Mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động theo dự án là một trong các mục tiêu quan trọng của Ngân hàng Công thương Chương Dương, trong đó cho vay ngành điện lực luôn là đối tượng quan tâm rất lớn của Ngân hàng. Muốn thực hiện điều này, Ngân hàng cần nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án nói chung và trong cho vay ngành điện lực nói riêng như một nhiệm vụ then chốt và tất yếu. Vì vậy, Ngân hàng cần phải nghiên cứu và áp dụng nhiều biện pháp có tính khả thi cao khác nhau.
Xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi đó, đề tài “ Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay ngành điện lực tại Ngân hàng Công thương Chương Dương” đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu thích hợp và hoàn thành được những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, hệ thống lại lý thuyết chung về thẩm định tài chính dự án, từ đó đưa ra khái niệm và một số các chỉ tiêu về chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay của Ngân hàng thương mại
Thứ hai, đánh giá thực trạng hoạt động thẩm định tài chính dự án trong cho vay ngành điện lực tại Ngân hàng Công thương Chương Dương, từ đó rút ra những kết quả đã đạt được và những hạn chế trong hoạt động này, chỉ rõ nguyên nhân của vấn đề trên.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay nói chung và ngành điện lực nói riêng tại Ngân hàng Công thương Chương Dương.
Qua luận văn này, em hy vọng rằng những giải pháp đưa ra sẽ được Ngân hàng Công thương Chương Dương xem xét, áp dụng để nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án trong cho vay ngành điện lực, góp phần mở rộng hoạt động tín dụng theo hướng an toàn và hiệu quả.
84 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1409 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay ngành điện lực tại Ngân hàng Công thương Chương Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2003
Năm 2004
Năm 2005
Dư nợ cho vay dự án ngành điện
225.02
292.22
364.21
517.29
Doanh số cho vay dự án ngành điện
106.13
113.47
115.58
135.64
Doanh số thu nợ dự án ngành điện
41.32
44.59
61.78
65.98
Nguồn: Phòng tổng hợp và tiếp thị
Công tác thẩm định tài chính dự án nói chung và ngành điện lực nói riêng luôn đuợc gắn liền với đặc thù riêng của từng ngành. Các cán bộ tín dụng luôn chịu khó thu thập thêm nhiều thông tín, quan tâm đến đặc điểm riêng của ngành, các nên hay không nên trong thẩm định tài chính dự án ngành này để từ đó ngày càng hoàn thiện chất lượng thẩm định tài chính dự án ngành điện lực. Ví dụ như, trong ví dụ thẩm định tài chính dự án “Hệ thống đường dây và trạm 500 KV Hà Tĩnh – Thường Tín”, cán bộ tín dụng đã đưa ra quyết định đúng đắn rằng: tuy dự án này có tuổi thọ 35 năm nhưng thực tế tuổi thọ của những đường dây, trạm điện, cột điện.... của nó lại là vĩnh viễn. Khi kết thúc 35 năm, thì chủ đầu tư cũng sẽ không thanh lý những tài sản cố định đó. Chính vì vậy, cán bộ tín dụng đã quyết định không tính tiền thanh lý tài sản cố định vào trong dòng tiền vào của dự án.
Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng nhiều lần bổ sung, chỉnh sửa các mẫu báo cáo thẩm định dự án, mẫu tờ trình thẩm định, sổ tay tín dụng và các văn bản hướng dẫn thẩm định dự án ngày càng khoa học và đầy đủ hơn. Điều này cũng tạo thuận lợi rất nhiều cho các cán bộ thẩm định thẩm định dự án được dễ dàng và chính xác hơn.
Việc thẩm định dự án đã kết hợp khá chặt chẽ các nội dung trong một quy trình thống nhất, đặc biệt là thẩm định kỹ thuật, thẩm định tình hình tài chính của chủ đầu tư, thẩm định hiệu quả tài chính của dự án. Ngoài ra, thẩm định về mặt công nghệ, kinh tế xã hội cũng được coi trọng hơn và kết quả của các nội dung này cũng được xem xét trong dự án.
Nhìn chung, NHCT Chương Dương cũng đã có sự quan tâm đáng kể đối với công tác thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng và đã thu được một số kết quả rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, bên cạnh đó công tác này vẫn còn một số mặt hạn chế cần khắc phục để nâng cao hơn nữa chất lượng thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng trong đó có cả các dự án ngành điện lực.
2.4.2 Hạn chế và nguyên nhân
2.4.2.1 Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác thẩm định tài chính dự án tại NHCT Chương Dương vẫn còn nhiều hạn chế, khó khăn cần khắc phục để nâng cao hơn nữa chất lượng thẩm định tài chính dự án nói chung và chất lượng thẩm định dự án ngành điện lực nói riêng.
Đôi khi, do những hướng dẫn, tài liệu sơ sài từ phía NHCT Việt Nam, nên công tác thẩm định tài chính vẫn còn mang lý thuyết, việc nhận xét đánh giá các kết quả thẩm định còn sơ sài và chưa được quan tâm đúng mức. Ví dụ như trong thẩm định tài chính dự án “Hệ thống đường dây và trạm 500KV Hà Tĩnh – Thường Tín”, cán bộ tín dụng mới chỉ tính toán độ nhạy của dự án nhưng việc nhận xét kết quả thu được thi chưa được tiến hành triệt để. Điều này hạn chế phần nào chất lượng thẩm định tài chính dự án nhất là đối với dự án có quy mô như dự án này.
Thời gian từ thẩm định dự án đôi lúc còn quá dài khiến cho quá trình thẩm định đôi khi phải có sự chỉnh sửa nhiều lần do lãi suất áp dụng ở từng thời điểm là khác nhau. Ví dụ như ở dự án trên thì thời gian từ khi tiếp nhận hồ sơ đến khi vay ký hợp đồng tín dụng với khách hàng là 6 tháng, và trong khi đó đã có ít nhất 2 lần chỉnh sửa vì lãi suất cho vay thương mại áp dụng thay đổi từ 8.4% lên 9%.
Công tác thẩm định tại Ngân hàng hầu như không quan tâm nhiều đến yếu tố chi phí thẩm định. Đôi khi, cán bộ tín dụng có quan điểm sai lầm rằng chi phí thẩm định tại Ngân hàng bằng không vì cho rằng thẩm định dự án là điều tất nhiên phải làm và chi phí cơ hội, chi phí thu thập thông tin, thời gian và công sức bỏ ra không được coi là chi phí thẩm định. Chính vì vậy mà Ngân hàng không hề có những biện pháp nhằm giảm thiểu chi phí thẩm định, để quá trình thẩm định dự án vẫn thu được chất lượng cao, thời gian thẩm định nhanh nhất có thể với một chi phí thẩm định là thấp nhất.
Các kết quả thẩm định tài chính dự án ngành điện lực chưa thể nói là hoàn toàn phản ánh chính xác bản chất dự án. Một phần xuất phát từ những sai sót trong quá trình thẩm định, một phần là bởi lẽ các dự án ngành điện lực rất khó tiếp cận thông tin trong khi đó để thẩm định tốt các dự án ngành này lại càng cần khối lượng thông tin rộng liên quan đến nhiều lĩnh vực. Hơn thế nữa, đối với các doanh nghiệp lớn như Tổng công ty điện lực Việt Nam thì các số liệu tài chính thu được lại chủ yếu phản ánh tình hình tài chính của cả doanh nghiệp, đó là bức tranh lớn của cả công ty, trong khi đó dự án chỉ là một phần rất nhỏ trong đó. Do đó việc bóc tách các số liệu, các chỉ tiêu tài chính riêng biệt gặp rất nhiều khó khăn, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng thẩm định tài chính dự án ngành điện lực. Việc dự kiến doanh thu cho dự án cũng không phải là điều dễ dàng. Đối với các dự án có quy mô nhỏ, thông thường các việc tính doanh thu dự kiến dựa vào phần doanh thu tăng thêm. Nhưng các dự án điện lực khi đi vào cả doanh nghiệp thì việc xác định doanh thu dự án mang lại cho dự án là rất khó khăn.
Việc tính toán các số liệu về hiệu quả tài chính dự án vẫn còn những điểm sai sót. Phương pháp và nội dung thẩm định tài chế vẫn còn những hạn chế sửa đổi và khắc phục. Một số chỉ tiêu mà Ngân hàng áp dụng trong thẩm định tài chính vẫn chưa hoàn toàn hợp lý. Điều này đã ảnh hưởng và làm giảm đáng kể đến chất lượng thẩm định tài chính dự án nói chung và trong cho vay ngành điện lực.
Trong công tác thẩm định tài chính dự án ngành điện lực, việc vận dụng các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án và việc xem xét đánh giá từng nội dung thẩm định tài chính còn mang nặng tính hình thức và còn nhiều điểm chưa hợp lý, điều này đã làm giảm chất lượng công tác thẩm định tài chính của Ngân hàng.
2.4.2.2 Nguyên nhân
Có rất nhiều nguyên nhân và yếu tố tác động đến kết quả trên, có những yếu tố tác động riêng lẻ nhưng cũng có những yếu tố tác động qua lại lẫn nhau ảnh hưởng không tốt tới công tác thẩm định tài chính dự án trong cho vay ngành điện lực của Ngân hàng. Có thể phân nhóm các nguyên nhân tác động đến chất lượng thẩm định tài chính trong cho vay ngành điện lực thành: Nhóm nguyên nhân chủ quan và nhóm nguyên nhân khách quan
a. Nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân xuất phát từ nội dung và phương pháp thẩm định:
Một số chỉ tiêu thẩm định mà Ngân hàng đang áp dụng trong thẩm định tài chính dự án chưa hoàn toàn hợp lý đã ảnh hưởng đến việc ra quyết định cho vay.
Trong thẩm định nguồn vốn tài trợ, chưa gắn việc thẩm định nguồn vốn với thẩm định năng lực tài chính của chủ đầu tư, chưa chú trọng với việc cân đối nguồn vốn với việc cân đối trả nợ, xác định nguồn trả nợ.
Trong thẩm định tổng vốn đầu tư của dự án, đặc biệt Ngân hàng mới chỉ chú trọng thẩm định phần chi phí thực hiện đầu tư ( vốn đầu tư vào tài sản cố định) mà chưa xem xét tới nhu cầu vốn lưu động cần thiết để vận hành dự án vì vậy chưa đảm bảo được tính chính xác của việc xác định dòng tiền.
Về xác định doanh thu, chi phí: các dự án ngành điện lực phụ thuộc rất lớn vào công suất thực hiện dự án, giá bán và mua điện,.... Công suất thực hiện dự án lại phụ thuộc vào yếu tố kỹ thuật của dự án và ảnh hưởng nhiều đến chất lượng của thẩm định thị trường và kỹ thuật. Tuy nhiên trong thực tế, việc thẩm định kỹ thuật của ngân hàng đối với các dự án ngành điện lực chưa đạt kết quả cao, vì các cán bộ tín dụng còn có hiểu biết hạn chế về phương diện kỹ thuật của ngành này.
Trong khi xác định chi phí, cán bộ tín dụng đã thiếu sót không tính đến chi phí hội cơ hội vào tổng chi phí của dự án. Trong khi đó, đây là một khoản chi phí nên tính vào tổng chi phí để đảm bảo tính chính xác của dòng tiền.
Trong quá trình thẩm định dòng tiền, vẫn có những sai sót không đáng có. Trong dự án minh hoạ ở phần trên, cán bộ thẩm định đã tính toán saido khi tính dòng tiền cán bộ này đã không cộng khấu hao vào lợi nhuận sau thuế. Bởi lẽ, khấu hao tuy là một khoản chi phí của dự án nhưng thực tế không phải là một dòng tiền đi ra. Kết quả thẩm định tuy NPV vẫn dương nhưng quá nhỏ nên không phản ánh đúng lợi nhuận mà dự án mang lại cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, qua nghiên cứu những dự án khác và trao đổi lại với cán bộ tín dụng, thìcó thể rút ra kết luận đây chỉ là sai sót do sự không cẩn thận của cán bộ tín dụng trong quá trình thẩm định dự án này, chứ không phải là sự sai lầm mang tính hệ thống trong phương pháp tính toán ở tất cả các dự án khác.
Hiện nay cán bộ tín dụng xác định lãi suất chiết khấu chủ yếu dựa trên lãi suất cho vay trung và dài hạn của Ngân hàng mà chưa thể xác định mức lãi suất chiết khấu hợp lý riêng cho từng ngành cụ thể, từng dự án riêng. Quan điểm xác định tỷ suất chiết khấu của cán bộ tín dụng đôi khi còn mang tính chủ quan. Hơn thế nữa, do các dự án ngành này thường được được nhiều sự ưu đãi từ các khoản vay ưu đãi của Chính phủ, các tổ chức hỗ trợ phát triển như WB, ADB, nên lãi suất chiết khấu đưa ra chưa thực sự phản ánh hết chi phí vốn của dự án.
Hệ thống các chỉ tiêu áp dụng đánh giá hiệu quả tài chính còn chư đầy đủ. Để đánh giá hiệu quả tài chính dự án điện lực, Ngân hàng mới chủ yếu sử dụng các chỉ tiêu chính như NPV, IRR. Đó mới chỉ là các chỉ tiêu cơ bản khi xem xét mặt tài chính của dự án. Trong khi đó những dự án ngành điện lực là những dự án phức tạp, quy mô lớn, cán bộ tín dụng cần phải áp dụng thêm các chỉ tiêu khác để có sự bổ trọ nhằm phân tích toàn diện và sâu sát hơn. Bên cạnh đó, các chỉ tiêu tuy được tính toán nhưng lại thiếu sự phân tích, so sánh với chỉ tiêu chung của ngành hay các dự án tương tự đã xét duyệt đầu tư nên chưa mang tính thuyết phục cao.
Tuy Ngân hàng đã đưa phân tích rủi ro vào nội dung thẩm định tài chính dự án trong cho vay ngành điện lực nhưng còn rất sơ sài. Việc phân tích rủi ro của dự án mới chỉ dừng lại ở phương pháp phân tích độ nhậy với sự xem xét sự tác động đối với chỉ tiêu NPV và IRR khi cho một trong các biến giá bán, sản lượng, còn mang tính đơn điệu, chung chung và chưa sát thực. Cán bộ thẩm định mới chỉ tiến hành tính toán mà chưa có những nhận xét và đánh giá thích đáng. Việc phân tích rủi ro của dự án vẫn còn thiếu những phương pháp cần thiết để có thể đưa ra các kết luận về mức độ rủi ro của dự án chính xác nhất.
Công tác quản trị rủi ro vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Các dự án ngành điện lực thường đánh giá là có rủi ro tín dụng thấp. Nhưng đó thực chất không phải là kết quả quá trình quản trị rủi ro của ngân hàng. Mà là xuất phát từ những đặc thù riêng của các dự án ngành này. Do vị trí độc qyền nên dòng tiền vào của dự án ngành điện lực có thể được đảm bảo ổn định qua nhiều năm. Bên cạnh nguồn tài trợ từ dự án, nguồn lợi nhuận để lại và vốn tự có của chủ đầu tư cũng rất lớn. Ngoài ra, các dự án này còn có một tấm đệm an toàn là các khoản ưu đãi của Chính phủ. Tuy vậy, với những dự án với vòng đời rất lớn như này thì các biện pháp phòng ngừa rủi ro vẫn là rất cần thiết.
Nguyên nhân xuất phát từ đội ngũ cán bộ
Trong những năm gần đây, đội ngũ cán bộ ngày càng năng động hơn và chuyên nghiệp hơn rất nhiều đáp ứng với xu hướng phát triển chung. Tuy nhiên, vẫn phải nói rằng, phần lớn các cán bộ tín dụng còn rất trẻ nên chắc chắn còn thiếu kinh nghiệm trong công tác thẩm định. Mặc dù đa số cán bộ đều có trình độ đại học hoặc trên đại học nhưng phần đông cán bộ chưa được đào tạo một cách chuyên nghiệp trong lĩnh vực thẩm định dự án. Hơn nữa, đối với các dự án ngành điện lực đòi hỏi cán bộ tín dụng có kiến thực trong lĩnh vực phức tạp này nhưng các cán bộ tín dụng tại đây đều tốt nghiệp các trường khối kinh tế nên kiến thức về phân tích kỹ thuật còn hạn chế, dẫn đến khó khăn trong việc xác định các yếu tố kỹ thuật của dự án, và phải dựa vào nhiều thông tin kỹ thuật mà khách hàng cung cấp.
Bên cạnh đó, do đang trong quá trình triển khai hiện đại hoá trong toàn hệ thống NHCT nên sự phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ và hoạt động ngân hàng vừa có tác động tích cực lại vừa gây ra những hạn chế cho cán bộ tín dụng. Với những cán bộ thẩm định chưa nắm được quy trình thẩm định mới, chưa thành thạo, chưa thể làm chủ trong sử dụng máy tính như là công cụ để thực hiện công việc thì khó có thể kiểm soát thông tin nhằm quản lý khách hàng thường xuyên để phát hiện những thay đổi mới trong quan hệ tín dụng của Ngân hàng với khách hàng, chưa khai thác hết những tiện ích qua mạng máy tính.... nên họ khó có thể thực hiện công việc nhanh chóng và hiệu quả cao.
Nguyên nhân xuất phát từ trang thiết bị, công nghệ thông tin.
Trong thời gian qua mặc dù ngân hàng đã có sự quan tâm và có những nỗ lực đáng kể trong việc nâng cao chất lượng thông tin cũng như áp dụng các thiết bị công nghệ hiện đại nhưng nhìn chung vẫn chưa mang lại hiệu quả thích đáng. Hệ thống thu thập và xử lý thông tin chưa đáp ứng yêu cầu của công tác thẩm định tài chính dự án. Các máy tính được nối mạng trong toàn hệ thống nhưng việc xử lý và truyền tin chưa đạt hiệu quả cao. Hoạt động đầu tư đòi hỏi phải có được các thông tin trên nhiều lĩnh vực khác nhau về luật pháp, về giá cả vật tư, thiết bị và sản phẩm, về tín dụng, tiền tệ, lạm phát.. ở trong nước và thế giới; về các chỉ tiêu kinh tế-kỹ thuật ngành trong nước, khu vực và thế giới. Vấn đề thu thập, lưu trữ thông tin, phân tích và xử lý thông tin, vấn đề dự báo trung hạn và dài hạn vẫn là khâu yếu trong quản lý kinh tế-tài chính nói chung và trong thẩm định dự án nói riêng. Điều đó ảnh huởng đến mức độ chính xác của phân tích hiệu quả tài chính, kinh tế, xã hội và môi trường của dự án.
Nguyên nhân xuất phát từ công tác thẩm định
Công tác tổ chức thẩm định dự án tại NHCT Chương Dương chưa thực sự hiệu quả. Ngân hàng vẫn chưa có phòng thẩm định tài chính dự án, việc thẩm định tài chính dự án vẫn do cán bộ tín dụng thực hiện. Mỗi cán bộ phải thực hiện nhiều công việc để hoàn thành một hợp đồng tín dụng với khách hàng. Với sức ép về công việc vừa phải đảm nhiệm công tác tín dụng bình thường vừa dành thời gian thẩm định dự án nên kết quả thẩm định, sức ép về thời gian thực hiện nên cùng một lục cán bộ tín dụng không thể hoàn thành tốt mọi công việc trong khi đó thẩm định tài chính dự án lại là một công việc hết sức phức tạp và liên quan đến nhiều lĩnh vực, nội dung.
b. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, những quy chế, văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Công thương Việt Nam đối với công tác thẩm định tài chính còn nhiều điểm sơ sài và chưa hoàn toàn phù hợp, điều này sẽ gây khó khăn cho các cán bộ tín dụng khi thẩm định dự án. Việc tái thẩm định tại Ngân hàng Công thương Việt Nam đối với những dự án lớn là cần thiết để quản trị rủi ro tốt nhưng cũng không nên để mức phán quyết của chi nhánh thấp quá, sẽ làm mất tính chủ động của chi nhánh đồng thời gây tốn kém thời gian và chi phí tái thẩm định.
Thứ hai, nguồn thông tin cung cấp cho công tác thẩm định tài chính dự án còn hạn chế, rất khó tiếp cận để thu thập thông tin cần thiết. Việc xác định tính chính xác của nguồn số liệu mà khách hàng cung cấp cũng là gặp nhiều khó khăn.
Thứ ba, Nhà nước chưa ban hành văn bản hướng dẫn thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng; chưa có hướng dẫn cụ thể dự án theo từng chuyên ngành riêng biệt.
Thứ ba, sự phối hợp giữa các cơ quan, ngành liên quan đến dự án đầu tư chưa chặt chẽ: cơ chế chính sách quản lý đầu tư và xây dựng còn chưa đầy đủ, đồng bộ. Các dự án xây dựng còn sơ sài về nội dung, chưa chuẩn xác về số liệu, dự báo về cung-cầu chưa đảm bảo tính khoa học, còn mang tính chủ quan, áp đặt; chưa đề xuất được nhiều phương án để lựa chọn phương án tối ưu. Các cơ quan quản lý theo chức năng, nhiệm vụ được giao chưa đưa ra được các chỉ tiêu kinh tế-kỹ thuật tổng hợp để làm căn cứ so sánh hiệu quả dự án đầu tư, lựa chọn và tạo cơ sở xây dựng dự án có tính khả thi cao.
Thứ tư, Tổng công ty điện lực Việt Nam tuy có đội ngũ cán bộ công nhân với trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nhưng kiến thức về tài chính, cũng như khả năng lập và thẩm định dự án lại còn nhiều hạn chế. Điều này gây sức ép không nhỏ cho quá trình thẩm định dự án của các cán bộ tín dụng của Ngân hàng Công thương Chương Dương.
Thứ năm, môi trường kinh tế xã hội ở nước ta đang trong quá trình phát triển và hội nhập nên còn nhiều bất ổn. Điều này gây khó khăn trong việc dự báo các yếu tố dự án trong tương lai cũng như tiên lượng và phòng tránh rủi ro. Vì vậy, kết quả thẩm định không đúng với thực tế nhất là khi dự án ngành điện lực lại là các dự án hoạt động trong thời gian dài.
Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG CHO VAY NGÀNH ĐIỆN LỰC
TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHƯƠNG DƯƠNG
3.1 ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHƯƠNG DƯƠNG
3.1.1 Định hướng chung của Ngân hàng Công thương Chương Dương.
Thứ nhất, Chi nhánh tiếp tục tăng cường công tác huy động vốn, đẩy mạnh công tác tiếp thị. Nguồn tiền gửi dân cư là một nguồn tạo vốn quan trọng, cần chú trọng khai thác. Bên cạnh đó, các phòng tín dụng cần chú ý nguồn tiền gửi của doanh nghiệp và các thành phần kinh tế khác để khai thác tối đa nguồn tiền nhàn rỗi trên thị trường. Chi nhánh phấn đấu hoàn thành và vượt mức kế hoạch đề ra cho năm 2006: tăng vốn điều lệ của NHCT Việt Nam lên 3.500 tỷ VNĐ (tăng 400 tỷ VNĐ)
Thứ hai, trong hoạt động tín dụng, các cán bộ tín dụng phải tiến hành phân tích và đánh giá tất cả các khách hàng có quan hệ tín dụng với chi nhánh. Qua đó, tiến hành phân loại đối tượng khách hàng để có định hướng tín dụng đầu tư hợp lý. Phòng tín dụng cần kiểm soát chặt chẽ và rút dần dư nợ với các doanh nghiệp có tình hình tài chính yếu kém, sản xuất kinh doanh không ổn định, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước trước kia được cho vay theo phương thức chỉ định. Tập trung hoạt động tín dụng vào các khách hàng xuất nhập khẩu; đẩy mạnh cho vay với khu vực kinh tế dân doanh công ty trách nhiệm hữu hạn, cổ phần, hộ tu nhân cá thể. Mục tiêu cuối năm 2006 tổng dự nợ đạt 1.850 tỷ đồng.
Thứ ba, hoạt động xử lý, thu hồi các khoản nợ tồn đọng, nợ quá hạn phát sinh trước đây đã có nhiều biến chuyển tích cực nhưng vẫn chưa đạt nhiều hiệu quả. Với mục tiêu đề ra cho năm 2006 là thu hồi 35 tỷ nợ đã xử lý rủi ro, không có nợ quá hạn, tỷ trọng nợ nhóm 3 đến nhóm 5 thấp hơn 1,5%; chi nhánh chủ trương giảm nợ quá hạn và các khoản nợ xử lý rủi ro đến mức tối đa.
Thứ tư, tăng nguồn thu từ phí, đẩy mạnh thu dịch vụ thông qua các sản phẩm ngân hàng mới như: thẻ ATM, thẻ CASHCARD, thẻ tín dụng quốc tế.... Song song với đó là việc mở rộng và phát triển kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế, đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng. Chi nhánh đặt ra mục tiêu thu phí dịch vụ năm 2006 là 7 tỷ đồng, mở thêm 800 thẻ ATM, lắp đặt thêm 5 máy ATM và 20 cơ sở chấp nhận thẻ trên địa bàn.
Nâng cao hơn nữa chất lượng hạch toán kế toán và thông tin kinh tế, làm tốt công tác kiểm tra, kiểm soát chứng từ sau hiện đại hoá. Các hoạt động ngân hàng cần đảm bảo đúng chế độ và đảm bảo an toàn về chứng từ và tiền bạc trong giao dịch; tăng cường và chú trọng công nghệ thông tin, nối mạng truyền thông, đảm bảo khai thác tối đa hệ thống điện tử nội bộ mới. Mục tiêu lợi nhuận đề ra cho năm 2006 là 110 tỷ đồng.
Thứ sáu, nâng cao hơn nữa chất lượng hiệu quả công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ trên cơ sở bám sát chương trình kiểm tra của NHCT Việt Nam. Các cán bộ kiểm soát viên tập trung vào hoạt động tín dụng và tài chính kế toán nhằm đảm bảo an toàn cho cơ quan trong mọi hoạt động kinh doanh.
Thứ bảy, tăng cường hiệu quả trong công tác quản lý điều hành của bộ máy lãnh đạo từ Ban giám đốc đến các phòng ban. Phòng tổ chức hành chính cần có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, tăng cường công tác học tập nghiên cứu nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ để phù hợp với tình hình mới, đáp ứng yêu cầu của công cuộc hiện đại hoá ngân hàng. Ngoài các nghiệp vụ chuyên môn chi nhánh đã có nhiều chương trình mở các lớp đào tạo vi tính, ngoại ngữ, kiến thức pháp luật, marketing.... cho các bộ phận nghiệp vụ, cán bộ trực tiếp giao dịch với khách hàng.
3.1.2 Định hướng về công tác thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng Công thương Chương Dương.
Thứ nhất, cán bộ cần nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò và nội dung thẩm định tài chính dự án. Khi thẩm định tài chính dự án nên đứng trên quan điểm của người cho vay để xem xét tính khả thi, hiệu quả của dự án. Cần nhận thức rõ việc thực hiện công tác này là một trong những yếu tố quyết định góp phần đảm bảo sự an toàn, lành mạnh cạnh tranh của Ngân hàng. Coi kết quả của thẩm định dự án là cơ sở quy định tính khả thi của dự án, là căn cứ để Ngân hàng cho vay đảm bảo thu được cả gốc lẫn lãi.
Thứ hai, công tác thẩm định tài chính cần có sự kế thừa, đúc rút thường xuyên những bài học kinh nghiệm trong quá trình trước đó đồng thời phải liên tục cải tiến về mặt quy trình, nội dung thông qua việc áp dụng công nghệ, trang thiết bị , đảm bảo cung cấp đánh giá, nhận xét, kết luận chính xác, đầy đủ và khách quan Nội dung thẩm định cần đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ trong toàn ngành để thuận tiện cho việc tham khảo đối chiếu, thanh tra kiểm tra, tái thẩm định.
Thứ ba, về mặt tổ chức thực hiện, công tác thẩm định tài chính dự án cần được phân công tổ chức khoa học và hợp lý trong toàn hệ thống, phù hợp với tình hình thực tiễn và điều kiện của Ngân hàng. Nội dung dự án phải được phổ biến sâu rộng tới không chỉ các cán bộ trực tiếp thực hiện công tác thẩm định dự án mà còn tới cả nhứng bộ phận khác theo mức độ phù hợp.
Như vậy, có thể thấy NHCT Chương Dương đang quyết tâm khẳng định vị thế của mình trong hệ thống NHCT Việt Nam nhằm đạt mục tiêu của toàn hệ thống là giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh vực cho vay phục vụ đầu tư, sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.
3.2 GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY NGÀNH ĐIỆN LỰC TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHƯƠNG DƯƠNG
Xuất phát từ thực trạng tình hình cho vay trung, dài hạn và công tác thẩm định tại NHCT Chương Dương , chúng ta thấy rõ tính cấp thiết của việc nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư nói chung và ngành điện lực nói riêng.
Qua nghiên cứu thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án ngành điện lực, những hạn chế và nguyên nhân, em xin đề xuất một số giải pháp sau nhằm nâng chất lượng thẩm định tài chính dự án nói chung và thẩm định tài chính dự án trong cho vay ngành điện lực nói riêng.
Hoàn thiện phương pháp và nội dung thẩm định tài chính dự án
Hiện nay các văn bản hướng dẫn chỉ đưa ra hướng dẫn thẩm định chung cho mọi dự án mà trên thực tế mỗi loại dự án có một chuẩn mực riêng. Vì vậy ngân hàng cần xem xét vừa phải đưa ra một quy trình thẩm định làm tiêu chuẩn để có sự thực hiện thống nhất giữa các cán bộ thẩm định, vừa phải đề ra yêu cầu về nội dung thẩm định cho phù hợp với từng loại dự án. Để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại NHCT Chương Dương , cần hoàn thiện một số nội dung sau.
Về thẩm định tổng chi phí đầu tư và nguồn tài trợ
Ngân hàng phải thẩm định kỹ tính chính xác của tổng chi phí đầu tư cho dự án ngay cả khi dự án được phê duyệt tổng mức đầu tư của cấp có thẩm quyền. Cần phải bổ sung, sửa đổi các tiêu chuẩn, quy chuẩn, các định mức, đơn giá còn thiếu hoặc đã lạc hậu liên quan đến việc xác định các hạng mục xây lắp, thiết bị, các chi phí về đường dây và trạm điện, về giao thông, vận tải.... Với chi phí thiết bị ngoại nhập, trên cơ sở việc đấu thầu, chỉ định thầu các dự án đã được thực hiện để xây dựng một khung giá phù hợp với công suất, chủng loại thiết bị. Trong quá trình xác định tổng mức vốn đầu tư, cần phải bổ sung vốn lưu động ròng vào tổng mức đầu tư của dự án điện lực.
Do nhu cầu vốn đầu tư dự án thuỷ điện lớn, việc thu xếp đầy đủ vốn theo các nguồn vốn khác nhau sẽ là tiền đề cho việc hoàn thành đầu tư dự án. Vì vậy, khi thẩm định nguồn vốn dự án thuỷ điện, cán bộ thẩm định ngoài việc đánh giá về khả năng đảm bảo nguồn vốn đầu tư của dự án còn cần có các nhận xét, kiến nghị về việc bổ sung, sử dụng nguồn vốn thích hợp hoặc đề xuất việc lựa chọn nguồn vốn dự án.
Khi thẩm định nguồn vốn của dự án phải gắn với việc thẩm định năng lực tài chính của chủ đầu tư trong hiện tại và hướng phát triển trong tương lai; phải gắn với việc cam kết bảo đảm vốn của các tổ chức tài chính tín dụng đối với từng nguồn vốn dự kiến huy động. Cần có quy định mức vốn tự có tham gia vào dự án.
Về thẩm định doanh thu, chi phí của dự án
Để xác định doanh thu, chi phí của các dự án điện lực, cần phải có một khung giá mua, bán điện thật hợp lý nhất, chịu dự điều tiết của thị trường. Với việc ra đời Luật Điện lực số 28/2004/QH 11 được Quốc hội thông qua ngày 3/12/2004 và áp dụng từ ngày 1/7/2005, sẽ dần dần hình thành thị trường điện lực và phát triện qua các cấp độ. Giá điện cũng biến đổi dần tiến tới được xác định trên thị trường song có sự điều tiết của Nhà nước. Cán bộ thẩm định cũng phải dựa vào đó làm căn cứ để xác định doanh thu, chi phí của các dự án phù hợp nhất.
Về thẩm định dòng tiền của dự án
Cần có sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hơn kết quả tính dòng tiền của dự án cần đưa chi phí cơ hội vào tổng chi phí của dự án cũng như bổ sung thêm vốn lưu động ròng vào dự toán vốn đầu tư ban đầu để xác định dòng tiền được đầy đủ và chính xác. Trong việc tính toán dòng tiền, cần cẩn thận hơn trong khi tính toán, áp dụng các chỉ tiêu, tránh những sai lầm không nên có như trong việc thẩm định dự án “ Hệ thống đường dây và trạm 500 KV Hà Tinh – Nho Quan – Thường Tín”.
Về xác định lãi suất chiết khấu
Trên thực tế tuỳ thuộc vào dự án, các cán bộ tín dụng xác định tỷ lệ chiết khấu theo các cách khác nhau. Tỷ lệ chiết khấu có thể tính bằng lãi suất vay dài hạn cộng với mức bù rủi ro của dự án. Tuy nhiên việc xác định mức phần bù rủi ro phải hợp lý, phù hợp với đặc điểm từng dự án, tương ứng với mức rủi ro ước tính của dự án. Cần phân tích các yếu tố về điều kiện đầu vào, đầu ra của dự án; phân tích khả năng huy động vốn, việc mua bán điện nhằm xác định tỷ lệ chiết khấu thích hợp. Nếu dự án có chi phí vốn chủ sở hữu, thì có thể tính lãi suất chiết khấu bằng bình quân gia quyền về lãi suất các nguồn vốn vay và tỷ lệ hoàn vốn yêu cầu của vốn chủ sở hữu.
Về việc đánh giá hiệu quả tài chính dự án
Bên cạnh các chỉ tiêu đã áp dụng trong đánh giá thẩm định tài chính dự án như NPV và IRR, cần phải bổ sung thêm các chỉ tiêu khác để việc đánh giá được đúng đăn và chính xác hơn nhất là đối với các dự án điện lực có quy mô lớn, thời hạn dài và phức tạp. Các chỉ tiêu nên bổ sung để hoan thiện việc đánh giá hiệu quả tài chính dự án như thời gian hoà vốn, điểm hoà vốn, hệ số hoàn vốn nội bộ hiệu chỉnh (MIRR), tỷ lệ lợi ích chi phí (B/C), chỉ số doanh lợi (PI).
Về việc phân tích rủi ro của dự án
Rủi ro của dự án cần được thẩm định một cách cụ thể, chi tiết. Bên cạnh việc dùng phân tích độ nhạy, để đánh giá rủi ro của dự án một cách toàn diện và chính xác hơn, cán bộ tín dụng có thể dùng thêm phương pháp phân tích tình huống và phương pháp phân tích mô phỏng.
Thành lập tổ thẩm định
Hiện nay tại NHCT Chương Dương , khâu thẩm định và quyết định cho vay, giám sát khoản vay đều thuộc Phòng Khách hàng. Đối với các món vay lớn kết quả thẩm định được thông qua sự kiểm duyệt của hội đồng tín dụng. Hình thức nay có ưu điểm là gắn quá trình thẩm định với quá trình cho vay, giám sát món vay, quy trách nhiệm về một người cụ thể. Song hạn chế của hình thức này là một cán bộ tín dụng không thể kiêm quá nhiều chức năng. Điều này dẫn đến sự thiếu sâu sát ở nhiều bước trong quá trình thực hiện món vay.
Chính vì vậy, Ngân hàng nên xem xét về việc thành lập tổ chuyên về công tác thẩm định dự án và trực thuộc phòng Khách hàng. Tổ thẩm định chịu trách nhiệm về việc xem xét điều kiện vay vốn của khách hàng, giá trị và tính pháp lý của tài sản thế chấp, cầm cố, phân tích tính khả thi và hiệu quả kinh tế – xã hội của dự án. Cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm về việc kiểm tra sử dụng vốn vay, thu hồi nợ gốc và lãi vay theo khế ước đã thoả thuận. Việc phân định rõ phạm vi trách nhiệm của tổ thẩm định và cán bộ tín dụng sẽ tăng cường vai trò thẩm định và kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay. Tuy nhiên hình thức này cũng dễ dẫn đến việc phân tán trách nhiệm và quyền lợi đối với kết quả cuối cùng.
Mỗi mô hình đều có một ưu nhược điểm nhất định, Ngân hàng nên xem xét áp dụng mô hình nào để phù hợp với điều kiện hiện tại nhất.
3.2.3 Nâng cao trình độ, kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ thẩm định
Nhân tố con người luôn giữ vị trí trung tâm, chi phối và có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả một công việc. Đối với thẩm định dự án đầu tư, con người cũng có vai trò hết sức quan trọng.
Trong công tác thẩm định, con người là nhân tố trung tâm. Trình độ và năng lực thẩm định có ảnh hưởng trực tiếp đến công tác thẩm định dự án đầu tư. Để nâng cao năng lực và trình độ của cán bộ thẩm định cần phải có sự nỗ lực từ hai phía: Ngân hàng và cán bộ thẩm định. Đội ngũ cán bộ thẩm định muốn thực hiện tốt công tác thẩm định phải thoả mãn những yêu cầu về trình độ, kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp.
Về trình độ: Cán bộ thẩm định phải có trình độ từ đại học trở lên đại học trở lên phải có kiến thức chuyên sâu về ngân hàng, tài chính doanh nghiệp và các kiến thức cơ bản về các lĩnh vực có liên quan như về kinh tế thị trường, về pháp luật, thuế. Cán bộ thẩm định phải tính toán, phân tích được các chỉ tiêu tài chính, áp dụng được phương pháp thẩm định nhuần nhuyễn. Bên cạnh đó phải có khả năng tổng hợp, đánh giá các thông tin một cách linh hoạt, nhạy bén.
Về kinh nghiệm: Cán bộ thẩm định phải trực tiếp tham gia thẩm định dự án, bên cạnh kinh nghiệm về thẩm định dự án còn phải có các kinh nghiệm về các lĩnh vực liên quan trong dự án. Cần xây dựng một đội ngũ chuyên viên giỏi, có kinh nghiệm, công tác lâu năm, làm nòng cốt cho hoạt động thẩm định tài chính của Ngân hàng, có vai trò truyền đạt kinh nghiệm, bồi dưỡng đối với đội ngũ cán bộ thẩm định thế hệ sau.
Về đạo đức nghề nghiệp: Cán bộ thẩm định có phẩm chất dạo đức tốt, trung thực, có tinh thần trách nhiệm cao, tâm huyết với nghề.
Để có đội ngũ cán bộ giỏi, thoả mãn các yêu cầu đặt ra thì NHCT Chương Dương và cán bộ thẩm định phải tập trung vào các công tác sau:
+ Xây dựng kế hoạch đào tạo dài hạn cho cán bộ thẩm định. Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng thẩm định, các hội nghị tổng kết đánh giá để đúc rút kinh nghiệm.
+ Bên cạnh kiến thức chuyên môn, các cán bộ thẩm định phải không ngừng nâng cao kiến thức về pháp luật, thị trường, ngoại ngữ tin họcĐể đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của công tác thẩm định.
+ Tổ chức đào tạo những kiến thức cơ bản của ngành cho các cán bộ thẩm định, giúp họ nắm bắt được những kiến thức chung nhất về kỹ thuật ngành, phục vụ nâng cao chất lượng công việc. Biệt phái các cán bộ phân tích dự án xuống thực tế tại các cơ sở sản xuất một thời gian để học tập những kinh nghiệm thực tế.
+ Chi nhánh nên rà soát lại đội ngũ cán bộ thẩm định, bố trí những cán bộ có năng lực, trình độ, bản lĩnh, tinh thần trách nhiệm cao vào vị trí này.
+ Có chính sách ưu đãi, khuyến khích về tinh thần về vật chất đối với những cán bộ thẩm định hoàn thành tốt công việc được giao. Thông qua đó nâng cao ý thức tự vươn lên của mỗi cán bộ thẩm định.
+ Để cao tính sáng tạo, coi trọng những sáng kiến, đề xuất, những đề án có giá trị của cán bộ thẩm định. Đưa những sáng kiến đó vào áp dụng trong thực tiễn và có hình thức khen thưởng kịp thời nhằm động viên, khích lệ tinh thần.
+ Tuy nhiên, Ngân hàng cũng phải có biện pháp xử lý nghiêm khắc như phạt hành chính, quy trách nhiệm hành chính cho những cán bộ thẩm định cố tình làm sai quy trình, chế độ thẩm định nhằm loại bỏ rủi ro đạo đức nghề nghiệp
+ Có chính sách ưu đãi nhằm thu hút những cán bộ giỏi về làm cho Ngân hàng, đặc biệt là làm công tác thẩm định dự án đầu tư.
3.2.4. Nâng cao chất lượng thu thập và xử lý thông tin
Thông tin là căn cứ để thẩm định tài chính dự án. Nâng cao chất lượng thu thập và xử lý thông tin là góp phần nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư. Nguồn thông tin phong phú, chính xác hì kết quả thẩm định mới đạt kết quả cao. Do đó, Ngân hàng một mặt phaỉ gia tăng nguồn cung cấp thông tin, mặt khác phải tìm cách xử lý, lưu trữ thông tin một cách hữu hiệu.
Về nguồn thông tin, cần phải đa dạng hoá hơn nữa. Ngoài việc yêu cầu các doanh nghiệp nộp các tài liệu liên quan đến thẩm định dự án, các cán bộ thẩm định phải phỏng vấn trực tiếp người đại diện giao dịch cua doanh nghiệp để chất vấn các chuyên môn quản lý,.... của chủ đầu tư, đồng thời kết hợp với việc tham quan cơ sở sản xuất, văn phòng làm việc, điều tra năng lực sản xuất. Để đảm bảo những thông tin sử dụng là chính xác, ngoài những thông tin có được do doanh nghiệp cung cấp, cán bộ thẩm đinh còn có thể thu nhập các thông tin cần thiết từ nguồn bên ngoài, nghĩa là các cơ quan hữu quan, các chuyên gia kỹ thuật cũng như các văn bản tài liệu như:
Thông tin từ trung tâm phòng ngừa rủi ro thuộc ngân hàng Nhà nước
Thông tin từ các ngân hàng thương mại khác mà các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng
Thông tin từ các bạn hàng của doanh nghịêp, từ ngành chủ quản của dự án.
Thông tin từ sách báo tài liệu, mạng thông tin Internet về doanh nghiệp và các lĩnh vực liên quan đến dự án đầu tư.
Bên cạnh đó, Ngân hàng nên xây dựng một cơ sở dữ liệu riêng với các thông tin tổng hợp nhằm phục vụ cho công tác thẩm đinh. Công việc này không chỉ hữu ích đối với dự án đang thẩm định mà còn có ý nghĩa đối với nhiều dự án khác.
Cuối cùng, để thông tin mà doanh nghiệp cung cấp đảm bảo tính khách quan và trung thực, Ngân hàng cần yêu cầu xác nhận của cơ quan kiểm toán độc lập về các thông tin đó. Đối với các thông tin quan trọng, nếu cần, Ngân hàng cần bỏ chi phí mua và coi đó là chi phí hoạt động.
Muốn vậy, Ngân hàng cần tăng cường hợp tác với Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại khác, cơ quan thuế, cơ quan kiểm soát và các cơ quan hữu quan khác nhằm xây dựng kênh thông tin hai chiều một cách hữu hiệu.
3.2.5. Hiện đại hoá trang thiết bị phục vụ tốt nhất cho công tác thẩm định
Trong những nâm qua, NHCT Chương Dương cũng đã có nhiều đầu tư đáng kể để hiện đại hoá hơn nữa các trang thiết bị của Ngân hàng phục vụ tốt các hoạt động của Ngân hàng nói chung và hoạt động thẩm định dự án nói riêng. Đặc biệt, trong năm qua, Ngân hàng đã chuyển đổi thành công từ hệ thống OSFA sang chương trình hiện đại hoá INCAS, trang bị, sửa chữa, bảo dưỡng nhiều máy móc thiết bị. Tuy nhiên, việc phổ biến cách sử dụng máy móc, thiết bị mới, những khác biệt và thay đổi của hệ thống mới so với hệ thống cũ là rất cần thiết để có thể sử dụng hết những tính năng hữu ích của công cụ, máy móc. Ngoài ra, Ngân hàng cũng nên thiết kế thêm những phần mềm ứng dụng mới, hiện đại vào việc thẩm định tài chính dự án, phân tích các kết quả thu được để quá trình tính toán được chính xác và nhanh chóng hơn.
3.3 KIẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TRONG CHO VAY NGÀNH ĐIỆN LỰC TẠI NHCT CHƯƠNG DƯƠNG
Kiến nghị với Nhà nước, Bộ ban ngành và chính quyền địa phương
Nhà nước sớm ban hành văn bản hướng dẫn thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng; trên cơ sở đó Bộ Công nghiệp có hướng dẫn cụ thể cho việc thẩm định dự án điện lực
Trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng hiện nay đang bị điều tiết bởi nhiều Luật, Nghị định như Luật đầu tư nước ngoài quy định điều chỉnh đối với nhà đầu tư nước ngoài; Luật khuyến khích đầu tư; Luật xây dựng; Nghị định 52/1999/NĐ-CP, Nghị định 12/2000/NĐ-CP và Nghị định số 07/2003/NĐ-CP điều chỉnh đầu tư trong nước; các Nghị định hướng dẫn đầu tư theo hình thức BTO. Do vậy cần sớm có Luật đầu tư chung, cũng như Luật Đấu thầu mua sắm công để tạo sự thống nhất, đồng bộ và bình đẳng cho các nhà đầu tư
Xoá dần bất hợp lý trong việc mua bán điện, giá mua bán điện trong nội bộ EVN và các doanh nghiệp đầu tư ngoài EVN, tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp, cần có lộ trình tăng giá điện rõ ràng
Nghiên cứu, hoàn thiện cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý ngành điện theo hướng giảm dần tiến tới xoá bỏ độc quyền. Việc Nhà nước nắm khâu truyền tải điện mang ý nghĩa điều tiết hoạt động, đảm bảo về an ninh năng lượng cho quốc gia không mang ý nghĩa là tiếp tục duy trì độc quyền tại khâu này. Có lộ trình về việc phát triển thị trường điện.
Các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công nghiệp, Bộ tỔi chính, Bộ xây dựng có các hướng dẫn kịp thời, đồng bộ về cả quy định về nội dung và phương pháp xác định tổng mức đầu tư, các tiêu chuẩn, định mức, đơn giá chuyên ngành điện; các tiêu chuẩn, quy chuẩn định mức, đơn giá trong xây dựng cơ bản; hướng dẫn về các nguồn vốn và sử dụng vốn; hướng dẫn về quản lý, sử dụng vốn ODA; hướng dẫn thi hành các Luật thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu và về các chính sách hỗ trợ và ưu đãi đầu tư. Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quan lý đàu tư, xây dựng, tài chính, tín dụng, đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất, tránh chồng chéo để các nhà đầu tư tiếp cận được các chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư Nhà nước.
Các cơ quan quan lý theo chức năng, nhiệm vụ được giao hướng dẫn và giám sát kịp thời các chủ đầu tư khi lập cũng như có trách nhiệm trong việc tham gia thẩm tra đầu tư các dự án có quy mô lớn.
Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà Nước cần tăng cường vai trò trong việc hỗ trợ nâng cao nghiệp vụ thẩm định, phát triển và nâng cao trình độ của đội ngũ nhân viên, trợ giúp về thông tin và kinh nghiệp cho các ngân hàng thương mại. Cụ thể:
NHNN cần tổ chức các lớp đào tạo, hội thảo ngắn ngày cho các cán bộ trong ngành, hoặc các buổi Hội nghị tổng kết hàng năm toàn ngành để trao đổi, tăng cường hiểu biết và hợp tác giữa các bộ phận thẩm định, tín dụng của các ngân hàng thương mại.
NHNN cần ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể về toàn bộ các vấn đề có liên quan đến thẩm định dự án để từ đó làm cơ sở cho công tác này được thực hiện một cách khoa học, bài bản.
NHNN cần đa dạng hoá phương pháp và cách thức thu thập thông tin sao cho kịp thời, cập nhật, chính xác. Tổ chức bộ máy làm việc hiệu quả hơn, dảm bảo hoạt động thống nhất trên cả nước. Quy định chặt chẽ hơn đối với việc cung cấp thông tin của các Ngân hàng thương mại đảm bảo việc cung cấp thông tin kịp thời, đầy đủ, chính xác về khách hàng. Đồng thời, tích cực thu thập thông tin từ các nguồn khác như Tổng cục thống kê, các Bộ, Ban ngành..... hoặc có thể mua thông tin từ các tổ chức thông tin từ các tổ chức thông tin quốc tế làm sao để nguồn thông tin tại Ngân hàng Nhà nước thật sự có giá trị cho các Ngân hàng thương mại tra cứu.
Kiến nghị với Ngân hàng Công thương Việt Nam
NHCT Việt Nam cần tích quan tâm chỉ đạo và định hướng nhằm giúp đỡ Chi nhánh NHCT Chương Dương có đủ điều kiện làm việc nâng cao chất lượng hoạt động của mình nói chung và chất lượng thẩm định tài chính nói riêng. NHCT Việt Nam có thể làm đơn vị đầu mối để NHCT Chương Dương và Ngân hàng Nhà nước phối hợp xây dựng một quy trình thẩm định dự án chuẩn cho các dự án riêng của các ngành nói chung và ngành điện lực nói riêng, đồng thời xây dựng một số các định mức, tiêu chí phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án.
Sổ tay tín dụng của NHCT Việt Nam là văn bản hướng dẫn hiệu quả cho NHCT Chương Dương thực hiện các nghiệp vụ tín dụng. Tuy nhiên, với tính chất phức tạp của lĩnh vực dự án, đòi hỏi sổ tay tín dụng phải có sự sửa đổi theo hướng hoàn thiện hơn và liên tục bổ sung cập nhật theo sát yêu cầu thực tế.
NHCT Chương Dương cần tổ chức các khoá đào tạo, tập huấn, hội thảo, toạ đàm.... để giúp các chi nhánh nâng cao năng lực trong công tác thẩm định dự á tài chính dự án.... Ngân hàng cần hỗ trợ tốt hơn trong việc cung cấp thông tin cho các chi nhánh.
3.3.4 Kiến nghị với chủ đầu tư.
Tổng công ty điện lực Việt Nam là một khách hàng lớn, lâu năm của NHCT Chương Dương . Vì vậy, hiệu quả trong hoạt động thẩm định của Ngân hàng chịu sự chi phối rất lớn bởi hiệu quả hoạt động của chính doanh nghiệp.
Để tạo điều kiện cho công tác thẩm định tài chính dự án tiến hành thuận lợi thì doanh nghiệp nên thực hiện một số biện pháp như:
Cung cấp cho ngân hàng những số liệu chính xác một cách nhanh chóng nhất. Công việc này đòi hỏi phải có được thông qua một hệ thống kế toán rõ ràng và được công nhận bởi một công ty kiểm toán tin cậy.
Đề ra kế hoạch kinh doanh cụ thể trong từng giai đoạn theo đúng định hưóng phát triển của Chính phủ.
Giữ mối quan hệ qua lại thường xuyên với Ngân hàng về một số thông tin như nhu cầu về vốn hoạt động, tình hình sản xuất kinh doanh,....
KẾT LUẬN
Mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động theo dự án là một trong các mục tiêu quan trọng của Ngân hàng Công thương Chương Dương, trong đó cho vay ngành điện lực luôn là đối tượng quan tâm rất lớn của Ngân hàng. Muốn thực hiện điều này, Ngân hàng cần nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án nói chung và trong cho vay ngành điện lực nói riêng như một nhiệm vụ then chốt và tất yếu. Vì vậy, Ngân hàng cần phải nghiên cứu và áp dụng nhiều biện pháp có tính khả thi cao khác nhau.
Xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi đó, đề tài “ Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay ngành điện lực tại Ngân hàng Công thương Chương Dương” đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu thích hợp và hoàn thành được những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, hệ thống lại lý thuyết chung về thẩm định tài chính dự án, từ đó đưa ra khái niệm và một số các chỉ tiêu về chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay của Ngân hàng thương mại
Thứ hai, đánh giá thực trạng hoạt động thẩm định tài chính dự án trong cho vay ngành điện lực tại Ngân hàng Công thương Chương Dương, từ đó rút ra những kết quả đã đạt được và những hạn chế trong hoạt động này, chỉ rõ nguyên nhân của vấn đề trên.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay nói chung và ngành điện lực nói riêng tại Ngân hàng Công thương Chương Dương.
Qua luận văn này, em hy vọng rằng những giải pháp đưa ra sẽ được Ngân hàng Công thương Chương Dương xem xét, áp dụng để nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án trong cho vay ngành điện lực, góp phần mở rộng hoạt động tín dụng theo hướng an toàn và hiệu quả.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Tấn Bình (2002), Phân tích Quản trị Tài chính, ĐHQG TP HCM.
PGS. TS Vũ Duy Hào (1997), Quản trị tài chính doanh nghiệp, ĐHKTQD.
ThS Đinh Thế Hiển (2002), Lập, thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư, NXB Giáo dục.
PGS.TS Lưu Thị Hương (2005), Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, ĐHKTQD, NXB Thống kê.
PGS. TS Lưu Thị Hương (2004), Thẩm định tài chính dự án, ĐHKTQD, NXB Tài chính.
Ngân Hàng Công thương Việt Nam, Các văn bản nghiệp vu tín dụng ngân hàng.
Ngân hàng Công thương Việt Nam, Sổ tay tín dụng.
Ngân hàng Công thương Chương Dương, Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2002, 2003, 2004, 2005.
Tổng công ty Điện lực Việt Nam, Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án “ Hệ thống đường dây và trạm 500KV Hà Tĩnh – Nho Quan – Thường Tín”
Ngân hàng Công thương Chương Dương, Báo cáo thẩm định, tờ trình thẩm định dự án “Hệ thống đường dây và trạm 500KV Hà Tĩnh – Nho Quan – Thường Tín”
Các trang web: www.icb.com.vn
www.evn.com.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36465.doc