tài chính của mình. Đối với nhóm khách hàng này Techcombank vẫn nên thẩm định lại các điều kiện để có thể phát hành bảo lãnh cho dự án cần bảo lãnh của khách hàng. Mức phí áp dụng đối với nhóm khách hàng này nên cao hơn nhóm khách hàng truyền thống, nhưng thấp hơn nhóm khách hàng mới, để tạo điều kiện khuyến khích họ tiếp tục giao dịch với Techcombank. đồng thời Techcombank cũng nên yêu cầu cán bộ giao dịch có những báo cáo về nhóm khách hàng này nhằm tăng uy tín và sự thân thiện lẫn nhau giữa Ngân hàng và khách hàng. Sự phân nhóm khách hàng như vậy sẽ dễ dàng đáp ứng được các nhu cầu phat sinh từ phia doanh nghiệp không chỉ trong nghiệp vụ bảo lãnh mà còn trong tất cả các hoạt động khác của Ngân hàng. Thứ hai, Techcombank cần đặt ra một thị trường mục tiêu mà ở đó sản phẩm, dịch vụ của Techcombank có khả năng được ứng dụng nhất. Để tìm hiểu được thị trường riêng có, Techcombank phải tổ chức công tác đào tạo cán bộ thị trường có chất lượng cao, không những có khả năng nhận biết nhu cầu của khách hàng mà còn phải có khả năng biến những nhu cầu đó thành đối tượng phục vụ của Ngân hàng. Bên cạnh việc tìm hiểu khách hàng, việc nghiên cứu đối thủ cạnh tranh cũng đòi hỏi cán bộ Techcombank phải chú ý, nhằm có sự phản ứng tốt hơn đối với thị trường, và có sự điều chỉnh phù hợp hơn. Một chiến lược quảng cáo khuyếch trương hỗn hợp, rộng khắp cũng là một giải pháp mở rộng quy mô của hoạt động bảo lãnh. Với trình độ thông tin ngày càng thuận tiện, công nghệ ngày càng được đổi mới nhiều và khả năng khách hàng được tiếp xúc với thông tin ngày càng cao thì một kế hoạch Marketing hoàn chỉnh sẽ tạo ra sự khác biệt. Một số biện pháp quảng cáo như: mở những đợt khuyến mãi, những kỳ hạ lãi suất cho vay, những đợt tặng quà nhân dịp kỷ niệm, hay mở các cuộc Hội nghị khách hàng để lắng nghe ý kiến khách hàng thể hiện sự tôn trọng của Ngân hàng đối với nhu cầu và sự quan tâm của khách hàng với sản phẩm của Ngân hàng. Mặt khác, bộ phận chăm sóc khách hàng và bộ phận PR của Techcombank cũng cần có những thay đổi trong quá trình duy trì sự hoạt động của Website của Ngân hàng, bởi hiện nay, website Techcombank chứa đựng rất ít thông tin về Techcombank cũng như thị trường tài chính và những thông tin xã hội cần thiết. Cán bộ PR cần có những sự chuẩn bị cho các thông tin đưa trên Website của Ngân hàng nhằm nâng cao chất lượng, thu hút sự chú ý của khách hàng. Với một kế hoạch hướng tới mục tiêu dài hạn, Techcombank nên có sự đầu tư vào các trường đại học, như: tổ chức tài trợ trao học bổng cho các sinh viên xuất sắc, sinh viên giỏi, đồng thời có chính sách ưu đãi thu hút các sinh viên giỏi về làm việc tại Ngân hàng, tạo ra một đội ngũ cán bộ có trình độ, có năng lực và trách nhiệm đối với sự phát triển của Techcombank. 3.2.4. Hoàn thiện và cải tiến quy trình bảo lãnh Tháng 12 năm 2004, Techcombank ra một quy trình bảo lãnh riêng chỉ áp dụng cho hệ thống Techcombank, nhưng khi cán bộ thực hiện, ngoài việc phải áp dụng thống nhất quy trình, thì những sáng tạo khi thực hiện vẫn cần phải được chú ý nhằm ngày một hoàn thiện quy trình, để tạo hiệu quả cao nhất cho cán bộ khi thực hiện quy trình đó. Quy trình bảo lãnh được thực hiện một cách nghiêm ngặt sẽ tạo điều kiện nâng cao chất lượng bảo lãnh, tránh tình trạng lợi dụng những sơ hở trong quản lý để chiếm đoạt, lừa đảo tài sản của Ngân hàng.Đồng thời xây dựng tác phong chuyên nghiệp cho đội ngũ nhân viên Ngân hàng. 3.2.5. Giải pháp về tài sản đảm bảo Tài sản đảm bảo là một yêu cầu cần thiết đối với bất kỳ một khoản bảo lãnh nào khi được mở. Vì vậy, với một chính sách về tài sản đảm bảo hợp lý, sẽ không gây thiệt thòi cho khách hàng mà vẫn đảm bảo Ngân hàng phải gánh chịu rủi ro thấp nhất. Có nhiều cách để đảm bảo cho khoản bảo lãnh, nhưng chủ yếu hiện nay là việc yêu cầu khách hàng ký quỹ hay cầm có, thế chấp tài sản. Với hoạt động ký quỹ, khách hàng có xu hướng xin ký quỹ với mức thấp nhất, để không bị ứ đọng vốn tại Ngân hàng, nhưng Ngân hàng lại phải có một tỷ lệ ký quỹ đảm bảo tránh được rủi ro. Mức ký quỹ mà Ngân hàng yêu cầu được dao động tuỳ thuộc vào từng khoản bảo lãnh và từng khách hàng. Tại Techcombank mức ký quỹ thấp nhất là 5% có thể được coi là chấp nhận được. Song tuỳ vào từng chi nhánh mà có sự biến đổi phù hợp với hoạt động riêng. Với uy tín của Techcombank-Hội sở, TTKD có thể áp dụng mức ký quỹ bất kỳ, miễn là hợp lý đối với từng khoản bảo lãnh tại TTKD. Ngoài việc ký quỹ, cầm cố thế chấp tài sản là một biện pháp đảm bảo phổ bíên. Tài sản đem cầm cố, thế chấp thường là Bất động sản, hoặc nhà đất. Đối với loại đảm bảo này, cán bộ Ngân hàng gặp vấn đề là phải xác định chính xác giá trị tài sản khách hàng mang cầm cố, thế chấp. Giá trị tài sản đảm bảo được tính theo trung bình cộng của giá theo khung giá nhà đất của chính phủ và giá thị trường cách định giá này đơn giản cho cán bộ Ngân hàng, nhưng không được chính xác. Vì thế, để đánh giá đúng giá trị tài sản đảm bảo, Techcombank nên thực hiện một số giải pháp như: cập nhật thông tin một cách thường xuyên nhất, chính xác nhất phục vụ cho việc định giá và xử lý tài sản đảm bảo; Techcombank có thể thành lập một bộ phận chuyên trách việc xử lý tài sản đảm bảo; đồng thời xúc tiến việc tìm thị trường tiêu thụ cho tài sản đảm bảo để dễ dàng phát mại tài sản đó khi cần thiết. 3.2.6. Giải pháp về nhân lực và một số giải pháp khác Con người là yếu tố được quan tâm hàng đầu đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, riêng đối với Ngân hàng thì yếu tố con người càng trở nên quan trọng hơn., bởi đặc tính của Ngân hàng là kinh doanh các dịch vụ tài chính. Nguồn nhân lực dồi dào, có trình độ là một yếu tố quan trọng đóng góp vào thành công của Ngân hàng. Thực tế, tại Techcombank, nguồn nhân lực rất trẻ, do vậy, về mặt nhân lực, Techcombank đang có nhiều vấn đề cần khắc phục: thiếu kinh nghiệm thực tế, thiếu tinh thần gắn bó với Techcombank. Hơn thế nữa, hoạt động bảo lãnh tương đối mới, nên lại càng phức tạp đối với các cán bộ trẻ. Do vậy, công tác nhân lực cần được đặt ra để phần nào khắc phục được các bất cập đó, và nâng cao hơn chất lượng hoạt động Ngân hàng. Công tác nhân lực gồm có: công tác tuyển dụng, đào tạo, chính sách đối đãi với nhân viên của Ngân hàng. Đối với công tác tuyển dụng phải được thực hiện công bằng, khách quan và trung thực nhằm tuyển chọn được những cán bộ ưu tú, đảm bảo đủ các yêu cầu của Ngân hàng. Techcombank nên có những chương trình liên kết với các trường đại học để tuyển lựa những sinh viên giỏi, xuất sắc ngay khi còn đang học tập để đào tạo thành một đội ngũ chuyên nghiệp, kế tiếp bước phát triển của lớp nhân viên có kinh nghiệm của Ngân hàng. Đối với công tác đào tạo cán bộ. Hiện nay Techcombank đã có hẳn một ban đào tạo chuyên trách nhiệm vụ trau dồi kiến thức chuyên môn cho nhân viên Ngân hàng, tuy nhiên vấn đề đặt ra là Ban đào tạo phải hoạt động có hiệu quả, mang lại lợi ích cho nhân viên Ngân hàng khuyến khích nhân viên Ngân hàng tham gia tích cực các khóa đào tạo và chú ý tự hoàn thiện bản thân phục vụ tốt hơn nhu cầu của Ngân hàng đối với trình độ và tư cách của nhân viên. Các nhân viên mới vào Techcombank nên được huấn luyện một cách liên tục, tập trung trong khoảng thời gian ngắn từ 2-3 tuần, đồng thời được các cán bộ có kinh nghiệm chỉ bảo hướng dẫn, cùng trong quá trình tiếp xúc với công việc mới tại Ngân hàng. Techcombank nên có những đợt kiểm tra nhân viên đột xuất để thấy rõ thực lực của từng người, từ đó có những chính sách đãi ngộ hợp lý. Chính sách đãi ngộ đối với nhân viên: Techcombank cần có những chính sách khen thưởng và kỷ luật rõ ràng. Hàng kỳ Techcombank đánh giá thi đua và tổ chức công tác khen thưởng, khuyến khích nhân viên có sự cố gắng vượt bậc trong công tác hoặc có những ý tưởng sáng tạo làm tăng lợi ích cho Ngân hàng. Đồng thời cán bộ quản lý cũng phải quan tâm tới những nỗ lực thăng tiến của từng nhân viên nhằm hiểu được mong muốn phấn đấu, từ đó tạo ra động lực cho từng nhân viên cống hiến nhiều hơn cho Ngân hàng. Một số giải pháp khác như Thắt chặt công tác kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động bảo lãnh. Ngân hàng nên thường xuyên kiểm tra các khoản bảo lãnh đã phát hành, hoàn chỉnh và cập nhật thường xuyên hồ sơ bảo lãnh để đánh giá tiến độ thực hiện, tăng cường các biện pháp đảm bảo hoàn chỉnh lại hồ sơ thế chấp, đảm bảo cho bảo lãnh để đảm bảo tính pháp lý. Đối với các khoản bảo lãnh đến hạn trả mà người được bảo lãnh không trả, buộc Ngân hàng phải trả thay, Ngân hàng phải tiến hành điều tra rõ nguyên nhân, nếu khoản bảo lãnh này có tài sản đảm bảo thì Ngân hàng phải cương quyết tiến hành xử lý để ép khách hàng phải trả nợ Ngân hàng. Đối với các khoản cho vay bắt buộc chuyển thành nợ khó đòi, cần báo cáo với cơ quan pháp luật để có cơ sở thu hồi nợ, các tài sản đảm bảo được khách hàng gán cho Ngân hàng phải tiến hành các biện pháp bán hoặc cho thuê để thu hồi nợ. Ngoài ra, hàng kỳ, Ngân hàng nên tổ chức kiểm tra lại các món bảo lãnh có giá trị lớn, tổng kết và phân tích những thành công và sai sót, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho việc thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh về sau. Việc phân chia quyền và trách nhiệm rõ ràng giữa các nhân viên trực tiếp giao dịch để dễ dàng quy trách nhiệm và xử lý những sai phạm. Thành lập các bộ phận quản lý rủi ro như: Uỷ ban quản lý tài sản nợ – tài sản có (ALCO) trực thuộc Ban điều hành nhằm quản lý các rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại bảng hay Hội đồng quản lý rủi ro (RMC) trực thuộc Hội đồng quản trị Ngân hàng, khống chế và quản lý rủi ro tổ chức, hệ thống các rủi ro thị trường. Đồng thời tổ chức bộ máy và phương pháp làm việc của Hội đồng tín dụng trong việc phê duyệt một dự án vượt quá thẩm quyền quyết định của Giám đốc. Thực hiện việc mở rộng các đối tượng tham gia bảo lãnh. Trong một số trường hợp khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh muốn mở một khoản bảo lãnh tại Ngân hàng nhưng về điều kiện tài sản đảm bảo thì khách hàng này chưa đáp ứng được yêu cầu của Ngân hàng thì Ngân hàng nên có một sự xem xét lại cẩn thận tư cách khách hàng để có thể tạo được điều kiện thuận lợi cho khách hàng có thể tham gia bảo lãnh, bởi một điều thực tế là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh rơi vào trường hợp trên là rất nhiều. Và do vậy, sự trợ giúp của Ngân hàng là một nguồn vốn rất lớn đóng góp vào sự thành công của dự án phát sinh bảo lãnh. Techcombank phải tăng cường hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng. Hiện nay Techcombank là một trong những Ngân hàng thương mại có công nghệ hiện đại nhất trong hệ thống Ngân hàng, tuy nhiên không vì điều đó mà thiếu đi việc ứng dụng công nghệ mới vào hoạt động của Ngân hàng. Techcombank hoàn thiện hơn nữa hệ thống GLOBUS, triển khai ứng dụng các phần mềm vi tính, quản lý nghiệp vụ bảo lãnh, thanh toán, và giao dịch với khách hàng. Xây dựng một môi trường làm việc hiện đại, chuyên nghiệp, nhưng không thiếu tính thân thiện, hoà đồng, giúp đỡ nhau giữa các nhân viên, tạo mối liên kết bền chặt trong toàn hệ thống Ngân hàng. 3.3. Một số kiến nghị 3.3.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước Từ khi hệ thống Ngân hàng nước ta chuyển thành hệ thống Ngân hàng hai cấp, vai trò của Ngân hàng nhà nước (NHNN) được tách biệt chủ yếu chuyển sang chức năng quản lý. Nhờ việc phân định tương đối rõ ràng chức năng của NHNN và NHTM mà việc quản lý của nhà nước đối với hoạt động Ngân hàng được thông suốt và hiệu quẩ. Trong điều kiện kinh tế phát triển với những bước đi mới, NHNN cần phải đẩy nhanh tiến độ cơ cấu lại NHTM theo hướng nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức, bộ máy, các sản phẩm dịch vụ mới, tiếp tục xử lý các khoản nợ tồn đọng theo chương trình, kế hoạch được Chính phủ phê duyệt nhằm tăng cường năng lực tài chính cho các NHTM. NHNN phải sớm ban hành và hoàn thiện khung pháp lý đồng bộ để hệ thống các tổ chức tín dụng chấp hành và làm căn cứ cho công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý sai phạm, đồng thời nâng cao tính hiệu quả của hoạt động Ngân hàng. Đối với hoạt động bảo lãnh nói riêng, Ngân hàng nhà nước cần có các biện pháp quản lý và giúp đỡ các NHTM trong việc thực hiện nghiệp vụ, trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Ngân hàng và thanh tra, kiểm tra hoạt động bảo lãnh. 3.3.1.1. Hỗ trợ các NHTM trong việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh NHNN nên hỗ trợ các ngân hàng thương mại trong việc tổng hợp và cung cấp các thông tin về khách hàng chính xác và cập nhật, nâng cao vai trò hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng (ICC) thuộc NHNN là nơi tập trung các nguồn thông tin đa dạng và phong phú, đồng thời phải tập hợp một đội ngũ chuyên gia phân tích và xử lý thông tin tài chính và tín dụng doanh nghiệp hàng đầu. Hiện nay, trung tâm ICC đã hoạt động nhưng chưa thực sự hiệu quả trong việc cung cấp thông tin cho các NHTM. Nguyên nhân có thể là do những thông tin này chưa thực sự hấp dẫn các Ngân hàng, hoặc chưa thực sự có chất lượng. NHNN nên rà soát lại các văn bản pháp quy, tiến hành tổng kết các hoạt động bảo lãnh sau 20 năm thực hiện, từ đó sửa đổi, bổ sung các quy định bảo lãnh cho phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Các văn bản pháp lý về hoạt động Ngân hàng và tín dụng ban hành hiện nay rất chồng chéo, thậm chí các văn bản ban hành sau mâu thuẫn với các văn bản ban hành trước, gây khó khăn cho các NHTM trong quá trình chấp hành và áp dụng. Đối với hoạt động bảo lãnh, hiện nay đang chịu sự điều chỉnh của Quy chế ban hành kèm theo Quyết định 238/2000/QĐ-NHNN14, và các văn bản sửa đổi khác. Do vậy, hoạt động bảo lãnh cũng bị giảm bớt phần linh hoạt và chủ động trong khi thựchiện nghiệp vụ. NHNN không nên quy định mức phí cao nhất của hoạt động bảo lãnh, là 2%, nhằm tăng tính cạnh tranh của hoạt động bảo lãnh. NHNN cũng nên tổ chức các phòng, các đợt nghiên cứu quy chế cụ thể thích hợp cho các loại bảo lãnh, tạo điều kiện cho các NHTM có thể thực hiện được những loại hình bảo lãnh một cách hiệu quả, an toàn nhưng vẫn đảm bảo vai trò quản lỹ của NHNN. 3.3.1.2. Tăng cường việc kiểm tra, thanh tra hoạt động bảo lãnh Ngân hàng là một thể thống nhất, hoạt động Ngân hàng có vai trò vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của nền kinh tế và sự tồn tại, phát triển của một quốc gia. Một ngân hàng có vấn đề sẽ gây ảnh hưởng dây chuyền tới các Ngân hàng khác, do vậy, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của NHNN đối với hoạt động của các NH TMCP là rất cần thiết. Đối với hoạt động bảo lãnh, là một dịch vụ của Ngân hàng chứa đựng nhiều rủi ro, thì công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát càng trở nên quan trọng để đảm bảo hoạt động của hệ thống Ngân hàng là lành mạnh và phục vụ tối đa cho việc phát triển kinh tế xã hội, tăng cường sức mạnh quốc gia. Trên thực tế, NHNN cũng đã thực hiện việc NHTM phải báo cáo lên NHNN về những khoản bảo lãnh có giá trị lớn. Nhưng nếu chỉ căn cứ vào những báo cáo thì không thể đảm bảo mức độ tin cậy. NHNN phải tiến hành thường xuyên kiểm tra hoạt động của các NHTM, để có thể phát hiện những sai sót, kịp thời chỉnh sửa và xử lý triệt để. Tuy nhiên, NHNN cũng chỉ nên can thiệp ở một mức độ nào đó, tránh gây cản trở cho các NHTM, ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động của các NHTM. 3.3.2. Đối với Quốc Hội, Chính phủ và các cơ quan chức năng Thiết lập một môi trường kinh tế ổn định, công bằng, lành mạnh, phát huy được vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Các chính sách kinh tế vĩ mô cần được ban hành một cách đồng bộ, và cùng hướng tới mục tiêu chiến lược đã được hoạch định. Tăng cường phát triển thị trường mua bán Nợ, thị trường chứng khoán, tạo ra nhiều thị trường cạnh tranh tự do, lành mạnh, cùng với việc phát huy những công cụ phòng chống rủi ro cho các hoạt động Ngân hàng. Điều này vừa giúp Nhà nước kiểm soát tốt hơn các chính sách tỷ giá, lãi suất, chính sách tài chính tiền tệ phù hợp với từng giai đoạn phát triển, vừa ảnh hưởng tốt tới sự phát triển của hoạt động bảo lãnh trong hệ thống các sản phẩm dịch vụ của NHTM. Bên cạnh việc định hướng các lĩnh vực phát triển mũi nhọn, Chính phủ không nên có quá nhiều sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là sự phân biệt giữa các NHTM và ngân hàng quốc doanh, nhằm khuyến khích việc phát triển hệ thống NHTM tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Chính phủ phải xây dựng một số văn bản pháp quy nhằm quy định những chuẩn mực trong việc xem xét cấp phép hoạt động cho các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp khi bắt đầu tiến hành việc thành lập doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh. Việc cấp phép kinh doanh phải dựa trên khả năng thực sự của các chủ đầu tư, hay của các cổ đông góp vốn. Đối với các doanh nghiệp quốc doanh, nên tiến hành nhanh chóng việc cổ phần hoá, tạo khả năng độc lập trong hoạt động, và làm chủ tình hình tài chính của doanh nghiệp. Về việc ban hành một hệ thống pháp lý đồng bộ, ngoài các văn bản pháp lý đã ban hành như Quy chế bảo lãnh Ngân hàng với các quyết định: QĐ 283/2000 và QĐ 386/2001 của Ngân hàng nhà nước về bảo lãnh thì nhiệp vụ bảo lãnh mới chỉ được đề cập ở mức sơ lược trong các văn bản Luật có tính pháp lý cao như: Bộ luật dân sự, Luật NHNH, Luật tổ chức tín dụng. Do vậy Quốc hội và chính phủ phải quan tâm tới việc ban hành hệ thống các văn bản có tính pháp lý cao hơn, tiến tới xây dựng bộ luật về bảo lãnh nhằm tạo cơ sở cho hoạt động bảo lãnh được thực hiện đồng bộ và thống nhất. Bên cạnh đó, các văn bản liên quan khác tới các khía cạnh của nghiệp vụ bảo lãnh như : Công chứng, quy định về cầm cố thế chấp, quy định về xác định giá trị tài sản đảm bảo, thủ tục đấu giá tài sản, đăng ký giao dịch, các chế độ về hạch toán kế toán trong doanh nghiệp và trong Ngân hàng…nhằm có cơ sở thống nhất chặt chẽ trong quá trình thực hiện bảo lãnh. KẾT LUẬN Qua sự tìm hiểu khái quát về đặc điểm và chức năng của hoạt động bảo lãnh Ngân hàng thương mại, ta có thể thấy được vai trò quan trọng của hoạt động này đối với doanh nghiệp, đối với Ngân hàng và đối với nền kinh tế. Tại Trung tâm kinh doanh - Hội sở Techcombank, hoạt động bảo lãnh đã là một hoạt động dịch vụ Ngân hàng không thể thiếu trong quá trình phục vụ nhu cầu khách hàng của Techcombank. Bảo lãnh không những mang lại lợi nhuận cao hơn cho TTKD-HO, mà còn giúp nâng cao uy tín của Techcombank trên thị trường. Tuy vậy, với sự phát triển ngày càng mạnh của hoạt động bảo lãnh trong hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, thì sự cạnh tranh trong lĩnh vực này đang ngày càng quyết liệt và diễn ra sôi động giữa các Ngân hàng hay giữa các tổ chức tín dụng khác như: công ty tài chính, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, Chính phủ, hay các Tổng công ty lớn. Điều này đặt ra cho TTKD-HO nói riêng và Techcombank nói chung phải có những sự khác biệt trong hoạt động bảo lãnh để tạo ra sức cạnh tranh, và thu hút được khách hàng tham gia bảo lãnh tại Techcombank. Để có được điều này, Techcombank trước hết phải khắc phục được những hạn chế và tồn tại về chất lượng hoạt động bảo lãnh không chỉ tại Hội sở mà phải áp dụng tại tất cả các chi nhánh của Techcombank để có thể nâng cao chất lượng bảo lãnh một cách đồng bộ trong toàn hệ thống, từ đó tiến hành phát triển hoạt động bảo lãnh và các hoạt động khác hoàn thiện hơn đồng thời nâng cao uy tín của Techcombank hơn nữa. Với mong muốn được góp sức cùng Ngân hàng, em đã mạnh dạn tìm hiểu những hạn chế và tồn tại mà hoạt động bảo lãnh tại TTKD-HO Techcombank đang vướng mắc để tìm ra một vài giải pháp giúp nâng cao chất lượng bảo lãnh tại TTKD nói riêng và trong toàn hệ thống Techcombank nói chung. Tuy nhiên, những giải pháp này chỉ mang tính chất định hướng cho việc nâng cao chất lượng bảo lãnh, còn với mỗi giai đoạn, thời kỳ hay mỗi chi nhánh của Techcombank thì lại phải xây dựng những biện pháp cụ thể hơn, phù hợp hơn, khả thi hơn với chất lượng bảo lãnh của từng chi nhánh. Điều này thuộc trách nhiệm của ban lãnh đạo Techcombank trong quá trình duy trì, mở rộng và phát triển Techcombank theo từng giai đoạn và theo xu hướng chung của nền kinh tế. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện bài viết với chất lượng cao nhất, song do hạn chế về thời gian tìm hiểu, kinh nghiệm và khả năng thu thập thông tin cần thiết phục vụ cho bài viết, em không tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình nhìn nhận, phân tích và đánh giá vấn đề, do vậy bài viết của em còn cần được nghiên cứu tiếp. Em rất mong nhận được sự phê bình, đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các cán bộ Ngân hàng tại TTKD-HO để bài viết của em được hoàn thiện hơn nữa. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS Vũ Duy Hào và các anh chị phòng Tín dụng doanh nghiệp Trung tâm kinh doanh - Hội sở Techcombank đã giúp đỡ em trong quá trình hoàn thiện nhận thức về hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng và hoàn thiện bài viết Chuyên đề này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36463.doc
Tài liệu liên quan